Tĩnh tâm linh mục đoàn giáo phận Qui nhơn - “Cùng với Dân Thánh, Linh mục sống Mùa Chay”

Thứ sáu - 10/03/2017 01:53

TĨNH TÂM LINH MỤC ĐOÀN GIÁO PHẬN QUI NHƠN

“Cùng với Dân Thánh, Linh mục sống Mùa Chay”

TGM Qui Nhơn, thứ Hai 06 tới thứ Sáu 10/03/2017

**********

 

BÀI MỞ ĐẦU

 

TM (Mt 4:1-11):Bấy giờ Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ. Người ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó, Người thấy đói. Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Người và nói: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!" Nhưng Người đáp: "Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra."

Sau đó, quỷ đem Người đến thành thánh, và đặt Người trên nóc đền thờ, rồi nói với Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá."Đức Giêsu đáp: "Nhưng cũng đã có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi."

Quỷ lại đem Người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, và bảo rằng: "Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi." Đức Giêsu liền nói: "Xa-tan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi."  Thế rồi quỷ bỏ Người mà đi, và có các sứ thần tiến đến hầu hạ Người”.

 

Anh em linh mục thân mến!

Tuần tĩnh tâm năm là thời gian ân sủng mà Thiên Chúa, qua Giáo Hội, Giáo Phận, trao ban cho chúng ta để chúng ta có được những ngày giờ sống mật thiết hơn với Thiên Chúa, với Giáo Hội  và với nhau của tình huynh đệ trong bầu khí thinh lặng, cầu nguyện và sẻ chia.

Trong tâm tình huynh đệ, bầu khí thinh lặng và cầu nguyện đó, chắc chắn, chúng ta cũng không thể nào thoát khỏi những ưu tư, trăn trở về đời linh mục, về những kế hoạch, những thành công, thất bại trong hoạt động mục vụ, về anh chị em giáo dân, về thời cuộc … Và thật ý nghĩa biết bao, đẹp biết bao, sinh động và thiết thực biết bao nếu chúng ta làm cho chúng trở thành chất liệu trong Hy Tế Tạ Ơn trên bàn thờ, trong những giờ cầu nguyện, đối thoại và đặt mình trước Chúa.

Bên cạnh đó, tuần tĩnh tâm của chúng ta lại được chọn vào mùa Chay thánh. Đây là một chọn lựa thật ý nghĩa cho chúng ta.

Trước hết, chúng ta biết rằng mùa Chay là thời gian thanh luyện. Thật vậy, trong những thế kỷ đầu tiên, mùa Chay là thời gian Giáo Hội dành để hối nhân được hoán cải, người dự tòng thanh luyện chính mình để xứng đáng được lãnh nhận bí tích Rửa Tội trong đêm Phục Sinh bằng việc giữ chay, tiết chế và cầu nguyện trong suốt mùa Chay. Do đó, Giáo Hội cũng dùng thời gian đặc biệt này để kêu gọi, khích lệ toàn thể con cái mình cũng hãy sám hối và làm sống lại ân sủng phép Rửa Tội của mình.

Đồng thời, mùa Chay còn có một tên gọi khác là hành trình trở về - trở về trong niềm vui. “Chúng ta vui vì chúng ta tin tưởng rằng Thiên Chúa luôn yêu thương, luôn ân cần đối với mỗi người, dù chúng ta có tội lỗi và bất toàn đến đâu, Ngài vẫn luôn bao dung, tha thứ và mở rộng đôi tay chờ đón chúng ta. Như thế, có thể nói rằng hành trình hoán cải, sám hối của Mùa Chay là hành trình trở về nhà, hành trình đoàn viên trong gia đình của Thiên Chúa (Giáo Hội, giáo xứ, giáo họ, cộng đoàn). Trên con đường trở về ấy, tâm hồn của mỗi chúng ta tràn ngập niềm hân hoan, hạnh phúc vì biết rằng Thiên Chúa luôn yêu thương chờ đợi, anh chị em đang mong mỏi chờ gặp chúng ta trong đại gia đình đức tin” (Thư MvMùaChay 2015, gp LSCB).

Do đó, trong tuần tĩnh tâm này, tôi đã chọn lựa chia sẻ theo Sứ điệp Mùa Chay 2017 của Đức Thánh Cha Phanxico: “Lời Chúa là một hồng ân – Tha nhân là một hồng ân”, tôi gợi ý để mời gọi anh em hãy sống tinh thần của mùa Chay trong tư cách là linh mục khi cùng nhau thực hiện một cuộc hoán cải và trở về qua việc suy niệm các bài Tin Mừng Chúa Nhật mùa Chay năm nay (năm A). Chúng ta hãy dùng chính Lời Chúa mà Giáo Hội cống hiến cho con cái mình sống mùa Chay thánh để nhìn về bản thân của mỗi chúng ta. Để khi được Lời Chúa soi dẫn trong những ngày này, chúng ta có thể ý thức hơn và trở về với căn tính thật sự của thừa tác vụ linh mục. Đây là một công việc mà con người không thể tự mình làm được. Chúng ta cần đến ơn Chúa, cần đến sự tác động của Chúa Thánh Thần.

Trong đoạn Tin Mừng vừa rồi, chúng ta thấy Đức Giêsu vào sa mạc dưới tác động của Thần Khí. Chính trong tác động của Thần Khí, Đức Giêsu vào sa mạc để cầu nguyện, kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa Cha, chuẩn bị cho sứ vụ công khai của mình. Chúng ta cũng thế. Chúng ta hãy để Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta trong những ngày ân sủng này. Chúng ta cũng hãy trao những ưu tư mục vụ, những trăn trở về đức tin, về cuộc sống của anh chị em giáo dân, những người chúng ta có trách nhiệm, cho Thiên Chúa Cha. Để như Chúa Giêsu, được Thần Khí tác động không chỉ trong những ngày đặc biệt này nhưng còn sau khi trở về với những trách vụ hằng ngày, chúng ta sẽ có thể vượt qua những thử thách cám dỗ, hay giải quyết được những khó khăn, vấn nạn đang làm chúng ta lo lắng và can đảm dấn thân hơn trong sứ vụ.

Đức Thánh Cha Phanxico trong bài chia sẻ Chúa Nhật Mùa Chay 2014, đã lấy gợi hứng từ bài Tin Mừng Đức Giêsu chịu cám dỗ trong sa mạc của Tin Mừng Mt 4,1-11. Ngài nói: “Tin Mừng của Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay trình bày cho chúng ta biến cố Đức Giêsu chịu cám dỗ, Thánh Thần ngự xuống trên Ngài khi Ngài chịu phép rửa tại sông Giordan, rồi đưa Ngài vào hoang địa để chiến đấu với Satan trong bốn mươi ngày trước khi bắt đầu sứ vụ công khai.”

Bằng những lời lẽ đơn sơ, Đức Thánh Cha chia sẻ rằng mục đích các cơn cám dỗ của kẻ thù là muốn Đức Giêsu đi ra khỏi con đường hiến tế và tình yêu, cũng như từ bỏ kế hoạch của Thiên Chúa Cha để đi tìm hạnh phúc và thoải mái cho chính mình. Ngài nói:

Tên cám dỗ tìm cách kéo Đức Giêsu ra khỏi kế hoạch của Chúa Cha, khỏi con đường hiến tế và tình yêu để đảm nhận một con đường dễ dàng hơn của thành công và quyền lực. Cả Đức Giêsu và tên Satan đều trích dẫn những đoạn Kinh Thánh. Thực ra, để kéo Đức Giêsu ra khỏi con đường thập giá, tên quỷ đã bày ra trước mắt Đức Giêsu một niềm hy vọng sai lạc về Đấng Messia: sự sung túc về kinh tế, trong lời xúi giục hóa đá thành bánh; một kiểu biểu diễn và phép lạ, với ý tưởng gieo mình xuống từ nóc đền thờ Giêrusalem và để Thiên Thần cứu mình; và cuối cùng là đánh đổi quyền lực và sự thống trị với việc thờ phượng Satan.”

Thế nhưng, Đức Giêsu đã chống trả lại những cơn cám dỗ đầy sức hấp dẫn ấy một cách quyết liệt và trước sau vẫn trung thành với Chúa Cha. Đức Thánh Cha cũng nhắc lại những lời nói của Đức Giêsu và xem đó như là những gì Đức Giêsu muốn nhắn nhủ từng người chúng ta, là hãy biết cậy dựa vào Lời Chúa, đừng thử thách Thiên Chúa và chỉ thờ phượng một mình Thiên Chúa mà thôi. Ngài chia sẻ rằng:

Đức Giêsu đã quyết liệt chống trả lại tất cả những cám dỗ này và biểu lộ ý muốn đi theo con đường mà Cha đã vạch ra mà không có sự thỏa hiệp với tội lỗi và lý luận của thế gian. Khi đáp trả lại Satan, Ngài đã nhắc chúng ta rằng “con người sống không chỉ nhờ cơm bánh nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4); và điều này ban cho chúng ta sức mạnh và nâng đỡ chúng ta trong cuộc chiến chống lại tinh thần thế gian vốn đẩy con người xuống cấp độ của những nhu cầu chính yếu, khiến con người quên đi những gì là chân, là thiện, là mỹ, cơn đói khát Thiên Chúa và tình yêu của Người. Hơn nữa, Ngài cũng nhắc nhở chúng ta rằng “có lời Kinh Thánh viết rằng: ngươi chớ thử thách Chúa là Thiên Chúa của ngươi”, bởi vì con đường đức tin phải trải qua bóng tối, nghi ngờ và chính điều đó bồi đắp cho sự kiên nhẫn và sự chờ đợi lâu bền. Cuối cùng, ngài nhắc nhở rằng “có lời Kinh Thánh nói: Ngươi chỉ thờ phượng một mình Thiên Chúa mà thôi; có nghĩa là chúng ta phải loại bỏ mọi ngẫu tượng, mọi thứ phù phiếm và xây dựng cuộc sống của chúng ta trên những gì là thiết yếu.”

Đức Thánh Cha còn chia sẻ thêm rằng Đức Giêsu đã luôn trung tín với Chúa Cha. Sự trung tín ấy được đặc biệt thể hiện nơi cuộc Thương Khó của Ngài. Sự trung tín ấy đã đưa Ngài đến chiến thắng chung cuộc, và Satan, thủ lãnh thế gian đã bị kết án. Ngài nói:

Những lời này của Đức Giêsu sau đó đã được chuyển thành hành động cụ thể. Sự trung tín tuyệt đối của Ngài vào kế hoạch tình yêu của Chúa Cha ba năm sau đã đưa dẫn  Ngài đến việc hạ bệ “thủ lãnh thế gian này (Ga 16,11), trong cuộc Tử Nạn và Thập Giá và nơi đó Giêsu đã đi đến cuộc chiến thắng chung cuộc, chiến thắng của tình yêu.”

Đức Thánh Cha mời gọi mọi người hãy tận dụng thời gian mùa Chay này để làm mới lại những gì ta đã cam kết khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội là từ bỏ Satan cùng những âm mưu thâm độc của nó và chỉ hướng về một mình Chúa mà thôi. Ngài chia sẻ:

Anh chị em thân mến, thời gian mùa chay là cơ hội thuận lợi để tất cả chúng ta thực hiện cuộc hành trình hoán cải, chân thành đối diện với chính mình cùng với những trang Tin Mừng này. Chúng ta hãy làm mới lại lời hứa chúng ta đã có khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội: từ bỏ Satan và tất cả những hành vi và cám dỗ của nó để bước đi trên con đường của Thiên Chúa và “đạt đến sự Phục sinh trong niềm vui của Thánh Thần”.

Tiếp đến, đây là thời gian của Mùa Chay thánh. Do đó, để có đường hướng mục vụ phù hợp với đường lối, giáo huấn của Giáo hội, chúng ta cũng cần đọc lại những hướng dẫn của Giáo hội qua Hiến chế mục vụ Giáo Hội trong thế giới ngày nay (Gaudium et Spes). Hiến chế này năm nay bước sang tuổi thứ 52 (7.12.1965). 52 năm - một khoảng thời gian khá dài so với tuổi đời của một con người, nhưng nội dung của hiến chế này vẫn không hề ‘già’, không hề lỗi thời, nhưng ngược lại, có khi, chúng ta còn chưa đào sâu được trọn vẹn nội dung của nó. Nội dung của hiến chế có thể nói vẫn đang sống động, còn hợp thời hơn bao giờ hết đối với giáo hội VN hiện nay. Hiến chế này khẳng định với thế giới và cũng đang nói với đất nước Việt Nam rằng: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo âu của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và của bất cứ ai đang đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo âu của các môn đệ Chúa Kitô” (số 1).

Không chỉ thế, trong thông điệp mới đây của ĐGH đương kim (thông điệp Laudato Si- về việc chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta), ngài đặt ra một câu hỏi như sau: “Loại thế giới nào chúng ta muốn chuyển lại cho những người đến sau chúng ta, cho các trẻ em đang lớn lên?” Câu hỏi này không chỉ là câu hỏi chính yếu của thông điệp, nhưng cũng là câu hỏi cho mỗi linh mục chúng ta, những môn đệ của Đức Kitô trong chức linh mục thừa tác.

Trong Tòa Tổng Giám mục Buenos Aires, văn phòng của Đức Hồng Y Bergoglio, ngày nay là Đức Giáo Hoàng Phanxicô, nhỏ hơn văn phòng của Thư ký; là một căn phòng hết sức nghèo nàn. Có một chiếc giường gỗ và một cây thánh giá của Ông bà nội. Đối diện với phòng ngài là một nhà nguyện riêng. Căn phòng kế tiếp có thư viện chứa đầy sách vở và giấy tờ của Ngài. Trong số đó có một tờ giấy đã phai mầu, ghi lại những lời tuyên xưng đức tin riêng của Ngài được viết ra “trong một giây phút thật sốt sáng” ít lâu trước khi ngài chịu chứa linh mục:

Tôi muốn tin vào Thiên Chúa là Cha, Đấng yêu thương tôi như một người con, và tin vào Đức Giê su, là Chúa, Đấng đã tuôn đổ Thần Khí của Ngài vào trong đời sống của tôi để làm cho tôi biết vui cười và như thể Ngài dẫn đưa tôi vào vương quốc đời đời của sự sống.

Tôi tin vào lịch sử đời tôi luôn trải qua dưới cái nhìn tình yêu của Thiên Chúa và, trong ngày xuân hôm ấy, ngày 21 tháng 09, Ngài đã dẫn đưa tôi đến gặp gỡ để mời gọi tôi bước theo Ngài.

Tôi tin vào nỗi đau của tôi, thiếu phong nhiêu vì tính ích kỷ, nơi tôi tìm ẩn náu.

Tôi tin vào tính hèn hạ của tâm hồn tôi, tìm cách giữ lấy mà không cho đi…không trao ban.

Tôi tin rằng những người khác tốt, và tôi phải yêu thương họ mà không sợ hãi, và không bao giờ phản bội họ để tìm một sự bảo đảm cho tôi.

Tôi tin vào đời sống đạo đức, tôi tin mình muốn yêu nhiều.

Tôi tin vào sự chết hang ngày, thiêu đốt, mà tôi bỏ chạy, nhưng nó mỉm cười với tôi, đồng thời mời tôi chấp nhận nó.

Tôi tin vào sự nhẫn nại của Thiên Chúa, tiếp nhận, tốt lành như một em bé.

Tôi tin rằng người Cha ở trên trời cùng với Thiên Chúa.

Tôi tin rằng cả Cha Duarte cũng ở đó, cầu bàu cho chức linh mục của tôi.

Tôi tin vào Mẹ Maria, Mẹ tôi, Người hằng yêu thương tôi và sẽ không bao giờ để tôi đơn côi. Và tôi chờ đợi sự xuất hiện bất ngờ mỗi ngày sẽ thể hiện tình yêu, sức mạnh, phản bội và tội lỗi, sẽ theo đuổi tôi cho đến cuộc gặp gỡ cuối cùng với khuôn mặt xinh đẹp mà tôi không biết sẽ thế nào, mà tôi liên tục trốn chạy, nhưng tôi muốn nhận biết và mến yêu. Amen.”

Cho tới khi được chọn làm Giáo hoàng, Ngài đã nói: “Sự thật tôi là một tội nhân mà Lòng Thương Xót của Thiên Chúa đã yêu thương một cách đặc biệt”. Ngài đã chọn khẩu hiệu Giáo hoàng: “Miserando atque Eligendo: Thương xót và Tuyển chọn”.

 

 

 

 

Anh em linh mục thân mến,

Với chủ đề của tuần tĩnh tâm này: “Cùng với dân Thánh, LM sống mùa Chay”, tôi muốn mời gọi mỗi chúng ta hãy mang tâm tình của anh chị em giáo dân, mang lấy những trăn trở của họ và những ưu tư của chính mình, để với thời gian ân sủng của tuần tĩnh tâm cũng như của mùa Chay, chúng ta, các linh mục, thực sự thanh luyện chính mình, thật sự hoán cải trở về … không phải như là những công chức nói suông, chỉ tay ra lệnh, đòi hỏi người khác thực hiện mà bản thân lại không thực sự sống và thi hành.

Trong tinh thần đó, các bài chia sẻ của tôi sẽ sử dụng các bài tin mừng mùa Chay năm nay (năm A) theo thứ tự của nó với những điểm nhấn:

Tin Mừng tuần 1 được dùng cho bài mở đầu (mà tôi đang chia sẻ đây), là lời mời gọi hãy để cho Thần Khí hướng dẫn và tác động.

Tiếp theo đó là các bài TM tuần 2-3-4-5-6 là 5 bài chia sẻ:

Bài 1: Hãy biến đổi

Bài 2: Đón nhận Nước Hằng Sống

Bài 3: Được Ánh Sáng soi chiếu

Bài 4: Sự Sống

Bài 5: Cùng Vác với Đức Kitô

Bài 6: Sống mùa Chay cùng Mẹ Maria.

Tôi hy vọng, với ân sủng và tác động của Chúa Thánh Thần, những góp nhặt này có thể mang lại cho anh em chúng ta một chút gì đó để suy tư, để hoán cải không chỉ trong thời gian quý báu của tuần tĩnh tâm nhưng còn trong đời sống phục vụ với tư cách là linh mục thừa tác.

 

Bài 1:  HÃY BIẾN ĐỔI

********

 

Tin mừng (Mt 17:1-9): Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. Và bỗng các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người. Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: "Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia. "Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!" Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất. Bấy giờ Đức Giê-su lại gần, chạm vào các ông và bảo: "Chỗi dậy đi, đừng sợ!" Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giêsu mà thôi. Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông rằng: "Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy."

 

  1. Biến hình
  1. ĐG biến hình – bộc lộ căn tính thực sự

“Biến cố biến hình đánh dấu một thời điểm quyết định trong sứ vụ của Đức Giêsu. Đây là một biến cố mạc khải nhằm củng cố niềm tin trong tâm hồn các môn đệ, chuẩn bị họ đi vào tấn bi kịch thập giá và báo trước vinh quang Phục Sinh” (Vita Consecrata, số 15). Việc củng cố niềm tin cho các môn đệ chính là làm cho các ông xác tín hơn về căn tính thực sự của Đức Giêsu “là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa” khi cho các ông nhìn thấy được vinh quang của Ngài.

Trước tiên, biến cố mạc khải này được xảy ra ở một nơi chốn, theo truyền thống Do Thái, mang ý nghĩa là nơi Thiên Chúa gặp gỡ con người, là nơi giao hòa trời và đất, và là nơi quy tụ muôn người làm một trong nước Thiên Chúa. Đó là Núi. Một số tác giả đã cố gắn cho núi này, nơi ĐG biến hình, một cái tên cụ thể. Tuy nhiên, Tin Mừng lại không nói cho chúng ta biết núi đó tên gì. Vì sao? Đơn giản là Tin Mừng muốn nói rằng mạc khải của Thiên Chúa có thể xảy ra ở bất cứ nơi đâu, miễn sao ở nơi đó, con người luôn ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa và sẵn sàng mở lòng ra để đón nhận mạc khải của Ngài.

Kế đến, thời điểm của biến cố biến hình này là sau sáu ngày, tính từ ngày ĐG loan báo cuộc khổ hình thập giá cho các tông đồ. Đây là một thời điểm được xác định cụ thể. Dầu vậy, chúng ta còn khám phá ra rằng biến cố này còn mang tính chất vượt thời gian, không hoàn toàn lệ thuộc vào thời gian và không gian hiện tại. Đó là một thời khắc giao hòa, gặp gỡ giữa quá khứ và tương lai. Trong đó, quá khứ được đại diện bởi Môsê và Êlia; còn tương lai chính là Đức Kitô Phục Sinh. Như thế, Đức Kitô vinh quang, sáng chói mà các tông đồ nhìn thấy trong biến cố biến hình cũng chính là Đức Giêsu của thường ngày. Đức Giêsu của thường này đó, trong biến cố biến hình, không còn che dấu vinh quang của mình nữa nhưng đã tỏ cho các môn đệ nhìn thấy vinh quang của Ngài, nhận biết và xác tín rằng Ngài chính là Con Thiên Chúa.

Như thế, biến hình không phải là biến đổi sang một dung mạo hoàn toàn khác, mà đúng hơn, là trở lại dung mạo nguyên tuyền của mình, trở lại tình trạng nguyên thủy, một tình trạng ân sủng và vinh quang. Nơi ĐG, dung mạo sáng chói, vinh quang đó đã được ĐG dùng nhân tính của mình để che đi vinh quang thường hằng nơi Ngài để Ngài hoàn toàn trở nên như một con người nhỏ bé, hèn mọn như muôn người. Ngài đã bỏ đi cái màn che đó để các môn đệ nhận ra Ngài cách chính xác khi Ngài biến hình. Còn chúng ta, những vướng bận, những bụi bặm của kiếp người đã làm cho dung mạo thực sự (hình ảnh của TC, con TC) bị méo mó, bị biến dị. Chúng ta cần phải được biến đổi, cần được tẩy gội, cần được tái chỉnh hình nhờ ân sủng của TC để có thể trở lại với dung mạo nguyên tuyền của mình là Kitô hữu, đặc biệt là LM thừa tác.

Đức Thánh Cha Phanxico nói: “Trong đoạn Tin Mừng tường thuật về việc Chúa Biến Hình hôm nay, cha xin khơi ra hai yếu tố ý nghĩa, được tóm gọn trong hai từ: đi lên và đi xuống. Tất cả chúng ta cần phải đi ra nơi riêng, cần đi lên ngọn núi, vào một nơi thanh vắng để tìm lại chính chúng ta và cảm nghiệm tốt hơn lời của Thiên Chúa. Chúng ta làm điều này trong cầu nguyện. Nhưng chúng ta đừng ở lại đó! Cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa trong cầu nguyện phải tiếp tục thúc bách chúng ta “đi xuống núi” và trở về với đất bằng, nơi chúng ta gặp gỡ rất nhiều anh chị em đang bị những mệt mỏi, bệnh tật, bất công, bỏ mặc, cái nghèo thể xác và tinh thần đè nặng. Chúng ta được mời gọi để mang đến cho tất cả anh chị em đang gặp khó khăn này hoa trái của kinh nghiệm mà chúng ta đã có với Thiên Chúa, chia sẻ với họ ân sủng mà chúng ta đã lãnh nhận. Điều này rất lạ kỳ. Khi chúng ta nghe Lời của Giêsu, và chúng ta có Lời ấy trong tim, Lời ấy được lớn lên. Các bạn có biết Lời ấy lớn lên thế nào không? Lời của Đức Kitô sẽ lớn lên trong chúng ta khi chúng ta rao giảng Lời ấy, khi chúng ta trao ban Lời ấy cho người khác! Và đây là một đời sống Kitô hữu thực thụ. Đó là sứ mạng dành cho toàn thể Giáo Hội, cho tất cả những ai đã lãnh nhận bí tích rửa tội, dành cho tất cả chúng ta: nghe Giêsu và trao tặng cho người khác. Đừng quên điều này: trong tuần này, các bạn hãy nghe lời Chúa Giêsu! Rồi Chúa Nhật tuần tới, các bạn hãy chia sẻ với cha là các bạn có làm điều này không: mang một cuốn Tin Mừng trong túi hay trong cặp xách để đọc một đoạn nhỏ trong ngày.”

 

  1. LM phải biến đổi để bộc lộ đúng căn tính của mình

Cùng với ĐG, chúng ta – các LM – cũng phải biến đổi để bộc lộ đúng căn tính của mình. Nhưng căn tính của chúng ta là gì?

Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cùng nhớ lại lời thẩm vấn ĐGM dành cho các tiến chức trong ngày thụ phong linh mục:

  • Con có muốn không ngừng chu toàn nhiệm vụ tư tế ở bậc linh mục như là cộng sự viên tốt của hàng Giám Mục trong việc chăn dắt đoàn chiên Chúa theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần không?
  • Con có muốn chu toàn một cách xứng đáng và khôn ngoan thừa tác vụ Lời Chúa trong việc rao giảng Phúc Âm và trình bày đức tin công giáo không?
  • Con có muốn cử hành một cách đạo đức và trung tín các mầu nhiệm của Đức Kitô, để ngợi khen Thiên Chúa và thánh hóa dân Kitô hữu theo truyền thống của Hội Thánh, nhất là trong hy tế Tạ ơn, và bí tích Hòa giải không?
  • Con có muốn cùng với chúng tôi không ngừng dựa vào lệnh Chúa truyền phải cầu nguyện mà nài xin lòng thương xót của Chúa cho toàn dân đã được trao phó cho con không?
  • Con có muốn ngày càng liên kết mật thiết hơn với Đức Kitô Thượng Tế, Đấng đã tự hiến mình cho Chúa Cha làm của lễ tinh tuyền vì chúng ta, và có muốn cùng với Người hiến thân cho Thiên Chúa để cứu độ loài người không?

Sau đó là lời hứa vâng phục khi tiến chức đặt đôi tay của mình vào lòng bàn tay của ĐGM.

Như thế, căn tính của linh mục là cộng sự viên luôn biết kính trọng và vâng phục Giám Mục trong việc điều hành dân Chúa, rao giảng Lời Chúa và trao ban các Bí tích. Nói khác đi, linh mục là hiện thân của Đức Kitô, tiếp tục công trình cứu độ của ĐG ở trần gian trong việc điều hành dân Chúa, thánh hóa và rao giảng Tin mừng.

Căn tính đó ngày hôm nay đang được tỏ lộ như thế nào nơi mỗi LM chúng ta?

Giáo Hội ý thức rằng một sứ vụ thiêng liêng và cao cả được thực hiện nơi những con người bình thường, giới hạn và nhiều yếu đuối, do đó, Mẹ Hội Thánh đã đưa ra cho chúng ta một số tiêu chuẩn, hay đúng hơn, dựa vào ý muốn của ĐG và những thao thức của dân Chúa, đã đưa ra những con đường, những cách thế để mỗi LM chúng ta từng ngày có thể trở nên hiện thân của ĐG một cách trung thực nhất.

ĐTC Phanxico đã giải thích cho các thính giả về Tác Vụ Giám Mục, Linh Mục Phó Tế trong Hội Thánh, nói khác đi và vai trò của các thừa tác viên chức thánh. Trong bài giáo lý này, ĐTC đã khẳng định:

Trước tiên, “các thừa tác vụ là một hồng vô cùng to lớn của Thiên Chúa ban cho nhân loại, là dấu chỉ sống động về sự hiện diện và tình yêu của Ngài”.

Thứ hai, “những đức tính không thể bỏ qua được, vì chúng chính là sự sống - được liệt kê như những đức tính hoàn toàn nhân bản: hiếu khách, tiết kiệm, kiên nhẫn, hiền lành, đáng tin cậy, có lòng tốt. Đó là những chữ cái và văn phạm cơ bản của từng thừa tác vụ! Nó phải là văn phạm cơ bản của mỗi Giám Mục, linh mục và phó tế. Vâng, vì nếu không có thiên hướng xinh đẹp và thật sự này để gặp gỡ, hiểu biết, đối thoại, qúy mến và liên hệ với những anh em khác một cách tôn trọng và chân thành, thì họ không thể hiến tặng một việc phục vụ và chứng tá thực sự vui tươi và đáng tin cậy” (số 1).

Thứ ba, các thừa tác viên phải “ý thức rằng họ không là Giám Mục, linh mục hay phó tế bởi vì họ thông minh hơn, tài giỏi hơn và tốt lành hơn những người khác, nhưng chỉ vì nhờ một hồng ân, một hồng ân tình yêu mà Thiên Chúa ban cho họ trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, vì lợi ích của dân Ngài. […] một mục tử ý thức được rằng tác vụ của mình chỉ đến từ lòng thương xót và con tim của Thiên Chúa sẽ không bao giờ có thái độ độc đoán, như thể tất cả mọi người đều ở dưới chân của mình, và cộng đoàn là tài sản của mình, là vương quốc cá nhân của mình (số 2).

Thứ tư, đó là sự hiệp thông và cộng tác: “Ý thức rằng mọi sự đều là hồng ân, mọi sự đều là ân sủng, cũng giúp cho một mục tử không rơi vào … những cám dỗ về hư danh, kiêu căng, tự phụ và ngạo mạn. Khốn cho một Giám Mục, một linh mục hay một phó tế khi nghĩ rằng mình biết hết mọi sự, rằng mình luôn luôn có câu trả lời đúng cho tất cả mọi sự và không cần bất kỳ ai. Ngược lại, ý thức rằng mình trước hết là đối tượng của lòng thương xót và lòng từ bi của Thiên Chúa phải đưa một mục tử của Hội Thánh đến một thái độ luôn luôn khiêm tốn và cảm thông với những người khác” (số 3).

Tông huấn Pastores Dabo Vobis (về việc đào tạo các LM hiện nay) nhắc đến những thao thức và ước muốn của Giáo Hội và dân Chúa về Linh mục rất cụ thể: “Chính người giáo dân mong ước, cảm nhận một cách mãnh liệt nhu cầu phải có những linh mục được đào tạo hẳn hoi, những linh mục thánh thiện” (số 3). Rõ ràng, hai khía cạnh mà dân Chúa mong chờ nơi linh mục: được đào tạo hẳn hoi và thánh thiện.

Lý giải cho hai khía cạnh đó, tông huấn nói rõ các linh mục tương lai phải “biết thánh hoá bản thân khi thi hành chức vụ và biết thường xuyên cập nhật hoá đường hướng dấn thân mục vụ của mình” (số 2) vì “lâu nay khi đang thi hành chức vụ của mình, họ dường như rơi vào một sự phân tán thái quá trong những hoạt động mục vụ ngày càng tăng” (số 3).

Thật vậy, nền tảng tri thức và đời sống thiêng liêng luôn là hai yếu tố quan trọng trong đời linh mục. Hai yếu tố này phải luôn là những yếu tố “động”. “Động” ở đây theo nghĩa là “phải thích nghi với mọi thời đại và với mọi môi trường sống… Chính vì thế, trong mức độ có thể, chúng ta phải nổ lực tiếp nhận ánh sáng tối thượng của Chúa Thánh Thần, hầu khám phá ra những phương hướng của xã hội đương thời, nhận ra những nhu cầu sâu xa nhất, xác định những bổn phận cụ thể quan trọng nhất, những phương pháp mục vụ phải chấp nhận, để có thể đáp lại cách xứng hợp nhất những mong chờ của nhân loại” (số 5). Tuy nhiên, yếu tố động này không làm mất đi “diện mạo cốt yếu, không thay đổi, của người linh mục: […] phải nên giống Chúa Kitô” (số 5).

Trong sắc lệnh đào tạo linh mục của Vat. II (Optatam Totius), các số 8-9-10-11 nêu lên cho chúng ta một số tiêu chuẩn, nếu có thời gian, chúng ta cũng nên đọc lại để nhìn lại chính mình:

  • Một đời sống thiêng liêng sâu sắc, Do phép Truyền Chức Thánh họ phải là hiện thân của Chúa Kitô Linh Mục, lại nữa bởi cùng chia sẻ một cuộc sống của Người, nên họ phải quen sống kết hợp với Người như bạn hữu. Họ phải sống Mầu Nhiệm Phục Sinh của Người thế nào để biết khai sáng Mầu nhiệm ấy cho đoàn chiên sẽ được giao phó….
  • Ý thức về Giáo Hội và đức vâng lời, phải thấm nhuần Mầu Nhiệm Giáo Hội đã được Thánh Công Ðồng này đặc biệt khai sáng, để có thể làm chứng sự hiệp nhất đang thu hút mọi người về với Chúa Kitô 17 bằng cách thảo hiếu và khiêm tốn hiệp nhất với vị Ðại Diện Chúa Kitô, và một khi đã lãnh nhận chức Linh Mục, họ luôn liên kết với Giám Mục của mình như những cộng tác viên tín cẩn và tiếp tay cộng tác với các anh em Linh Mục khác. Phải dạy cho họ biết mở rộng tâm hồn tham gia cuộc sống của toàn thể Giáo Hội.
  • Ðời trinh khiết. Một khi khước từ đời hôn nhân vì Nước Trời (x. Mt 19,20), họ kết hợp với Chúa bằng một tình yêu không san sẻ phù hợp mật thiết với Giao Ước mới, họ làm chứng cho sự sống lại đời sau (x. Lc 20,36) và thâu lượm được một trợ lực thích hợp nhất để luôn mãi thi hành đức ái hoàn hảo, nhờ đó, họ có thể trở nên mọi sự cho mọi người trong chức vụ Linh Mục.
  • Ðức tự chủ, một nền giáo dục khéo tổ chức cũng phải nhằm huấn luyện cho các chủng sinh đạt được mức trưởng thành nhân bản cần thiết, nhất là mức trưởng thành đã được kiểm nghiệm trong một đức tính cương nghị, trong khả năng quyết định chín chắn, và một óc phê phán xác đáng về con người và về các biến cố. Các chủng sinh phải tập cho quen điều hòa thích hợp cá tính mình, họ phải được huấn luyện cho có tinh thần quả cảm, và nói chung, phải biết quý chuộng những đức tính mà người đời thường quý chuộng và không thể thiếu nơi các thừa tác viên của Chúa Kitô, thí dụ như lòng thành thực, chuyên lo giữ đức công bình, đức tín trung, cư xử lịch thiệp, khiêm tốn và bác ái trong ngôn từ…

Để gần gủi và cụ thể hơn, tôi đã trích dẫn bài giáo lý ngày 12-11-2014 của ĐTC Phanxico. Trong bài giáo lý này, ngài đã giải thích cho các thính giả về Tác Vụ Giám Mục, Linh Mục Phó Tế trong Hội Thánh, nói khác đi và vai trò của các thừa tác viên chức thánh. ĐTC đã khẳng định:

Trước tiên, “các thừa tác vụ là một hồng vô cùng to lớn của TC ban cho nhân loại, là dấu chỉ sống động về sự hiện diện và tình yêu của Ngài”.

Thứ hai, “những đức tính không thể bỏ qua được, vì chúng chính là sự sống - được liệt kê như những đức tính hoàn toàn nhân bản: hiếu khách, tiết kiệm, kiên nhẫn, hiền lành, đáng tin cậy, có lòng tốt. Đó là những chữ cái và văn phạm cơ bản của từng thừa tác vụ! Nó phải là văn phạm cơ bản của mỗi Giám Mục, linh mục và phó tế. Vâng, vì nếu không có thiên hướng xinh đẹp và thật sự này để gặp gỡ, hiểu biết, đối thoại, qúy mến và liên hệ với những anh em khác một cách tôn trọng và chân thành, thì họ không thể hiến tặng một việc phục vụ và chứng tá thực sự vui tươi và đáng tin cậy” (số 1).

Thứ ba, các thừa tác viên phải “ý thức rằng họ không là Giám Mục, linh mục hay phó tế bởi vì họ thông minh hơn, tài giỏi hơn và tốt lành hơn những người khác, nhưng chỉ vì nhờ một hồng ân, một hồng ân tình yêu mà Thiên Chúa ban cho họ trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, vì lợi ích của dân Ngài. […] một mục tử ý thức được rằng tác vụ của mình chỉ đến từ lòng thương xót và con tim của Thiên Chúa sẽ không bao giờ có thái độ độc đoán, như thể tất cả mọi người đều ở dưới chân của mình, và cộng đoàn là tài sản của mình, là vương quốc cá nhân của mình (số 2).

Thứ tư, đó là sự hiệp thông và cộng tác: “Ý thức rằng mọi sự đều là hồng ân, mọi sự đều là ân sủng, cũng giúp cho một mục tử không rơi vào … những cám dỗ về hư danh, kiêu căng, tự phụ và ngạo mạn. Khốn cho một Giám Mục, một linh mục hay một phó tế khi nghĩ rằng mình biết hết mọi sự, rằng mình luôn luôn có câu trả lời đúng cho tất cả mọi sự và không cần bất kỳ ai. Ngược lại, ý thức rằng mình trước hết là đối tượng của lòng thương xót và lòng từ bi của Thiên Chúa phải đưa một mục tử của Hội Thánh đến một thái độ luôn luôn khiêm tốn và cảm thông với những người khác” (số 3).

ĐTC đã giải thích rất cụ thể, rất hiện thực về căn tính LM cũng như đưa ra những phương thế để chúng ta “biến hình”, trở về đúng với hình ảnh, hiện thân của ĐK, một Alter Christus.

Và chúng ta đã biến đổi ra sao?

Câu truyện của Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo II xưng tội với “người ăn xin lm”

Hầu hết quý vị chắc biết đến cái tên Scott Hahn. Ông ta là một học giả vỉ đại về Kinh Thánh và là một mục sư Tin Lành dã cải đạo theo Công Giáo. Scott Hahn có một người bạn là linh mục và vị linh mục này đã đi viếng thành Rome. Ngoài những công việc khác thì linh mục này còn có cuộc hẹn để trò chuyện riêng tư với Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị. Vào ngày hẹn đó, vị linh mục này còn nhiều giờ rảnh cho nên, như một du khách, ngài quyết định ghé vào một Vương cung Thánh đường để chiêm ngắm và đọc kinh. Ở các bực thềm vào thánh đường hiện diện nhiều kẻ ăn xin, một hình ảnh thường thấy ở Rome. Trên các bực thềm đó, ngài mường tượng rằng mình nhận ra một người trong số ăn xin đó. Sau khi vào cung thánh và quỳ gối để cầu nguyện thì hình ảnh đó đã đập vào trí nhớ của ngài. Ngài nhớ ra rằng ngài đã quen biết người ăn xin đó ở hoàn cảnh nào. Ngài liền vội chạy ra và đến gần người ăn xin đó và nói:

- “Tôi biết ông mà. Có phải chúng ta cùng vào chủng viện với nhau không?”

Người đàn ông gật đầu.- “Vậy thì ông là linh mục phải không?” - Ngài nới với người ăn xin. Người này trả lời:- “Không còn nữa, tôi đã rớt ở tận cuối đường. Xin để cho tôi yên một mình”

Vị linh mục vì đang lo cho cuộc hẹn sắp tới của mình với Đức Thánh Cha nên nói:

- “Tôi phải đi. Tôi sẽ cầu nguyện cho bạn”.Người ăn xin với khuôn mặt quen thuộc đó trả lời:

- “Việc đó sẽ mang lại nhiều điều tốt lành”.

Với lời hứa trên, vị linh mục bỏ lại kẻ ăn xin ở các tầng cấp của thánh đường và khởi sự đi đến nơi hẹn. Những cuộc hẹn riêng từ này với Đức Giáo Hoàng bao giờ cũng rất khuôn phép. Có một số người cũng được chấp thuận cho hội kiến riêng tư cùng một lúc, và khi Đức Thánh Cha tiến về phía quý vị thì linh mục thư ký của Ngài trao cho Ngài một tràng chuổi Mân Côi đã được làm phép, sau đó Ngài sẽ trao nó lại cho quý vị. Ở giai đoạn này thì người ta sẽ hôn nhẫn của Đức Giáo Hoàng và nói một lời tự cỏi lòng, chẳng hạn như xin Ngài cầu nguyện cho quý vị, hoặc cám ơn Ngài đã phục vụ cho Giáo Hội. Tuy nhiên khi Đức Giáo Hoàng tiến đến thì vị linh mục này đã không kềm được mình và tỏ bày: “Xin Cha cầu nguyện cho người bạn của con.” Không những thế, ông còn kể hết cả câu chuyện liên quan. Đức Thánh Cha lắng nghe với vẻ quan tâm và cam đoan với vị linh mục rằng Ngài sẽ cầu nguyện cho người bạn của ông. Khi tiếp tục đi, Ngài nói nhỏ điều gì đó với vị phụ tá của Ngài.

Cuối ngày hôm đó, vị linh mục được nhân viên của Tòa Thánh liên lạc qua điện thoại di động. Họ nói với ngài rằng ngài và người bạn ăn xin - người trước đây là linh mục - cả hai sẽ được gặp Đức Giáo Hoàng để ăn cơm tối.

Kích động và hiếu kỳ, vị linh mục chạy ngay về thánh đường nơi trước đó ngài đã gặp được người bạn cùng học ở chủng viện. Chỉ còn rải rác vài người ăn xin, và may mắn thay (hay ơn Chúa) người bạn cũ vẫn còn trong đám này. Ngài tiến đến người đàn ông và nói:- “Tôi đã được gặp Đức Giáo Hoàng, và Ngài hứa sẽ cầu nguyện cho bạn. Hơn thế nữa, Ngài mời chúng ta đến tư dinh để ăn tối”.- “Không thể được !” người đàn ông nói “Hãy nhìn tôi nè. Tôi là một đống dơ dáy. Từ lâu tôi không tắm gội … và áo quần nữa …”. Thấy hoàn cảnh có vẻ trầm trọng (và hiểu rõ rằng người bạn ăn xin này chính là vé vào cửa của mình để được ăn tối với Đức Giáo Hoàng) vị linh mục nói:- “Tôi có phòng ở khách sạn, bạn có thể đến đó tắm rửa cạo râu, mà tôi cũng có áo quần vừa cỡ bạn nữa”.

Và một lần nữa, nhờ ơn Chúa, người linh mục ăn xin này đã bằng lòng. Rồi sau đó, họ đi đến nơi ăn tối với Đức Giáo Hoàng.

Cuộc tiếp đãi thật là kỳ diệu. Gần cuối bữa ăn, trước khi dùng đồ tráng miệng, Đức Thánh Cha ra dấu cho vị linh mục nhưng ông không hiểu Ngài muốn nói gì. Lm. thư ký của Ngài nói nhỏ vào tai ông: “Đức Giáo Hoàng muốn chúng ta ra ngoài”. Ngay lúc đó họ đã để Giáo Hoàng ở lại một mình bên người ăn mày.

Một lúc sau, người ăn mày bước ra khỏi phòng nước mắt ràn rụa.- “Chuyện gì xảy ra trong đó ?” - vị linh mục hỏi.Câu trả lời bất ngờ và đáng chú ý: “Đức Giáo Hoàng muốn tôi cho Ngài xưng tội” - người ăn mày nghẹn ngào. Khi đã trấn tĩnh lại, người đàn ông nói tiếp:

- Tôi thưa với Ngài: ‘Thưa Đức Thánh Cha, hãy nhìn con đây. Con chỉ là tên ăn mày. Con không phải là linh mục’. Đức Giáo Hoàng nhìn tôi và nói: ‘Con ơi, một khi đã là linh mục thì luôn là linh mục, và có ai trong chúng ta lại không phải là ăn mày? Cha cũng đến trước mặt Thiên Chúa như một tên ăn mày xin Ngài tha thứ cho những tội lỗi của Cha’. Tôi kể với Ngài rằng tôi không còn đủ điều kiện đứng chung trong Hội Thánh nữa, nhưng Ngài cam đoan với tôi rằng: với quyền hạn Giám mục thành Rôma, Ngài có thể tái kết nạp tôi ngay lúc đó và tại đó”. Người đàn ông còn cho biết là đã từ lâu ông không cử hành Bí Tích Hòa Giải nên Đức Giáo Hoàng phải giúp ông đọc lại lời trong nghi thức giải tội.

Vị linh mục bạn thắc mắc: - “Nhưng mà ông ở với Ngài một khoảng thời gian lâu. Chắc hẳn Ngài xưng tội không lâu đến thế”.- “Đúng vậy”, ông bạn trả lời, “nhưng sau khi nghe Ngài xưng tội, tôi cũng đã xin Ngài nghe tội của tôi”. Những lời cuối cùng Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nói với đứa con hoang đàng đã được thốt ra theo cung cách của một sự ủy nhiệm. Ngài đã trao cho vị linh mục vừa mới được hòa giải nhiệm vụ đầu tiên: Hãy đi và rao giảng cho những kẻ vô gia cư, hành khất trên các bậc thềm của ngay cái nhà thờ mà con vừa từ đó đến. Và vị linh mục vừa được tái sinh này sẵn sàng chấp nhận.

 

  1. Ở lại
  1. Ở đây thật là hay

Những lời đầy hứng khởi của Phêrô: "Chúng con ở đây, thật là hay!" (Mt 17:4) biểu lộ định hướng quy Kitô của toàn thể đời sống Kitô hữu nói chung và của toàn thể đời sống LM chúng ta nói riêng. Quả vậy, chắc chắn đã hơn một lần trong cuộc đời, chúng ta đã từng thân thưa với ĐK rằng: “Thưa Thầy, đối với chúng con, thật là hay khi được ở với Thầy, khi được dâng hiến đời mình cho Thầy và được cùng với Thầy trao hiến cho trần thế”(x. Tông huấn Vita Consecrata, số 15). Lời thân thưa đầy hứng khởi ấy tràn ngập sự thánh thiện, bởi nó được phát xuất lên tự đáy lòng của những con người hoàn toàn muốn hiến thân cho Chúa để phục vụ tha nhân – một ý muốn rất thiêng liêng, cao cả.

Tuy nhiên, giống như Phêrô khi thấy vinh quang của ĐG, thánh nhân đã thốt lên một câu nói đầy hứng khởi, lời cầu nguyện, ý định rất thiêng liêng, cao cả của chúng ta (như tôi vừa đề cập) được xuất phát từ tận cõi lòng của chúng ta. Có nghĩa là gì? Ý muốn thánh thiêng đó có được vì chúng ta nhìn thấy viễn cảnh của một đời phục vụ, dấn thân trong sứ vụ linh mục. Hay nói khác đi, nó vẫn chỉ ở trong đầu, trong con tim, nơi tâm hồn chúng ta. Và như thế, khác xa với thực tế lắm. Bởi kiếp sống nhân sinh, cuộc đời Kitô hữu, sứ mạng linh mục không bao giờ miễn chước cho ta những khó khăn, thử thách. ĐG khẳng định: “Ai muốn theo Ta, phải từa bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9:23).

Đối với chúng ta, con đường chúng ta đang đi trong chức linh mục thừa tác là con đường hoa hồng. Nhưng, chúng ta nên nhớ: hồng càng đẹp thì càng nhiều gai và gai càng nhọn, càng to. Những gai nhọn và to đó đang ẩn mình dưới những cánh hồng tươi xinh. Như vậy, mỗi bước chân – hành động – của chúng ta phải cho người khác thấy đó là những bước chân hoa hồng của sự dấn thân, của sự phục; còn những những thương tích, đổ máu bởi gai của hoa hồng chính là sự hy sinh, từ bỏ, là con đường tu đức mà mỗi chúng ta phải thực hiện trước sự hiện diện của Thiên Chúa, không phải là trước mặt nhân loại (vì nhiều khi chúng ta phải chịu một vài khó khăn, thiếu thốn, bất tiện hay thử thách trong đời sống mục vụ, chúng ta dễ dàng kể lể, than thở … không phải với Chúa nhưng với giáo dân để được một sự an ủi nào đó … Điều này làm mất đi hình ảnh người mục tử hy sinh, tận tụy vì đàn chiên)

Do đó, câu nói đầy hứng khởi “ở lại thật là hay” hay tâm tình thánh thiêng cao cả của chúng ta không giới hạn trong những khoảnh khắc vinh quang của ngày chịu chức, khi thành công, hay chỉ trong những lời nói suông, bài giảng khoa trương … nhưng đó phải là một cam kết đanh thép chúng ta sống và thực thi hằng ngày trong sứ vụ đòi hỏi hy sinh, từ bỏ và đôi khi phải đổ máu nữa.

 

  1. Biến đổi cùng với dân Chúa:

Trong biến cố Chúa biến hình, thánh Phêrô đã thốt lên: "Chúng con ở đây thật là hay" (Mt 17:4). Câu nói này của Phêrô mang chiều kích cộng đoàn: “chúng con”. Ông đang bị chìm đắm vào ánh vinh quang của ĐG nhưng ánh vinh quang chói ngời đó không làm cho ông quên mất những người anh em đang ở cùng với ông. Như thế, “chúng con ở đây thật là hay” là một niềm khao khát không chỉ của cá nhân Phêrô nhưng còn là của tất cả những ai có mối liên hệ với ông. Và hóa ra, toàn thể nhân loại, tất cả mọi người chúng ta cùng ở trong câu nói của Phêrô. Cũng vậy, câu nói mà bản thân từng linh mục chúng ta thân thưa lên Chúa “Chúng con ở đây thật là hay” cũng phải bao hàm tất cả những người liên hệ với chúng ta: anh em linh mục đoàn, giáo phận, ĐGM … và có thể nói trên hết là những anh chị em giáo dân mà chúng ta được sai đến để phục vụ.

Thật thế, linh mục không thể nên thánh, không thể lên thiêng đàng một mình. Chúng ta nên nhớ “không ai là một hòn đảo”, chúng ta sống là sống cùng và sống với người khác. Hơn nữa, linh mục thừa tác không phải là một đặc ân dành riêng cho cá nhân người thụ phong, linh mục thừa tác là một sứ vụ buộc ngặt phải chu toàn. Sứ vụ đó là gì? Đó chính là căn tính linh mục – hiện thân của Chúa Kitô, tiếp tục công trình cứu độ của Ngài ở trần gian. Thật là bất hợp lý nếu như TC muốn cho mọi người được ơn cứu độ mà các hiện thân của ĐK ở trần gian lại không làm cho những người mình có trách nhiệm đạt đến cùng đích đó.

Do đó, sự biến đổi của chúng ta để trở lại căn tính đích thực của đời LM phải nằm trong mối tương quan, liên hệ với dân Chúa. Chúng ta biến đổi là vì, cùng, và với dân Chúa. Đây là điều mà toàn thể Giáo Hội đã tuyên bố trong công đồng Vat II: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô” (GP, số 1).

Chúng ta biết khi ĐG biến hình, Chúa Cha đã cất tiếng: “Đây là Con yêu dấu của Ta... Các ngươi hãy vâng nghe lời Người! ”. Giờ đây, tiếng của Chúa Cha cũng đang nhắc nhở chúng ta khi Ngài đang kêu mời chúng ta hãy lắng nghe tiếng nói của những người con yêu dấu của Ngài là nhân loại cách chung và cách riêng là các anh chị em giáo dân mà chúng ta đang phục vụ.

Như thế, trong nỗ lực biến đổi chính mình, chúng ta phải mang lấy chính những tâm tình của anh chị em giáo dân và cùng với họ để biến đổi. Tôi phải biết chiên của tôi đang bị gì, đang sống ra sao và đang cần biến đổi như thế nào. Một khi biết được như thế, cùng với ân sủng của Thiên Chúa, cùng với sự cộng tác của anh chị em giáo dân, bản thân chúng ta phải biến đổi. Sự biến đổi đó không chỉ biến đổi trong con người linh mục, nhưng sự biến đổi còn được thể hiện qua những kế hoạch, hoạt động mục vụ thiết thực cùng với sự cộng tác của anh chị em giáo dân.

Đây mới chính là một lời cầu nguyện, một lời thân thưa rất ý nghĩa: “Chúng con ở đây thật là hay” vì ở đây, chúng con – linh mục, giáo dân, người không cùng đức tin … - đã cùng nhau nỗ lực canh tân, biến đổi và đang tận hưởng vinh quang sáng ngời của ĐK trên núi ngày xưa.

 

  1. Ở lại trên hành trình

Vinh quang đích thực của ĐG được trọn vẹn trong chương trình cứu độ là ở trên đồi Gôn-gô-tha. Vì thế, ĐG đã dẫn các môn đệ thân tín của mình xuống núi để tiếp tục hành trình tiến về Jerusalem. Hành trình biến đổi của chúng ta cũng vậy. Có lẽ, trong những giờ phút ân sủng của cầu nguyện, của Hy Tế Tạ Ơn, của những ngày tĩnh tâm, chúng ta cảm nếm được sự bình an, hạnh phúc khi đối diện với Chúa, và chúng ta có thể cũng sẽ như Phêrô khi nói rằng “ở đây thật là thích. Do vậy, sau những giờ phút thật ý nghĩa, thật quý báu và hứng khởi của những ngày ân sủng đây, mỗi chúng ta phải nỗ lực, phải cố gắng và kiên trì đáp trả mỗi ngày khi chu toàn sứ vụ của mình. Đây mới là một sự ở lại đúng đắn.

Ước chi, trong hành trình phục vụ với vai trò linh mục thừa tác, chúng ta sẽ cùng với anh chị em giáo dân thân thưa với ĐG rằng “Lạy Thầy, chúng con ở đây thật là hay”.

Để kết thúc bài chia sẻ này, chúng ta lại lắng nghe lời của Đức Thánh Cha Phanxico:

“Lời mời gọi của Chúa Cha rất quan trọng. Chúng ta, những người môn đệ của Đức Giêsu, được mời gọi để trở thành người lắng nghe lời nói của Ngài và nhận lấy một cách nghiêm túc những lời dạy của Ngài. Để có thể nghe Giêsu, ta cần phải ở gần Ngài, đi theo Ngài, như đám đông trong Tin Mừng đã đuổi theo Ngài trên các con đường ở Palestin. Đức Giêsu không có một ngai tòa hay một bục giảng cố định, nhưng Ngài là một vị thầy bộ hành, luôn đưa ra những lời dạy bảo, mà Ngài đã nhận được từ Cha, trên các ngả đường, qua những đoạn đường thường chẳng ai biết trước. Hãy đi theo Giêsu để lắng nghe Ngài. Nhưng chúng ta cũng nghe lời Giêsu qua những gì đã được viết ra, trong Tin Mừng.” Giờ đây, chúng ta hãy bước đi trong hành trình Mùa Chay với niềm tin và lòng quảng đại, học được một chút “đi lên” trong cầu nguyện và nghe lời Giêsu và “đi xuống” để rao giảng Giêsu cho người khác với tình bác ái huynh đệ”.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đang ở đây với chúng con, và giờ phút này, Chúa thấy chúng con đang ở đây với Chúa, trước sự hiện diện của Chúa. Đã gần hai ngàn năm, Chúa đã sẵn lòng bước lên Thánh Giá ô nhục để rồi sau đó phục sinh và ở lại mãi với chúng con là những người anh chị em của Chúa. Chúng con chiêm ngắm Chúa. Chúng con thờ lạy Chúa. Chúng con yêu mến Chúa. Xin Chúa ban thêm đức tin và kiện toàn lòng tin cho chúng con, để chúng con luôn luôn xác tín rằng : mỗi khi tham dự bàn tiệc Mình và Máu Chúa là chúng con đón nhận chính Chúa. Hồi tưởng lại trong bữa tiệc Vượt Qua năm xưa, Chúa đã ban mình và máu cho các môn đệ, để ở với họ “mãi mãi, cho đến tận thế” (Mt 8,20). Chúa là nguồn gốc và cùng đích của đời sống đức tin của chúng con, chúng con thờ lạy Chúa. Vì không có Chúa chúng con không có ở đây giờ phút này, không có Chúa chúng con sẽ không hiện hữu, không có Chúa sẽ chẳng có gì, hoàn toàn không có gì. Chúa là Đấng “vạn vật được tạo thành” (Ga 1, 3). Chúa là Đấng, nhờ Chúa mà chúng con được tạo thành. Chúa đã ban cho chúng con chính Mình và Máu Chúa, ở đây giờ phút này, giữa chúng con, cho chúng con được chiêm ngắm Chúa.

Lạy Thiên Chúa Tình Yêu, xin ôm tất cả nhân loại chúng giờ nay đây đang thờ lạy Chúa, trong tình yêu của Chúa. Tình yêu vĩnh cửu mà Chúa Cha dành cho Chúa, cũng như chính Chúa dành cho Chúa Cha, tình yêu của Chúa Cha và Chúa đối với Chúa Thánh Thần, và tình yêu của Chúa Thánh Thần đối với Chúa Cha và Chúa.

 

Bài 2: ĐÓN NHẬN NƯỚC HẰNG SỐNG

*******

 

Tin Mừng (Ga 4:5-42):

Khi ấy, Ðức Giêsu bỏ miền Giuđê mà trở lại miền Galilê. Do đó, Người phải băng qua Samari. Vậy, Người đến một thành xứ Samari, tên là Xykha, gần thửa đất ông Giacóp đã cho con là ông Giuse. Ở đấy, có giếng của ông Giacóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.

Có một người phụ nữ Samari đến lấy nước. Ðức Giêsu nói với người ấy: "Chị cho tôi xin chút nước uống!" Quả thế, các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn. Người phụ nữ Samari liền nói: "Ông là người Dothái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?" Quả thế, người Dothái không được giao thiệp với người Samari. Ðức Giêsu trả lời:

"Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị:"Cho tôi chút nước uống", thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống".

Chị ấy nói: "Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ Giacóp chúng tôi, là người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy".

Ðức Giêsu trả lời:"Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho, sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời".

Người phụ nữ nói với Ðức Giêsu: "Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước". Người bảo chị ấy: "Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây". Người phụ nữ đáp: "Tôi không có chồng". Ðức Giêsu bảo: "Chị nói: 'Tôi không có chồng' là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi, và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng". Người phụ nữ nói với Người: "Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ... Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giêrusalem mới chính là nơi thờ phượng Thiên Chúa". Ðức Giêsu phán:

"Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem. Các người thờ Ðấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Ðấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Dothái. Nhưng giờ đã đến - và chính lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật".

Người phụ nữ thưa: "Tôi biết Ðấng Mêsia, gọi là Ðức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự". Ðức Giêsu nói: "Ðấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây".

Có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Ðức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm. Vậy, khi đến gặp Người, dân Samari xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. Số người tin vì lời Ðức Giêsu nói còn đông hơn nữa. Họ bảo người phụ nữ: "Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Ðấng cứu độ trần gian".

 

  1. Khát nước
  1. Cơn khát sau một hành trình

Tin mừng kể cho chúng ta một hình ảnh rất thật và bình dị của cuộc sống: khát nước. Rất thật và rất bình dị vì trình thuật Tin mừng nói cho chúng ta ĐG cũng là một con người rất bình thường: đi đường dài nên mệt và khát nước. Thật thế, Ðức Giêsu đang trong cuộc hành trình từ miền Giuđê về lại miền Galilê. Với hành trình này, Người phải băng qua Samari. Tin mừng kể tiếp: vào khoảng mười hai giờ trưa khi đến thành Xykha, xứ Samari, gần thửa đất ông Giacóp đã cho con là ông Giuse, ĐG cảm thấy mệt, nên ngồi xuống ngay bờ giếng – cái giếng của ông Giacóp.

Chắc chắn, cái mệt sau một hành trình dài cộng thêm ngồi nghỉ tại một giếng nước trong lành sẽ làm cho cơn khát càng mãnh liệt hơn. Một chén nước lã lúc đó sẽ làm cho lòng người sảng khoái và hạnh phúc biết bao. Và quả thật, ĐG cũng không giấu diếm cơn khát nước của mình – một cơn khát rất bình thường của kiếp người – nên Ngài đã ngỏ lời với một người phụ nữ đang kín nước vào lúc đó, lúc giữa trưa – một thời khắc rất khác biệt với mọi người – “chị cho tôi xin chút nước uống”.

ĐG đã xin người khác với lời nói, thái độ của một người thụ ơn: “chị cho tôi xin chút nước uống”. Lời này càng làm tăng thêm giá trị về sự khiêm hạ của ĐG trong tư cách là một nam nhân ngỏ lời với phụ nữ; càng kinh khủng hơn khi ĐG trong tư cách là đàn ông Dothái với phụ nữ Samari (2 thế giới, 2 dân tộc đối đầu); và trên hết trong tư cách là TC với con người tội lỗi. Vâng, một người Dothái, một người đàn ông, và một TC đang khát nước và đang ngỏ lời với nhân loại. Câu “xin cho tôi chút nước uống” mà ĐG ngỏ với người phụ nữ Samari đã được Ngài nhắc lại trong cơn khát cuối cùng trên thập giá khi Ngài thều thào trong cơn hấp hối: “Ta khát” (Ga 19:28). Tiếng “Ta khát” đó không chỉ nói đến việc cần phải bù đắp nước vì máu và nước đã chảy ra, nhưng nó còn bao hàm sự khao khát thực thi thánh ý của Chúa Cha, hoàn thành công trình mà Chúa Cha trao cho Ngài. Đồng thời, tiếng “Ta khát” còn là một nỗi “khát khao cháy bỏng” sự đáp trả của Giáo Hội, của từng người, của từng linh mục chúng ta, đối với tình yêu của Thiên Chúa.

Bên cạnh đó, câu nói “Ta khát” của ĐG ngày xưa đã và đang là lời kêu thống thiết của biết bao con người, sau một hành trình dài của những lao công vất vả, chịu những khó khăn của cơm áo gạo tiền, áp bức bất công của xã hội, sống trong những môi trường ô nhiễm trầm trọng … Những anh chị em đó đang kêu lên, đang vang lên, đang gào lên thật lớn và đang chờ sự đáp lời của nhân loại hôm nay, cách riêng là của mỗi người chúng ta trong sứ vụ của mình.

Ngoài ra, “Ta khát” còn đang là lời kêu than của chính chúng ta sau những chuỗi ngày của sứ vụ với những kinh nghiệm và mệt mỏi. Chúng ta cảm nhận được rằng mình đang khát khao một cuộc đời trong sứ vụ linh mục thật thánh thiện; khát khao anh chị em giáo dân trong cộng đoàn chúng ta phụ trách đức tin vững mạnh, đời sống bình an và hiệp nhất; khao khát biết được và đáp ứng được những nhu cầu của anh chị em giáo dân; khát khao có được những kế hoạch mục vụ thật hữu ích và thiết thực; khao khát có những giây phút bình lặng trong tâm hồn, trong những khoảnh khắc chỉ mình ta với Thiên Chúa …

Như thế, nơi bờ giếng mà Giacóp ngày xưa, một bờ giếng ân sủng vì nó là nơi đón tiếp TC, nguồn mạch Sự Sống đích thực, chúng ta nhận ra rằng con người mãi còn khát, còn có một sự khát nóng bỏng hơn, đó là một cuộc sống vượt qua bình diện thể lý, một cái khát, một sự khắc khoải mà như thánh Augustino nói là “cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”.

 

  1. Tìm kiếm nước

Khát nước thì phải tìm nước để uống. Điều này rất đỗi bình thường và không có gì là ngạc nhiên. Bài Tin Mừng cũng nói cho chúng ta việc tìm kiếm nước.

Trước tiên, như chúng ta vừa đề cập, ĐG là người tìm nước uống tại nơi Ngài đang nghỉ chân sau một hành trình dài và mệt mỏi – giếng Giacóp. Chắc chắn, Ngài đã thấy, đã biết có một cái giếng có nước và có lẽ Ngài cũng đã loay hoay tìm cái gầu để lấy nước nhưng lại không có. Thôi thì đành phải chịu nhịn khát vậy vì Ngài đâu phải là người đi kín nước mà có vật dụng để lấy nước từ dưới giếng.

Và thật bất ngờ, trong lúc mệt mỏi và khát, không có gì để lấy nước, ĐG gặp được một phụ nữ đến giếng để kín nước.

Người phụ nữ đi ra giếng lấy nước là một việc hết sức thông thường thời bấy giờ. Và có thể, nhà chị đã hết nước nên chị phải đi lấy nước về để sử dụng. Nhưng có một điều đặc biệt, chính ở đây, chúng ta khám phá ra chị không chỉ cần nước uống bình thường như bao người, nhưng chị còn có một cơn khát khác, một cơn khát tận sâu thẳm tâm hồn chị, để rồi chị đã cất lên tiếng “Xin Ngài cho tôi nước ấy”.

Quả vậy, bình thường, các phụ nữ kín nước vào sáng sớm hay buổi chiều để tránh cái nắng khắc nghiệt của thời tiết vùng trung đông. Chúng ta có thể tưởng tượng ra cảnh í ới kêu réo, trò chuyện, tiếng cười nói của các phụ nữ nơi giếng nước đầu làng. Thật vui, thật ồn ào của đời sống của những con người cùng làng, cùng quê. Thế mà, người phụ nữ mà ĐG gặp hôm nay lại đi lấy nước vào đúng ngọ - 12 giờ trưa – thời khắc nắng chói chang, nóng bức nhất, thời điểm không ai muốn ra ngoài. Tại sao?

Phải chăng nhà chị đã hoàn toàn hết nước và khát lắm rồi nên phải đi ra kín nước dù cho ngoài trời nắng nóng cháy da? Hay là vì một lý do nào khác?

Có người cho rằng chị kín nước vào lúc giữa trưa là muốn tránh mặt mọi người trong thành vì có thể mọi người đều biết chị, biết về lịch sử cuộc đời chị. Nếu với lý do này, ta có thể nghĩ rằng người phụ nữ đó đã rất ngỡ ngàng và bối rối biết bao khi một người đàn ông Dothái bắt chuyện với chị và xin chị nước. Như thế, thay vì ra giếng kín nước để thỏa mãn cơn khát thể lý, nhu cầu về nước của cuộc sống thường nhật, giờ đây, cơn khát về tình người, về tình yêu, về sự sống vĩnh cửu bắt đầu dâng cao nơi tâm hồn chị, để rồi từ vai trò người cho, chị chuyển sang vị thế của một người thụ nhận “xin ngài cho tôi nước ấy”. Hóa ra, nước của giếng Giacóp, nguồn nước đã từng nuôi sống biết bao nhiêu con người, bao nhiêu thế hệ vẫn không làm thỏa mãn cơn khát của kiếp nhân sinh và nó vẫn mãi là cái giếng của kẻ khát nước và phải chết. Và ĐG chính là Giếng Nước Hằng Sống mà cơn khát nước thể lý không thể che khuất và làm mất đi căn tính đích thực của Ngài. Giếng nước đó, Sự Sống vĩnh cửu, nguồn nước hằng sống Giêsu đó, bao người đang khao khát, mong mỏi có được, được uống lấy, điển hình chính là người phụ nữ đi kín múc vào lúc 12h trưa trong bài Tin Mừng. Thật thế, chỉ ĐG mới thỏa mãn sự khao khát sâu thẳm của con người, khao khát sự sống, một “sự sống tròn đầy”, một sự sống không còn ghi dấu các nhu cầu cần phải được thỏa mãn mãi, nhưng là một sự sống luôn tuôn trào từ bên trong.

Còn chúng ta, các linh mục thừa tác của ĐG, chúng ta đang tìm cách thỏa mãn cơn khát của chúng ta nơi nguồn nước, nơi cái giếng nào?

Câu trả lời không gì khác hơn phải là giếng Giêsu. Đây là đáp án buộc, một triệt buộc của đời linh mục chúng ta. Mỗi chúng ta phải là người đầu tiên và chịu trách nhiệm chính trong cuộc đời, trong chức linh mục thừa tác, trong sứ vụ khi tìm cách thỏa mãn cơn khát của mình. Nếu chúng ta tìm nơi các giếng không mang tên Giêsu, chắc chắn cơn khát tận trong tâm hồn chúng ta không thể nào hết khát được, nó sẽ mãi còn khát và lại khát hơn; và không khéo những cái giếng lạ đó lại làm chúng ta ngộ độc và đưa đến những hậu quả khó lường.

 

  1. Gặp gỡ
  1. Cùng một cơn khát

Chúng ta có thể nói rằng cuộc gặp gỡ của ĐG và người phụ nữ Samari là một cuộc gặp gỡ đầy ân sủng. Vì lẽ, trong cuộc gặp gỡ đó, TC bộc lộ chính mình cho nhân loại và con người gặp được Thiên Chúa. Quả vậy, nước để uống mà cả ĐG lẫn người phụ nữ Samari đều cần đến, trong cuộc gặp gỡ định mệnh đó, đã không còn là vấn đề chính và thiết yếu nữa, nhưng thay vào đó, cuộc đối thoại đã hướng tới một chủ đề khác, chủ đề Nước Trường Sinh. Chúng ta cùng đọc lại cuộc gặp gỡ bất ngờ của ĐG và người phụ nữ Samari:

Ðức Giêsu nói với người ấy: "Chị cho tôi xin chút nước uống!"

Người phụ nữ Samari liền nói: "Ông là người Dothái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?"

Ðức Giêsu trả lời:"Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị:"Cho tôi chút nước uống", thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống".

Người phụ nữ nói với Ðức Giêsu: "Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước"

Phúc cho cái giếng Giacóp. Suốt bao nhiêu năm, nó đã cung cấp nước uống giúp con người giải khát giờ đây trở thành một phương tiện, một công cụ để hướng con người đến cội nguồn của sự sống, mời gọi người ta hãy khám phá ra cơn khát thực sự trong tâm hồn. Suốt bao năm qua, cái giếng từng chứng kiến bao nhiêu con người cùng khát nước đã đến, uống, kín nước và đi ngang qua nó nhưng chưa bao giờ nó được chứng kiến một cuộc gặp gỡ mang chiều kích cứu độ như thế này.

Trong biết bao cuộc gặp gỡ của cuộc đời mục vụ, bao nhiêu con người đã đi ngang qua cuộc đời của chúng ta, có bao giờ chúng ta nhận ra cơn khát của người khác, cách riêng là của những người chúng ta có trách nhiệm phục vụ?

Câu hỏi này không đơn thuần đòi một đáp án đơn giản là có nhận ra hay không (yes or no). Câu hỏi này bao hàm sự đòi buộc phải hành động, phải sống thực sự như chữ “biết” trong Tin Mừng (VD: câu trả lời của Đức Maria “Tôi không biết đến việc vợ chồng” có nghĩa là không sống đời vợ chồng). Tuy nhiên, có những khi, cơn khát, sự thao thức, mong mỏi thật sự của tha nhân phải được chính chúng ta đi bước trước trong sự thăm hỏi và khơi gợi lên nơi tâm hồn của họ theo gương của ĐG trong bài Tin Mừng. ĐG đã khởi đi từ chính nhu cầu thực tế để đi vào nhu cầu cốt yếu nhất, chính yếu nhất của kiếp nhân sinh. Nỗi khao khát, mong đợi của dân Israel bao lâu nay và cũng là của người phụ nữ, giờ đây, chị đã tìm thấy.

Chúng ta cũng thế. Là những linh mục thừa tác, trong công việc mục vụ, chúng ta phải khám phá ra được, phải nhìn ra được sự khao khát thực sự, nhu cầu thực sự của anh chị em giáo dân, những người chúng ta phục vụ. Để được như thế, chúng ta phải đặt mình trong hoàn cảnh của họ, nói đúng hơn, chúng ta phải cùng sống với họ, từ đó chúng ta mới có thể hy vọng được rằng mình biết họ, biết nhu cầu thực sự của họ. Nếu nói theo ngôn ngữ của ĐTC Phanxico: “mang lấy mùi chiên”, không chỉ mang vào mình những nét đẹp, sự tinh khôi, hiền lành, vui tươi, thành công … của con chiên, nhưng còn phải mang lấy cảm chính cái đói, cái khát, cái lạnh, cái mùi ẩm mốc, cái hôi, bệnh tật, ghẻ chốc, sự đau khổ … của con chiên nữa.

Trong bài giảng ngày lễ truyền dầu 2015, ĐTC Phanxico đã nhắn nhủ với các linh mục như sau: “Nhiệm vụ Chúa Giêsu đề cập đến luôn đòi hỏi khả năng thể hiện lòng từ bi; con tim của chúng ta phải “bồi hồi” và chúng ta phải dấn thân trọn vẹn trong việc thi hành các công việc này. Chúng ta vui mừng với những cặp vợ chồng mới kết hôn; chúng ta cùng cười với những trẻ em được mang đến giếng rửa tội; chúng ta đồng hành với những cặp đính hôn và những gia đình trẻ; chúng ta cùng chịu đau khổ với những ai được xức dầu trên giường bệnh; chúng ta phải cùng than khóc với những người vừa chôn cất một người thân yêu ... Tất cả những cảm xúc này có thể làm kiệt sức con tim của một mục tử. Đối với chúng ta các linh mục, những gì xảy ra trong cuộc sống của người dân không giống như một bản tin: chúng ta biết dân chúng ta, chúng ta cảm nhận được những gì đang diễn ra trong trái tim của họ. Trái tim của riêng mỗi người chúng ta, chia sẻ sự đau khổ của họ, cảm thấy được “lòng trắc ẩn”, bị kiệt sức, vỡ ra ngàn mảnh, xúc động và thậm chí bị “tiêu thụ” bởi người dân. Hãy cầm lấy mà ăn ... Đây là những lời của mà vị linh mục của Chúa Giêsu thì thầm lặp đi lặp lại trong khi chăm sóc cho dân Ngài: Cầm lấy mà ăn; cầm lấy mà uống ... Bằng cách này đời sống linh mục của chúng ta được trao ban cho sự phục vụ, trong sự gần gũi với dân Chúa”.

Như vậy, thật hạnh phúc cho chúng ta nếu chúng ta cùng mang trong mình những “cơn khát” của dân Chúa. Chỉ khi nào chúng ta cùng khát với dân Chúa, chúng ta mới thực sự là những người xuất phát từ dân Thánh, đại diện cho dân Thánh trong tư cách là linh mục thừa tác của Chúa Giêsu. Nếu chúng ta không có cùng một cơn khát với dân Thánh, chúng ta đã tự tách lìa bản thân ra khỏi Thân Thể Chúa Kitô, chúng ta đã tự cho mình là chúa, là người ban phát, người thi ân … chúng ta không còn là những người “đến để phục vụ” (Mc 10:45), “đến để cho con người được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10).

 

 

  1. Khám phá ra Nước Hằng Sống (TC trong các cuộc gặp gỡ; TC nơi anh chị em … đang làm giảm cơn khát của LM)

Khi đã cùng một cơn khát với dân Chúa, cùng chia sẻ tất cả niềm vui nỗi buồn, thành công thất bại, “khi đau yếu cũng như lúc mạnh khỏe, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan” của những người chúng ta có trách nhiệm phục vụ, chúng ta phải đi đến một bước kế tiếp là khám phá ra Nước Hằng Sống như người phụ nữ Samari. Từng bước một trong cuộc trao đổi với ĐG, cùng với lời khẳng định của Ngài, chị đã khám phá ra nguồn Nước Sự Sống. Khi đã khám phá ra Đấng mà muôn dân trông đợi, Đấng là Nước Hằng Sống, chị đã không dành riêng cho mình, giữ khư khư cho bản thân, nhưng chị đã chạy vào thành để chia sẻ với mọi người, bỏ qua sự ngại ngùng, xấu hổ về bản thân khi đối diện với mọi người về cuộc đời chị.

Thật vậy, cùng với dân Chúa, chúng ta phải khám phá ra sự hiện diện của TC trong các biến cố của cuộc đời. Bằng không, cuộc đời của chúng ta sẽ mãi còn khát, khát hoài. Có thể chúng ta sẽ nói rằng điều này bình thường quá, chúng tôi vẫn ý thức sự hiện diện của TC trong cuộc đời mình. Tuy nhiên, với quyết tâm sống tinh thần mùa Chay cùng với dân Chúa, chúng ta hãy cùng nhau khiêm tốn để nhìn lại, để cùng khám phá lại sự hiện diện của Thiên Chúa, tái khám phá Nước Hằng Sống vẫn đang chảy không ngừng trong cuộc đời, một cuộc đời được gắn kết mật thiết, trở nên một với dân Chúa.

Ở đây, tôi xin được giới hạn việc khám phá ra Nước Hằng Sống trong ba khía cạnh: các cuộc gặp gỡ, anh chị em giáo dân, và các tác vụ thánh.

Thứ nhất là khám phá ra Chúa hiện diện trong các cuộc gặp gỡ.

Có thể nói, gặp gỡ gần như là yếu tính của nhân loại. Bởi lẽ, bất cứ ai trong thân phận phàm nhân đều phải sống chung, sống cùng và sống với người khác; không ai có thể tách biệt và sống không cần người khác. Cho nên, con người phải gặp gỡ nhau với từng mức độ khác biệt.

Kinh nghiệm cho thấy, chúng ta có thể nói chuyện, tán gẫu trực diện với một số người hàng giờ, hay chát chít trên mạng xã hội suốt ngày … với những thái độ khác biệt. Có những cuộc nói chuyện thân tình, chân thành, chia sẻ chính bản thân, moi hết ruột gan để tâm sự với nhau; nhưng cũng có những cuộc gặp gỡ, bên ngoài có thể rất vui, rất hoành tráng, lại là những cuộc gặp gỡ hời hợt, xã giao, hình thức bên ngoài hay tệ hơn mang tính cách lợi dụng, huênh hoang, phô trương... Do đó, chúng ta luôn mong mỏi tất cả những cuộc gặp gỡ trong cuộc đời mình là những cuộc gặp gỡ có chiều sâu, thân tình, làm cho nhau phong phú hơn nhờ việc biết, chia sẻ cho nhau, và những cuộc gặp gỡ đó có thể làm cho người ta biến đổi.

Những cuộc gặp gỡ như thế chỉ có thể có được khi có sự hiện diện của ĐG. Thật thế, ĐG khẳng định “ở đâu hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở giữa họ” (Mt18:20). Như vậy, các cuộc gặp gỡ phải là những cuộc gặp gỡ nhân danh ĐG – nhân danh Tình Yêu và Ơn Cứu Độ cho người khác. Không nhân danh ĐG, các cuộc gặp gỡ đó không là những cuộc gặp gỡ đích thực. Cũng vậy, không chỉ là những cuộc gặp gỡ nhân danh ĐG, chúng phải có sự hiện diện của ĐG. Đây là điều chúng ta phải thực hiện. Nếu không, những cuộc gặp gỡ không thể có sức biến đổi và làm cho mọi người trong cuộc gặp gỡ đó được “biết” nhau hơn, gắn bó với nhau hơn, cũng như bản thân được phong phú hơn trong ân sủng của Thiên Chúa.

Điều này, vào chính lúc này đây, đang tra vấn mỗi anh em linh mục chúng ta về các cuộc gặp gỡ mình đã thực hiện trong cuộc đời phục vụ. Chúng ta phải lưu ý, tôi đang nhấn mạnh đến các cuộc gặp gỡ trong cuộc đời phục vụ. Điều này có nghĩa, mỗi anh em linh mục chúng ta có khám phá ra sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu trong những cuộc gặp gỡ của mình với anh chị em giáo dân? Chúng ta có nhận ra được trong các cuộc gặp gỡ đó, chính ĐG là người quy tụ và điều khiển chúng ta cũng như những người chúng ta phục vụ? Khi chúng ta nhận ra chính ĐG hiện diện và điều khiển các cuộc gặp gỡ, chúng ta mới có thể nói rằng ‘tôi cùng với anh chị em giáo dân’ nhận ra thánh ý Chúa và đang thực thi ý muốn của Ngài trong chính ơn gọi và địa vị riêng của mỗi người. Nói ngược lại, nếu chúng ta tự tin rằng chính chúng ta là người quy tụ và điều khiển các cuộc gặp gỡ trong trách nhiệm mục vụ, thì thật bất hạnh cho chúng ta; vì chính khi đó, chúng ta chưa khám phá ra sự hiện diện của TC, của ĐG; và chắc chắn, cơn khát của chúng ta sẽ vẫn âm ĩ làm chúng ta (LM và giáo dân) đều khó chịu, mệt mỏi vì chưa tìm ra được Nước Hằng Sống.

Thứ hai là khám phá ra Chúa hiện diện trong anh chị em. Đây là khía cạnh cụ thể hơn, chi tiết hơn trong các cuộc gặp gỡ. Phương diện này muốn nhắc nhở chúng ta rằng tha nhân cũng có thể ẩn chứa Nước Hằng Sống, nguồn nước giúp các linh mục chúng ta giải tỏa cơn khát mục vụ.

Thật vậy, chúng ta luôn xác tín rằng con người là hình ảnh của Thiên Chúa (x. St 1:27). Hình ảnh ở đây không phải là một bức chân dung chết, nhưng là một thực thể sống động, họa lại dung mạo của Đấng đã tạo dựng nên mình bằng việc cộng tác với Ngài trong công trình sáng tạo: “được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, con người đã nhận mệnh lệnh chinh phục trái đất cùng tất cả những gì chứa đựng trong đó, cai quản vũ trụ trong công bình và thánh thiện và khi nhìn nhận Thiên Chúa là Ðấng tạo dựng mọi loài, họ qui hướng về Người chính bản thân mình cũng như muôn vật: như thế, khi con người chinh phục tất cả thì danh Chúa được tôn vinh khắp địa cầu” (Gaudium et Spes, 34). Do đó, linh mục chúng ta phải luôn nhớ rằng bất cứ một người nào đều là hình ảnh của Thiên Chúa, đều có sứ mạng giải nhiệt cho cơn khát của nhân loại (trong đó có từng linh mục chúng ta).

Rõ hơn và rộng hơn, người giáo dân không chỉ là người thợ trong vườn nho, nhưng đích xác hơn, đúng hơn, họ là chi thể, là tế bào của cây nho (x. Christifideles Laici- Kitô hữu giáo dân, số 8); và “Đức Piô thứ XII đã quả quyết: ‘Các tín hữu nói một cách rộng hơn, là các giáo dân là kẻ đứng ở mặt trận tiền phong trong đời sống của Giáo Hội. Nhờ họ, Giáo Hội trở nên nguyên lý sự sống cho xã hội loài người. Vì thế, chính họ phải ý thức ngày càng rõ rệt là họ không những thuộc về Giáo Hội mà là Giáo Hội’” (Christifideles Laici- Kitô hữu giáo dân, số 9); nếu xét trên phương diện Kitô học, họ là chi thể của Chúa Kitô, và dĩ nhiên họ ẩn chứa Nước Hằng Sống.

Như vậy, anh em linh mục chúng ta cần phải nhớ và ý thức rằng trong tư cách là những người lãnh đạo, đứng đầu cộng đoàn, những công việc mục vụ nhiều khi làm cho chúng ta ảo tưởng chúng ta là những người chiếm vị trí số 1 trong đời sống của Giáo Hội, chỉ chúng ta mới là hiện thân của Đức Kitô. Đúng ra, chúng ta là những người được kêu gọi và cất nhắc lên từ giữa lòng dân Chúa để phục vụ dân Chúa trên phương diện thừa tác để mục vụ bí tích, hướng dẫn thiêng liêng… Chúng ta cũng chỉ là một phần tử trong Dân Thánh. Những người đang chiến đấu, đang sống thực thi và làm chứng cho giá trị Tin Mừng và giáo huấn của Đức Giêsu qua Giáo Hội là anh chị em giáo dân. Những hình ảnh của Thiên Chúa, của ĐK, đang từng ngày, từng giờ, từng phút phải chiến đấu trong cuộc chiến thiêng liêng để sống đúng giá trị Tin Mừng giữa cuộc đời đầy thử thách và cạm bẫy. Linh mục chúng ta chưa phải chiến đấu cực khổ như các anh chị em giáo dân, những người mà nhiều khi chưa được chúng ta đón nhận và tôn trọng cho đủ, vì chúng ta chưa nhận ra anh chị em giáo dân cũng là hình ảnh của Thiên Chúa. Và dĩ nhiên, khi tự ảo tưởng về chính mình, không nhìn nhận người khác là hình ảnh của TC, chúng ta sẽ không thể khám phá ra nguồn Nước Hằng Sống đang ẩn chứa nơi anh chị em, chúng ta sẽ vẫn còn khát, còn khắc khoải, còn mệt.

Thứ ba là khám phá ra Chúa hiện diện trong chính các tác vụ thánh mà linh mục cử hành. Đây là phương diện gặp gỡ thiêng liêng giữa bản thân linh mục với TC, với ĐG trong các tác vụ thánh.

Trong ngày lãnh nhận thừa tác vụ linh mục, chúng ta được ĐGM chủ phong nhắc nhở: “Các con cũng phải thi hành nhiệm vụ thánh hóa trong Đức Kitô. Vì chưng, thừa tác vụ các con sẽ giúp hoàn thành lễ tế thiêng liêng của tín hữu, hiệp cùng lễ tế của Đức Kitô và tay các con dâng tiến khi cử hành lễ tế không đổ máu trên bàn thờ. […] Khi Rửa tội quy tụ người ta vào dân Thiên Chúa, khi nhân danh Đức Kitô và Hội Thánh ban phép Giải tội, khi Xức dầu thánh nâng đỡ bệnh nhân, khi cử hành các nghi lễ thánh, khi dâng lời ca ngợi tạ ơn và cầu nguyện trong Các Giờ Kinh Phụng Vụ, không những thay cho dân Thiên Chúa mà còn thay cho toàn thế giới: những khi ấy, các con hãy nhớ mình được tuyển chọn giữa loài người và được nhắc lên thay thế họ để lo những việc thuộc về Thiên Chúa. Vậy, các con hãy luôn luôn vui vẻ chu toàn nhiệm vụ của Đức Kitô Thượng Tế trong đức mến chân thật, khộng tìm kiếm những gì thuộc về mình, nhưng tìm kiếm những gì thuộc về Đức Giêsu Kitô.”

Chúng ta cần nhớ  rằng tất cả mọi cử hành trong sứ vụ của chúng ta là của ĐK: “ các con hãy luôn luôn vui vẻ chu toàn nhiệm vụ của Đức Kitô Thượng Tế trong đức mến chân thật, khộng tìm kiếm những gì thuộc về mình, nhưng tìm kiếm những gì thuộc về Đức Giêsu Kitô”. Chúng ta chỉ là những người được tuyển chọn để thi hành. Do đó, trong mỗi cử hành, chúng ta có khám phá ra chính ĐGK đang cử hành ngang qua con người yếu đuối của mình không? Hay chúng ta đang cử hành như một cái máy với những công thức khô cứng và nhàm chán? Nếu ý thức được, chúng ta sẽ được đắm mình trong nguồn mạch Nước Sự Sống và không còn khát; và ngược lại, các cử hành trong tác vụ linh mục chỉ là những vận hành có quy luật và sự vận hành đó cuối cùng sẽ bị đứt đoạn và có thể sẽ chết dần chết mòn vì không có được nguồn năng lượng duy trì và bảo dưỡng.

 

Anh em linh mục rất quý mến,

Thừa tác vụ linh mục sẽ không làm cho chúng ta hết cơn khát trong sứ mạng phục vụ và trong chính cuộc sống thường ngày nếu chúng ta không khám phá ra Nước Hằng Sống, không khám phá ra TC, khám phá ra ĐG vẫn đang hiện diện sống động nơi mỗi người chúng ta gặp gỡ, trong các biến cố chúng ta gặp phải, hay trong các cử hành phụng vụ mà chúng ta thực thi. Không dừng ở đó, chúng ta cũng sẽ không thể nào hết khát khi cơn khát của tha nhân chưa được thỏa mãn. Bởi lẽ, cơn khát của chúng ta phải được đan kết và trở nên một với tha nhân. Khi nào tha nhân hết khát, chúng ta cũng sẽ hết khát. Và, thật không may cho chúng ta, cơn khát của tha nhân không bao giờ có thể được gọi là hết khát, và vì thế chúng ta sẽ còn khát mãi, khát hoài. Nhưng anh em thân mến, đó lại là một sự chúc phúc cho chúng ta và tha nhân. Khi chúng ta vẫn chưa thỏa cơn khát Giêsu, chúng ta (LM và giáo dân) sẽ không ngừngcùng nhau nỗ lực tìm kiếm, khám phá Nước Hằng Sống. Đây chính là lối thiêng, con đường nên thánh dành cho tất cả chúng ta.

 

Bài 3: ĐƯỢC ÁNH SÁNG SOI CHIẾU

*********

 

Tin mừng (Ga 9:1-41):

“Ði ngang qua, Ðức Giêsu nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. Các môn đệ hỏi Người: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?" Ðức Giêsu trả lời: "Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. Chúng ta phải làm những việc của Ðấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian".

Nói xong, Ðức Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: "Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa (Silôác có nghĩa là: người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được. Các người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói: "Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?" Có người nói: "Chính hắn đó!" Kẻ khác lại nói rằng: "Không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi!" Còn anh ta thì quả quyết: "Chính tôi đây!" Người ta liền hỏi anh: "Vậy, làm sao mắt anh lại mở ra được như thế?" Anh ta trả lời: "Người tên là Giêsu đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: 'Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa'. Tôi đã đi, và sau khi rửa tôi nhìn thấy được.” Họ lại hỏi anh: "Ông ấy đâu ?" Anh ta đáp: "Tôi không biết".

Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pharisêu. Nhưng ngày Ðức Giêsu trộn chút bùn và làm mắt anh mở ra lại là ngày sabát. Vậy, các người Pharisêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Anh trả lời: "Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy". Trong nhóm Pharisêu, người thì nói: "Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sabát"; kẻ thì bảo: "Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?" Thế là họ đâm ra chia rẽ. Họ lại hỏi người mù: "Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?" Anh đáp: "Người là một vị ngôn sứ!"

Người Dothái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến. Họ hỏi: "Anh này có phải là con ông bà không? Ông bà nói là anh bị mù từ khi mới sinh, vậy sao bây giờ anh lại nhìn thấy được?" Cha mẹ anh đáp: "Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh. Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông cứ hỏi nó; nó đã lớn khôn rồi, tự nó nói về mình được." Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Dothái. Thật vậy, người Dothái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Ðức Giêsu là Ðấng Kitô. Vì thế, cha mẹ anh mới nói: "Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó".

Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: "Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi". Anh ta đáp: "Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: Trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!" Họ mới nói với anh: "Ông ấy đã làm gì cho anh? Ông ấy đã mở mắt cho anh thế nào?" Anh trả lời: "Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông vẫn không chịu nghe. Tại sao các ông còn muốn nghe lại chuyện đó nữa? Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng?" Họ liền mắng nhiếc anh: "Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Môsê. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Môsê; nhưng chúng ta không biết ông ấy ở đâu mà đến". Anh đáp: "Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt cho tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì". Họ đối lại: "Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?" Rồi họ trục xuất anh.

Ðức Giêsu nghe nói họ đã trục xuất anh, và khi gặp lại anh, Người hỏi: "Anh có tin vào Con Người không?" Anh đáp: "Thưa Ngài, Ðấng ấy là ai để tôi tin?" Ðức Giêsu trả lời: "Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây". Anh nói: "Thưa Ngài, tôi tin". Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người.

Ðức Giêsu nói: "Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!"

Những người Pharisêu đang đứng ở đó với Ðức Giêsu nghe vậy, liền lên tiếng: "Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?"

Ðức Giêsu bảo họ: "Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: 'Chúng tôi thấy', nên tội các ông vẫn còn!"

Sau khi ý thức cần phải biến đổi trong bài một, được mời gọi hãy để cho Nước Hằng Sống tăng sức cho chúng ta trong nỗ lực biến đổi ở bài hai, bài thứ ba này mời gọi chúng ta hãy để cho Ánh Sáng tác động chúng ta trong hành trình biến đổi.

 

  1. Làm việc trong Ánh Sáng
  1. Làm việc khi trời còn sáng

Khởi đầu cho phần suy niệm này, chúng ta nhắc lại lời của ĐG: “Làm việc khi trời còn sáng”.

Đây là lời khẳng định. Và không chỉ dừng lại là một lời khẳng định, đó còn là một lời đòi buộc của ĐG dành cho những ai đang nghe Người trong bài TM, cũng như dành cho mỗi chúng ta ngay lúc này đây là phải “làm việc khi trời còn sáng” vì tầm quan trọng của ánh sáng.

Ở đây, chúng ta để ý đến hai điều: “làm việc” và “ánh sáng”.

Trước tiên là ánh sáng.

Xét trên phương diện tự nhiên, ta phải thừa nhận rằng ánh sáng là một điều không thể thiếu trong cuộc sống. Cụ thể, trang web Sức khỏe đời sống trình bày cho chúng ta rất nhiều ích lợi của ánh sáng đối với đời sống con người: “Không có ánh sáng, con người không thể nhìn được mọi vật xung quanh mình, cây cối không thể quang hợp và sự sống không thể tồn tại. Đó là qui luật tất yếu trong tự nhiên. Đối với con người, ánh sáng mặt trời chính là dấu hiệu của sự sống bắt đầu. Khi tiếp xúc với ánh sáng, cơ thể chúng ta tự tổng hợp nên vitamin D có tác động đến quá trình hình thành và phát triển xương của cơ thể. Ngoài ra, ánh sáng còn có nhiều tác động khác đặc biệt tới tâm trạng và sức khoẻ hệ thần kinh và một số cơ quan của con người đặc biệt là mắt và da. Khi mức độ, cường độ và màu sắc ánh sáng phù hợp, chúng có thể tác động đến cảm xúc và tâm trạng rất mạnh mẽ.”[1]

Xét trên chiều kích thiêng liêng và đức tin, “ánh sáng” là một tất yếu gắn kết với vận mạng của mỗi người chúng ta. Thật vậy, hạn từ “ánh sáng” trong lời của ĐG không chỉ là ánh sáng tự nhiên của vòng thời gian thay đổi hết ngày lại đêm, nhưng đúng hơn, chính xác hơn, ánh sáng mà ĐG nói đến là chính Người: Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian (Ga 9:5). Đây là lời tuyên bố rõ ràng của ĐG về phương diện ánh sáng của thế gian. Ta có thể gặp thấy những đoạn khẳng định giống như thế ở một vài chỗ khác như: “Chính Tôi là ánh sáng của thế gian. Ai theo Tôi, chắc chắn sẽ không bước đi trong bóng tối, nhưng sẽ có ánh sáng của sự sống” (Ga 8:12) hay “Tôi là ánh sáng đến trong thế gian, để bất cứ ai tin vào Tôi thì không ở lại trong bóng tối” (Ga 12:46).

Như thế, nếu không có ánh sáng Giêsu trong cuộc đời, chúng ta sẽ là những con người bệnh hoạn, èo uột, lây lất … và vận mạng của chúng ta sẽ là hư không, tối tăm và là sự chết.

Kế đến là hạn từ “làm việc”.  Hạn từ này được ĐG giải thích rất rõ cho chúng ta trong lời của Người: Chúng ta phải làm những việc của Ðấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được (Ga 9:4). Rõ ràng, những việc chúng ta phải làm là những việc được Chúa Cha sai phái, tuyệt đối không phải là những việc theo ý thích riêng của bản thân.

Vậy, trong tư cách là những tông đồ của ĐG, được Thiên Chúa sai đi, tất cả mọi việc làm, mọi trách vụ và cả từng cung cách hành xử, lời nói, ánh mắt … và thậm chí là nghỉ ngơi, giải trí, không còn là những hành vi thông thường và tưởng chừng vô thưởng vô phạt trong đời sống hằng ngày nhưng tất cả những điều đó phải cho thấy từng anh em linh mục chúng ta đang thực thi những việc mà Thiên Chúa muốn chúng ta làm trong ánh sáng thật là ĐG.

Hay nói khác hơn, mỗi anh em chúng ta phải trở nên như ĐG khi luôn dám khẳng định rằng: “bao lâu còn ở thế gian, Ta là Sự Sáng thế gian”.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã khởi đầu bài chia sẻ về bài Tin Mừng này như sau:

Bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta câu chuyện một người đàn ông bị mù từ thuở mới sinh, và được Đức Giêsu chữa cho sáng mắt. Câu chuyện dài này kể về việc người mù thì được sáng mắt, còn những ai tự phụ là sáng mắt thì bị đóng lại và càng mù tối trong tâm hồn hơn. Phép lạ chỉ được Thánh Gioan trình bày trong hai câu mà thôi vì vị Thánh Sử này không muốn lôi kéo sự chú ý đến bản thân phép lạ, nhưng là muốn chú ý đến những gì diễn ra sau đó, trên cuộc thảo luận nổ ra.

Sau đó, Đức Thánh Cha nói đến một thói quen không tốt của con người hôm nay:

Rất nhiều khi những việc làm tốt, những việc bác ái lại gây ra những cuộc đàm tiếu, những bàn luận bởi vì có một số người không muốn nhìn thấy sự thật. Và Thánh Sử Gioan muốn lôi kéo sự chú ý đến điều vẫn còn đang diễn ra giữa chúng ta ngày nay, khi có một điều tốt được thực thi. Người mù được chữa lành bị chất vấn trước hết bởi đám đông đang ngạc nhiên – họ thấy phép lạ và họ chất vấn anh ta; sau đó là đến lượt Giới Luật Sĩ. Những người này còn chất vấn cả bố mẹ anh ta. Cuối cùng, người mù được chữa lành này đã đến được với đức tin, và đây là ơn lớn nhất mà Đức Giêsu đã làm cho anh ta: không chỉ nhìn thấy mà còn biết Người, thấy Người, Đấng là “ánh sáng của thế giới” (Ga 9,5)

Trong khi người mù dần dần có được ánh sáng, thì ngược lại, những tiến sĩ luật vẫn cứ chìm sâu trong sự tối tăm nội tâm. Họ đóng kín định kiến của mình, tin chắc rằng mình đã có được ánh sáng; vì thế, họ không mở ra cho chân lý của Đức Giêsu. Họ làm đủ mọi cách để chối bỏ những điều hiển nhiên. Họ nghi ngờ về căn tính của người được chữa lành; rồi chối bỏ cả hành vi của Thiên Chúa trong việc chữa lành, với lý do là Thiên Chúa không chữa lành trong ngày Sabat; họ thậm chí còn nghi ngờ việc người này có thực sự bị mù từ thuở mới sinh không. Sự đóng kín của họ trước ánh sáng đã khiến họ trở nên nổi nóng và dẫn tới việc muốn trục xuất người đàn ông được chữa lành này ra khỏi đền thờ. Trục xuất ra khỏi đền thờ …”

Sau đó, Đức Thánh Cha phân tích con đường người mù này được dẫn đến chỗ nhận biết và tin vào Đức Giêsu. Ngài chia sẻ:

“Con đường của người mù lại là một cuộc hành trình từng bước một, bắt đầu từ việc biết đến tên Giêsu. Anh ta không biết gì hơn về Ngài, anh ta nói: “Một người đàn ông tên là Giêsu đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi” (c.11). Trả lời câu hỏi của các tiến sĩ luật, anh ta cho rằng Ngài là một ngôn sứ (c 17) và rồi là một người kề cận Thiên Chúa (c 31). Sau khi anh ta ra khỏi đền thờ, bị trục xuất khỏi xã hội, Giêsu đi tìm anh ta lần nữa và “mở mắt cho anh” lần thứ hai, mặc khải cho anh biết căn tính đích thực của Ngài: “Tôi là Đấng Mesia”. Lúc này, người mù thưa rằng: “Lạy Chúa, con tin” (c 38) và anh ta cúi xuống trước mặt Giêsu. Nhưng, đây là một đoạn Tin Mừng cho chúng ta thấy thảm kịch của cái mù nội tâm của rất nhiều người, và của các chúng ta nữa, vì chúng ta, đôi khi, cũng có những lúc bị mù nội tâm.”

Dựa trên những gì đã phân tích, Đức Thánh Cha dẫn dắt các khách hành hương đến chỗ phản tỉnh lại cuộc sống của mình, có khi mình là người mù, nhưng có khi mình cũng là những tiến sĩ luật như Tin Mừng nói đến. Ngài chia sẻ rằng:

“Cuộc sống của chúng ta đôi khi cũng giống như người mù được cho sáng mắt, được mở ra với Thiên Chúa, với ân sủng. Nhưng tiếc thay, thỉnh thoảng, chúng ta cũng giống như các tiến sĩ luật: đứng trên sự tự phụ của mình mà đánh giá người khác, thậm chí phán xét cả Thiên Chúa! Hôm nay, chúng ta được mời gọi để mở ra cho ánh sáng của Đức Kitô để mang đến hoa trái trong đời sống của chúng ta, để bỏ đi những lối hành xử không mang tính Kitô hữu: tất cả chúng ta là những Kitô hữu, tất cả chúng ta, đôi khi chúng ta hành xử không phải là Kitô hữu, nhưng hành xử như những tội nhân. Và chúng ta phải hoán cải về điều này và bỏ đi những lối hành xử sai lạc đó để bước đi cách dứt khoát trên con đường nên thánh, vốn bắt nguồn từ Bí tích Thanh Tẩy, và nơi Bí tích này, tất cả chúng ta được chiếu sáng để, giống như thánh Phaolo nhắc nhở chúng ta, chúng ta có thể hành xử như “những người con của ánh sáng” (Ef 5,8) với sự khiêm nhường, nhẫn nại và lòng thương xót. Những tiến sĩ luật này không khiêm nhường cũng không nhẫn nại, và không thương xót.”

Đến đây, ngài mời gọi mọi người một hành vi cụ thể:

“Ngày hôm nay, cha xin đề nghị với các bạn là khi các bạn về nhà, cầm lấy cuốn Tin Mừng và đọc chương 9 của Tin Mừng Gioan này nhé. Nó sẽ giúp ích cho các bạn, vì các bạn sẽ thấy con đường từ chỗ tăm tối đến ánh sáng và con đường tồi tệ khác đi đến chỗ tăm tối hơn. Và rồi hãy tự hỏi mình: con tim của tôi như thế nào? Tôi có một con tim mở ra hay đóng kín? Mở ra hay đóng kín với Thiên Chúa? Mở ra hay đóng kín với tha nhân? Chúng ta luôn luôn có trong mình một chút đóng kín nào đó do tội lỗi sinh ra, do những sai phạm hay lỗi lầm của ta sinh ta: đừng sợ, đừng sợ”. Chúng ta hãy mở ta với ánh sáng của Thiên Chúa: Người luôn đợi chờ chúng ta, để giúp chúng ta thấy rõ hơn, để ban cho chúng ta nhiều ánh sáng hơn và tha thứ cho chúng ta. Đừng quên điều này: Người luôn chờ đợi chúng ta.”

 

  1. Bao lâu còn ở thế gian, Ta là Sự Sáng thế gian

Với sứ vụ cao cả và thiêng liêng của tác vụ linh mục, chúng ta được ĐG mời gọi trở nên thánh, được Giáo Hội không ngừng nhắc nhở trở nên những mục tử nhiệt thành, được anh chị em giáo dân kỳ vọng sẽ là những người đứng đầu cộng đoàn khôn ngoan và đạo đức. Nói khác đi, anh em linh mục chúng ta phải thật sự trở nên ánh sáng cho trần gian trong ơn gọi và sứ  mạng của thừa tác vụ thánh.

Khi nói đến ánh sáng và phải chiếu giãi cho thế gian, tôi chợt liên tưởng đến những con người nổi tiếng. Những người nổi tiếng đó có thể là các chính trị gia xuất chúng, những nhà tài phiệt, những chuyên gia khoa học, các ca sĩ, diễn viên, cầu thủ … Tại sao tôi lại đề cập đến người nổi tiếng? Xin thưa, nếu ngày hôm nay chúng ta liên tục truy cập mạng, update liên tục các thông tin (đặc biệt là các mạng xã hội như Facebook, twitter, zalo …) chúng ta sẽ thấy rất nhiều thông tin về những người nổi tiếng. Nhất cử nhất động của những con người đó đều được săn lùng, đều được nói đến. Không chỉ thế, những phong cách cá nhân của họ như là lối hành xử, ăn mặc, lời nói, trang điểm … luôn là những khuôn mẫu, những gợi hứng, mời gọi các fan hâm mộ của mình noi theo, tạo nên những trào lưu của con người, cách riêng là người trẻ hiện nay. Bên cạnh đó, ngược lại với những fan hâm mộ, những con người nổi tiếng đó cũng có những anti-fan (những người không thích). Nếu như tất cả những lời nói, lối hành xử, cách thế ăn mặc, những câu bông đùa … của họ được fan yêu thích (nhấn cả ngàn, cả triệu like), các anti-fan thì ngược lại. Anti-fan sẽ dựa vào tất cả những điều đó để mà phản bác, để bôi nhọ, hạ bệ (và những lời phản bác, bôi nhọ này đôi lúc cũng được nhiều người ủng hộ, cũng câu được không ít like như các fan hâm mộ).

Nghĩ đi nghĩ lại về điều này, tôi chợt có một sự so sánh. Có lẽ, khi so sánh với những con người nổi tiếng đó, chúng ta – những người theo Chúa – cũng là những con người nổi tiếng. Chúng ta cũng là những con người được đưa lên cao, là sao tỏa sáng trước mắt mọi người, là những con người được yêu mến, được hâm mộ, được bắt chước, cũng như được dõi theo một cách sát sao.

Nổi tiếng sao không khi bản thân là người được Thiên Chúa, qua Giáo Hội, tuyển chọn để trở nên người lãnh đạo trong chức vụ giám mục, linh mục. Quý trọng sao không khi sự xuất hiện của chúng ta luôn được đánh giá là sự chúc lành của Thiên Chúa, là niềm vinh dự, là hạnh phúc cho mọi người. Chúng ta có tầm ảnh hưởng không nhỏ khi những lời nói và cung cách ứng xử của chúng ta nhiều khi trở nên một khuôn mẫu, một tấm gương để cho người khác noi theo (dẫu thực sự chúng ta vô cùng tầm thường, kém cỏi, hay có thể là bất tài và vô dụng nếu như so với những người khác).

Dù có những người hâm mộ, trở nên gương mẫu cho người khác, chúng ta cũng không tránh khỏi việc có những anti-fan trong cuộc đời linh mục vì nhiều lý do. Tuy nhiên, thay vì đổ cho hoàn cảnh, cho người khác, ở đây, tôi mời gọi mỗi anh em chúng ta hãy nhìn lại chính bản thân để một lần nữa tái khám phá những thiếu sót, những kém cỏi, những điều chưa phù hợp trong sứ vụ linh mục đã nhiều lần làm chúng ta thay vì trở nên tấm gương để người khác noi theo, bắt chước, chúng ta lại trở nên những cớ vấp phạm cho mọi người chung quanh và không còn là ánh sáng cho trần gian.

Hy vọng, lời của ĐG “bao lâu còn ở trần gian, Ta là ánh sáng cho trần gian” sẽ là tuyên ngôn của mỗi người chúng ta trong khi phục vụ cộng đoàn và ánh sáng của chúng ta không ngừng chiếu giãi Ánh Sáng đích thực là ĐK.

 

  1. Ánh sáng không bị giới hạn

Ánh sáng thật, ánh sáng Giêsu đã, đang và sẽ mãi chiếu tỏa và đi vào từng ngóc ngách của trần gian, của tâm hồn con người để sưởi ấm và dẫn đường. Ánh sáng đó không bị giới hạn bởi bất cứ một định chế, luật lệ hay một ý thức hệ hay cá nhân nào.

Trong bài TM chúng ta đang đề cập, chúng ta thấy ĐG đã vượt lên trên những luật lệ, định chế, truyền thống của người Do Thái. Cha Vũ Phan Long, OFM. trong bài chú giải về đoạn TM này đã nêu cho chúng ta những “sai phạm” của ĐG về việc không giữ luật ngày Sabbath. Theo đó, có 4 lý lẽ cho thấy ĐG đã phạm luật: “Thứ nhất, bởi vì mạng sống của anh mù không bị đe dọa, lẽ ra Đức Giêsu nên chờ đến một ngày khác mà chữa anh. Thứ hai, trong số ba mươi chín việc bị cấm làm trong ngày Sabbath (Mishna, Shabbath 7:2), có việc nhào trộn bột. Thứ ba, thể theo truyền thống sau này của Do Thái giáo (TalBab, Abodah Zarah 28b), có một ý kiến nói rằng không được phép xức dầu vào mắt ngày sabbath. Thứ tư, truyền thống (TalJer, Shabbath 14d và 17f) cũng cấm nhổ nước miếng lên mắt ngày Sabbath”.[2]

Nếu dựa trên những luật lệ và truyền thống này thì ĐG đã phạm luật quá rõ ràng. Chính những lý lẽ cho thấy ĐG phạm luật lại cho chúng ta thấy khía cạnh tình thương vượt lên trên mọi định chế hay truyền thống do con người đặt ra. Yếu tố tình thương đã phủ lấp tất cả những đòi buộc khe khắt của con người. Hơn nữa, Đấng là cội nguồn của con người, là cùng đích của nhân loại làm sao lại có thể bị lệ thuộc vào những quy định của phàm nhân. Ánh Sáng đích thực không thể bị những định chế của con người ngáng trở. Ánh Sáng đó có sức mạnh vĩ đại để đi xuyên qua tất cả mọi trở ngại để soi sáng, mở mắt cho những ai sẵn sàng đón nhận. Và phép lạ đã xảy ra, một con người bị mù bẩm sinh giờ đã nhìn thấy.

Trong trình thuật chữa người mù bẩm sinh này, ngoài ngáng trở là định chế, lề luật, truyền thống, chúng ta còn nhìn thấy một ngáng trở khác, đó chính là con người.

Thật thế, nhiều khi câu ngạn ngữ Latinh “Homo homini lupus – con người là chó sói của con người” cũng phản ánh đúng một thực tại đang diễn ra trong cuộc sống. Rõ ràng, bài TM chúng ta đang suy tư cho thấy giới lãnh đạo không muốn hay đang muốn kìm hãm sự biến đổi, sự thăng tiến, phát triển của người khác, hoặc nói theo một cách khác là không muốn người khác có được những sự may lành, được thanh sạch (nếu nhìn bệnh tật là hậu quả của tội theo truyền thống Do Thái). Họ tìm cách để bắt bẻ, để lên án và thâm sâu hơn là muốn loại trừ và triệt hạ (tra vấn anh mù 2 lần, thẩm vấn cha mẹ của anh, trục xuất anh khỏi Hội Đường – trục xuất khỏi cộng đoàn).

Nhưng tất cả các ngáng trở do con người làm ra không hạn chế được sức mạnh của Ánh Sáng của Thiên Chúa. Ánh Sáng của TC vẫn tác động, vẫn chiếu tỏa mạnh mẽ trên những tâm hồn sẵn sàng đón nhận ánh sáng của Ngài. Không phải vì luật lệ hay ý thức hệ của một cá nhân hay một nhóm người mà ân sủng của TC bị gián đoạn. Do đó, dù luật lệ Do Thái không cho phép, giới lãnh đạo không hài lòng, ĐG, trong tư cách là Đấng Phải Đến, không những không làm cho anh mù ngày xưa bị mù trở lại, nhưng còn tuyên bố anh đã được sáng trước mặt những con người đang nghi ngại, đố kỵ và ganh ghét.

Chúng ta - hàng giáo sĩ, các tư tế được TC tuyển chọn và sai đi - thì sao?

Trong sứ mạng trở nên người tôi tớ của dân Chúa, chắc chắn đã không ít lần chúng ta đã gặp những ngáng trở bởi truyền thống, luật lệ, định chế hay con người. Những khi như thế, chúng ta đã có đủ can đảm để cho Tình Yêu lên tiếng, để Ánh Sáng tác động, chi phối tất cả hay không?

Hoặc, chúng ta có khi nào đã vô tình hay cố ý tạo ra những quy định, những đòi buộc trở nên những ngáng trở khiến cho anh chị em giáo dân không thể tiếp nhận Ánh Sáng? Và nếu như chính chúng ta lại tạo ra những ngáng trở thì hóa ra chính mình không thực sự đang chiếu giãi Ánh Sáng thật là ĐK, chúng ta chỉ đang chiếu giãi cái tôi của mình.

Chúng ta hãy học tập anh mù về việc khẳng định chính mình: “Chính tôi đây”

 

  1. Chính tôi đây

“Chính tôi đây” là lời khẳng định mạnh mẽ và dứt khoát về sự hiện hữu cụ thể và cá vị của một người trong thế giới này giữa muôn con người với những khác biệt nhau.

Các người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói: "Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?" Có người nói: "Chính hắn đó!" Kẻ khác lại nói rằng: "Không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi!" Còn anh ta thì quả quyết: "Chính tôi đây!"

Anh mù không phủ nhận chính mình, không chối bỏ lịch sử cuộc đời anh trong khi mọi người đang bàn tán, phân vân, nghi ngờ, tìm hiểu về anh.

Lời khẳng định mạnh mẽ của anh không dừng lại trước những người láng giềng, những người quen biết anh hay thậm chí trước giới lãnh đạo thời ấy. Lời khẳng định đó còn được lập lại cách dứt khoát trước ĐG, Đấng đã chữa lành anh khi anh đáp: “tôi tin” và sấp mình xuống trước mặt ĐG. Và như thế, chính khi anh tuyên bố “tôi tin” và sấp mình xuống như vậy, anh sáng thật sự. Anh không chỉ sáng vì được nhìn thấy vạn vật vũ trụ nhưng anh còn sáng trong tâm hồn khi nhận ra ĐG là Đấng Cứu Thế, và đặc biệt, lúc đó anh đã trở nên ánh sáng cho người khác, ánh sáng chứng nhân của người tin vào ĐG trước những người được coi là bậc thầy của xã hội (giới Pharisieu, tư tế).

Nói về điều này, tôi mời gọi anh em linh mục chúng ta cần nhìn về anh chị em giáo dân, họ đã khẳng định “chính tôi đây” trong ơn gọi và địa vị của mình. Họ là những chứng nhân cho chúng ta về đức tin, về đời sống đạo, về sự dấn thân phục vụ. Thật thế, nhiều khi chúng ta thấy rằng mình chưa sống thánh thiện như họ đâu. Với thừa tác vụ thánh, chúng ta thi hành việc giảng dạy, cai quản, thánh hóa cách chuyên biệt bên trong lòng Giáo Hội. Trong khi đó, anh chị em giáo dân là những người đang thi hành việc giảng dạy, cai quản, thánh hóa của chức linh mục phổ quát giữa trần gian. Họ là những con người đi vào thế giới để sống và rao giảng ĐG và thánh hóa thế giới qua chính đời sống gương mẫu của mình.

Quả vậy, kinh nghiệm mục vụ đã minh chứng điều đó. Rất nhiều anh chị em giáo dân, những tông đồ giữa trần thế, đã đi sâu, đi sát và khám phá ra những người đang đau khổ, đang cần đến sự quan tâm của mọi người. Từ đó, họ đã có rất nhiều các sáng kiến, các nỗ lực tông đồ để hiện thực hóa 3 chức vụ của chức linh mục phổ quát của mình giữa trần thế (VD: các phong trào Legio Mariae; Cursilo; … hay sự phát triển đạo Công giáo tại Hàn quốc, bắt đầu bởi người giáo dân …). Nhiều khi chúng ta cứ tưởng chúng ta là số 1. Không đâu, một cách công bằng, chính anh chị em giáo dân mới xứng đáng chiếm vị trí số 1 trong Dân Chúa. Điều này đúng không chỉ trên phương diện thần học (vì Dân Chúa không chỉ là giáo sĩ nhưng đa phần là giáo dân) nhưng còn trên phương diện trở nên ánh sáng cho trần gian, bởi lẽ ơn gọi của giáo dân là trần gian. Trần gian là nơi họ chiếu tỏa ánh sáng của ĐK cho muôn người, là cung thánh dành riêng cho họ để họ cử hành hy tế cuộc đời mình cách sống động.

Như thế, chúng ta - các giáo sĩ - sống trong lòng Giáo Hội, sống trong giáo xứ, trong tu viện, trong cộng đoàn, có thể nói, chúng ta đã được một đảm bảo nào đó để sống đức tin và thừa tác vụ của mình hay khẳng định “chính tôi đây” một cách dễ dàng hơn anh chị em giáo dân của chúng ta nhiều lắm. Còn anh chị em giáo dân, sống giữa trần gian với biết bao những sóng gió, thử thách, để có thể khẳng định “chính tôi đây”, họ phải chiến đấu khủng khiếp biết chừng nào.

Do đó, anh em linh mục chúng ta cũng cần phải sáng thật sự, hãy để cho Ánh Sáng của ĐK chiếu tỏa và tác động nơi mỗi người chúng ta để chúng ta có thể khẳng định “chính tôi đây” cách chính đáng trong ơn gọi của mình. Và để được như vậy, tôi mời gọi mỗi linh mục chúng ta hãy rút ra một vài điểm từ tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, vì trong tông huấn này, chúng ta khám phá ra ĐTC Phanxico đang gợi hứng cho chúng ta linh đạo “trở nên ánh sáng trong niềm vui”, chỉ cho chúng ta cách thức khẳng định “chính tôi đây”:

Trước hết, đó là một lối sống không có sự ươn lười, không tìm lý do để biện minh hay tìm cách để thoái thác sứ mạng: Khi chúng ta cần một sự năng động truyền giáo nhất là việc đem muối và ánh sáng vào trần gian, nhiều người tìm cách trốn tránh để khỏi bị làm mất thì giờ rảnh rỗi của mình, người ta cảm thấy tuyệt đối cần phải bảo tồn không gian tự chủ của họ. (x. số 81)

Kế đến là loại bỏ thái độ bi quan vô bổ. “Thất vọng với thực tại, với Hội Thánh hoặc với chính mình, họ sống trong cám dỗ bám víu không ngừng vào một nỗi buồn mơ hồ, không có hy vọng, là điều xâm nhập quả tim của họ như “rượu thuốc quý giá nhất của ma quỷ”. Được mời gọi để soi sáng và truyền thông sự sống, rốt cuộc họ cũng bị quyến rũ bởi những điều chỉ tạo ra bóng tối và mệt mỏi nội tâm, và những điều ấy làm suy yếu động năng tông đồ.” (số 83)

Trước hững thái độ đó, ĐTC nhấn mạnh rằng : chúng ta đừng để cho mình bị cướp mất niềm vui của việc loan báo Tin Mừng (x. số 83). Để niềm vui Tin Mừng không bị cướp mất, ngài kêu gọi những ai “là muối và ánh sáng cho trần gian”

Thứ nhất, hãy luôn mở rộng lòng ra cho tác động của Chúa Thánh Thần mà không sợ hãi để mạnh mẽ, lớn tiếng, mọi nơimọi lúc, ngay cả những lúc phải lội ngược dòng. (x. số 259)

Thứ hai, hãy tạo cho mình một đời sống cầu nguyện, gặp gỡ cá nhân với ĐG (số 260 và 264). “Lý do đầu tiên thúc đẩy chúng ta loan báo Tin Mừng là tình yêu của Chúa Giêsu mà chúng ta đã nhận được, kinh nghiệm được Người cứu độ là điều thúc đẩy chúng ta yêu Người mỗi ngày một hơn.  Nhưng có loại tình yêu nào mà không làm cho chúng ta cảm thấy cần phải nói về người mình yêu, chỉ cho người khác thấy Người, làm cho Người được biết đến không?  Nếu chúng ta không cảm thấy ước muốn mãnh liệt để truyền thông tình yêu này, chúng ta cần phải tạm ngừng lại trong cầu nguyện để cầu xin Người trở lại làm cho chúng ta say đắm.  Chúng ta cần phải cầu xin mỗi ngày, để ân sủng Người mở rộng con tim giá lạnh của chúng ta và cải tổ cuộc sống hờ hững và nông cạn của chúng ta.” (số 264)

Tiếp đến, phải luôn ý thức thuộc về một dân, một thân thể duy nhất. Ý thức này làm cho chúng ta càng yêu mến TC, chúng ta càng say mê, càng dấn thân phục vụ mọi người. “Khi chúng ta đứng trước Chúa Giêsu chịu đóng đinh, chúng ta nhận ra tất cả tình yêu của Người, là điều nâng đỡ chúng ta và ban cho chúng ta phẩm giá, tuy nhiên, đồng thời, trừ khi chúng ta bị mù, chúng ta bắt đầu nhận thức rằng cái nhìn của Chúa Giêsu mở rộng và quay về phía toàn thể dân Người với đầy trìu mếnnhiệt tình. Vì vậy, chúng ta nhận ra rằng Người muốn dùng chúng ta để gần gũi hơn với dân yêu quý của Người. Người lấy chúng ta từ giữa dân Người và sai chúng ta đến với họ, vì thế chúng ta sẽ không thể hiểu được căn tính của mình nếu không thuộc về dân này”. (số 268)

Đối diện với một linh đạo như thế, trong tâm tình của những ngày tĩnh tâm, trong bầu khí của mùa Chay thánh, chúng ta – những ánh sáng của trần gian – được mời gọi sống tâm tình hoán cải trong niềm vui để một khi trở lại với những trách nhiệm và bổn phận thường ngày, chúng ta có thể khẳng khái nói rằng “chính tôi đây”.

 

Bài 4:  SỰ SỐNG

******

 

Tin mừng (Ga 11:1-45):

Có một người bị đau nặng, tên là Ladarô, quê ở Bêtania, làng của hai chị em cô Mácta và Maria. Anh Ladarô, người bị đau nặng, là em của cô. Hai cô cho người đến nói với Ðức Giêsu: "Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng". Nghe vậy, Ðức Giêsu bảo: "Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh".

Ðức Giêsu quý mến cô Mácta, cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô. Tuy nhiên, sau khi được tin anh Ladarô lâm bệnh, Người còn lưu lại thêm hai ngày tại nơi đang ở. Rồi sau đó, Người nói với các môn đệ: "Nào chúng ta cùng trở lại miền Giuđê!" Người bảo họ: "Ladarô, bạn của chúng ta, đang yên giấc; tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây". Các môn đệ nói với Người: "Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc được, anh ấy sẽ khỏe lại".

Ðức Giêsu nói về cái chết của anh Ladarô, còn họ tưởng Người nói về giấc ngủ thường. Bấy giờ Người mới nói rõ: "Ladarô đã chết. Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi, nào chúng ta đến với anh ấy".

Khi đến nơi, Ðức Giêsu thấy anh Ladarô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi. Bêtania cách Giêrusalem không đầy ba cây số. Nhiều người Dothái đến chia buồn với hai cô Mácta và Maria, vì em các cô mới qua đời. Vừa được tin Ðức Giêsu đến, cô Mácta liền ra đón Người. Còn cô Maria thì ngồi ở nhà. Cô Mácta nói với Ðức Giêsu: "Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy". Ðức Giêsu nói: "Em chị sẽ sống lại!" Cô Mácta thưa: "Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết". Ðức Giêsu liền phán: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?"

Cô Mácta đáp: "Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa, Ðấng phải đến thế gian". Nói xong, cô đi gọi em là Maria, và nói nhỏ: "Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy!" Nghe vậy, cô Maria vội vàng đứng lên và đến với Ðức Giêsu. Lúc đó, Người chưa vào làng, nhưng vẫn còn ở chỗ cô Mácta đã ra đón Người. Những người Dothái đang ở trong nhà với cô Maria để chia buồn, thấy cô vội vã đứng dậy đi ra, liền đi theo, tưởng rằng cô ra mộ khóc em.

Khi đến gần Ðức Giêsu, cô Maria vừa thấy Người, liền phủ phục dưới chân và nói: "Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết". Thấy cô khóc, và những người Dothái đi với cô cũng khóc, Ðức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến. Người hỏi: "Các người để xác anh ấy ở đâu?" Họ trả lời: "Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem". Ðức Giêsu liền khóc. Người Dothái mới nói: "Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy!" Có vài người trong nhóm họ nói: "Ông ta đã mở mắt cho người mù, lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết được ư?" Ðức Giêsu lại thổn thức trong lòng. Người đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại. Ðức Giêsu nói: "Ðem phiến đá này đi". Cô Mácta là chị người chết liền nói: "Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày". Ðức Giêsu bảo: "Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?" Rồi người ta đem phiến đá đi. Ðức Giêsu ngước mắt lên và nói: "Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con".

Nói xong, Người kêu lớn tiếng: "Anh Ladarô, hãy ra khỏi mồ!" Người chết liền bước ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn liệm. Ðức Giêsu bảo: "Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi".

Trong số những người Dothái đến thăm cô Maria và được chứng kiến việc Ðức Giêsu làm, có kẻ đã tin vào Người.

 

Bài TM chúng ta vừa nghe là TM CN V, mùa Chay, năm A. Bài TM này trình thuật việc ĐG làm cho Lazaro sống lại, dù đã được chôn trong mồ. Điều này tiên báo việc TC cũng sẽ làm cho ĐG sống lại trong biến cố Vượt Qua.

Trong phần chia sẻ này, tôi muốn cùng với anh em đọc đoạn TM này trong một vài khía cạnh thực tiễn của đời sống mục vụ của chức linh mục thừa tác để cùng với anh chị em giáo dân sống tinh thần mùa chay: sám hối và canh tân.

 

  1. Chết
  1. Biến cố cái chết của Lazaro

Sách Sáng Thế kể cho chúng ta việc TC tạo thành vũ trụ vạn vật, trong đó có con người, một thụ tạo được Ngài tạo dựng cách đặc biệt, nhận được sự sống từ chính TC: “TC lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2:7). Thế nhưng, sự sống được xuất phát từ TC, một sự sống hạnh phúc, bình an và tươi đẹp, đã bị đe dọa ngay từ khi bắt đầu hiện hữu và bị tổn thương trước hết với sự sa ngã của con người. Để rồi, khởi đi từ sự sa ngã đó, vũ trụ vạn vật bị xáo trộn, những bất trật tự xảy ra. Nhân loại từ lúc ấy “phải cực nhọc mọi ngày trong đời, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho con người, con người sẽ phải ăn cỏ ngoài đồng, phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, con người đã được lấy ra. Con người là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (x. St 2:17-19).

Không bó gọn trong việc phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có được cái ăn, sự sống còn bị đe dọa và chịu tổn thương bởi rất nhiều “sức mạnh” khác. Một trong những sự đe dọa đến sự sống, có thể nói là sự đe dọa khủng khiếp nhất, to lớn nhất, chính là sự chết, một sự dữ mà tất cả mọi người đều phải giơ tay đầu hàng.

Quả vậy, nếu nhìn dưới nhãn quan là một quy luật của cuộc sống, chúng ta thấy rằng chết là một thực tại mà nhân loại không thể chối bỏ mà còn phải đón nhận vô điều kiện khi nó (cái chết) xảy đến với mỗi người vào bất cứ một thời điểm hay hoàn cảnh nào. Chính vì xảy đến vào lúc chúng ta không ngờ, vào giờ chúng ta không hay biết, cái chết (thông thường) luôn là một nỗi sợ hãi kinh hoàng của con người, một sự dữ khắc nghiệt nhất. Bởi lẽ, nó không chỉ là điều mà một cá nhân thường không muốn đối diện và chấp nhận khi xảy đến với mình, nhưng nó còn gây ra sự tan thương, đau khổ, chia lìa đối với những người còn sống. Phần đầu của đoạn TM vừa đọc cho chúng ta nhận ra điều đó.

Trước hết là Lazaro. Trình thuật TM kể cho chúng ta hết sức đơn giản về việc Lazaro bệnh và qua đời: một người đến báo cho ĐG biết rằng Lararo bị đau nặng; rồi sau hai ngày, ĐG nói với các đồ đệ của Ngài rằng phải trở lại miền Giuđê để đánh thức Lazaro (ĐG muốn nói rằng Lazaro đã chết và Ngài sẽ cho anh sống lại). Như vậy, Lazaro trong trình thuật này là một nhân vật hoàn toàn thụ động. Anh thụ động vì anh không thể làn gì được trước căn bệnh ngày một trầm trọng và buộc anh phải giã từ cuộc đời trần thế. Anh không chỉ thụ động khi đối diện với căn bệnh và cái chết, anh còn được trình thuật lại một cách thụ động trong bài TM: anh không được cất lên một lời nào – hoàn toàn im lặng.

Kế đến là những người thân trong gia đình của Lazaro, cụ thể là hai người chị (Matta và Maria). Những người thân của kẻ đã khuất chỉ còn biết khóc than, đón nhận nỗi đau của sự mất mát và chia lìa. Họ đối diện với sự ra đi của người thân chỉ trong tiếng nấc nghẹn ngào và những giọt nước mắt lăn dài nối tiếp nhau trên gò má.

Không chỉ những người thân trong gia đình của Lazaro khóc thương về sự ra đi anh, hàng xóm láng giềng và chính ĐG cũng đã rơi lệ vì anh.

 

  1. Cái chết ngày nay

Trong thông điệp Laudato Si, ĐTC Phanxico, với một cái nhìn tổng thể và độc đáo, đã cho chúng ta một bức tranh bao quát về vũ trụ ngày nay. Bức tranh đó bao hàm tất cả “cái chết dần chết mòn” của các đối tượng, mọi thụ tạo của Thiên Chúa:

Trong chương I, khi bàn về những điều đang xảy ra trên thế giới, ĐTC đã cho chúng ta những nhận định sau:

Trước tiên, đó là một “sự thay đổi nhanh chóng và liên tục không cần thiết cho công ích và sự phát triển toàn diện và bền vững cho con người”. Bởi vì, một số thay đổi không nhắm vào lợi ích chung, sự phát triển lâu dài và trọn vẹn toàn thể nhân loại; chúng gây bất ổn, tạo ra sự suy thoái cho vũ trụ và phẩm chất sống của một phần lớn nhân loại (x. số 18).

Từ đó, nó kéo theo một não trạng giảm thiểu tất cả mọi sự thành rác rưởi, ngay cả những con người – hình ảnh của TC (x. số 22). Và dĩ nhiên, não trạng loại trừ, giảm thiểu này làm sao có thể làm cho những con người bé nhỏ, nghèo hèn được hưởng những quyền lợi chính đáng của phẩm giá con người. Họ chính là những người đầu tiên phải hứng chịu việc suy thoái của vũ trụ (x. số 48): tương lai bất định, bị bỏ rơi không có được sự đảm bảo theo phương diện pháp lý (x. số 25); bị cướp đi quyền sống vì không có được nước sạch để uống (x. số 30); …

Không chỉ nơi con người, những thụ tạo khác trong vũ trụ cũng không ngoại lệ: bị tuyệt chủng (x. số 32); tất cả chỉ vì lợi ích kinh tế-tiêu thụ của con người (x. số 33-34); bị xâm phạm và sinh thái bị mất cân bằng, bị hủy hoại (x. số 37-42).

Kinh khủng hơn, sự chết dần chết mòn của vạn vật trong vũ trụ còn được gia tăng bởi sự suy thoái về phẩm chất cuộc sống và xã hội (x. số 43-47): ô nhiễm, tệ nạn xã hội, những mối quan hệ ảo, sống giả, dối gian …

Trước cái đà tiến về sự chết đó, con người ta hình như vẫn còn đang nín lặng (x. số 36), đáp trả một cách yếu ớt, qua loa chiếu lệ (x. số 54.56.59) chỉ vì sợ ảnh hưởng đến bản thân, lợi ích của cá nhân hay một nhóm nào đó.

Hóa ra, sự dữ hằng đeo bám, đe dọa, khủng bố và hạ gục con người không chỉ là cái chết thể lý nhưng còn có cái chết của luân lý, sự chai lì của tâm hồn … Những cái chết đó đã làm cho vạn vật trong vũ trụ và chính bản thân con người đi vào cõi chết.

Vậy, hiện nay, trong tư cách là linh mục thừa tác, chúng ta có đang rơi vào trong trạng thái “chết dần chết mòn” hay không? Chúng ta đang chai lì về điều gì? Chúng ta đang cố tình nín lặng trước sự dữ đang hoành hành?

Cộng đoàn, giáo xứ, những con người mà chúng ta phục vụ, đảm nhận đang bị cái chết nào đe dọa?

 

  1. Rơi lệ

Chúng ta không khỏi bùi ngùi, xúc động khi đối diện với cái chết. Đã hơn một lần, chúng ta cũng đã rơi lệ trước sự ra đi của một ai đó, hay một điều gì đó không còn hiện diện nữa. Những giọt nước mắt rơi trên khuôn mặt chúng ta nói lên một sự tiếc thương, một tình cảm thiêng liêng, đẹp đẽ, đáng trân trọng.

TM kể cho chúng ta về những giọt lệ của ĐG trước cái chết của Lazaro: “thấy cô khóc, và những người Do Thái đi với cô cũng khóc, Ðức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến …” và “Ngài liền khóc”. Ngài khóc vì quý mến Lazaro, Ngài thổn thức và xao xuyến vì đồng cảm với những người thân của người đã khuất.

Những giọt nước mắt của ĐG là sứ điệp nhắc nhớ chúng ta về một lối mục vụ thật sự “nhập thể” trong chức linh mục thừa tác.

Quả thật, ĐG-Đấng Emmanuel, đã và đang ở cùng chúng ta một cách thực sự. Ngài không chỉ nhập thể trong hình hài một con người, nhưng Ngài ở cùng nhân loại trong thân phận của một kiếp người, đồng lao cộng khổ, chia sẻ nắng mưa gió bụi, đổ mồ hôi sôi nước mắt mới kiếm được của ăn như bao con người … Và, Ngài cũng đã rơi lệ khi đứng trước cái chết của một người thân quen.

Ngay giờ phút này, khi nhìn về đời mục vụ trong tư cách linh mục thừa tác, chúng ta có thực sự nhập thể vào cộng đoàn, vào giáo xứ, vào những con người được trao phó cho chúng ta chưa? Cách riêng, có bao giờ chúng ta “rơi lệ” vì anh chị em, vì cộng đoàn, vì giáo xứ, vì nơi mà chúng ta có trách nhiệm chưa? Vì thực sự, những “giọt nước mắt”, tiếng gào thét, tiếng khóc của thiên nhiên, của vạn vật, của những con người thấp cổ bé họng nơi chúng ta đang sống và phục vụ vẫn đang vang lên:

 

  1. Sự gào thét của thiên nhiên

Từ khởi thủy, “Thiên Chúa nhìn thấy tất cả những gì Người sáng tạo: Người thấy thế là tốt (St 1:31). Mọi sự thuở đầu tiên đó đều thiện hảo, đẹp đẽ và tốt lành trước mắt Người. Muôn loài thụ tạo đều hòa chung một lời chúc tụng, ngợi khen TC, làm nên một vũ trụ hài hòa, xinh đẹp.

Ấy vậy mà, vũ trụ hài hòa, xinh đẹp một thời đó đang lên tiếng. Thiên nhiên đang chảy nước mắt, đang gào khóc. Kinh khủng hơn, những giọt nước mắt, những gào thét của thiên nhiên không mang hình thức của một con người thụ động, ủy mị chỉ rơi lệ, thút thít, nhưng những tiếng gào thét, những giọt lệ của thiên nhiên mang hình thù của một sự “phản đòn” vô cùng mạnh mẹ và kinh khủng đối với xã hội loài người. Đó là những tác động tiêu cực “đáp trả” cách hành xử, lạm dụng và phá hủy tự nhiên rất vô trách nhiệm của thế giới con người ngày nay.

Một bài báo với nhan đề Mẹ thiên nhiên đang nổi giận với người việt như thế nào được đăng trên netnews.vn cho chúng ta một vài nhận định và bức tranh về tiếng gào thét của thiên nhiên:

“Những hiện tượng vốn dị thường, được miêu tả bằng những cụm từ như 'kỷ lục', 'bất thường', 'chưa từng có'… nhưng càng ngày càng xảy ra nhiều.

Theo giải thích ban đầu của cơ quan chức năng, cá chết hàng loạt là do yếu tố gây độc trong môi trường nước. Dưới tác động của dòng hải lưu, nguồn nước ô nhiễm từ KCN Vũng Áng (Hà Tĩnh) bị đẩy vào phía Nam gây nên hiện tượng cá chết.

Hóa chất, nước bẩn… đang len lỏi khắp mọi nơi, cuối cùng thì cũng chỉ có con người tự hại nhau và hại cả thiên nhiên, môi trường sống.

….

  • Mưa gió lụt lội, kể cả chết người tại các tỉnh miền Trung cuối năm 2016, ảnh hưởng nặng nhất tại Gp Qui Nhơn, Gp Nha Trang và một số địa phương tại Quảng Nam.

Thế đấy, người Việt đang liên tục chứng kiến những kỷ lục không đáng có. Là thiên nhiên bất thường hay là vì 'người mẹ' này đang nổi giận với chính những hành động tàn phá tự nhiên của chúng ta: từ chặt phá rừng đến xả rác, nước thải, hóa chất độc hại ra môi trường…[3]

Trang Tuổi trẻ online cũng đưa đến một kết luận tương tự: “Biến đổi khí hậu là do con người đã thải vào môi trường tự nhiên và biển nhiều rác là các chất thải độc hại cùng nạn đốt phá rừng làm hủy hoại môi trường sống của các loài động, thực vật.”[4]

 

  1. Nước mắt, tiếng khóc của những con người thấp cổ bé họng

Trước hết, chúng ta vẫn xác tín với nhau rằng người nghèo, những người thấp cổ bé họng, luôn là mối bận tâm, là đối tượng phục vụ của Giáo Hội. Bởi chưng, người nghèo – anawim – không chỉ mang ý nghĩa là những con người khiêm hạ, phó thác, tin tưởng hoàn toàn vào TC, nhưng người nghèo – anawim – còn chính là những người chịu nhiều bất công, thua thiệt, bị bỏ rơi trong xã hội. Do đó, ĐTC Phanxico đã luôn khẳng định, nhắc nhớ và gần như là một mệnh lệnh dành cho toàn Giáo Hội nói chúng, cách riêng là linh mục chúng ta là phải dấn thân phục vụ người nghèo. Mệnh lệnh đó được thiết lập một cách mạnh mẽ qua việc ngài thiết lập “Ngày thế giới người nghèo” trong tông thư bế mạc Năm Thánh, "Misericordia et Misera", công bố ngày 21/11/2016: “Dưới ánh sáng ‘Năm Thánh của những người bị xã hội ruồng bỏ’, trong lúc mà tại mọi nhà thờ và trong các thánh thánh địa trên thế giới các Cửa Lòng Thương Xót được đóng lại, tôi đã có một linh cảm rằng, như dấu hiệu cuối cùng của Năm Thánh ngoại thường, người ta phải cử hành trong toàn Giáo Hội, ngày Chúa Nhật thứ 33 Mùa thường niên, là Ngày thế giới người nghèo” (số 21).

Linh cảm và quyết định của ĐTC có nền tảng từ trong chính Kinh Thánh và những giáo huấn của Giáo Hội:

“Hãy nghe lời TC, hỡi nhà Đavít! TC phán như sau: Sáng sáng hãy phân xử công minh, giải thoát người bị bóc lột khỏi tay kẻ áp bức; chẳng vậy, lửa giận Ta sẽ bừng bừng không ai tắt nổi, vì những hành vi gian ác của các ngươi ... Hãy thực thi lẽ công minh và điều chính trực; hãy giải thoát người bị bóc lột khỏi tay kẻ áp bức; đừng ngược đãi ngoại kiều, trẻ mồ côi và người góa bụa; đừng cưỡng bức và đổ máu người vô tội ở nơi đây” (Isaia 22:11).

Chúa Giêsu Kitô “vốn là Thiên Chúa… đã tự huỷ chính mình, tự nhận thân phận tôi tá” (Pl 2:6 –7) và “vốn giầu có, Người đã hoá ra nghèo hèn” vì chúng ta (2Cr 8:9). Ngài đến “rao truyền Tin Mừng cho kẻ bần cùng... cứu chữa các tâm hồn đau khổ” (Lc 4:18), “tìm kiếm và cứu vớt những gì đã hư mất” (Lc 19:10).

Sắc Lệnh “Christus Dominus” về Nhiệm Vụ Mục Vụ của các Giám Mục, số 30, nhắc nhở các Linh Mục “hãy lấy tình phụ tử bao bọc những người nghèo khổ, bệnh tật... và lo lắng cho giới công nhân”.

Vậy, nước mắt, tiếng khóc của người nghèo ra sao?

Đây là một câu hỏi thật khó cho những ai chưa bao giờ tiếp xúc, gặp gỡ … những anh chị em đó và chính bản thân chưa từng cảm nếm trong cảnh ‘nghèo’.

Thật vậy, thông thường, nghèo thì mặc cảm, tự ti, bị bỏ rơi, nhiều tự ái … Nhưng tất cả những thái độ đó được bắt nguồn từ việc phẩm giá nhân vị của họ chưa được tôn trọng cách xứng đáng, những quyền lợi căn bản của họ không được đảm bảo đầy đủ. Từ đó, bất công đã xảy ra.

(Lưu ý, ở đây, tôi không đề cập đến các nguyên nhân xảy ra bất công. Điều tôi muốn bàn là trong ý hướng dấn thân phục vụ người nghèo, chúng ta nhìn về chính bản thân mình để canh tân, hoán cải)

Những bất công xảy ra trong mọi khía cạnh, mọi ngóc ngách của đời sốn vẫn hằng diễn ra. Được gọi là bất công vì trong những biến cố đó, người có tiền-có quyền sẽ là người chiến thắng, được hưởng mọi đặc quyền đặc lợi, vượt lên trên cả công lý, luật pháp. Trong khi đó, người nghèo dù sống ngay, sống thẳng, tuân thủ mọi định chế, luật lệ cũng sẽ là người thua cuộc, và thậm chí còn trở nên tội nhân phải chịu trừng phạt … và như thế, nước mắt cứ rơi dài, rơi mãi, tiếng nấc vì đau khổ, vì bất công cứ ngân lên (oan sai, cưỡng bức đất đai, ô nhiễm môi trường, xả lũ, tự do tôn giáo…)

Và hình như, bất công không chỉ ở ngoài xã hội, nó còn xuất hiện trong sứ vụ phục vụ dân Chúa của anh em linh mục chúng ta. Tôi chỉ xin nêu ra một vài khía cạnh nho nhỏ nhưng lại phản ánh một sự bất công trong lối hành xử của linh mục chúng ta:

  • Thái độ kẻ cả, xa cách với giáo dân. Điều này tác động mạnh đến người nghèo, những người rất nhạy cảm vì vốn dĩ mang trong mình những mặc cảm và tự ti.
  • Sợ mất thời giờ dành riêng cho bản thân, ngại đi đến vùng xâu vùng xa,
  • Cái nhìn tiêu cực, thiên kiến, nghi kỵ về người khác, cách riêng người nghèo
  • Nhà thờ không là nơi “muôn dân lũ lượt đưa nhau tới” vì ồn ào, phiền hà, vì …cha không thích, cha không muốn

Hóa ra, nước mắt, tiếng khóc của người nghèo khổ vẫn còn tuôn chảy mạnh vì biết bao bất công trong, những sự dữ, những cái chết dần chết mòn đang đày đọa những anh chị em thấp cổ bé họng, bị bỏ rơi, bị gạt sang bên lề của cuộc đời. Thật kinh khủng hơn, những sự dữ, những cái chết dần chết mòn đó không chỉ do bởi những tác động ngược của thiên nhiên (được con người quy tội là tai ương từ trời – thiên tai) nhưng còn do chính con người gây ra cho nhau, áp lực, bức tử nhau (nhân tai). Nếu đối chiếu với lời dạy của ĐTC Phanxico: “vũ trụ như một bí tích của sự hiệp thông, như một phương tiện chia sẻ với Thiên Chúa và tha nhân trong chiều kích vũ trụ” (Laudato Si, số 9), chúng ta đã phạm tội. Bởi lẽ, “một tội lỗi chống lại tự nhiên, cũng là tội lỗi chống lại chính chúng ta và là một tội lỗi chống lại Thiên Chúa” (Laudato Si, số 8).

Do đó, việc chúng ta rơi lệ không gói gọn trong việc lấy khăn lau nước mắt, mếu máo đôi chút, nói vài lời … nhưng sự rơi lệ của chúng ta phải bao hàm một cam kết và hành động cụ thể, không dừng lại ở việc hô hào khẩu hiệu, khoe khoang thân thế, biểu dương lực lượng …

Chúng ta “hãy cởi ra cho anh ấy”, hãy giúp những con người ngày hôm nay thoát sự đe dọa của những cái chết dần chết mòn của cuộc sống.

 

  1. Hãy cởi ra cho anh ấy

ĐG đã ra lệnh truyền như thế cho mọi người đang hiện diện. Người ra lệnh truyền như thế vì Ngài biết Lazaro đã được sống lại sau lời cầu nguyện của Ngài cùng Cha và gọi Lazaro “hãy ra đây”. Giờ đây, TC cũng đang mời gọi anh em linh mục chúng ta cũng “hãy cởi ra” những băng vải, những ràng buộc của sự chết đang che phủ những con người nghèo khổ và hãy trả lại sự sống tròn đầy cho họ.

 

  1. Tháo bỏ những ràng buộc của sự chết

ĐG muốn chúng ta, các môn đệ của Người, mang ơn giải thoát cho nhân loại: “Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và trừ khử ma quỷ (Mt 10:8). Trong biến cố làm cho Lazaro sống lại, một lần nữa, Người khẳng định với chúng ta rằng sứ điệp Người mang đến cho chúng ta là sứ điệp giải thoát – giải thoát khỏi mọi ràng buộc của sự dữ, của tội lỗi, của cái chết – để nhân loại được sống và sống dồi dào.

Thật vậy, những tấm vải quấn quanh xác chết giờ đây không còn phù hợp, chúng đã trở nên thừa thải, vướng víu và làm cho người sống – Lazaro, người vừa trở về từ cõi chết – không thể cử động, không thể sống đúng như một con người. Ngày nay, chúng ta, các môn đệ của ĐG, chúng ta cũng phải thực thi những gì người thầy của chúng ta đã dạy là hãy tháo bỏ những ràng buộc – những gì thuộc về sự chết – cho anh chị em mình. Chúng ta cần nhớ là bổn phận của chúng ta là tháo bỏ những ràng buộc để giúp người khác sống trọn vẹn trong ơn gọi và sứ mạng của mình; chúng ta đừng bao giờ chất thêm những gánh nặng, buộc thêm những sợi dây, quấn thêm những tấm vải để hạn chế sự sống của anh chị em mình.

Cụ thể hơn, tôi xin gợi ý hai điều:

Trước hết, linh mục chúng ta phải biết những người chúng ta đang có trách nhiệm, được sai tới để phục vụ, đang bị điều gì ràng buộc, làm cho sự sống không trọn vẹn. Từ đó, chúng ta đi bước trước để tìm cách giúp họ giải quyết các vấn đề. Chúng ta cần nhớ người chăn chiên phải đi bước trước để tìm con chiên lạc, không phải con chiên lạc đi tìm người chăn chiên (dù có thể, con chiên lạc cũng đang loay hoay tìm tòi lối về với đàn chiên, về với chủ của mình; hay thậm chí nó có muốn bỏ đi luôn và không cần).

Kế đến, chúng ta đừng đặt thêm những quy định của riêng mình cho giáo dân (trừ những gì được xác định trong giáo luật và quy định của giáo phận). Ngược lại, chúng ta phải tìm đủ mọi cách để chu toàn một cách trọn vẹn những bổn phận của chúng ta trong việc phục vụ anh chị em giáo dân. Đó là bổn phận của chúng ta, và chúng cũng chính là quyền lợi của anh chị em giáo dân. Do đó, nói một cách công bằng, chúng ta mang nợ anh chị em giáo dân về quyền lợi bí tích và thiêng liêng của họ. Vì là nợ, chắc chắn, anh chị em giáo dân có quyền đòi nợ chúng ta (và nếu lỡ mà nợ lâu, nợ dai, chúng ta còn phải nhớ về việc “lãi mẹ sinh lãi con” để mà trả cho đủ). Nhiều lúc chúng ta cứ cho rằng chúng ta là linh mục – một thiên chức cao cả, được TC tuyển chọn (cộng thêm lòng đạo đức của giáo dân khi nói rằng cha đã thương, đã ban, đã tạo điều kiện thuận lợi …), chúng ta thực thi thừa tác vụ như là một hành vi quảng đại, thi ân, làm phúc cho anh chị em giáo dân. Không đâu, sứ mạng của linh mục là phục vụ anh chị em giáo dân vì ơn cứu độ của họ, vì một sự sống trọn vẹn của nhân loại. Vậy, một khi đã tự do và tự nguyện lãnh nhận sứ mạng phục vụ qua bí tích truyền chức, chúng ta phải lo sao để chu toàn trọn vẹn sứ mạng, bổn phận của mình.

 

  1. Trả lại sự sống

Khi cho Lazaro sống lại, ĐG không chỉ trả lại sự sống nhân loại cho Lazaro, Người còn trả lại sự sống cho gia đình nhỏ bé gồm 3 thành viên ở Betania này một sự trọn hảo vốn có của nó, đồng thời cũng mang lại một niềm vui và hy vọng cho gia đình nhân loại về sự sống vĩnh cửu mà đại diện là những người thân quen, làng xóm của gia đình Matta đang hiện diện lúc bấy giờ. Đó là một niềm vui đoàn viên, một niềm vui tròn đầy của tình thân, tình thương và sự sống.

Như thế, sự sống trong TC phải là một sự sống tròn đầy, trọn hảo và sung mãn. Sự sống đó là thành quả của tình yêu: “Sáng tạo nằm trong trật tự tình yêu. Tình yêu của Thiên Chúa là lý do nền tảng của toàn thể sáng tạo: ‘Quả thế, Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên’ (Kn 11:24). Mỗi tạo vật đều là đối tượng lòng ưu ái của Cha, Đấng ban cho nó một vị trí trong thế giới. Ngay cả đời sống chóng qua của hữu thể không ý nghĩa gì cũng là đối tượng của tình yêu, và trong một ít thời gian hiện hữu nó cũng nhận được lòng ưu ái của Người” (Laudato Si, số 77).

Do đó, mỗi thụ tạo đều có phẩm giá riêng và bất khả thế. Chúng có giá trị trước mặt Thiên Chúa và được Người yêu thương. Cho nên, với thừa tác vụ thánh, chúng ta cần phải cộng tác với TC để trả lại cho con người và mọi thụ tạo trên thế giới này sự sống tươi đẹp mà TC đã dựng nên. Đó là một cuộc sống bình an, hạnh phúc không chỉ dành cho con người ở đời sau, nhưng còn phải là một cuộc sống tươi vui, hài hòa trong hiện tại dành cho tất cả mọi thụ tạo.

Trong cái nhìn đó, việc mục vụ của chúng ta phải là một sự phục vụ cho sự trọn hảo của thụ tạo:

  • Đối với việc phục vụ con người: đừng dừng lại ở việc cử hành các bí tích (chiều kích thiêng liêng), nhưng hãy đồng cam cộng khổ với những người chúng ta được sai đến phục vụ: quan tâm, chia sẻ và hãy giúp họ nâng cao đời sống vật chất … bằng tất cả tình yêu, khả năng và sức lực của chúng ta. Vì lẽ, cuộc đời, ơn gọi và sứ mạng của chúng ta là “đến để cho thế gia được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10), và nếu chúng ta chỉ quan tâm đến phần hồn mà bỏ quên phần xác (như biết bao nhiêu người ngày nay chỉ quan tâm đến thể lý mà quên đi chiều kích thiêng liêng), chúng ta đang thi hành mục vụ một cách khập khiễng, nữa vời (vì con người bao gồm cả xác lẫn hồn). Cho nên, lời khẳng định của công đồng Vatican II trong hiến chế Gaudium et Spes không được phép chỉ là khẩu hiệu trên môi miệng, trên giấy, nhưng phải thực sự được thể hiện trong lối ứng xử, mọi hành động của chúng ta: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ” (số 1).
  • Đối với việc phục vụ toàn thể vũ trụ nói chung, bảo vệ môi sinh nói riêng, chúng ta có rất nhiều công việc cụ thể phải làm để không chỉ ứng phó với những thảm họa môi trường hiện nay nhưng còn phải cải tạo lại môi trường sống. Ở đây, chúng ta phải nhớ nguyên tắc chung mà ĐTC Phanxico đã dạy trong việc bảo tồn và tăng triển môi trường tự nhiên: “Môi trường thiên nhiên là một thiện ích chung, là gia sản của toàn thể nhân loại, và là trách nhiệm của mọi người. Nếu chúng ta có riêng vài thứ, chúng ta quản lý cho thiện ích chung của mọi người. Nếu không, chúng ta chất nặng lên lương tâm chúng ta bằng sự từ khước sự hiện diện của TC” (Laudato Si, số 95).

Đứng trước tất cả những vấn nạn to lớn đang đe dọa đến sự sống, chúng ta không bi quan bởi lẽ Thiên Chúa muốn làm việc với chúng ta và cần đến sự cộng tác của chúng ta. Ngài có thể biến sự dữ chúng ta gây ra thành sự lành; và sự hiện diện của Ngài là đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của mỗi hữu thể (x. Laudato Si, số 80). Vậy, thay vì bi quan, chúng ta-các linh mục thừa tác-phải là những người có niềm hy vọng và mở rộng chính mình cho tác động của ân sủng để biến đổi chính mình và toàn thể vũ trụ.

 

Bài 5: CÙNG VÁC VỚI ĐỨC KITÔ

*******

 

Tin mừng: Mt 26:14-27:66 (Bài thương khó CN lễ lá – năm A)

Họ bắt Đức Giêsu, rồi điệu đến thượng tế Caipha. Các kinh sư và kỳ mục đã tề tựu sẵn đó. Các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng thì tìm chứng gian buộc tội Đức Giêsu để lên án tử hình. Nhưng họ tìm không ra, mặc dầu có nhiều kẻ đã đứng ra làm chứng gian. Sau cùng, có hai người bước ra, khai rằng: "Tên này đã nói: tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa, và nội trong ba ngày, sẽ xây cất lại." Bấy giờ vị thượng tế đứng lên hỏi Đức Giêsu: "Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó?" Nhưng Đức Giêsu vẫn làm thinh. Vị thượng tế nói với Người: "Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa không?" Đức Giêsu trả lời: "Chính ngài vừa nói. Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay: từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến." Bấy giờ vị thượng tế liền xé áo mình ra và nói: "Hắn nói phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Đấy, quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa, quý vị nghĩ sao?" Họ liền đáp: "Hắn đáng chết!"

Rồi họ khạc nhổ vào mặt và đấm đánh Người. Có kẻ lại tát Người và nói: "Ông Kitô ơi, hãy nói tiên tri cho chúng tôi nghe đi: ai đánh ông đó?"

Đức Giêsu bị điệu ra trước mặt tổng trấn; tổng trấn hỏi Người: "Ông là vua dân Do Thái sao?" Đức Giêsu trả lời: "Chính ngài nói đó." Nhưng khi các thượng tế và kỳ mục tố Người, Người không trả lời một tiếng. Bấy giờ ông Philatô hỏi Người: "Ông không nghe bao nhiêu điều họ làm chứng chống lại ông đó sao?" Nhưng Đức Giêsu không trả lời ông về một điều nào, khiến tổng trấn rất đỗi ngạc nhiên.

Vào mỗi dịp lễ lớn, tổng trấn có lệ phóng thích cho dân chúng một người tù, tuỳ ý họ muốn. Mà khi ấy có một người tù khét tiếng, tên là Baraba.

Vậy khi đám đông đã tụ họp lại, thì tổng trấn Philatô nói với họ: "Các ngươi muốn ta phóng thích ai cho các ngươi đây? Baraba hay Giêsu, cũng gọi là Kitô?" Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tị mà họ nộp Người.  Lúc tổng trấn đang ngồi xử án, bà vợ sai người đến nói với ông: "Ông đừng nhúng tay vào vụ xử người công chính này, vì hôm nay, tôi chiêm bao thấy mình phải khổ nhiều vì ông ấy."

Nhưng các thượng tế và kỳ mục lại xúi đám đông đòi tha tên Baraba mà giết Đức Giêsu. Tổng trấn hỏi họ: "Trong hai người này, các người muốn ta tha ai cho các người?" Họ thưa: "Baraba!"  Tổng trấn Philatô nói tiếp: "Thế còn ông Giêsu, cũng gọi là Kitô, ta sẽ làm gì đây?" Mọi người đồng thanh: "Đóng đinh nó vào thập giá!" Tổng trấn lại nói: "Thế ông ấy đã làm điều gì gian ác?" Họ càng la to: "Đóng đinh nó vào thập giá!" Tổng trấn Philatô thấy đã chẳng được ích gì mà còn thêm náo động, nên lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói: "Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người liệu lấy!" Toàn dân đáp lại: "Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!" Bấy giờ, tổng trấn phóng thích tên Baraba cho họ, còn Đức Giêsu, thì ông truyền đánh đòn, rồi trao cho họ đóng đinh vào thập giá.

 

Anh em thân mến,

Nối tiếp chuỗi các bài chia sẻ trong những ngày hồng phúc này, trong bài này, chúng ta cùng đi vào hành trình thương khó của ĐG trong tư cách là người phục vụ dân Chúa. Chúng ta cùng đi với Người trong ba biến cố: ra tòa, vác thập giá và chết.

“Ra tòa” để ý thức được rằng chúng ta phải trả lẽ về tất cả những gì chúng ta đảm nhận, thực hiện không chỉ trước Chúa mà còn trước anh chị em giáo dân.

“Vác thập giá” để nhớ rằng thừa tác vụ linh mục của chúng ta là phải theo chân ĐK vác thập giá tiến lên đồi Sọ.

“Chết” để thể hiện sự trao hiến trọn vẹn của chúng ta dành cho TC và anh chị em.

 

  1. Ra tòa

Trong biến cố khổ nạn, cái chết của ĐG được hợp lý hóa bằng việc người ta đưa Người ra tòa án. ĐG bị xét xử, luận tội như một tên tội đồ, dẫu cho Người vô tội. Quả vậy, Kinh Thánh nói cho chúng ta biết việc bắt, đánh đập, tra tấn, kết án và giết chết ĐG xuất phát từ lòng đố kỵ, sự nhỏ nhoi, ganh ghét của những người lãnh đạo tinh thần cộng đồng Do Thái lúc bấy giờ. Đó là các tư tế, trưởng lão và kinh sư. Họ đã đưa Người ra trước hai tòa án: tòa án tôn giáo (dinh thượng tế, nơi công nghị đã được diễn ra với sự hiện diện của các tư tế, trưởng lão và kinh sư) với tội danh là tự nhận mình là Con Thiên Chúa; và tòa án chính trị (tổng trấn Philatô – toàn quyền Roma tại Do Thái) với tội danh sách động và chống phá chính quyền – không nộp thuế cho Ceasar và tự cho mình là vua (x. Lc 23:2). Tuy nhiên, trước những cáo buộc như thế, Philatô đã tuyên bố: ‘Ta không thấy người này có tội gì’ (Lc 23:4) và vua Hêrôđê cũng nhận thấy như vậy, nên đã truyền đem trả Ngài lại cho Philatô.

Thật ra, sự vô tội của ĐG không chỉ trước mặt thế gian, trong hai phiên tòa mà Ngưởi bị đem ra xét xử, nhưng ĐG thực sự còn vô tội trước TC – Cha của Người. Chính Đức Kitô đã khẳng định Người đến là để thi hành ý Cha (x. Ga 6:38). Người là con chiên xóa bỏ tội trần gian (Ga 1:29). Cuộc đời của Người diễn tả sứ vụ của Người là phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người (Mc 10:45) (x. GLHTCG 608). Cho nên, cuộc khổ nạn của Đức Kitô là hy lễ tối hậu và duy nhất. Hy lễ tối hậu và duy nhất này là hồng ân của Chúa Cha dành cho nhân loại. Chúa Cha trao nộp Con của Ngài để giao hòa chúng ta với Ngài. Đồng thời, đây là sự dâng hiến Con cho Cha của Người nhờ Chúa Thánh Thần để đền bù sự bất tuân của chúng ta (x. GLHTCG 614). Như vậy, ĐK vô tội là vì nhân loại và cho nhân loại.

ĐG bị đưa ra các tòa án là để mỗi người chúng ta cũng phải ý thức bản thân chúng ta cũng phải trả lẽ về những gì mình đảm nhận, thực hiện trong ơn gọi và sứ mạng không chỉ trước Thiên Chúa mà cả trước mặt người đời. Tuy nhiên, chúng ta phải luôn nhớ rằng bản thân phải giống Người-phải là người vô tội.

Là người vô tội trước TC nghĩa là luôn khám phá ra bản thân hằng để cho TC hướng dẫn. Là người vô tội trước TC nghĩa là chúng ta hoàn toàn tự hiến cho TC qua việc sẵn sàng trao hiến toàn bộ sức lực, khả năng, tâm hồn và cuộc đời để thi hành thừa tác vụ linh mục đã lãnh nhận một cách tròn hảo nhất. Là người vô tội nghĩa là chúng ta tự nguyện trở nên hy lễ kết hiệp với hy lễ của ĐK trong cuộc thương khó vì hạnh phúc trọn vẹn của anh chị em …

Là người vô tội trước anh chị em có nghĩa là đời sống, lối cư xử của tôi luôn là đúng đắn, chuẩn mực. Là người vô tội trước anh chị em có nghĩa là sẵn sàng dấn bước đến những vùng ngoại biên, đến những nơi và đến với những người bé mọn bị bỏ rơi, chưa được quan tâm tới. Là người vô tội trước anh chị em có nghĩa là tôi toàn tâm toàn lực phục vụ anh chị em vì ích lợi cho cuộc đời và ơn gọi của họ …

Nhưng, ngày hôm nay, thế giới cũng còn biết bao nhiêu con người vô tội. ĐTC Phanxico, trong tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, đã nhắc cho chúng ta dung mạo của những con người vô tội, đó là những hình thức mới của nghèo đói và yếu đuối. Đâu đó nơi địa phương mà chúng ta đang phục vụ, họ vẫn đang hiện diện. Họ là:

  • những người vô gia cư, nghiện ngập, tị nạn, thổ dân, những người già cả và số những người bị cô lập và bị bỏ rơi càng ngày càng đông (số 210)
  • nạn nhân của những hình thức buôn người khác nhau, những người đang trong hoàn cảnh nô lệ, những người đang bị giết mỗi ngày trong những xưởng máy bí mật nhỏ, trong những ổ mại dâm, trong những trẻ em bị sử dụng để ăn xin, trong những người phải lén lút làm việc vì tình trạng bất hợp lệ (x. số 211)
  • những phụ nữ đang ở trong những tình trạng bị loại trừ, lạm dụng và bạo lực, ít có khả năng để bảo vệ quyền lợi của mình (x. số 212)
  • các thai nhi, là những người không có khả năng tự vệ nhất và vô tội nhất trong tất cả mọi người, những người ngày nay bị người ta phủ nhận nhân phẩm để họ có thể làm những gì họ muốn, bằng cách tước đoạt sự sống của các emcổ võ những đạo luật ngõ hầu không ai có thể ngăn chặn được chúng (số 213)

….

Có lẽ, họ không tố cáo, không vu oan, không bỏ vạ chúng ta như trong tòa án ĐG ngày xưa. Tuy nhiên, sự tồn tại của những con người vô tội đó tuy không là một lời tố cáo chúng ta trước một tòa án nhân loại nào, nhưng chúng lại là một lời tố cáo mỗi người chúng ta nơi tòa án lương tâm, tòa án nơi tâm hồn chúng ta khi nhìn lại ơn gọi và sứ vụ của bản thân – linh mục thừa tác. Vì dường như chúng ta chưa là người vô tội thực sự trước TC và trước những người chúng ta có bổn phận phục vụ.

 

  1. Vác thập giá

Linh mục, những người được gọi là “alter Christus”, được mời gọi hiện thực lại, hay nói khác đi là phải sống lại chính cuộc đời của ĐGK trên trần gian. Cho nên, linh mục cũng được mời gọi hiện thực lại hành trình vác thập giá trong ơn gọi và cuộc đời phục vụ của mình.

Thật vậy, ĐG đến thế gian là để thi hành thánh ý Chúa Cha. Không một giây phút nào trong cuộc đời nơi dương thế, ĐG đã làm theo ý riêng của mình; thay vào đó, Người đã hoàn toàn làm theo ý của Đấng đã sai Người. Hành trình lên đỉnh đồi Canvê cùng với thập giá nặng, ngã lên ngã xuống với những roi đòn, sỉ nhục, và cuối cùng bị đóng đinh trên thập giá cũng là để làm trọn ý Cha trên trời.

Như vậy, đối với bản thân, chúng ta-các linh mục- đã vác thập giá thế nào?

  • Khi được Bề trên giáo phận mời gọi đến phục vụ một nơi nào đó?
  • Khi đối diện với thực trạng bối cảnh (cách riêng là những khó khăn, hạn chế…) về văn hóa, điều kiện vật chất, đặc biệt là con người của giáo xứ, cộng đoàn mình phụ trách?
  • Khi đối diện với những hiểu lầm, những nhận xét chưa khách quan về bản thân và công việc mình đang thực hiện?
  • Khi đối diện với chính mình về khả năng, về những thiếu sót, yếu kém?

Thứ đến, đối với anh chị em giáo dân, chúng ta đã vác thập giá ra sao? Ở đây, tôi chỉ xin mời gọi chúng ta cùng suy nghĩ về một khía cạnh là “chúng ta đã vác thập giá – những đau khổ, những thiệt thòi, những mất mát, bị chèn ép, bị áp bức …của anh chị em giáo dân đang phải gánh chịu - ra sao?” Hay nói khác đi, chúng ta đã “vác” con chiên đang bị thương tật, bị đau khổ, bị ghẻ lạnh …như thế nào?

ĐG ngày xưa hoàn toàn đón nhận thánh ý của Chúa Cha dẫu biết rằng chén phải nhận thì quá đắng (Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén này; nhưng đừng theo ý con, một theo ý Cha). Người thực thi thánh ý Cha cách trọn vẹn dù cho nhân loại vẫn có những con người đang chống đối, đang lên án, chối từ Người… dù cho vẫn còn đó những con người đau khổ, bị ruồng rẫy, bị loại ra bên lề xã hội … dù cho và dù cho nhân loại thế nào, Người vẫn bước lên đỉnh đồi Sọ - đỉnh Vinh Quang với cái chết và sự phục sinh - để trả lại tước vị là con Thiên Chúa cho nhân loại.

Ngày nay, chúng ta cũng được mời gọi đi theo ĐG trên đường lên đỉnh Canvê với việc vác lấy những con chiên đang đau khổ. Người khích lệ chúng ta hãy can đảm và mạnh mẽ mà tiến bước theo dấu chân Người. Dẫu biết rằng việc “vác lấy những con chiên” là một việc không hề đơn giản, dẫu cho con đường đó vô cùng khó đi vì những roi đòn, vì những tra tấn, vì những vấp ngã do tình đời đổi trắng thay đen, lòng người nhỏ nhen … do bản thân yếu kém, thiếu sót … cũng như dẫu cho khó khăn và thử thách luôn sẵn chờ …, chúng ta vẫn can đảm tiến bước vì ân sủng của TC luôn đủ cho chúng ta (x.2Cr 12:9).

Một trong những cử hành mang ý nghĩa là một quyết tâm, cam kết của chúng ta trong việc theo chân ĐK lên đỉnh đồi Canvê ngày xưa là chúng ta nâng Bánh Rượu (đã được truyền phép) lên và tuyên bố rằng: “Đây Chiên TC, đây Đấng xóa tội trần gian”. Hành động và lời đọc này cho thấy chúng ta đang lặp lại lời giới thiệu của thánh Gioan Tẩy Giả ngày xưa cho muôn dân biết ĐG cũng như thực hiện lại hành vi trao hiến của ĐG cho nhân loại; nhưng đồng thời, khi đọc lên những lời đó, chúng ta còn được mời gọi và cũng là một đòi buộc là phải trở nên con chiên gánh tội cho dân Chúa. Đây là sứ mạng mà chúng ta, các linh mục của Chúa, phải thực hiện, dẫu sứ mạng đó có khó, có khổ, có phải đổ máu, phải hy sinh, và dường như có vượt quá sức của bản thân.

Lý thuyết là thế, nguyên tắc là vậy. Giờ đây, trong bầu khí thiêng liêng của dịp tĩnh tâm năm, chúng ta hãy đặt mình trước Chúa cách chân thực rất, thẳng thắn, không che dấu và biện minh, chúng ta thử nhìn lại chúng ta đã vác lấy anh chị em giáo dân – những con chiên – bị lũ lụt, bị trôi dạt trong những thiên tai cũng như nhân tai thời gian qua ra sao? Chúng ta đã thực sự trở nên người gánh vác kẻ khác, trở nên mục tử ôm ấp những con chiên bị ốm, bị bệnh tật, bị tai nạn … hoàn toàn trao hiến cho anh chị em giáo dân để họ bám víu khi họ bị cuốn trong dòng nước lũ, để họ bẻ ra mà ăn khi tất cả đã mất trắng, không còn gì để sinh sống … hay chưa?

Ở đây, chúng ta có thể đọc và bắt chước gương mẫu của một cá nhân đã vác lấy, đã giúp đỡ người khác trong biến cố ĐG lên đồi Sọ. Đó là ông Simon.

Thật vậy, Kinh Thánh kể cho chúng ta về Simon – người đã vác đỡ thập giá của ĐG: “Chế giễu chán, chúng lột áo choàng ra và cho Người mặc lại áo của mình, rồi điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Ðang đi ra, chúng gặp một người Kyrênê, tên là Simon; chúng bắt ông vác thập giá của Người.” (Mt 27:31-32)

Nếu xét về lý lịch, ông Simon là một người xa lạ, một người vô danh, tầm thường. Chúng ta chỉ biết ông là người Kyrênê, một người gốc Bắc Phi, một người vừa mới ngoài đồng về. Hóa ra, ông chẳng có một mối liên hệ nào cả đối với mọi người chung quanh, đặc biệt là càng không có liên hệ gì cả (xét trên phương diện quan hệ xã hội) với ĐG. Thế mà, một người vô cùng tầm thường và không có gì là “danh gia vọng tộc” ấy lại trở nên một người đặc biệt xuất hiện trong cuộc thương khó của ĐG: người đóng vai trò quan trọng “vác đỡ thập giá ĐG”, người đồng hành và chứng kiến biến cố vô cùng quan trọng trong lịch sử nhân loại: TC cứu độ nhân loại. Với hành động thật đẹp, vô cùng ý nghĩa đó, Simon không chỉ đã trở nên một nhân chứng về cuộc thương khó của ĐG, nhưng ông còn trở nên tấm gương về việc giúp đỡ cho một người bị kết án và đang mang gánh nặng; là người đồng hành với người bị xã hội loại trừ, lên án và bỏ rơi. Hành động của ông đã mang lại cho chúng ta một bài học, một kinh nghiệm về sự phục vụ, dấn thân cho những người vô tội, nghèo hèn, bị bỏ rơi: đó không phải là một sự hiện diện mang tính cách chứng kiến, thể hiện cái tôi hay nói những sáo ngữ; nhưng sự phục vụ và dấn thân đó phải là một sự đồng cam cộng khổ, hiện diện, chia sẻ và sống thực sự với cảnh túng thiếu, khó khăn, bấp bênh và bị đe dọa mà những người “thấp cổ bé họng” đang gánh chịu. Họ đang cần lắm những con người ở bên họ, cần lắm những bàn tay trợ giúp, những tấm lòng bao dung, những ánh mắt cảm thông, những nụ cười nâng đỡ, những câu nói khích lệ …

 

  1. Chết

Điểm cuối của chặng đường lên đồi Sọ chính là cái chết. Đó là một đích điểm dường như chẳng ai muốn. Ngay cả chính ĐG, Người cũng đã lo buồn và sợ hãi vì nhìn đến hành trình phải trải qua trong cuộc thương khó. Tuy nhiên, vượt lên trên tất cả mọi sợ hãi của thân phận con người, ĐG đã đón nhận cái chết – hành động “yêu đến cùng” của Người dành cho nhân loại. Hành trình của anh em linh mục chúng ta cũng như vậy. Chúng ta phải can đảm vác lấy anh chị em của mình và cất bước lên đỉnh đồi Sọ mà kết hợp với hy tế của ĐK ngày xưa.

Khi chiêm ngắm cái chết của ĐK, tôi mời gọi chúng ta cùng nhìn vào một vài điểm sau:

Thứ nhất là hình ảnh ĐG bị lột trần. Bị tước hết áo và bị lột trần trụi là một điều sỉ nhục trước mắt nhân loại. Và quả thật, quân lính ngày xưa đã hành xử như thế để triệt hạ phẩm giá của ĐG. Thế nhưng, trong công trình cứu độ của TC, quân lính lột trần ĐG ngày ấy đã một phần nào đó bóc trần toàn bộ tình yêu mà TC dành cho nhân loại – một tình yêu hoàn toàn dâng hiến vì người mình yêu.

Ngày hôm nay, nói một cách mạnh mẽ, nhân loại cũng đang muốn bóc trần linh mục chúng ta. Người ta muốn bóc trần chúng ta để cho thấy chúng ta có thực sự là những linh mục của ĐK chăng? Hay chúng ta chỉ mang trên mình những phẩm phục của hàng tư tế nhưng thực sự tâm hồn, con người, cuộc đời của chúng ta lại không là linh mục của Chúa. Biết bao sự kiện về những sai phạm của các linh mục bị giới truyền thông xã hội đã đưa ra, mổ xẻ … và không biết trong tương lai sẽ còn bao nhiêu vụ án nữa! Khi người ta đang muốn lột trần chúng ta như thế, liệu chúng ta có can đảm để cho thấy chúng ta hoàn toàn dâng hiến cho ơn gọi và sứ mạng trong đời linh mục thừa tác hay không?

Thứ hai là hình ảnh ĐG bị đóng đinh. Những cái đinh và nhát búa đóng vào thân thể ĐG đau biết chừng nào, cơ thể quằn quại theo những nhát búa, theo sự dịch chuyển của cái đinh đang xuyên vào thân mình, máu cứ tuôn … Tôi thiết nghĩ một người mạnh mẽ biết mấy, chịu đau biết mấy cũng phải thốt lên những tiếng kêu đau đớn khi ở trong hoàn cảnh kinh khủng như vậy. Chính trong bối cảnh ấy, một hình ảnh tuyệt với nhất nói về tình yêu đã được định hình: ĐG trên thập giá; Tình Yêu ấy được giương cao giữa trời để con người hướng đến, quy chiếu về.

Chúng ta có khi nào đã giương cao tình yêu dành cho những người chúng ta có trách nhiệm phục vụ chưa? Chúng ta phải nhớ rằng tình yêu được giương cao luôn bao hàm việc chúng ta phải đổ máu, phải bị sỉ nhục và bị đóng đinh, bị bêu giữa muôn người … chỉ vì chúng ta dấn thân vì sự hạnh phúc tròn đầy của con người.

Thứ ba là sự cô đơn trong đau đớn: “sao Cha bỏ con?” Lời kêu than của ĐG bộc lộ tâm tình của một người đang rơi vào cảnh tuyệt vọng, bên cạnh không còn một ai, ngay cả người thân yêu, gần gủi nhất – Cha – cũng im lặng và hình như đã bỏ rơi mình. Đó là tâm trạng của một người hoàn toàn cô độc trong giờ phút đau thương nhất của cuộc đời: thân nát tan, bầm dập, không một lời động viên, an ủi … Một ĐG từng làm biết bao việc vĩ đại, to lớn (chữa lành các bệnh tật, xua trừ ma quỷ, cho kẻ chết sống lại …) mà giờ đây dường đang rơi vào bế tắc, rơi vào đường cùng. Lời kêu than đó “diễn tả tất cả sự thê lương của Đấng Messia, Con Thiên Chúa đang đương đầu với thảm cảnh của cái chết, một thực tại hoàn toàn trái nghịch với Chúa của sự sống. Bị bỏ rơi bởi hầu hết các người của Ngài, bị các môn đệ phản bội và chối bỏ, bị người ta xỉ vả bao vây, Đức Giêsu ở dưới sức nặng nghiền nát của một sứ mệnh phải trải qua hổ nhục và sự hủy diệt thành hư vô.”[5]

Lời than vãn của ĐG ngày xưa vẫn còn đang được cất lên. Nó cất lên không chỉ bởi từng linh mục chúng ta trong hành trình của sứ mạng phục vụ, nhưng còn bởi những con người đang sống trong thế giới ngày nay, của những người vô tội, của những người đang lầm than vất vưỡng, đang cảm thấy mình bị lạc lối, thất bại và không tìm thấy có một nơi, một ai khác để bám víu. Một nghịch lý đang diễn ra trong đời sống hiện thời là giữa cảnh ồn ào náo nhiệt của cuộc sống, người ta lại dễ dàng cảm nhận một sự cô đơn, không được ai quan tâm, bị bỏ rơi … Để rồi “sao Chúa bỏ con?” được lập đi lập lại, vang vọng bên tai chúng ta và nhiều khi được vang lên từ trong chính cõi lòng, trong tận sâu thẳm tâm hồn của mỗi người.

Thật sự, chính chúng ta cũng đã nhiều lần cảm nhận được dường như bên ta không còn ai, chỉ một mình với những gánh nặng của trách nhiệm và sứ vụ. Những lúc như thế, chúng ta thật sự mệt mỏi và cũng đã cất lên “sao Chúa bỏ con?”.

Và ở đây, lời dạy của ĐTC Phanxicô (trong bài giảng của lễ truyền Dầu năm 2015):

Sự mệt mỏi đó của đời linh mục giống như hương trầm lặng lẽ bay lên Trời. Sự mệt mỏi của đời linh mục chúng ta bay thẳng tới con tim của Thiên Chúa Cha. Tuy nhiên, cũng xảy ra là sức nặng của công việc mục vụ khiến cho chúng ta bị cám dỗ nghỉ ngơi trong bất cứ cách nào. Sự mệt mỏi của chúng ta quý báu trước mắt Chúa Giêsu là Đấng tiếp đón và nâng chúng ta dậy: “Các con hãy đến cùng Thầy khi mệt mỏi và bị áp bức và Thầy sẽ bổ sức cho” (x, Mt 11,28). Khi mệt mỏi mà biết có thể quỳ thờ lậy và nói “Lạy Chúa, đủ rồi” và đầu hàng trước Thiên Chúa Cha, thì chúng ta không ngã gục, nhưng được canh tân và biến đổi. Một trong những chià khóa sự phong phú của đời linh mục là biết nghỉ ngơi khi mệt mỏi.

Tôi có biết nghỉ ngơi bằng cách tiếp nhận tình yêu, sự nhưng không và tất cả sự trìu mến mà dân Thiên Chúa ban tặng cho tôi không? Hay sau công việc mục vụ tôi tìm các nghỉ ngơi tinh vi hơn, không phải kiểu nghỉ ngơi của người nghèo, mà các kiểu nghỉ ngơi do xã hội tiêu thụ cống hiến? Chúa Thánh Thần có phải là “sự nghỉ ngơi trong lao nhọc” đối với tôi không, hay chỉ là Đấng khiến tôi làm việc? Tôi có biết xin sự trợ giúp của một linh mục khôn ngoan không? Tôi có biết nghỉ ngơi khỏi chính mình, khỏi việc tự đòi hỏi chính mình, khỏi việc lấy mình làm điểm tham chiếu không?

Nhiệm vụ của linh mục là đem Tin Mừng cho người nghèo khó, loan báo sự giải thoát cho người lao tù, việc chữa lành cho người mù, trả tự do cho người bị áp bức, và công bố năm hồng ân của Chúa. Tất cả các công việc bề ngoài cũng như các công việc đào tạo tín hữu không phải là dễ dàng. Chúng đòi hỏi sự cảm thương, vui với ngưòi vui, khóc với người khóc… vị linh mục là người bị xé nát thành hàng ngàn mảnh nhỏ, bị ngưởi ta ăn. Nhưng các lời “Hãy cầm lấy mà ăn, hãy cầm lấy mà uống” là những lời mà linh mục của Chúa Giêsu luôn thì thầm, khi săn sóc dân Chúa. Như thế đời linh mục của chúng ta đuợc cho đi trong phục vụ, trong việc gần gũi với dân Chúa khiến chúng ta mệt mỏi.

Tiếp đến ĐTC đề cập đến các mệt nhọc khác nhau trong đời linh mục. Có sự mệt nhọc tốt và lành mạnh, tràn đầy hoa trái và niềm vui, vì nó phát xuất từ công việc mục vụ, từ các sinh hoạt đa diện lo lắng cho dân Chúa. Nó là một ơn thánh nằm trong tầm tay của mọi linh mục. Đó là sự mệt nhọc của vị mục tử có mùi của chiên. Là bạn của Chúa Giêsu Phu Quân, linh mục không thể có gương mặt chua như giấm, than van, hay tệ hại hơn chán ngán. Có sự mệt nhọc của các thù địch. Ma quỷ và những kẻ theo nó không ngủ, và vì tai chúng không chịu đựng được Lời Chúa nên chúng làm việc không mệt mỏi để dập tắt Lời Chúa và gây lẫn lộn. Ở đây sự mệt mỏi cam go hơn, vì linh mục phải bảo vệ đoàn chiên và tự bảo vệ khỏi sự dữ. Cần xin ơn để tập trung lập hóa sự dữ, không nhổ cỏ lùng, không yêu sách bảo vệ như siêu nhân điều Chúa phải bảo vệ. Tất cả những điều này giúp không xuôi tay trước sự gian ác và chế nhạo của những người gian ác.

Cũng có sự mệt mỏi với chính mình, là sự mệt mỏi nguy hiểm nhất. Hai sự mệt mỏi trước phát xuất từ việc ra khỏi chính mình để xức dầu và săn sóc dân Chúa. Trái lại sự mệt mỏi này có tính cách tự quy chiếu nhiều hơn: nó là sự thất vọng với chính mình, nó trao ban “ước muốn và không ước muốn”, nó liều chơi tất cả, nhưng lại tiếc nuối củ hành củ tỏi bên Ai Cập. Nó khiến cho chúng ta bỏ tình yêu ban đầu với Chúa. Sự kiện Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ cũng cho thấy Ngài thanh tẩy việc theo Ngài của các linh mục: rửa sạch bụi bặm nhơ nhớp của thế gian bám vào chúng ta trên con đường theo Chúa.

Sáng thứ Năm Tuần Thánh năm 2013 tại Đền thờ Thánh Phêrô - Rôma, ĐTC Phanxicô cử hành Thánh Lễ Làm Phép Dầu. Ngài ngỏ lời với các Linh mục trong bài chia sẻ: “Tôi yêu cầu anh em hãy là những mục tử mang nặng mùi con chiên của mình”. Đức Thánh Cha đã gợi lên một hình ảnh thật ấn tượng: mục tử phải có mùi của chiên. Người chăn chiên sống gần gũi, gắn bó với đàn chiên, lo lắng chăm sóc, bảo vệ đàn chiên của mình đến nỗi mùi của chiên đã ngấm vào không những áo quần mà cả da thịt mục tử. Linh mục, người chăn chiên về đàng thiêng liêng cũng phải như vậy.

Mục tử phải có mùi của chiên vì tính cách đồng hành của Linh mục sống dấn thân trọn vẹn cho cộng đoàn giáo xứ. Để có mùi chiên, mục tử phải chung sống với đàn chiên; đây là sự đồng hành chia sẻ; sự đồng hành này được Phúc Âm diễn tả: “Mục tử gọi tên từng con chiên và chiên nghe tiếng của mục tử, mục tử đi trước chiên và chiên đi theo mục tử”. Để có mùi chiên, mục tử phải hiện diện giữa đàn chiên để chăm sóc và bảo vệ chiên để chiên “được sống và sống dồi dào”; đây là sự đồng hành và phục vụ; phục vụ cho sự phát triển “vì tôi còn có những chiên hkác không thuộc về ràn này, tôi cũng phải đưa chúng về”, và phục vụ cho sự hiệp nhất của cả đoàn để “chỉ còn một đoàn chiên và một mục tử”. Để có mùi chiên, mục tử đồng hành và phục vụ đến mức độ sống chết vì đàn chiên; đây là đồng hành và tự hiến “Mục tử nhân lành hiến mạng sống mình vì đàn chiên”. Mục tử vì đàn chiên chứ không phải đàn chiên vì mục tử[1].

Mục tử có mùi của chiên chính là mục tử có tình yêu với đàn chiên theo gương Mục Tử Tối Cao. Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là Mục Tử Tốt Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của Tôi biết Tôi. Mục Tử Tốt Lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên”. Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành, là Đấng bảo vệ đoàn chiên, yêu thương săn sóc và hy sinh mạng sống cho đàn chiên, là nền tảng, là mẫu mực cho mọi vị chủ chăn được Ngài trao quyền chăn dắt đoàn chiên, tiếp nối sứ mạng Mục Tử của Ngài.

Theo tinh thần của Đức Ki-tô, Đức Thánh Cha Phanxicô diễn tả lòng thương xót đặc biệt của ngài với đàn chiên, đặc biệt với những con người khổ đau và bất hạnh. Hình ảnh ngài ôm hôn một người mặt dị dạng ở quảng trường thánh Phê-rô đã được truyền đi khắp nơi trên thế giới. Hình ảnh ngài cử hành Thánh Lễ rửa chân ở tại một nhà tù cho 12 trẻ vị thành niên, trong số đó có một cô gái người Hồi Giáo, trong năm đầu tiên trên tư cách Giám Mục Rôma, đã làm cho mọi người ngạc nhiên. Đó chính là tinh thần của lòng thương xót mà Chúa Giê-su mời gọi thực thi: “Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (Mt 25,36). Rồi Đức Thánh Cha còn quan tâm đến thăm những người vượt biển lục địa Châu Phi đến một hòn đảo của Ý Đại Lợi, như là một lời thức tỉnh cho mọi người về lòng thương xót của Chúa mời gọi: “Ta là khách lạ, các người đã đón rước” (Mt 25,35). Lòng thương xót của Thiên Chúa cũng rất cụ thể, khi chính Đức Thánh Cha đã từng gọi điện thoại đến những người bất hạnh, để chia sẻ và thoa dịu nỗi khổ đau của họ. Trong dịp ngài thăm Phi-Luật-Tân đầu năm 2015, ngài đã gặp các em bé bị bỏ rơi và là trẻ bụi đời, ngài đã nghe lời tâm tình của em gái Glyzelle Iris Palomar. Em là nạn nhân của sự bỏ rơi và em phải sống ở ngoài đường phố. Cùng với các bạn khác, em buộc phải tự kiếm sống, không cha mẹ, không nhà cửa và phải ngủ ngoài đường phố. Phần lớn các em bị lừa vào tện nạn mãi dâm và ma túy. Một tổ chức phi chính phủ do một cha Dòng Tên thành lập, đã cứu Glyzelle và nhiều em khác ra khỏi cảnh sống ngoài đường phố, và hiện Glyzelle và các bạn được chăm sóc ở đó. Trong cuộc sống bụi đời, em đã chứng kiến nhiều đồng bạn bị cha mẹ bỏ bê đã xa vào những cạm bẫy cuả sự dữ, như nghiện ngập hoặc nạn mãi dâm. Trong cuộc tiếp kiến Đức Thánh Cha ở Phi-luật-tân, khi em đang đọc bài đã được dọn sẵn để dâng lên vị cha chung, bỗng chợt em không thể đọc tiếp bài đó, ngẩng lên nhìn Đức Thánh Cha Phanxicô, em đặt câu hỏi:- Tại sao Chuá lại để xảy ra như vậy?“Tại sao Chuá đã cho phép những sự ấy xảy ra, dù đó không phải là lỗi cuả những đứa trẻ vô tội?” Nói tới đây, em nhắm nghiền mắt lại và nức nở khóc. Cố gắng lắm, em Glyzelle mới kết thúc bằng một câu hỏi thứ hai “Và tại sao lại ít có người giúp chúng con như thế ?”

Giây phút đó, Đức Thánh Cha đã đứng dậy và bước xuống gần em bé gái. Ngài đã rưng rưng nước mắt và ôm chặt Glyzelle vào lòng. Trong bài đáp lời em Glyzelle, Đức Phanxicô đã nói: “Em ấy là người duy nhất đã hỏi một câu hỏi mà không ai có thể trả lời được. Và em ấy cũng đã không diễn tả hết được bằng lời lẽ nhưng đã bằng những giọt nước mắt”. “Tại sao con trẻ có nhiều đau khổ như thế? Tại sao một đứa bé phải chịu đau khổ?” Ngài đặt lại câu hỏi. “Chỉ khi nào mà một trái tim không thể tìm được câu trả lời và bắt đầu khóc, lúc đó chúng ta mới có thể hiểu được”. Ngài nói tiếp:“Cha mời gọi từng người trong chúng con ở đây hãy tự hỏi mình, rằng tôi đã học được cách khóc chưa, khóc như thế nào? Tôi đã học để mà khóc cho một ai đó bị bỏ rơi bên lề đường chưa? Tôi đã khóc cho một ai đó đang bị nghiện ngập chưa? Tôi đã khóc cho một ai đó bị lộng hành chưa?” “Trong Tin Mừng, Chúa Giê-su đã khóc”. Đức Thánh Cha nói. “Ngài đã khóc cho một người bạn vừa mới chết, Ngài đã khóc trong lòng cho một gia đình vừa mới mất đứa con, Ngài đã khóc khi nhìn thấy một bà goá nghèo đem chôn đứa con trai, Ngài đã rơi nước mắt, động lòng trắc ẩn, khi nhìn thấy đám đông không có ai chăn sóc”. Đức Thánh Cha nhấn mạnh hình ảnh Chúa Giê-su, Ngài đã không sử dụng lòng từ bi theo kiểu thế gian, như là dừng lại một vài giây để ban phát tiền bạc hoặc những của cải vật chất. Nhưng Chúa Ki-tô đã dành trọn thời gian để lắng nghe và an ủi, để đón nhận và chia sẻ với người dân của mình bằng trái tim cảm thông và yêu thương. Giai thoại về cuộc gặp gỡ này là một hình ảnh rất đẹp của vị chủ chăn của Giáo Hội Công Giáo sống tinh thần thương xót. Thật vậy, những gì các vị chủ chăn thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa, là một chứng từ sống động cho cả Giáo Hội cần luôn ý thức rao giảng, thực thi lòng thương xót của Thiên Chúa. Đó cũng là sứ mạng của Giáo Hội.

Như thế, tác vụ “phục vụ - hầu thiên hạ” của chúng ta theo gương ĐG, không chỉ trong năm thánh Lòng Thương Xót nhưng còn trong cả cuộc đời linh mục của mình, phải là tác vụ của Lòng Thương Xót, cách riêng trong bí tích Hòa Giải. Tác vụ đó đòi buộc chúng ta: phải tinh tế và nhạy bén “đọc ra tiếng kêu xin và sự cần tới ơn tha thứ trong tâm hồn của hối nhân”.

  Ước mong những câu hỏi ĐTC đưa ra trong bài giảng sẽ luôn là những chất vấn hằng vang vọng trong tâm hồn mỗi linh mục trong hành trình theo chân ĐG: bị ra tòa-vác thập giá- và chết cho nhân loại.

 

Bài 6: SỐNG MÙA CHAY CÙNG MẸ

*******

 

Tin Mừng Lc 1:39-45: “Hồi ấy, bà Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: "Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em."

Tin Mừng Ga 19:25-27: “Ðứng gần thập giá Ðức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của bà thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Mácđala. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Ðức Giêsu nói với thân mẫu rằng: "Thưa Bà, đây là con của Bà". Rồi Người nói với môn đệ: "Ðây là mẹ của anh". Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.

 

Mẫu gương đẹp nhất mà chúng ta cần noi theo để sống trọn vẹn đời Kitô hữu, cách riêng là tinh thần mùa Chay, không ai khác hơn, chính là Đức Maria. Bởi lẽ, mùa Chay không phải chỉ mang một khía cạnh sám hối, buồn sầu nhưng mùa Chay còn được hãy sống trong niềm vui thánh. Chỉ khi nào sống trong niềm vui thánh, chúng ta mới thực sự là đã trở về. Do đó, trong bài chia sẻ này, chúng ta cùng chiêm ngắm Mẹ dưới hai chiều kích: vội vã-vui mừng và đồng hành-đón nhận. Và để có thể vội vã-vui mừng và đồng hành-đón nhận, chúng ta cùng khám phá lại khóe nhìn của Đức Maria về tha nhân. Từ đó, mỗi người chúng ta mới có thể đồng hành với dân Chúa, với muôn loại thụ tạo theo gương mẫu mà Mẹ để lại cho chúng ta.

 

  1. Vội vã – vui mừng
  1. Vội vã

Chúng ta hãy hình dung lại biến cố Maria - một thôn nữ nơi làng quê Nazareth - sau khi nghe biết người chị họ đã lớn tuổi đang mang thai, đã vội vã khăn gói lên đường đến với người chị của mình. Có lẽ, một quãng đường chừng 150km (từ Nazareth đến Ain Karim) không dài đối với chúng ta ngày nay. Tuy nhiên, đối với một thiếu nữ mới tuổi trăng tròn tại đất nước Do Thái ngày xưa cách đây hơn 2000 năm, đó là một quãng đường đầy khó khăn. Đồng thời, sự khó khăn dành cho thiếu nữ ấy không chỉ ở độ dài quãng đường, đồi núi, phương tiện đi lại … nhưng còn ở việc, thiếu nữ ấy đang mang thai. Vậy mà, thôn nữ ấy vẫn can đảm cất bước ra đi, đi một cách vội vã.

Thiếu nữ Maria đã vội vã lên đường vì tình thân và Tình Yêu.

Thiếu nữ Maria, trong tâm trạng của người nhà, của tình chị em, đã rất bận tâm, lo lắng cho người chị họ đã luống tuổi mà giờ đây đang mang thai. Sự bận tâm, lo lắng đó phải được hiện thực bằng chính hành động của bản thân. Đường xá xa xôi, cách trở, nguy hiểm ư? Mệt mỏi và khó chịu của cảnh đang mang thai ư? Không, tất cả những điều đó không là trở ngại có thể khiến tình người, tình thân bị gián đoạn, không được thể diễn tả ra. Đức Maria mạnh mẽ cất bước, cất bước một cách vội vã.

Đặc biệt, việc lên đường của Đức Maria đến với người chị họ còn được thôi thúc bằng Tình Yêu, một tình yêu khởi đi từ Thiên Chúa. Chắc chắn, sự bất ngờ và bâng khuâng trong biến cố Truyền Tin vừa mới xảy ra vẫn còn đang tác động cách mạnh mẽ nơi Mẹ. Nói một cách bình dân là Mẹ vừa mới bị một cú sock khủng khiếp, liên quan không chỉ đến cuộc đời Mẹ nhưng còn liên quan đến toàn thế giới, đến ơn cứu độ và còn liên quan đến Thiên Chúa. Thế nhưng, Mẹ không để cho cú sock ấy làm cho việc phụng sự Thiên Chúa nơi Mẹ qua việc phục vụ tha nhân bị giảm sút, bị trì trệ. Với ý thức là một “tỳ nữ của Thiên Chúa”, ý thức bản thân được diễm phúc cưu mang Đấng Cứu Thế, Đấng là Tình Yêu nhập thể, Mẹ lên đường.

Như thế, thế giới này đang cần đến những con người vội vã lên đường như Thiếu nữ Maria, hay nói khác đi, chúng ta – các linh mục – cần phải mang nơi mình tinh thần trẻ (quảng đại, dấn thân) của Tin Mừng. Nếu không có sự thúc đẩy của Tin Mừng, chúng ta sẽ không thể vội vã lên đường đến với người khác như Đức Maria, chúng ta sẽ không thể chu toàn sứ vụ của chức linh mục thừa tác.

 

  1. Vui mừng

Thánh Luca mô tả cuộc gặp gỡ giữa hai phụ nữ, hai thai phụ, hai người mẹ thật đặc biệt. Đó là một cuộc gặp gỡ đầy Niềm Vui (không chỉ là niềm vui gặp gỡ giữa con người, tình thân với nhau, nhưng còn là niềm vui đích thực, đó chính là niềm vui trong ân sủng của TC).

Đáp lại lời chào của Đức Maria, bà Elisabeth đã cất lên: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.” Đây là một lời chào khác thường của bà Elisabeth để đáp lại lời chào của Đức Maria.

Chúng ta không biết rõ Đức Maria đã chào bà Elisabeth như thế nào. Tuy nhiên, một cách thông thường, theo tục lệ của người Do Thái, tiếng “Shalom-bình an” được cất lên khi gặp nhau và cả khi chia tay để cầu chúc nhau có được một sự bình an thực sự (một sự bình an bao hàm những giá trị: thân thiện với mọi người, hòa giải với Thiên Chúa, có đời sống an bình, may lành và hạnh phúc. Nói ngắn gọn shalom có nghĩa là có được cuộc sống viên mãn hay trọn hảo). Và vì vậy, nếu bình thường, bà Elisabeth cũng sẽ cất lên tiếng “Shalom” để đáp lại lời chào và để cầu chúc Đức Maria cũng được Shalom. Nhưng không, lời chào của bà Elisabeth lại cho thấy sự Bình An thực sự đã hiện diện, đang tỏ hiện nơi Đức Maria và đang đụng chạm thực sự vào con người và cuộc đời của bà Elisabeth cũng như đứa con của bà. Chính vì thế, trong sự hân hoan vui mừng, lời chào của bà đã trở nên một lời chúc tụng tạ ơn Thiên Chúa về điều kỳ diệu trước mắt bà là Đức Maria được TC chúc phúc và cưu mang Nguồn Ơn Phúc. Chính Nguồn Ơn Phúc mà Mẹ đang cưu mang đã làm cho hài nhi trong bụng bà Elisabeth nhảy lên vui mừng, vui mừng vì được TC đến thăm.

Vì vậy, trong từng công việc mục vụ, chúng ta hãy làm cho từng cuộc gặp gỡ của chúng ta với tất cả mọi đối tượng đều trở thành những cuộc gặp gỡ của niềm vui vì ý thức được rằng những cuộc gặp gỡ đó biểu hiện việc TC viếng thăm dân Người, viếng thăm từng người chúng ta. Cụ thể, chúng ta hãy tiếp đón anh chị em giáo dân với một thái độ kính trọng, lịch thiệp; hãy tiếp đón anh chị em giáo dân như đón tiếp vị thượng khách mang tên Giêsu; hãy thể hiện niềm vui trong những cuộc gặp gỡ đó là niềm vui của những con người cảm nghiệm được rằng mình được TC chúc phúc, được TC yêu thương.

 

 

  1. Đồng hành – đón nhận

 

Tin Mừng Gioan kể lại cho ta về sự hiện diện của Đức Maria trong hành trình thương khó của ĐG. Sự hiện diện của Mẹ trong hành trình thương khó của ĐG vẫn là một cuộc đồng hành trong chiêm niệm và thinh lặng. Thật vậy, từ lúc hạ sinh Ngôi Lời nơi máng cỏ của thành Bêlem ngày xưa, trong suốt hơn 30 năm trong mái nhà Nazareth và cho đến khi cùng Con trên đỉnh đồi Sọ, Mẹ hoàn toàn đón nhận và suy niệm trong lòng.

Từ sau biến cố được truyền tin, thăm bà chị họ Elisabeth, Mẹ gần như đồng hành một cách thinh lặng và giữ trong lòng tất cả mọi biến cố liên quan đến Con của Mẹ và cuộc đời Mẹ. đặc biệt trên đường Thập Tự, Mẹ đã mạnh mẽ, can đảm chịu đựng những đau khổ, những nát tan trong tâm hồn của một người mẹ khi nhìn thấy con của mình bị phản bội, bị oan khiên, bị đánh đập, tra tấn dã man, bước chân xiêu vẹo, ngã lên ngã xuống không còn vững bước vì những vết thương cũng như roi đòn cứ liên hồi đánh trên thân xác tiều tụy. Lòng Mẹ đã tan nát biết bao khi ở bên cạnh Con để đón nhận lời trăng trối và đỉnh điểm là nhìn con trút hơi thở cuối cùng trong trần trụi và bị khinh miệt. Trong biến cố này, trên con đường đau đớn này, Mẹ đã đồng hành không chỉ trong tư cách là một người mẹ, nhưng còn trong tư cách là một người hoàn toàn tín thác vào TC, sẵn sàng đón nhận Thiên Ý trong cuộc đời, dẫu cho Thiên Ý có làm cho Mẹ đau đớn đến tột cùng.

Bước chân của Mẹ trên đường Thương Khó là mẫu gương cho linh mục chúng ta trong hành trình phục vụ dân Chúa trong khía cạnh đón nhận-đồng hành.

Trước hết là sự đón nhận.

Ở khía cạnh này, tôi xin được gợi mở một vài điểm:

  • Chúng ta đón nhận sứ vụ của mình ra sao khi được Giáo Hội (qua bề trên giáo phận) gửi tới một địa phương để phục vụ: có sẵn sàng trong tinh thần yêu mến, kính trọng và dấn thân hay không?
  • Chúng ta đón nhận con người và bối cảnh của địa phương, của cộng đoàn nơi chúng ta phục vụ (ưu-khuyết điểm, mạnh-yếu, tích cực-hạn chế) ra sao?
  • Chúng ta đã đón nhận sự cộng tác của anh chị em giáo dân như thế nào? Như những người đồng trách nhiệm hay chỉ là những người giúp việc, điếu đóm cho chúng ta mà thôi?
  • Chúng ta có thái độ nào đối với sự đóng góp, giúp đỡ của anh chị em giáo dân trong công việc mục vụ của giáo xứ, Giáo Hội?
  • Chúng ta lắng nghe những ý kiến, quan điểm của anh chị em giáo dân như thế nào? (Không chỉ những ý kiến tích cực mà còn cả những ý kiến phê bình, đối nghịch …)

 Kế đến, chúng ta được mời gọi phải đồng hành trọn vẹn cùng anh chị em giáo dân. Sự đồng hành trọn vẹn này phải là một lối sống đồng lao cộng khổ với anh chị em giáo dân. Nó bao hàm rất nhiều khía cạnh như:

  • Thường xuyên ở tại nhiệm sở để anh chị em giáo dân dễ dàng gặp gỡ
  • Chu toàn bổn phận cử hành bí tích cho giáo dân một cách trong sáng, trọn vẹn (vì là trách nhiệm phải chu toàn, không phải vì thi ân …)
  • Quan tâm đến những biến cố quan trọng trong cuộc đời của anh chị em giáo dân (đặc biệt là ma chay, hiếu hỷ … như những biến cố đã xảy ra trong thời gian qua: lũ lụt, ô nhiễm, áp bức …). Đó là những dịp thuận lợi không chỉ để ủy lạo, giúp đỡ nhưng còn để gần gủi, hiểu biết, thông cảm … giữa linh mục và giáo dân, cũng như sống mầu nhiệm Nhập Thể -chia sẻ thân phận, đời sống với người khác (trở nên một với những người bé nhỏ nghèo hèn) …
  • Theo điểm nhấn của năm nay và hai năm sắp tới, chúng ta còn phải quan tâm đến vấn đề mục vụ hôn nhân, cụ thể trong năm nay là chuẩn bị cho các bạn trẻ bước vào đời sống hôn nhân.
  1. Có lối nhìn như Mẹ

 

“Có lối nhìn như Mẹ” có thể gọi là một lời tóm kết cho bài chia sẻ này cũng như kết thúc cho loạt bài chia sẻ trong tuần tĩnh tâm năm này. Bởi lẽ, cuộc đời của Mẹ Maria là một mẫu gương cho ơn gọi làm người, ơn gọi làm con Chúa của mỗi người, và cách riêng là ơn gọi trở nên người phục vụ của linh mục chúng ta. Quả vậy, nếu chúng ta có lối nhìn như Mẹ, bản thân chúng ta sẽ có một lối sống, một cung cách phục vụ, một sự dấn thân trọn vẹn trong ơn gọi và sứ mạng của thừa tác vụ linh mục.

Ở đây, chúng ta hãy cùng đọc trở lại biến cố truyền tin và biến cố thăm bà Elisabeth để thủ đắc cho mình lối nhìn của Mẹ.

Trước hết, trong biến cố truyền tin, Mẹ hoàn toàn ý thức bản thân chỉ là một tỳ nữ thấp hèn, một con người bé nhỏ. Ý thức là một tỳ nữ thấp hèn, một người bé nhỏ không làm cho Mẹ trở nên một người bi quan, yếm thế, nhụt chí … nhưng Mẹ đã một lòng xin vâng: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói”. Lời xin vâng của Mẹ là một lời cam kết cộng tác, dấn thân vào công trình cứu độ của TC cách trọn vẹn bằng cả con người và khả năng của bản thân. Còn chúng ta, khi nhìn về chính mình với gương mẫu của Đức Maria, chúng ta có ý thức mình chỉ là những con người thấp hèn, chỉ là những dụng cụ mà TC sử dụng cho công trình cứu độ của Ngài hay không?

Kế đến, trong biến cố thăm bà Elisabeth, lời chào của hai người phụ nữ giúp chúng ta có lối nhìn rất tích cực về anh chị em của mình. Đó là nhìn thấy anh chị em là người được Thiên Chúa tươi nét mặt nhìn đến và chúc phúc (x. Ds 6:24-26).

Nếu xét trên phương diện con người, Maria và Elisabeth chỉ là hai người phụ nữ vô cùng tầm thường, không có gì nổi trội trong xã hội thời bấy giờ. Hơn nữa, trong xã hội lúc đó, hai phụ nữ này, một cách nào đó, lại thuộc về những thành phần “đáng quan tâm” (theo nghĩa tiêu cực) vì Maria chưa chồng lại có con (tội đáng ném đá cho đến chết), Elisabeth là người son sẻ - già mà không có con nối dõi – một số phận theo truyền thống Do Thái là không may mắn và bị sỉ nhục.

Vậy mà, khi gặp nhau, họ đã chào nhau là “đầy ơn phúc”. Họ đã chào nhau bằng những ngôn từ thật thiêng liêng, thật vĩ đại mà ngay cả những người có địa vị, có danh giá trong xã hội lúc bấy giờ còn không dám sử dụng để chào nhau. Chắc chắn, những người ở bên ngoài lúc bấy giờ không thể nào hiểu được lời chào của hai thai phụ; và chỉ hai người trong cuộc mới hiểu tại sao họ lại cất lên những lời “to lớn” như thế. Quả vậy, hai người phụ nữ đã nhận ra họ là những con người bé mọn. Sự nhận biết này không xuất phát từ thái độ tự ti, mặc cảm nhưng là một sự ý thức rất khiêm tốn trước Thiên Chúa, nên họ mới có thể cất lên lời ngợi khen TC: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa ….” Maria và Elisabeth xác tín rằng những gì đang xảy ra cho bản thân nhưng là do Thánh Ý và tình thương mà TC dành cho dân Ngài từ đời này đến đời kia.

Do đó, Đức Maria và bà Elisabeth gọi nhau là “người có phúc” vì hai đấng đã nhìn nhận ra rằng mỗi người đều được TC yêu thương, đều là hồng ân của TC.

Chúng ta, các linh mục, có nhìn thấy bản thân cũng như anh chị em giáo dân, những người đang hiện diện chung quanh mình cũng là những con người được TC yêu thương và chúc phúc?

Chỉ khi nào mỗi chúng ta nhìn ra bản thân và tất cả mọi người cũng như vạn vật xung quanh đều là những tác phẩm của TC, được Ngài yêu thương và chúc phúc, chúng ta mới có thể yêu thương, trân trọng, gìn giữ và phát triển mọi loài thụ tạo của TC trong vũ trụ này.

Đức Thánh Cha Phanxico đã chia sẻ: “Xin Đức Maria dạy cho chúng ta hiểu được việc trở thành môn đệ của Chúa Kitô có nghĩa là gì. Mặc dầu được tuyển chọn từ muôn người để trở thành Thân Mẫu của Chúa Kitô, nhưng Mẹ cũng đã học hỏi để trở thành Nữ Môn Đệ của Ngài. Thái độ đầu tiên của Mẹ hệ tại ở chỗ lắng nghe Thiên Chúa. Mẹ đã vâng nghe sứ điệp của Tổng Lãnh Thiên Thần, và đã mở con tim của Mẹ ra hầu đón nhận mầu nhiệm làm Mẹ Thiên Chúa. Mẹ đã đi theo Chúa Giêsu và đã lắng nghe bất cứ Lời nào phát xuất từ môi miệng Ngài (xc. Mc 3,31-35); Mẹ đã bảo trì tất cả trong lòng Mẹ (xc. Lc 2,19), và trở thành sự tưởng nhớ sống động của các dấu chỉ được thực hiện bởi Con Thiên Chúa, hầu khơi lên Đức Tin của chúng ta. Nhưng nếu chỉ lắng nghe thôi thì vẫn chưa đủ. Một cách nào đó, việc lắng nghe mới chỉ là bước đầu tiên, nhưng sau đó cần phải biến việc lắng nghe thành những hành động cụ thể. Thực ra, người môn đệ sẽ đặt toàn bộ cuộc sống mình vào trong sự phục vụ Tin Mừng.

Vì thế, Mẹ đã ngay lập tức lên đường đến với bà Elisabeth để giúp đỡ bà trong lúc bà đang mang thai (xc. Lc 1,39-56); tại Bethlehem, Mẹ đã sinh hạ Con Thiên Chúa cho thế giới (xc. Lc 2,1-7); tại Cana, Mẹ đã lo lắng cho đôi uyên ương đang trong ngày cưới (xc. Ga 2,1-11); trên đồi Golgotha, Mẹ đã không lùi bước trước đau khổ, nhưng vẫn lưu lại dưới chân Thập Giá Chúa Giêsu, và theo Thánh Ý Ngài, đã trở thành Mẹ Giáo Hội (xc. Ga 19,25-27); sau khi Chúa phục sinh, Mẹ đã động viên các Tông Đồ quy tụ lại trong Nhà Tiệc Ly để chờ đợi Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho họ trở nên những sứ giả can trường của Tin Mừng (xc. Cv 1,14). Trong toàn bộ cuộc sống của Mẹ, Đức Maria đã hiện thực hóa điều mà nó được đòi hỏi từ phía Giáo Hội, tức hãy thực hiện sự tưởng nhớ vĩnh cửu đối với Chúa Kitô. Nơi Đức Tin của Đức Maria, chúng ta thấy được mình nên mở cánh cửa tâm hồn mình ra như thế nào để vâng phục Thiên Chúa; nơi sự vô vị lợi của Mẹ, chúng ta khám phá ra được việc chúng ta rất nên lưu tâm tới những nỗi khốn cùng của người khác như thế nào; trong những giọt lệ của Mẹ, chúng ta tìm thấy được sức mạnh để an ủi những ai đang phải khổ đau. Trong từng khoảnh khắc ấy, Đức Maria đều diễn tả cho thấy sự giầu sang phong phú của Lòng Thương Xót phát xuất từ Thiên Chúa, mà Lòng Thương Xót ấy luôn đến với mỗi người trong những nỗi khốn cùng của cuộc sống hằng ngày.

Chúng ta biết rằng Đức Maria đã theo chân Chúa Giêsu trên mọi bước đường ngay cả bước đường Thương khó của Đức Giêsu Kitô. Trong giây phút Con Mẹ bị treo trên Thập Giá, các môn đệ đã trốn hết, còn Mẹ, Mẹ vẫn trung thành đứng dưới chân Thập Giá. Đức Maria đã hiệp nhất hy tế với Con mình, cách nhìn đó đã được diễn tả cách đúng mức, giản dị và trang trọng trong một bản văn Công Đồng Vatican II: “Như thế, Đức Nữ Trinh cũng tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin, trung thành hiệp nhất với Con cho đến bên Thập Giá, là nơi mà theo ý Thiên Chúa, Người đã đứng ở đó. Đức Maria đã đau đớn chịu khổ cực với Con Một của mình và dự phần vào hy lễ của Con, với tấm lòng của một người mẹ hết tình ưng thuận hiến tế lễ vật do lòng mình sinh ra”. Như vậy, Đức Maria không chỉ hiện diện bên Thập giá của Đức Giêsu, Mẹ còn thông hiệp nỗi đau với Đức Giêsu. Đức Giêsu chịu đau khổ về thể xác nhưng Đức Maria đã chịu đau khổ trong tâm hồn. Câu nói của Ông Simeon nay đã thành hiện thực “Hồn bà, mũi gươm sẽ đâm thâu ngõ hầu tâm tư của nhiều tâm hồn phải bày ra”. Phải chăng người môn đệ của Chúa phải là người biết chia sẻ nỗi đau khổ với người khác? là người gần gũi, kề cạnh và đau khổ chung với người đồng loại? Đức Maria đã sống và làm chứng cho điều đó.

Để kết thúc, xin nhắc lại trong dịp Đức Thánh Cha Phanxico thăm viếng Philippines từ 15-18/1/2015; khi tiễn Ngài sau thánh lễ trọng thể, Đức Hồng Y Antonio Tagle, Tổng giám mục Manila – Philippines đã bày tỏ rất cảm động như sau…:

ĐTC thường kết thúc cuộc gặp gỡ với mọi người bằng một câu nói rằng, "Tôi xin quý vị cầu nguyện cho tôi." Chúng con hứa sẽ cầu nguyện cho ĐTC. Nhưng chúng con cũng muốn đảm bảo với ĐTC rằng Chúa Giêsu đang cầu nguyện cho ĐTC. Chúa Giêsu đã nói với Phêrô: "Ta đã cầu nguyện cho con để con được vững mạnh trong đức tin." (Luca 22:32). Thưa Đức Thánh Cha, ĐTC thật là may mắn. Chúa Giêsu cầu nguyện cho ĐTC. Những người Phi Luật Tân yêu quý của ĐTC cũng đang hiệp thông với Chúa Giêsu trong lời cầu nguyện cho ĐTC lên Đức Chúa Cha.

ĐTC đến Phi Luật Tân cách đây ba ngày. Ngày mai ĐTC sẽ ra đi. Mọi người Phi Luật Tân cũng muốn đi theo ĐTC - không phải đến Rome - nhưng là đến những vùng ngoại vi, đến những khu ổ chuột, những nhà tù, bệnh viện, đến tới thế giới chính trị, tài chính, nghệ thuật, khoa học, văn hóa, giáo dục và truyền thông xã hội. Chúng con sẽ đi đến thế giới để mang tới ánh sáng của Chúa Giêsu, Chúa Giêsu là trung tâm của chuyến thăm mục vụ của ĐTC và là nền tảng của Giáo Hội. Chúng Con sẽ đi tới những nơi mà ánh sáng của Chúa Giê-su đang cần thiết ở đó. Ở đây tại công trường Luneta (Còn gọi là Rizal Park), trên khán đài Qurino này, nơi mà các anh hùng được tôn kính, nơi mà các tổng thống tuyên thệ nhậm chức và các vị giáo hoàng gặp mặt các tín hữu Phi Luật Tân, là nơi cuả những khởi đầu mới, xin hãy sai chúng con đi loan truyền ánh sáng. Vậy trước khi ra đi, Đức Thánh Cha hãy sai chúng con đi loan toả ánh sáng của Chúa Giêsu. Hãy để cho ánh sáng của Chúa Kitô tỏa sáng!

Hy vọng, chúng ta sẽ noi gương Đức Maria trong biến cố thăm viếng bà Elisabeth. Để một khi vì lợi ích các linh hồn, chúng ta sẽ “vội vã lên đường” một cách “vui mừng”, bất chấp tất cả những khó khăn, những bất tiện sẽ xảy đến cho chính mình. Đây chính là một trong những cách thế thể hiện Lòng Thương Xót rõ nét nhất không chỉ đáp lại lời mời gọi của ĐTC Phanxico trong năm Lòng Thương Xót nhưng còn phản ảnh dung mạo đích thực của Giáo Hội, của Đức Kitô – Đấng chỉ yêu thương và tha thứ, sẵn sàng đi bước trước và hy sinh trong từng giây phút của cuộc sống thường nhật.

 

Có một người đã kể lại câu truyện sau: “Một ngày cuối tuần, tôi tới thăm Nhà Hưu của quý Cha tại một thành phố tại miền Nam nước Pháp. Nhìn quang cảnh hưu quạnh vắng lặng, ánh nắng chiều với những lá khô rải rác ở sân càng làm khung cảnh cô liêu. Khi tôi bước vào Nhà nguyện, cảnh càng buồn hơn nữa, khi thấy có hơn 10 Cha già- phần lớn đang ngồi trên xe lăn cùng dâng lễ, có một cha khỏe hơn chủ tế. Nhìn các ngài trước kia từng là tổng đại diện, là giám đốc đcv, là giáo sư đại học, giáo sư đại chủng viện,...thế mà giờ đây già nua tuổi tác run rẩy không nhắc tay lên được, đến phần truyền phép các ngài chỉ còn có thể run rẩy mấp máy môi hướng lòng cùng Cha chủ tế mà thôi. Đợi các ngài dâng lễ xong, tôi có tới hỏi một cha già ngồi xe lăn: Cha có mệt lắm không? Cha già trả lời: Mệt lắm, nhưng vẫn hạnh phúc đời dâng hiến; Tôi tự nhủ, những linh mục già nua rớt rãi chảy khi dâng lễ này vẫn xác tín cuộc đời dâng hiến sao? Hình ảnh hôm nay sao khác xa hình ảnh ngày các tân linh mục mở tay; biết bao lời cầu chúc, bao bó hoa, quà, những ánh mắt ngưỡng mộ; còn hôm nay chỉ là cô độc, yếu đuối, bệnh tật, già nua, với cảnh vắng lặng không bóng người; thế mà các Cha già vẫn hạnh phúc đi nốt cuộc đời dâng hiến trong niềm tin - phó thác”.

 

Ước chi, linh mục chúng ta luôn được như thế, luôn là những mục tử như lòng Chúa mong muốn, luôn là dấu chỉ đích thực của Lòng Thương Xót. Xin đọc lại Thánh Thi Kinh Sáng các Thánh Mục tử là tâm tình mời gọi gửi tới quý Cha :

 

Đây linh mục, những con người thánh hiến

Suốt cuộc đời, là chủ tế trung kiên,

Đem tình thương người mục tử nhân hiền

Dâng trọn vẹn cho đoàn chiên chẳng tiếc.

Hồng ân Chúa, những hồng ân đặc biệt,

Lãnh nhận rồi, phân phát cả cho dân,

Thắt đai lưng như đầy tớ chuyên cần

Chờ đợi chủ, tay cầm đèn sáng rực.

Không mỏi mệt nhưng kiên trì tỉnh thức,

Suốt đêm trường hay mãi tới canh khuya,

Miễn làm sao kịp khi chủ trở về

Mở ngay cửa nghênh đón Người vội vã.

Vinh tụng Chúa Cha, Vua Trời cao cả,

Cùng Chúa Con, Đấng chuộc tội cứu đời,

Và Thánh Thần, lửa yêu mến sáng soi,

Hằng hiển trị bây giờ và mãi mãi.

            Giờ này, muốn cùng anh em chúng ta đọc bài “Điều con xin Chúa”;

                              Con xin Chúa lấy đi sự kiêu ngạo ở trong con, và Chúa nói: không/ Chúa nói rằng” sự kiêu ngạo không phải để Chúa lấy đi, nhưng là để con từ bỏ.

                              Con xin Chúa chữa lành sự tật nguyền của con, và Chúa nói: không/ Chúa nói rằng: tinh thần mới là sự tuyệt hảo, còn thân xác chỉ là tạm thời.

                              Con xin Chúa giúp con đừng gặp chước cám dỗ, và Chúa nói: không/ Chúa nói rằng : Cám dỗ sẽ dạy con biết con là ai, và giúp con biết nương tựa vào Chúa mà thôi.

                              Con xin Chúa ban cho con hy vọng, và Chúa nói: không/ Chúa nói rằng: Hy vọng sẽ đến khi con biết cách tránh xa sự thất vọng.

                              Con xin Chúa ban cho con sự kiên nhẫn, và Chúa nói không/ Chúa nói rằng: Sự kiên nhẫn là sản phẩm của sự thống hối, nó không phải được ban tặng, nó phải được tìm kiếm.

                              Con xin Chúa ban cho con hạnh phúc, và Chúa nói không/ Chúa nói rằng: Chúa sẽ ban ơn lành, còn hạnh phúc tùy thuộc vào con.

Con hỏi Chúa rằng: Chúa có yêu con không? Và Chúa nói CÓ. Vậy con xin Chúa giúp con yêu người khác nhiều như Chúa yêu con. Chúa nói: cuối cùng con đã hiểu ý Cha”.

Ước mong, một vài góp nhặt trong những bài chia sẻ có thể mang lại chút gì đó cho quý Cha trong vai trò là những người lãnh đạo, phục vụ giáo xứ. Với chủ đề của tuần Tĩnh tâm Linh mục đoàn năm 2017 của Gp Qui Nhơn: “Cùng với Dân Thánh, Linh mục sống Mùa Chay”. Cách riêng, khi cảm nhận trách nhiệm là mục tử của Chúa Giêsu Kitô, chúng ta sẽ tái phát xuất lại từ Tin Mừng, từ Tha nhân là Dân của Chúa, và cụ thể tái phát xuất lại từ chính cam kết của mỗi anh em linh mục chúng ta trong ngày chịu chức Linh Mục để không chỉ làm cho dung mạo của linh mục luôn tràn ngập tinh thần Phúc Âm hơn, nhưng còn làm cho bản thân linh mục chúng ta bộc lộ chính xác và sinh động hình ảnh của Đức Kitô Mục Tử Nhân Lành.

Cầu chúc quý Đức Cha, quý Cha, luôn tràn đầy Hồng ân Thiên Chúa, luôn là Nhân chứng của Tin-Yêu-Hy Vọng phán ánh Niềm vui Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô nơi Dân của Ngài.

 

                                                    TGM Qui Nhơn, từ 06 tới 10 tháng 03 năm 2017

                                                                             +Giuse Đặng Đức Ngân

                                                                        Giám mục Giáo phận Đà Nẵng

 

 

[1] http://suckhoedoisong.vn/anh-sang-voi-suc-khoe-n37893.html

                                                                                    

[2] Suy-niem-Chu-Giai-Tin-Mung-Chua-Nhat-IV-Mua-Chay-Lm-FX-Vu-Phan-Long-ofm-4974

[3] http://netnews.vn/Me-thien-nhien-dang-noi-gian-voi-nguoi-Viet-nhu-the-nao-xa-hoi-1-16-1132152.html

[4] http://tuoitre.vn/tin/goc-anh-trang-chu/20160711/thien-nhien-noi-gian/1134484.html

[5] http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20110916/12618

Tác giả bài viết: + Giuse Đặng Đức Ngân

 Tags: tĩnh tâm

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

lich cong giao 2022 - 2023
tapsanmucdong
THỐNG KÊ
  • Đang truy cập180
  • Máy chủ tìm kiếm17
  • Khách viếng thăm163
  • Hôm nay22,168
  • Tháng hiện tại498,119
  • Tổng lượt truy cập28,813,488

Chúng tôi trên mạng xã hội

CÁC GIÁO HẠT
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây