Lược sử Giáo xứ Mằng Lăng

Thứ ba - 22/05/2018 17:00

GIÁO XỨ MẰNG LĂNG

Bổn mạng : Lễ Thánh Giuse ngày 19-03


I. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ
Giáo xứ Mằng Lăng thuộc phía Bắc tỉnh Phú Yên. Phía Bắc giáp giáo xứ Sông Cầu, phía Nam và phía Đông giáp giáo xứ Chợ Mới và Biển Đông, phía Tây giáp giáo xứ Đồng Tre và giáo xứ Sơn Nguyên. Phần đất của giáo xứ Mằng Lăng hiện nay bao gồm thị trấn Chí Thạnh, các thôn Hội Tín và Phú Thịnh của xã An Thạch, các xã An Ninh Đông, An Ninh Tây, An Dân, An Định, An Nghiệp, An Xuân, An Lĩnh của huyện Tuy An.
Trên quốc lộ IA từ Bắc vô Nam qua trụ cây số 1300 sẽ gặp cầu Ngân Sơn bắc qua sông Kỳ Lộ, dân địa phương gọi là sông Cái. Qua khỏi cầu Ngân Sơn chừng 600m, hoặc nếu từ Nam ra Bắc cách ngã ba Chí Thạnh 2 km, gặp trụ cây số 1301, đi theo huyện lộ về hướng Đông 1.900m sẽ đến nhà thờ Mằng Lăng cổ kính thuộc thôn Hội Tín, xã An Thạch. Nét cổ kính của ngôi nhà thờ đã nói lên bề dày lịch sử của giáo xứ.

 

II. ĐÔI DÒNG LỊCH SỬ
1. Nguồn gốc
Trong cuộc mở cõi tại Phú Yên, đáng chú ý là công lệnh ngày 06 tháng 02 năm 1597 của Nguyễn Hoàng giao cho Lương Văn Chánh chiêu dân và đưa dân vào vùng đất phía Nam núi Cù Mông (thuộc thị xã Sông Cầu ngày nay), Bà Đài (châu thổ sông Cái, thuộc huyện Tuy An ngày nay), Bà Diễn (châu thổ sông Đà Rằng, thành phố Tuy Hòa ngày nay), Bà Niễu - Bà Nông, (châu thổ sông Bàn Thạch, huyện Đông Hòa ngày nay) để lập làng, khai khẩn đất hoang.[1]
Theo đó, ông Lương Văn Chánh làm Trấn Biên quan, nhưng mãi đến năm Kỷ Tỵ 1629, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên mới cho lập Dinh Trấn Biên và giao cho người con rể là Nguyễn Phúc Vinh làm quan Trấn Thủ. Trong bản đồ Việt Nam gồm Đàng Ngoài và Đàng Trong của cha Đắc Lộ năm 1651 ghi Dinh Trấn Biên là Dinh Phoan, phía trước Dinh là một dòng sông. Ngày nay Dinh Trấn Biên được người địa phương gọi là Thành Cũ thuộc thôn Bình Thạnh, xã An Ninh Tây, cách nhà thờ Mằng Lăng về hướng Đông Bắc chừng 1 km đường thẳng, tất cả Dinh Trấn vang bóng một thời, nay chìm sâu dưới nước dòng sông Cái.
Phu nhân quan Trấn thủ là Ngọc Liên công chúa, trưởng nữ của chúa Sãi, đã lãnh nhận bí tích rửa tội năm 1636 với tên thánh Maria Mađalêna. Cuộc tòng giáo của bà được sử liệu ghi chép như sau: “ Tại phú Yên lúc ấy xảy ra một cuộc cãi lý giữa một giáo hữu sốt sắng tên là Hiêrônimô, và một nho sĩ ngoại giáo trước mặt Quan Trấn Thủ... Nho sĩ nầy phải đuối lý không trả lời được câu nào... Quan Trấn Thủ rất mộ mến đạo ta, song ông không theo vì ông không thể bỏ được các vợ bé của ông; tuy vậy ông cho bà vợ cả theo đạo, nếu bà muốn. Bà nầy liền tòng giáo và chúng tôi hy vọng bà sẽ làm cho chồng bà trở lại”. [2] Sau khi tòng giáo bà lập một nhà nguyện ngay trong Dinh Trấn Biên, hằng ngày nhiều giáo hữu đến đây tham gia việc bác ái và truyền giáo làm cho nhiều người nhận biết Thiên Chúa. Vợ chồng quan coi cửa biển Tiên Châu cũng giữ đạo sốt sắng và đều lấy tên thánh là Biển Đức. Ngoài ra còn có ông thầy thuốc danh tiếng, đạo đức, thương người tên là Emmanuel ở tại Hội Phú được nhiều người quí mến.[3]
 Như thế, nhóm giáo hữu đầu tiên ở vùng đất nầy thuộc thành phần một số quan viên dinh trấn, hoặc những di dân phía Bắc đến lập nghiệp theo chủ trương di dân lập ấp, và một số người mới đón nhận Tin Mừng được các nhà truyền giáo Dòng Tên rửa tội .
Trong khoảng 50 năm (1615-1664) những báo cáo thường niên của các nhà truyền giáo Dòng Tên ở Đàng Trong chỉ ghi có 3 cư sở: Nước Mặn, Hội An và Dinh Chiêm. Đây là những trung tâm, từ đó xuất phát đi truyền giáo các vùng lân cận. Như thế, lúc bấy giờ Phú Yên (Ranran) nói chung và vùng Dinh Trấn Biên nói riêng là vùng hoạt động của các nhà truyền giáo đặt cư sở tại Nước Mặn do cha Buzomi làm trưởng đoàn.[4]
Vào buổi sáng ngày 31 tháng 03 năm 1641, cha Đắc Lộ đến cửa biển Bà Đài.[5] Cha được quan Trấn Thủ tiếp đón và ở lại đây 2 tháng, cha thăm viếng các giáo hữu và đã rửa tội cho Anrê Phú Yên cùng với khoảng 90 người khác tại nhà nguyện trong Dinh Trấn Biên.
Năm 1642, cha Đắc Lộ trở lại viếng thăm Phú Yên, khi trở về Hội An, nơi có trụ sở của Hội Thầy giảng, cha đã dẫn theo Anrê Phú Yên. Anrê Phú Yên đã bị bắt, chịu tử đạo vào ngày 26 tháng 07 năm 1644 tại Gò Xử, thôn Thanh Chiêm, xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Năm 1645, cha Đắc Lộ bị trục xuất vĩnh viễn khỏi Việt Nam. Anrê Phú Yên đã được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II tôn phong Chân phước vào ngày 05 tháng 03 năm 2000, là Vị Tử Đạo “Tiên Khởi” của Việt Nam.
 Sau khi các nhà truyền giáo Dòng Tên rời khỏi Đàng Trong (1665), vùng truyền giáo Phú Yên do các linh mục thừa sai Paris đảm nhận, đặt cư sở tại Chợ Mới.
Thời điểm tiền bán thế kỷ XVIII, công cuộc truyền giáo ở Phú Yên được giao cho 2 nhóm thừa sai: vùng phía Bắc của tỉnh thuộc quyền Hội Thừa sai Paris, đặt cư sở tại Chợ Mới  và vùng phía Nam được giao cho các nhà truyền giáo của Thánh bộ Truyền Bá Đức Tin, đặt cư sở tại Phường Lụa.[6] Năm 1736, cha Giuseppe Martiali, thừa sai Thánh bộ, xây dựng tại Phường Lụa một nhà nguyện. Lúc bấy giờ, theo kiểm kê của Đức cha Edmond Bennetat, tỉnh Phú Yên gồm có 10 nhà nguyện và 6 nhà thờ.[7] Theo báo cáo của Hội Thừa sai Paris năm 1747, trong tỉnh Phú Yên có 14 nhà thờ và nhà nguyện, trong đó có những nơi thuộc vùng đất giáo xứ Mằng Lăng ngày nay: Thầy Đông có 100 giáo dân, Mái Nhà có 25 giáo dân.[8]
Trong danh sách các linh mục tham dự công nghị Gò Thị năm 1841 có các linh mục làm việc tại Phú Yên: Gioakim Lê Văn Tự, Tôma Phan Văn Tông, Anrê Nguyễn Phước Nguyên, Phaolô Đặng Văn Lợi.
Trong danh sách các linh mục bản xứ của vùng truyền giáo có ghi số linh mục xuất thân từ Phú Yên: Cha Thới, cha Hòa, cha Lộc,[9] cha Hoàng[10], cha Đạt, cha Hậu[11], cha Cẩm.[12] Cũng trong danh sách nầy có các cha làm việc tại Phú Yên: Cha Hiền, cha Thọ.[13] Trong báo cáo năm 1850 của Đức cha Stêphanô Thể gởi cho Hội Thừa sai Paris, vùng Mằng Lăng hiện nay có những họ đạo: Lò Giấy có 303 giáo dân, Mằng Lăng 154, Thầy Đông 65, Đồng Thổ 72, Diêm Điền 230.
Thời điểm nầy số linh mục rất hiếm hoi, năm 1867 –1870 một mình cha Gustave Louis Derenne ở Mằng Lăng phụ trách toàn vùng Phú Yên, năm 1870 ngài lâm bệnh, phải đưa về Singapore điều trị nhưng không cứu khỏi, ngài qua đời vào ngày 08 tháng 12 năm 1870. Năm 1872, cha Armand Landier đến thay thế, chẳng may bị một con chó dại cắn, cha đã qua đời tại Thầy Đông[14] vào ngày 09 tháng 09 năm 1873.
Chặng đường dài truyền giáo kể trên như thời gian tung gieo hạt giống chờ ngày mùa tử đạo. Tiền bán thế kỷ XIX với những sắc chỉ cấm đạo triệt để, rồi dây dưa tiếp diễn một thời gian dài. Tín hữu khắp nước thông phần thập giá với Chúa Giêsu đủ trăm ngàn cách. Tại Lò Giấy có chú Giuse Nghiêm theo giúp Đức cha Stêphanô Thể, cùng bị bắt với Đức cha tại nhà bà Lưu và chịu chết vì Đạo tại Gò Chàm, Bình Định năm 1861.[15] Cùng quê Lò Giấy có thầy Phêrô Quờn đã lãnh bốn chức nhỏ, chịu tử đạo ngày 27 tháng 06 năm 1862 tại Gò Chàm với hình án giảo quyết.[16] Cao điểm khốc liệt nhất là những ngày tháng của phong trào Văn Thân “Bình Tây Sát Tả”. Tổng kết toàn tỉnh: Trước Văn Thân có 6.890 tín hữu gồm 40 họ đạo, 2 nhà phước, sau Văn Thân còn 1.109 người.[17]
Cha Eugène Durand viết: “Mới đây, tại Phú Yên là tỉnh phía Bắc Khánh Hòa, tôi đã thăm cảnh tro tàn thê lương của nhà dòng Mằng Lăng và Hoa Vông. Nhà dòng đầu tiên chỉ còn lại hai nữ tu chuyên đi rửa tội, đã may mắn vắng mặt lúc đám quân sát nhân tới bao vây họ đạo”.[18] Cam chịu, phó thác, các nhóm tín hữu trong vùng Mằng Lăng đồng chịu số phận.
Sau phong trào Văn Thân, đầu năm 1887, Đức cha Van Calmelbecke Hân bổ nhiệm cha Joseph Guitton đến Phú Yên cùng 2 cha phụ tá: cha Gioakim Đạt và cha Phêrô Huề. Cha Huề phụ trách phía Tây (Cây Da), cha Đạt phụ trách phía Nam (Hoa Vông). Sau ngày 10 tháng 04 năm 1888, cha Joseph Lacassagne được bổ nhiệm đến Phú Yên với chức năng quản nhiệm toàn vùng truyền giáo Phú Yên, ngài được tự do chọn Hoa Vông hoặc Mằng Lăng làm trụ sở. Ngài đã chọn Mằng Lăng.
Tháng 09 năm 1888 Đức cha Van Camelbeke Hân chia Phú Yên làm 2 vùng: Cha Guitton phụ trách vùng Nam Phú Yên có cha phụ tá người Việt Nam là cha Đạt đặt cư sở tại Hoa Vông; cha Lacassagne phụ trách vùng phía Bắc đặt cư sở tại Mằng Lăng, có cha Huề làm phụ tá ở tại Cây Da. Năm 1893 cha Giuse Trần Nhi về thay thế cha Huề, hơn 4 tháng sau cha Antôn Bản thay cho cha Nhi. Năm 1895 cha Bản về Gò Duối, cha Antoine Wendling đảm nhiệm vùng Miền Núi Phú Yên. Năm 1897 cha Phanxicô Xaviê Hương về Gò Duối thay cha Bản, năm 1898 cha Phêrô Cao thay cho cha Hương.[19] Như thế mùa gặt tử đạo đã qua và những giọt máu tử đạo đã trở nên những hạt giống mới trổ sinh nhiều hoa trái.

2. Địa sở Mằng Lăng
Với quyết định của Đức cha Van Camelbeke Hân vào tháng 09 năm 1888 đặt cha Joseph Lacassagne Xuân phụ trách vùng phía Bắc Phú Yên và đặt cư sở tại Mằng Lăng, có thể xác định đây là thời điểm bắt đầu chính thức của địa sở Mằng Lăng và cha Lacassagne là cha sở tiên khởi.
Hai năm sau có 564 người lớn lãnh nhận bí tích rửa tội, 162 em được rửa tội trong trường hợp nguy tử. Cha Lacassagne vừa ổn định đời sống giáo dân, vừa lo công việc truyền giáo, xây dựng lại phước viện Mằng Lăng, lập cô nhi viện giao cho 2 nữ tu người bản xứ chăm sóc. Năm 1892, cha khởi công xây dựng ngôi thánh đường Mằng Lăng hiện nay.
Năm 1896, Phú Yên được chia thành 3 địa sở[20] giao cho 3 thừa sai: địa sở vùng phía Nam giao cho cha Gustave Dubulle ở Hoa Vông, miền núi giao cho cha Antoine Wendling ở Trà Kê và vùng phía Bắc do cha Joseph Lacassagne ở Mằng Lăng đảm nhiệm.[21] Lúc bấy giờ Mằng Lăng là địa sở trung tâm của Phú Yên, những sinh hoạt chung của các linh mục đều tập trung về đây. Khi công việc xây dựng ngôi thánh đường còn đang dang dở, cha Lacassagne bất ngờ lâm trọng bệnh và qua đời tại bệnh viện quân đội ở Đà Nẵng vào ngày 01 tháng 08 năm 1900, lúc 44 tuổi. Thi hài cha được an táng chờ ngày phục sinh tại nhà thờ Mằng Lăng hiện nay.
Cha Antoine Edmond Wendling Linh về làm cha sở Mằng Lăng năm 1901. Năm 1903 có 2.555 tín hữu trong 19 giáo điểm. Số người tòng giáo rất đông nhưng số tín hữu không gia tăng vì những trận sốt rét đã cướp đi nhiều nhân mạng. Năm 1906 số tín hữu chỉ còn trên dưới 2.360 người. Ngài tiếp tục công trình xây dựng nhà thờ của cha Lacassagne, khánh thành vào ngày 14 tháng 04 năm 1907. Nhà thờ có hai tháp chuông với 3 quả chuông lớn nhỏ; ngày 30 tháng 05 năm 1905 thầy Cách đã đến cửa biển Tiên Châu đưa chuông lớn, quà tặng từ Marseille, về Mằng Lăng. Đức cha Grangeon đến khánh thành và ngỏ lời khen ngợi ‘ước gì đem được về Bình Định để làm nhà thờ Chính Toà cho Giáo phận...’.[22] Liền kề sau nhà thờ là nhà xứ có hè rộng tứ hướng được chia làm 3 gian thoáng mát tồn tại cho đến ngày nay.
Bên cạnh nhà thờ có nhà lẫm kiên cố [23], tường dày 60 phân, sau năm 1975 nhà lẫm hoàn toàn được san bằng. Nhờ nguồn thu từ số ruộng đất trên 200 mẫu ta, nên sau khi hoàn thành nhà thờ, ngài lập lệ phát chẩn hằng tháng cho các gia đình nghèo, đặc biệt cung cấp lương thực cho cô nhi viện. Những người mới lập gia đình, ngài cấp đất làm nhà. Các chức việc phục vụ địa sở cũng được cha phụ cấp hằng năm. Những việc làm nầy được các cha sở kế nhiệm tiếp tục cho đến năm 1945. Năm 1918, vì lâm bệnh cha Wendling phải trở về Pháp để chữa trị và qua đời ngày 03 tháng 12 năm 1923, lúc 46 tuổi.
Cha Marius Julien Jean về làm cha sở Mằng Lăng từ tháng 05 năm 1919 đến tháng 12 năm 1926. Năm Giáp Tý (1924), có trận bão lớn làm sụp đổ tầng mái cổ lầu nhà thờ, cha làm lại phần mái, hạ thấp xuống gần 2m như hiện nay.
Cha Jean Marie Porcher Kính đến Mằng Lăng vào tháng 02 năm 1927 và ở đây được 15 tháng, cha là vị thừa sai cuối cùng ở đây. Vào tháng 06 năm 1928, Đức cha Augustin Tardieu Phú quyết định giao địa sở cho các cha Việt Nam coi sóc.

3. Thời các cha sở người Việt
Cha sở người Việt đầu tiên là cha Giacôbê Lê Kim Dung (1928 – 1944). Cha củng cố, xây dựng nhà nguyện các họ nhánh, phát triển phước viện, cô nhi viện, xây hang đá Lộ Đức, cổ võ việc tôn sùng Thánh Tâm. Cha xây dựng trường tiểu học bên cạnh nhà thờ, dạy miễn phí, thu nhận học sinh không phân biệt lương giáo. Ngôi trường nầy sinh hoạt cho tới năm 1965, vì chiến tranh, bỏ hoang phế 10 năm. Sau ngày 30 tháng 04 năm 1975 còn 1 phòng dùng làm nhà ở cho các nữ tu đến giúp giáo xứ. Năm 2004, phòng nầy được san bằng để xây nhà khách hành hương Anrê Phú Yên như  thấy ngày nay.
Năm 1948, cha Phêrô Nguyễn Đình Tịch được bổ nhiệm làm cha sở Mằng Lăng. Cha mở trường Trung học tư thục Trương Vĩnh Ký, trường trung học thứ hai trong toàn tỉnh sau trường công lập Lương Văn Chánh. Ngôi trường nầy sau năm 1975 vẫn còn dùng cho nhiều việc từng thời điểm, lúc đầu dùng làm nơi sinh hoạt cho các thầy phân trường Đại chủng viện Mằng Lăng; Sau đó dùng làm trụ sở Hợp tác xã Nông nghiệp An Thạch, phân trường cấp I và II xã An Thạch; Các lớp học giáo lý, phòng đọc sách và phòng truyền thống Anrê Phú Yên. Năm 2005, ngôi trường nầy được tháo dỡ lấy mặt bằng xây dựng đền Anrê Phú Yên. Cha Tịch còn tổ chức đắp đập, mở hệ thống kênh mương đưa nước về các cánh đồng trong vùng.
Năm 1954, thầy Antôn Phùng và thầy Boniface Ninh đến Phú Nhuận truyền giáo. Ngày 29 tháng 05 năm 1955, gần 200 tân tòng được rửa tội. Họ đạo Phú Nhuận được ghi danh vào địa sở Mằng Lăng. Sau năm 1975, nền nhà thờ Phú Nhuận bị san bằng. Phú Nhuận ngày nay thuộc xã An Ninh Đông. Đây là vùng đất đã đón nhận bước chân loan báo Tin Mừng của các thừa sai từ trước tiền bán thế kỷ XVIII. Theo thống kê năm 1747, giáo điểm Mái Nhà có 25 giáo dân. Năm 1832, Mái Nhà được đổi thành Phú Ốc, nay thuộc thôn Phú Hạnh, xã An Ninh Đông.
Cho đến lúc nầy địa sở Mằng Lăng là địa sở quan trọng hàng đầu của Phú Yên. Hằng tháng các linh mục trong vùng về đây tĩnh tâm. Còn một tờ giấy giới thiệu trong sổ rửa tội của Mằng Lăng có ký tên Linh mục Gioan Phùng Văn Như, Hạt trưởng; lúc ấy cha đang là cha sở Mằng Lăng.
Theo quyết định của Hội đồng Giáo phận họp tại Tòa Giám mục Qui Nhơn ngày 06 tháng 02 năm 1961, địa sở Mằng Lăng được tuyên bố là một trong số 49 giáo xứ chính thức theo giáo luật (Paroecia) trong Giáo phận Qui Nhơn (lúc ấy chưa chia tách Giáo phận Đà Nẵng).[24] 
Cha Phaolô Nguyễn Xuân Bàn về làm cha sở Mằng Lăng từ năm 1959, nhưng vì lý do chiến tranh, nên năm 1964 cha tạm rời Mằng Lăng về Phú Tân, xã An Cư. Phước viện và cô nhi viện dời vào Tuy Hoà, dân chúng di cư nhiều nơi, Mằng Lăng trở thành hoang vắng cho đến sau năm 1975 mới dần dần hồi sinh.
Năm 1974, cha Phaolô Trương Đắc Cần đến Phú Tân thay cha Bàn được vài tháng, sau ngày 30 tháng 04 năm 1975 cha về Mằng Lăng lo tu sửa, phục chế nhà thờ, nhà xứ sau 10 năm hoang vắng. Cha đã đề nghị với Đức Giám mục Giáo phận thành lập Trung tâm Đại Chủng viện Mằng Lăng qui tụ được 6 chủng sinh, hiện nay có 3 chủng sinh thuộc Trung tâm Mằng Lăng đã được thụ phong linh mục: Giuse Trương Đình Hiền, Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản và Gioan Võ Đình Đệ. Vào tháng 07 năm 1976 có cha Phêrô Võ Tá Khánh từ Đà Lạt về hướng dẫn nhóm chủng sinh nầy nhưng đến ngày 13 tháng 10 năm 1976 cha phải trở về lại Đà Lạt. Ngày 21 tháng 02 năm 2009, cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản đã được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI bổ nhiệm làm Giám mục Giáo phận Ban Mê Thuột.
Năm 1975, cộng đoàn dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn được thành lập để giúp mục vụ cho giáo xứ. Năm 2004, cộng đoàn dời sang cơ sở phước viện, nay là cô nhi viện.
Sau ngày 30 tháng 04 năm 1975, cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Xuân Văn và cha Giacôbê Nguyễn Thành Tri từ Giáo phận Đà Nẵng trở về Giáo phận Qui Nhơn. Đức Giám mục Giáo phận quyết định lấy 3 giáo họ của giáo xứ Mằng Lăng: Chợ Mới, Xóm Làng, Đồng Chay lập thành giáo xứ Chợ Mới, giao cho cha Giacôbê Nguyễn Thành Tri. Còn lại 9 giáo họ thuộc giáo xứ Mằng lăng do cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Xuân Văn đảm nhiệm. Số giáo dân hồi cư ngày càng đông.
Năm 1986, cha Văn được bổ nhiệm làm cha sở Tuy Hòa, cha Tri từ Chợ Mới về làm cha sở Mằng Lăng. Từ đó Chợ Mới không có cha sở và trở thành một giáo họ của Mằng Lăng.
Năm 1992, cha Phêrô Bùi Huy Bích từ Đồng Tre về Mằng Lăng thay cha Tri. Cha có công trùng tu nhà thờ, mở rộng sân trước nhà thờ, xây tường rào bao quanh, công việc hoàn thành vào ngày lễ Các Tổng Lãnh Thiên Thần, 29 tháng  09 năm 1994, kỷ niệm 102 năm xây dựng nhà thờ. Ba năm sau, ngày 27 tháng 07 năm 1997, cha đột ngột qua đời do tai biến mạch máu não và được an táng trước đài Thánh Giuse trong khuôn viên nhà thờ.
Đến tháng 12 năm 1997, cha Phaolô Nguyễn Minh Chính được bổ nhiệm làm cha sở Mằng Lăng. Trước khi thụ phong linh mục, cha đã quen thuộc Mằng Lăng, vì cha là thầy giúp cho cha Phêrô Bùi Huy Bích khi cha Bích làm cha sở Mằng Lăng. Nhân sự kiện Thầy giảng Anrê Phú Yên được phong chân phước, cha Phaolô Chính lập phòng truyền thống Anrê Phú Yên, phòng đọc sách Anrê Phú Yên dành cho các em thanh thiếu nhi trong vùng, không phân biệt lương giáo. Đêm 25 tháng 07 năm 2000, hội trại Anrê Phú Yên dành cho các giáo lý viên trong Giáo phận được tổ chức lần đầu tiên. Ngày hôm sau, thánh lễ mừng kính Chân phước Anrê Phú Yên được tổ chức long trọng, mở màn cho những năm kế tiếp.
Cha Phêrô Nguyễn Cấp (2003-2013) đã mở rộng khuôn viên nhà thờ và xây dựng nhà khách hành hương Anrê Phú Yên, công trình được khai móng ngày 02 tháng 07 và hoàn thành tháng 12 năm 2004. Nhân dịp mừng lễ Chân phước Anrê Phú Yên ngày 26 tháng 07 năm 2005, Đức Giám mục Giáo phận đã làm phép khu đất chuẩn bị xây dựng đền kính Chân phước Anrê Phú Yên tại phía Tây sân trước nhà thờ. Sau thời gian thi công, ngôi đền được khánh thành ngày 26 tháng 07 năm 2008.
Năm 2013, sau khi cha Cấp xây dựng xong nhà thờ Chợ Mới, Đức cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi đã bổ nhiệm cha Cấp làm cha sở Chợ Mới, một giáo xứ mới được tái lập tách ra từ Mằng Lăng; đồng thời đưa cha Phêrô Trương Minh Thái từ Đông Mỹ về làm cha sở Mằng Lăng, sau khi cha Thái xây dựng xong nhà thờ Đông Mỹ.
Về nhận giáo xứ Mằng Lăng, trước hết cha Thái đi gặp gỡ các gia đình công giáo nhưng không còn giữ đạo, để đưa họ về với Chúa. Tiếp đến cha đi đến với những gia đình bên lương. Ngoài ra, Mằng Lăng là một điểm hành hương và đồng thời cũng là điểm tham quan, nên thường xuyên có nhiều người từ xa đến. Cha phải tổ chức đón tiếp, gặp gỡ và nhân tiện giới thiệu về đạo Chúa cho những người chưa biết Chúa.

III. CÁC CHA SỞ VÀ CHA PHÓ
- Các cha sở
1. Cha Joseph Lacassagne Xuân (1888-1900).
2. Cha Antoine Edmond Wendling Linh (1901-1918).
3. Cha Marius Julien Jean (1919-1926).
4. Cha Jean Marie Porcher Kính (1927-1928).
5. Cha Giacôbê Lê Kim Dung (1928 – 1944).
6. Cha Phaolô Trương Công Chánh (1944–1947).
7. Cha  Phêrô Nguyễn Đình Tịch (1948-1950).
8. Cha Phêrô Nguyễn Vĩnh Lưu (1951-1952).
9. Cha Phaolô Huỳnh Tấn Ngoan (1952 – 1955).
10. Cha Gioan Phùng Văn Như (1956-1957).
11. Cha Antôn Hoàng Liên Mầu (1957 – 1959).
12. Cha Phaolô Nguyễn Xuân Bàn (1959-1974).
13. Cha Phaolô Trương Đắc Cần (1974-1975).
14. Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Xuân Văn (1975-1986).
15. Cha Giacôbê Nguyễn Thành Tri (1986-1992).
16. Cha Phêrô Bùi Huy Bích (1992-1997).
   . Cha Phêrô Tuần Nguyễn Cao Hiên, cha sở Tịnh Sơn, tạm quyền quản xứ Mằng Lăng.
17. Cha Phaolô Nguyễn Minh Chính (1997- 2003).
18. Cha Phêrô Nguyễn Cấp (2003-2013).
19. Cha Phêrô Trương Minh Thái (2013-…).

- Các cha phó
1. Cha Phêrô Huề, cha Giuse Trần Nhi, cha Antôn Bản, cha Phanxicô Xaviê Hương, cha Phêrô Cao, cha Phục (thời cha Lacassagne).
2. Cha Antôn Linh, cha Giuse Dụng, cha Antôn Cẩm, cha Phêrô Lê Châu, cha Micae Thiên, cha  Philipphê Khiêm (thời cha Wendling).   
3. Cha Phêrô Phan Nho, cha Simon-Tôma Nguyễn Đức Luận, cha Phaolô Bường (thời cha Marius Julien Jean). 
4. Cha Giacôbê Nguyễn Đình Thuận, cha Gioan Nguyễn Suất, cha Augustinô Nguyễn Thanh Long, cha Tôma Trần Ngọc Hườn (thời cha Giacôbê Lê Kim Dung).
5. Cha Gioakim Huỳnh Văn Hóa, cha Phêrô Trần Anh Tước, cha Gioakim Nguyễn Thanh Liêm (thời cha Phaolô Trương Công Chánh).
6. Cha Phaolô Võ Hữu Tư (thời cha Phêrô Nguyễn Đình Tịch).
7. Cha Phaolô Nguyễn Tấn Lạc (thời cha Gioan Phùng Văn Như).
8. Cha Phanxicô Phạm Đình Triều (thời cha Phaolô Nguyễn Minh Chính).
9. Cha Phêrô Võ Hồng Sinh, cha Philipphê Phạm Cảnh Hiển (thời cha Phêrô Nguyễn Cấp).
10. Cha Anphongsô Hoàng Phú Khánh (thời cha Phêrô Trương Minh Thái).

V. CÁC LINH MỤC, TU SĨ, CHỦNG SINH XUẤT THÂN TỪ GIÁO XỨ
- Các linh mục
            1. Cha Phêrô Nguyễn Văn Quyển, Mằng Lăng, †1997
            2. Cha Phêrô Nguyễn Vĩnh Lưu, Mằng Lăng, †1968
            3. Cha Phêrô Nguyễn Hoàng, Mằng Lăng, † 2009
            4. Cha Tôma Lê Trung Khuê, Hội Tín           
            5. Cha Augustinô Nguyễn Văn Phú, Hội Tín
            6. Cha Tôma Nguyễn Công Binh, Hội Tín    
            7. Cha Carôlô Nguyễn Phan Huy Dũng, Mằng Lăng

- Các tu sĩ
            1. Tu huynh Tađêô Trần Tấn Đạo, Mằng Lăng, Dòng Chúa Cứu Thế, † 2017
            2. Tu huynh Karol Tám, Hội Phú, Dòng Chúa Cứu Thế, † ?
            3. Tu huynh Tađêô Dương Tha, Gò Chung, Dòng Tên
            4. Dì Vở, Hội Tín, Phước viện MTG, † ?
            5. Dì Khen, Thầy Đông, Phước viện MTG, † ?
            6. Dì Lại, Mằng Lăng, Phước viện MTG,      † ?
            7. Dì Chẵn, Mằng Lăng, Phước viện  MTG, † ?
            8. Nữ tu Bénigna Bùi Thị Lành, Mằng Lăng, Dòng MTG Qui Nhơn, † 2013
            9. Nữ tu Maria Trần Thị Đan Tâm, Mằng Lăng, Dòng MTG Qui Nhơn       
            10. Nữ tu Maria Nguyễn Thị Tuyết Huệ, Hội Tín, Dòng MTG Qui Nhơn   
            11. Nữ tu Ysave Đặng Thị Bích Trâm, Mằng Lăng, Dòng MTG Qui Nhơn
            12. Nữ tu Anna Phạm Thị Thu Nga, Mằng Lăng, Dòng MTG Qui Nhơn    
            13. Nữ tu Mađalêna Lê Thị Nữ, Mằng Lăng, Dòng MTG Qui Nhơn           
            14. Nữ tu Ysave Nguyễn Thị Tuyết Thanh, Mằng Lăng, Dòng MTG Qui Nhơn     
            15. Nữ tu Luxia Huỳnh Thị Kim Cương, Mằng Lăng, Dòng MTG Qui Nhơn
            16. Nữ tu Macta Nguyễn Thị Hằng Ni, Mằng Lăng, Dòng MTG Qui Nhơn           
            17. Nữ tu Maria Bénigna Mai Thị Ánh, Mằng Lăng, Dòng Nữ Vương Hoà Bình   
            18. Nữ tu Jean Baptiste Nguyễn Thị Thương, Mằng Lăng, Dòng Đức Bà Truyền Giáo
            19. Nữ tu Maria Dương Thị Lê, Gò Chung, Dòng MTG Thủ Thiêm
            20. Nữ tu Anna Nguyễn Th Tuyết Trinh, Mng Lăng, Dòng MTG Thủ Thiêm       
            21. Nữ tu Macta Phạm Th Bích Thy, Mng Lăng, Dòng Thánh Phaolô Đà Nẵng 
            22. Nữ tu Anna Trần Thị Khúc Ca, An Xuân, Dòng Đa Minh         
           
            - Chủng sinh
1. Thầy Matthêô Nguyễn Kim Phê, Mằng Lăng.
2. Thầy Giacôbê Nguyễn Tấn Thức, Mằng Lăng.

 

[1] Công lệnh năm 1597 của Nguyễn Hoàng giao cho Lương Văn Chánh việc chiêu tập lưu dân đến khai khẩn vùng đất nằm giữa đèo Cù Mông và đèo Cả hiện được lưu giữ tại đền thờ Lương Văn Chánh ở thôn Long Phụng I, xã Hòa Trị, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên.

[2] PHẠM ĐÌNH KHIÊM, Người Chứng Thứ Nhất,  Tinh Việt Văn Đoàn, Sài Gòn 1959, tr. 50-51.

[3] Xem PHẠM ĐÌNH KHIÊM, sđd., tr. 51.

[4] Năm 1620, các thừa sai tại cư sở Nước Mặn phụ trách vùng truyền giáo Quảng Ngãi, Qui Nhơn (Bình Định)  và Phú Yên.

[5] Cửa biển Tiên Châu, vịnh Xuân Đài, An Ninh Tây ngày nay.

[6] Phường Lụa là khu phố Ngân Sơn thị trấn Chí Thạnh ngày nay, một vùng sản xuất lãnh lụa ngũ sắc nổi tiếng một thời, ca dao còn để lại: Đất Cù Du là nơi chiếu tốt, Lãnh nào tốt bằng lãnh Ngân Sơn.

[7]  Xem ADRIEN LAUNAY, Histoire de la Mission de Cochinchine, II, sđd., tr. 198; Bulletin des Amis du Vieux Hue, Octobre-Décembre 1929, No. 4,  tr. 208-209. Cha Martiali thuộc Dòng Sylvestrê, người Ý, thừa sai Thánh bộ Truyền Giáo.

[8] Xem ADRIEN LAUNAY, Histoire de la Mission de Cochinchine, II, sđd., tr. 189.

[9] Thụ phong linh mục trước năm 1844.

[10] Đức cha Stêphanô Thể truyền chức.

[11] Đức cha Charbonnier Trí truyền chức.

[12] Đức cha Louis Galibert Lợi truyền chức.

[13] Trước năm 1862.

[14] Ngày nay thuộc thôn Long Hoà, xã An Định, huyện Tuy An.

[15] Xem Mémorial Mission de Quinhon, No. 51, 29 Mars 1909, tr. 48.

[16] Xem Mémorial Mission de Quinhon, No. 53, 24 Mai 1909, tr. 77,79,86.

[17] Xem AMEP, Rapport annuel de Cochinchine Orientale 1885 - Mgr Van Camelbeke.

[18] AMEP, tập 821, tr. 3-7.

[19] Xem Mémorial Mission de Quinhon, du mois d'Avril 1927, tr. 30.

[20] Theo Giáo luật, chỉ nơi nào đã được thành lập Hàng Giáo Phẩm mới có giáo xứ chính thức (Paroisse ). Giáo xứ là do Giám mục Giáo phận Chính tòa thiết lập. Trong các vùng truyền giáo như tại Việt Nam lúc bấy giờ thường chỉ có Trụ sở Truyền giáo (Station missionnaire). Tuy nhiên khi một trụ sở có đông giáo dân, lại có phương tiện sống đầy đủ thì có thể gọi là địa sở bán chính thức. Ở đây khi dùng cách gọi ‘địa sở’ là theo cách dùng từ ‘Curé’ (cha sở) trong những bổ nhiệm các linh mục.
Ngày 31/01/1958 Đức cha P.M. Phạm Ngọc Chi đã quyết định và công bố các địa sở bán chính thức (quasi paroisse) những nơi sau đây: Đà Nẵng, Trà Kiệu, Cù Và, Gia Hựu, Nhà Đá, Gò Thị, Qui Nhơn và Mằng Lăng (Xem Bản thông tin địa phận Qui Nhơn, số 03/1958, tr. 3).
Ngày 24/11/1960. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII ban hành Sắc chỉ thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam.
Ngày 06/02/1961, theo quyết nghị của Hội đồng Giáo phận họp tại Toà Giám mục Qui Nhơn, các nơi sau đây được công bố là giáo xứ chính thức: (ở đây chỉ ghi hạt Phú Yên ):Mằng Lăng, Đồng Tre và Tuy Hoà. (Xem Bản thông tin địa phận Qui Nhơn, số 22/1961, tr. 13).

[21] Xem Fiche individuelle de Wendling.

[22] Mémorial Mission de Quinhon, Avril 1907. tr. 34.

[23] Phần mộ cha Phêrô Bùi Huy Bích hiện nay là góc Tây-Đông của nhà lẫm.

[24] Xem Bản thông tin địa phận Qui Nhơn, số 22, tháng 5 và 6 năm 1961, tr. 13.

Tác giả bài viết: BBT lịch sử giáo phận

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

lich cong giao 2022 - 2023
tapsanmucdong
THỐNG KÊ
  • Đang truy cập43
  • Máy chủ tìm kiếm17
  • Khách viếng thăm26
  • Hôm nay23,422
  • Tháng hiện tại601,385
  • Tổng lượt truy cập28,253,272

Chúng tôi trên mạng xã hội

CÁC GIÁO HẠT
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây