Trang mới   https://gpquinhon.org

Các bài suy niệm Chúa Nhật XXX TNA

Đăng lúc: Thứ sáu - 24/10/2014 12:44
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN - A
Lời Chúa: Xh. 22, 20-26; 1Tx. 1, 5c-10; Mt. 22, 34-40


MỤC LỤC
1. Mến Chúa yêu người
2. Mến Chúa.
3. Giới răn tối thượng – Lm. Ignatiô Trần Ngà.
4. Tình yêu là lẽ sống – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền.
5. Giới Răn Yêu Thương.
6. Hai điều răn.
7. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu.
8. Lý do của tình yêu.
9. Giới răn mến Chúa và yêu người
10. Mến Chúa và yêu người
11. Trò chơi hòa bình.
12. Luật yêu mến.
13. Yêu thương là truyền giáo.
14. Điều răn nào trọng nhất?.
15. Hàng ngàn giới răn?.
16. Giới luật thứ nhất và trên hết – Lm. An Phong.
17. Mến Chúa yêu người
18. Yêu thương.
19. Yêu thương.
20. Luật trọng đại nhất
21. Lạy Chúa, xin giúp con yêu mến Chúa.
22. Điều răn trọng nhất - JKN..
23. "Ngừng lại!".
24. Điều răn trọng nhất – Lm PX. Vũ Phan Long
25.Phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự-Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

26. Cốt Lõi Của Lề Luật-Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
27.Cốt Lõi Của Luật Là Lòng Mến- Jos Vinc Ngọc Biển
28. Mến Chúa Thể Hiện Qua Đức Yêu Người-Lm. Đan Vinh



 

1. Mến Chúa yêu người

Mở đầu đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Matthêu cho thấy một bầu khí tranh chấp và đố kỵ của người Do Thái. Kẻ thì theo nhóm biệt phái, người thì theo nhóm Sađốc. Bên này gài bẫy bên kia và hí hửng khi đối thủ lâm nạn. Từ lãnh vực chính trị xã hội cuộc tranh chấp lan sang phạm vi tôn giáo. Luật pháp có tới 613 khoản, gồm 248 lệnh truyền và 365 lệnh cấm. Những khoản nào là quan trọng nhất. Đó là một vấn đề nóng bỏng.
Tuỳ theo lập trường nghiêng về phụng vụ hay xã hội, đền thờ hay đền vua, mà người ta có thể biện minh cho thái độ của mình, biệt phái hay Sađốc, chống đối hay cộng tác với ngoại bang. Ai cũng muốn tranh thủ người khác về phe mình. Người ta muốn biết ý kiến của Chúa Giêsu, bởi vì lập trường của Ngài rất quan trọng, dân chúng sẽ tuỳ đó mà biểu lộ cảm tình của mình với phe nào, thế nhưng tuyên bố lập trường của mình cũng là điều nguy hiểm cho Ngài, bởi vì phe đối nghịch có thể dựa ào đó mà kết án Ngài.
Tuy  nhiên, đó chỉ là những suy tính của người ta. Đã nhiều lần họ gài bẫy Ngài. Nhưng chẳng có lần nào họ đã thành công. Hôm nay cũng vậy. Được hỏi ý kiến về giới răn quan trọng nhất, Ngài đã trả lời như hết mọi người Do Thái đạo đức: Ngươi phải kính mến Thiên Chúa hết lòng. Thế nhưng không dừng lại ở đó mà Ngài còn nói tiếp: Giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất đó là ngươi phải thương yêu anh em như chính mình ngươi. Ngài không đồng hoá hai việc mến Chúa và yêu người. Hai việc đó vẫn khác nhau và vì thế không được xao lãng nhiệm vụ nào. Đó là nét độc đáo của Chúa Giêsu.
Người ta vẫn nói phải mến Chúa và yêu người, phải có thiên đạo và nhân đạo, nhưng bình thường người ta vẫn coi đó là những nhiệm vụ xa rời nhau, không liên hệ gì với nhau. Người ta có thể mến Chúa trong nhà thờ và không thương người ở ngoài xã hội. Hoặc thương người ở ngoài xã hội nhưng lại không mến Chúa ở trong nhà thờ. Hơn nữa, người ta coi việc thương người chỉ là thứ yếu sánh với việc mến Chúa. Đối với Chúa Giêsu thì khác. Phải mến Chúa cũng như yêu người. Ưu tiên là mến Chúa, nhưng đồng thời cũng phải yêu người. Hay như thánh Gioan đã viết: Không thể có lòng mến Chúa, Đấng vô hình, nếu không thương người. Và khi dạy phải yêu người như chính bản thân, thì Chúa Giêsu không có ý bảo phải thương mình trước. Câu nói của Chúa Giêsu có nghĩa là phải yêu người hết lòng cũng như phải kính mến Chúa hết lòng.
Cuối cùng một nét độc đáo khác nữa trong câu trả lời của Chúa Giêsu là tất cả luật pháp và các tiên tri đều quy về sự mến Chúa và yêu người. Như vậy, không những tất cả 613 khoản luật, mà toàn thể lời giáo huấn đều nhằm phát triển lòng mến Chúa yêu người. Như thế vấn đề tranh chấp đã được giải quyết. Chẳng phe nào thắng. Phe nào cũng phải nỗ lực hơn để giữ trọn lề luật. Phe nào cũng đã lầm lạc vì đã không cọi trọng hai nhiệm vụ mến Chúa yêu người như nhau, cho nên đã làm mất quân bình, gây ra những lệch lạc trong đời sống. Đức Kitô đã đến để mang lại ơn cứu độ. Ai đón nhận Ngài thì phải mến Chúa. Ai đã mến Chúa thì cũng phải yêu người.

2. Mến Chúa

Có một chứng bệnh mỗi ngày một trở nên trầm trọng trong xã hội ngày nay, đó là chứng bệnh cô đơn. Thực vậy, giữa thời buổi kinh tế thị trường, người ta đổ xô về thành phố. Thế nhưng, dân số thành phố càng gia tăng thì chứng bệnh cô đơn lại càng trầm trọng. Người ta sống cách nhau chỉ một bức tường mà không hề biết đến tên tuổi của nhau. Trong một chung cư, kẻ ở lầu trên, ra vào cùng một lối mà chẳng biết đến kẻ ở lầu dưới. Mỗi người trở thành như một hòn đảo, một pháo đài biệt lập. Đời sống càng xô bồ chen chúc, thì con người lài càng cảm thấy cô đơn. Mặt trời dường như mỗi ngày một thêm nóng bức và oi ả, mà lòng người thì mỗi ngày một thêm lạnh lùng và băng giá. Thiên hạ đối xử với nhau ngày càng thêm hờ hững và xa lạ. Vậy đâu là phương thuốc trị liệu cho chứng bệnh cô đơn này?
Theo tôi nghĩ chúng ta không có một phương thuốc nào hiệu nghiệm cho bằng hãy mến Chúa và yêu người. Hay như Chúa Giêsu đã phán qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Giới răn thứ nhất là hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng, còn giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là hãy yêu thương tha nhân như chính mình. Tuy nhiên, đây không phải là hai giới răn riêng biệt, nhưng chỉ là một giới răn duy nhất. Yêu người chỉ là sự biểu lộ và hậu quả tất nhiên của lòng mến Chúa. Có yêu người thì mới có thể mến Chúa. Và ngược lại, có mến Chúa thì mới có thể yêu người.
Từ đó chúng ta suy ra: nguyên nhân sâu xa nhất tạo nên chứng bệnh cô đơn, chínhy là vì con người đã xa lìa Thiên Chúa. Thực vậy, cùng với những thành quả của khoa học, con người đã muốn truất phế Thiên Chúa, họ muốn nói lên như dân Do Thái ngày xưa: Chúng tôi không muốn nó cai trị trên chúng tôi. Hẳn chúng ta còn nhớ khi phi thuyền Spoutnick được phóng lên không gian và trở về địa cầu, phi hành gia Gargarine đã tuyên bố với báo chí: Từ nay sẽ không còn ai dám nói rằng có một Thiên Chúa điều khiển trăng sao nữa. Thế nhưng, nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy dăm ba chiếc phi thuyền nhỏ xíu di chuyện trong một khoảng thời gian nào đó trên không trung, làm sao có thể sánh ví với hàng triệu triệu vì sao quay cuồng trên bầu trời, không bằng một hạt cát trong sa mạc, không bằng một giọt nữa giữa biển khơi. Chính vì thế, Carnégie đã nói: Về phương diện khoa học kỹ thuật, loài người đã tiến được những bước khá cao, nhưng về phương diện tinh thần và tôn giáo, họ vẫn còn dậm chân trong một tình trạng ấu trĩ. Chúng ta có tiền nhiều, có áo tốt, có nhà cao, có xe xịn…nhưng lại thiếu bồi dưỡng về tình thần vì con người thời nay đã mất niềm tin vào Thiên Chúa. Niềm tin sẽ là như khí trời, thiếu nó chúng ta sẽ bị ngột ngạt và căng thẳng. Không tin vào Thiên Chúa là nguồn mạch mọi tình thương, chúng ta cũng không thể nào tin vào tình người một cách chân thành và bền bỉ. Vì lòng yêu người chỉ là hoa trái của tình mến Chúa mà thôi.
Bởi đó, ngày nay hơn bao giờ hết, con người phải quay trở về cùng Thiên Chúa, như lời bác học Von Braun đã tuyên bố: Nhờ những hiểu biết về không gian, nhiều người ngày nay cho rằng chúng ta cần phải tin có Thiên Chúa hơn cả những người sống trong thời trung cổ. Bởi đó, những kẻ coi khoa học là chủ tể của con người, thì chỉ biểu lộ sự nông cạn, hẹp hòi của mình mà thôi. Chính vì thế, Pascal đã nói: Khoa học nông cạn làm cho con người xa lìa Thiên Chúa, nhưng khoa học khôn ngoan sẽ dẫn đưa con người tới gần Ngài.
Một khi đã trở về cùng Thiên Chúa, một khi đã tới gần Ngài, chúng ta sẽ không còn cô đơn và tuyệt vọng, nhưng sẽ tràn đầy niềm hy vọng như lời Thánh Vịnh 17 đã diễn tả: Dù có đi giữa bóng tối hãi hùng của sự chết, tôi không còn lo sợ, vì Chúa ở cùng tôi. Hơn thế nữa, một khi đã trở về cùng Thiên Chúa, một khi đã tới gần Ngài, chúng ta mới tìm thấy được cái nền tảng vững chắc, cũng như những giá trị siêu nhiên cho vệc yêu người. Thực vậy, tại sao chúng ta lại phải yêu thương người khác? Vì có chung một Thiên Chúa là Cha, nên chúng ta là anh em. Bởi đó phải yêu thương nhau. Ngoài ra những hành động bác ái và yêu thương còn có một giá trị vĩnh cửu, bởi vì khi giúp đỡ người khác là chúng ta đã giúp đỡ cho chính Chúa vậy. Trong ngày phán xét, Ngài sẽ tra hỏi chúng ta về vấn đề này, và rồi dựa vào đó mà ấn định số phận đời đời của mỗi người chúng ta.
 

3. Giới răn tối thượng – Lm. Ignatiô Trần Ngà

(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Người Do-Thái ngày xưa bị trói buộc bởi 613 khoản luật, gồm 365 luật buộc và 248 luật cấm. Tuân giữ bấy nhiêu khoản luật là một ách nặng không ai mang nổi, và giữa một rừng luật lệ như thế, việc tìm cho ra đâu là giới luật quan trọng hàng đầu mà mỗi người phải ưu tiên thực hiện là vấn đề không dễ. Đây cũng chính là vấn nạn mà một người thông luật đặt ra với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?"
Chúa Giêsu đáp: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình."
1. Giới răn yêu thương, tuy hai mà một
Nhiều người vẫn tưởng rằng giới răn mến Chúa và giới răn yêu người là hai giới răn khác biệt, nhắm về hai đối tượng khác nhau: điều răn mến Chúa quy về Thiên Chúa và điều răn yêu người quy về con người.
Thực ra, hai giới răn nầy cùng đều quy về một mối: đó là yêu mến Thiên Chúa đang hiện diện nơi những con người đang sống chung quanh, hay nói khác đi, yêu thương phục vụ những người chung quanh là phụng sự Thiên Chúa.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu xác nhận hai giới răn nầy không khác biệt nhau khi Người nói: "điều răn thứ nhất là ngươi phải yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình" (Mt 22, 39).
Qua dụ ngôn về "cuộc phán xét cuối cùng", Chúa Giêsu đồng hoá giới răn yêu người với giới răn mến Chúa: những ai cho những kẻ đói khát vất vưởng đầu đường xó chợ một bữa ăn thì Chúa Giêsu nói là họ cho Người ăn; những ai cho những kẻ rách rưới hay mình trần một vài tấm áo thì Chúa Giêsu tuyên bố là họ đã cho Người mặc; những kẻ giúp đỡ những người phiêu cư, lang bạt không nhà có chỗ trọ qua đêm thì Chúa Giêsu gọi họ là đã cho Người trú ngụ... (Mt 25, 35-36) và những người đó được Chúa Giêsu khen ngợi là "những kẻ được Cha Ta chúc phúc" và được Người mời "đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho họ từ thuở tạo thiên lập địa" (Mt 25, 34).
Chúa Giêsu cũng long trọng khẳng định rằng khi người ta làm bất cứ điều gì cho những anh em chung quanh là làm cho chính Người. (Mt 25,40)
Thế nên, hai giới răn nầy không khác biệt nhau, vì thực thi giới răn yêu người (giới răn thứ hai) cũng là hoàn thành giới răn mến Chúa (giới răn thứ nhất). Vậy thì tuy được kể là hai, nhưng hai giới răn nầy cũng quy về một mối: tuy hai mà một.
Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô tái khẳng định điều đó: "Ai yêu thương người (điều răn thứ hai) thì đã chu toàn Lề Luật" (tức là đã giữ trọn tất cả các điều răn, kể cả điều răn thứ nhất là mến Chúa) (Rm 13, 8).
2. Giới răn yêu thương là trung tâm của các giới răn khác
Hai giới răn nầy là trung tâm của mọi giới răn, vì tất cả các giới răn khác đều quy hướng về hai giới răn quan trọng nầy; đồng thời đây cũng là giới răn tối thượng bao trùm hết mọi giới răn khác. Vì thế, ai giữ trọn giới răn nầy thì được xem là đã giữ tròn tất cả các điều răn khác.
Thánh Phao-lô khẳng định như thế trong thư gửi tín hữu Rô-ma: "Thật thế, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời nầy: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy" (Rm 13, 9-10)
Và Chúa Giêsu, qua trang Tin Mừng hôm nay, cũng xác nhận như thế: "Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy". (Mt 22, 40)
* * *
Xưa kia, đang khi quân binh Israel và quân binh Phi-li-tinh giàn binh bố trận để giao chiến với nhau, thì Gô-li-át, một chiến sĩ khổng lồ vô địch trong hàng ngũ Phi-li-tinh đứng ra thách thức với toàn chiến binh Israel: "Các ngươi hãy chọn lấy người khoẻ nhất ra đây giao chiến tay đôi với ta, (không cần hai phe phải dốc toàn quân giao chiến làm gì cho hao binh tổn tướng). Nếu nó hạ được ta thì chúng tao sẽ làm nô lệ chúng bây. Còn nếu ta hạ được nó, thì chúng bây sẽ làm nô lệ hầu hạ chúng tao" (I Samuen 17, 9-10)
Sau đó, Đavít đã thay mặt toàn quân Israel chiến đấu tay đôi với Gô-li-át và đã hạ sát được y ngay từ phút đầu bằng một phát ná bắn đá rồi giật lấy gươm của y mà chặt đầu y.
Thắng được tên Gô-li-át là chiến thắng toàn thể quân binh Phi-li-tinh.
Sự kiện nầy minh họa cho vấn đề nầy là: nếu chúng ta chu toàn giới răn chủ chốt là giới răn yêu thương thì chúng ta đã giữ tròn các giới răn khác.
Muốn chế ngự rắn độc, phải cố tóm cho được cái đầu.
Muốn chinh phục toàn quân thì phải chiếm được bộ chỉ huy.
Muốn giữ tròn lề luật, hãy bắt đầu tuân giữ giới răn yêu người, vì "yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy" (Rm 13, 10).

4. Tình yêu là lẽ sống – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Đã có lần Đức Cố Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận từng nói với Bill Gate rằng: "Sự văn minh đích thực là không để ai ở lại phía sau". Và Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolo II cũng nói: "Sự văn minh đích thực là phục vụ sự sống". Thế nhưng, "những điều trông thấy mà đau đớn lòng". Một thế giới quá chênh lệch giầu nghèo. Một thế giới quá đề cao đồng tiền mà quên cả lương tri con người. Một thế giới lấy kinh tế làm đầu nên đã làm đảo lộn biết bao thuần phong mỹ tục, và những giá trị đạo đức truyền thống của các tiền nhân. Khoa học tiến bộ, nhưng đạo đức và phong hoá xuống cấp trầm trọng. Sự tiến bộ của khoa học dường như đang giúp sức cho sự dữ gia tăng. Khoa học tiến bộ đang phục vụ cho văn hoá sự chết hơn là phục vụ cho văn hoá sự sống. Người ta tìm muôn nghìn cách thức để lừa đảo, gian manh và truỵ lạc. Đứng trước viễn cảnh đen tối của xã hội hôm nay, Sĩ Phu Bắc Hà đã đúc kết thành bốn câu thơ:
Nhân phẩm từ đây giảm giá rồi
Chỉ còn lương thực tăng giá thôi
Lương tâm bán rẻ hơn lương thực
Chân lý chân giò một giá thôi!
Một thế giới thượng vàng hạ cám đã làm lệch đi rất nhiều những giá trị của cuộc sống. Một thế giới xem ra những nghĩa cử yêu thương thật hiếm hoi. Đó chính là một thách đố cho người ky-tô hữu chúng ta. Liệu rằng chúng ta có dám sống triệt để giới răn mến Chúa yêu người giữa một xã hội loại trừ Thiên Chúa và thiếu thốn tình người hay không? Liệu rằng chúng ta có dám chịu thiệt thòi để người khác hưởng thụ trên lòng quảng đại của chúng ta hay không? Liệu rằng chúng ta có dám yêu người khi mà người ta đang chơi xấu, đang lợi dụng, đang làm hại chúng ta? Đây là một thách đố và cũng là đòi hỏi triệt để, vì căn tính của người môn đệ Chúa là "yêu mến tha nhân như chính mình". Vì tình yêu là lẽ sống, là hơi thở của người ky-tô hữu. Không có tình yêu thì sức sống của người tín hữu đã không còn. Không có lòng quảng đại thì không còn là nhân chứng cho Tin mừng Nước Trời của Chúa. Chúng ta không thể nói yêu Chúa mà trong lòng vẫn còn thù ghét anh em của mình. Chúng ta phải vượt lên trên lòng ích kỷ, sự hẹp hòi của nhân thế để làm chứng cho một tình yêu nhân ái, bao dung và vị tha.
Đây chính là sứ điệp mà Tin Mừng hôm nay muốn loan báo. Chúa mời gọi chúng ta hãy yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Đồng thời Ngài cũng đòi buộc chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính mình. Chính Thầy Chí Thánh Giêsu đã làm gương cho chúng ta. Chính Ngài khi bị treo trên thập tự giá đã giới thiệu cho nhân thế một tinh yêu tinh ròng đến nỗi "dám chết cho người mình yêu". Ngài đã chọn thập tự giá làm biểu tượng cho tình yêu tự hiến của mình. Với thanh dọc, Chúa chấp nhận cực hình để tôn vinh Chúa Cha. Với thanh ngang, Ngài muốn ôm trọn nhân loại trong tình thương của Chúa. Người ky-tô cũng được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Thầy Giêsu khi chúng ta sống tôn vinh Chúa Cha, và yêu mến anh em như chính mình.
Chính tình yêu đó sẽ giúp chúng ta vượt thắng những tham lam bất chính, những thói hại người hại đời để tìm tư lợi riêng cho bản thân mà người đời vẫn đang sống. Có thể là người, chúng ta cần địa vị, cần danh vọng nhưng vì lòng yêu mến Chúa chúng ta không thể bán rẻ lương tậm, không làm hại đồng loại. Có thể chúng ta cũng cần của cải để sinh sống, nhưng vì Chúa, chúng ta biết sống quảng đại để mua lấy hạnh phúc Nước Trời. Có thể đồng loại, vẫn mưu toan làm hại chúng ta, nhưng vì Chúa chúng ta nhịn nhục và nhẫn nại với nhau trong yêu thương và tha thứ.
Như vậy, chỉ có ở trong tình yêu Chúa, chúng ta mới dám sống yêu thương đồng loại như chính mình. Chính nhờ tình yêu Chúa, sẽ giúp chúng ta trao ban sự sống sung mãn cho nhân thế qua những nghĩa cử yêu thương, bác ái và vị tha. Chính tình yêu đối với Chúa, sẽ giúp chúng ta sống nhân ái và bao dung với tha nhân là hình ảnh của Ngài.
Ước gì giữa một thế giới đang băng hoại về tình người, chúng ta hãy thắp lên ngọn lửa của yêu thương, để sưởi ấm cho những ai đang cô đơn, thất vọng vì thiếu vắng tình thương, sự cảm thông và nâng đỡ của anh em. Ước gì giữa một thế giới đang bán rẻ lương tri, người ky-tô hữu hãy biết sống tôn trọng lẫn nhau, biết sống cho tình người cao quý, hơn là những của cải vật chất tầm thường. Ước gì người ky-tô hữu chúng ta, đừng vì danh lợi thú mà đánh mất nhân phẩm con người là hình ảnh Thiên Chúa. Ước gì giữa một xã hội mà chân lý bị vùi giập, chúng ta dám sống cho sự thật, cho dẫu rằng, có bị nghi kỵ, hiểu lầm, kết án và tẩy chay. Giữa một thế giới mà người ta có thể nhân danh quyền lợi của mình để giết hại người khác một cách phi nhân, ác đức, đặc biệt là các thai nhi vô tội, chúng ta hãy sống theo gương Thầy Giêsu dám chết cho người minh yêu, dám sống mình vì mọi người, và dám trở nên mọi sự cho mọi người như Thầy Giêsu.
Nguyện xin Chúa là tình yêu, xin uốn lòng chúng con nên giống trái tim yêu thương của Chúa. Amen.

5. Giới Răn Yêu Thương

Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/8/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ tại Nhật, đó là "Sư máy". Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi đưa lên, một tay thì gõ mõ. Mỗi vị sư máy có thể cầu kinh không biết mỏi mệt, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật. Sáng kiến này được đưa ra nhằm đáp ứng cho nhu cầu ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật. Tuy nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận: những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương.
Yêu thương là đặc điểm của con người. Thú vật có thể có cảm giác, nhưng đó không hẳn là yêu thương. Chỉ có con người được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu mới thực sự được mời gọi yêu thương mà thôi.
Tin Mừng hôm nay nhắc lại cho chúng ta ơn gọi cao cả của con người. Trả lời cho thắc mắc của luật sĩ, Chúa Giêsu đã thu tóm tất cả lề luật thành một giới răn duy nhất là mến Chúa và yêu người. Hai mệnh lệnh này là một giới răn duy nhất, bởi vì không thể kính mến Chúa mà lại ghét bỏ hình ảnh của Ngài là con người, cũng như không thể yêu thương con người mà lại không nhận ra và yêu mến Thiên Chúa là nguồn mạch tình yêu chân thật. Tách biệt hai mệnh lệnh ấy là chối bỏ tình yêu. Các luật sĩ và các biệt phái thời Chúa Giêsu quả là những người đạo đức: họ ăn chay, cầu nguyện và tỏ ra yêu mến Thiên Chúa hơn ai hết; thế nhưng Chúa Giêsu đã điểm mặt họ là những kẻ giả hình, bởi vì lòng yêu mến Chúa nơi họ không được thể hiện bằng tình yêu đối với tha nhân. Chúa Giêsu còn gọi họ là những mồ mả tô vôi, bên ngoài thì bóng loáng, nhưng bên trong thì thối rữa. Có thể so sánh thái độ giả hình ấy với một người máy: người máy có thể làm được nhiều cử chỉ ngoạn mục, nhưng không có một tâm hồn để yêu thương thực sự.
Yêu thương là kiện toàn lề luật; yêu thương là cốt lõi, là linh hồn của Đạo. Đi Đạo, sống Đạo, giữ Đạo, xét cho cùng chính là yêu thương; không yêu thương thì con người chỉ còn là một thứ người máy vô hồn. Thánh Gioan Tông đồ, người đã suốt đời sống và suy tư về tình yêu, vào cuối đời, ngài đã tóm gọn tất cả thành một công thức: "Thiên Chúa là Tình Yêu", và ngài dẫn giải: "Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Đấng nó không thấy".
Nguyện xin cho cuộc sống của chúng ta ngày càng được thanh luyện và gần gũi hơn với cốt lõi của Đạo là Yêu Thương.

6. Hai điều răn

(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Chúng ta thường ngại xét mình trước khi xưng tội. Nếu xét mình sơ sài dựa trên Mười Điều Răn, có khi ta thấy mình chẳng có tội gì nghiêm trọng: không trộm cắp, không tham lam, không giết người... Thật ra xét mình không phải là làm bản tự kiểm trước một danh sách những luật cấm và luật buộc, cho bằng là đặt mình trước Thiên Chúa và tha nhân.
Tôi phải thành thật tự hỏi: Tôi có thực sự yêu mến Thiên Chúa không? Tôi có thực sự yêu mến anh chị em tôi không? Tất cả điều răn được tóm trong một động từ: yêu.
Tình yêu là cốt lõi của đời sống Kitô hữu, vì Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4,8). Yêu là bước vào một đại dương mênh mông, là dấn thân trên một con đường dài hun hút. Chúng ta chẳng bao giờ thấy mình yêu đủ. Tình yêu cứ vẫy gọi ở phía trước, và mở ra những cánh cửa không ngờ. Giới hạn tình yêu là bóp chết tình yêu.
Chẳng có động từ nào bị hiểu sai cho bằng động từ yêu. Báo chí phim ảnh làm cho ta nghĩ rằng yêu chỉ là chuyện quan hệ giữa hai cô cậu. Hành vi chiếm đoạt theo bản năng lại được gọi là yêu. Chúng ta cần trả lại ý nghĩa cao đẹp cho động từ này. Yêu mến Thiên Chúa là điều răn số một. Không phải chỉ dành cho Ngài phần lớn trái tim, Ngài đòi tất cả trái tim của tôi, tất cả con người của tôi. Hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Ai trong chúng ta dám tự hào mình đã sống trọn vẹn điều răn thứ nhất?
Càng lúc tôi càng thấy Chúa bị mất chỗ trong tim tôi. Tôi không có giờ cầu nguyện và tĩnh tâm. Chúa Nhật là ngày tranh thủ làm thêm. Mối lo toan quá mức về cuộc sống vật chất làm đời sống thiêng liêng bị sa sút. Điều răn thứ hai cũng quan trọng không kém: yêu người thân cận như chính mình. Chúng ta yêu bản thân mình biết chừng nào! Chúng ta chỉ muốn điều tốt cho mình đến nỗi lắm khi làm điều xấu cho người khác. Cần coi tha nhân như một cái tôi khác của mình. Họ cũng cần được tôn trọng, cảm thông và yêu mến. Có biết bao thiệt hại tôi đã gây cho anh em tôi. Thái độ sống của tôi đã làm khổ bao người khác.
Hai điều răn trên không thể tách rời nhau. Yêu Thiên Chúa chắc chắn dẫn đến yêu tha nhân. Tình yêu tha nhân cần đặt nền trên Thiên Chúa. Người Kitô đi từ nhà thờ ra chợ rồi lại từ chợ vào nhà thờ. Ngoài chợ, họ gặp Chúa nơi anh em. Trong nhà thờ, họ gặp anh em nơi Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
* Hai từ "Tình Yêu" đã bị lạm dụng. Theo ý bạn, một tình yêu thực sự phải có những nét gì?
* Trong kinh nghiệm sống đức tin của bạn, có khi nào bạn thấy mình bị giằng co giữa tình yêu đối với Chúa và tình yêu đối với tha nhân không? Bạn đã giải quyết ra sao?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
Lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau để làm thành một vòng tròn khép kín. Sau đó chúng con hiểu rằng cần phải buông tay nhau để nhận những người bạn mới, để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng và trái tim được lớn lên mãi.
Lạy Chúa, chúng con biết rằng cần phải nối vòng tay lớn xuyên qua các đại dương và lục địa. vòng tay người nối với người, vòng tay con người nối với Tạo Hoá.
Chúng con thích Chúa đứng chung một vòng tròn với tất cả loài người chúng con, nắm lấy tay chúng con và đưa chúng con lên cao.
Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá giúp chúng con biết nắm lấy tay nhau và nhận nhau là anh em.

7. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu

Theo truyền thống hội đường Do thái, Luật gồm 613 điều răn. 365 điều cấm làm và 248 điều phải làm. Giữa một rừng điều răn như thế, người thông luật đã hỏi Đức Giêsu: “Điều răn nào trọng nhất trong Luật Môsê?” (c. 36). Đức Giêsu đã trả lời bằng một câu trong kinh Shema, kinh mà người Do thái phải đọc mỗi ngày. “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, với tất cả trái tim ngươi, tất cả linh hồn ngươi, tất cả trí khôn ngươi” (Tl 6, 5). Và Ngài còn thêm một điều răn thứ hai nữa (c. 39). “Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình” (Lv 19, 18). Tất cả Luật Môsê nằm trong hai điều răn đó. Hai điều răn được gói trong một động từ yêu. Mọi điều cấm làm và mọi điều buộc làm, đều bắt nguồn từ và qui về tình yêu.
Các bạn trẻ thường nghĩ yêu là chuyện dễ. Nhưng yêu với tất cả trái tim, tất cả linh hồn, tất cả trí khôn, tất cả sức lực, nghĩa là yêu với trọn cả con người mình, thì điều đó không dễ. Đối với người Do thái, trái tim là nơi phát sinh toàn bộ đời sống tinh thần. Yêu mến Thiên Chúa bằng tất cả trái tim của mình là để cho Ngài chi phối mọi tư tưởng, mọi ý muốn, mọi tình cảm. Tất cả đều nhằm làm cho Ngài được mọi người nhận biết và tôn vinh.
Yêu người thân cận như chính mình cũng là điều rất khó. Có bao người làm chúng ta đau khổ và bị xúc phạm. Yêu thương và tôn trọng họ đòi một sự từ bỏ mình không nhỏ. Nhưng chúng ta cũng dễ coi mình là trung tâm và qui tất cả về mình. Chúng ta lạnh lùng trước nỗi đau, thiếu sẻ chia và độc đoán, đôi khi dùng tha nhân như phương tiện lót đường để ta tiến thân. Nói chung, dù yêu Chúa hay yêu người, chúng ta cũng phải ra khỏi mình, trao đi chính mình và chấp nhận mọi hy sinh mà tình yêu đòi hỏi.
Đức Giêsu đã tóm Luật Môsê trong động từ yêu mến. Và Ngài đã hoàn thiện Luật này bằng cách đẩy yêu mến đến cùng. Kitô hữu chẳng những yêu mến Thiên Chúa với trọn con người mình, mà còn được mời yêu mến Đức Giêsu trên mọi thụ tạo khác, trên mọi của cải, trên những người ruột thịt, và trên cả mạng sống. Kitô hữu là người mang mối tình sâu đậm với Đức Giêsu, “Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20), đến nỗi họ có thể tuyên xưng như Phêrô: “Thầy biết con mến Thầy.” Đức Giêsu cũng không chỉ đòi yêu tha nhân như chính mình. Ngài còn đòi ta phải yêu như Ngài đã yêu (Ga 13, 34-35). Một tình yêu tha thứ đến vô cùng, một tình yêu đối với cả kẻ thù, một tình yêu phục vụ như người tôi tớ, một tình yêu dám hiến mạng. Kitô hữu tự bản chất là người biết yêu và cuộc đời chỉ là tình yêu. Tình yêu đích thực với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em. Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa. Chỉ mong đời tôi đong đưa giữa hai tình yêu đó, để chúng nên một tình yêu.
Cầu nguyện:
Con đã yêu Chúa quá muộn màng! Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính, vừa luôn mới mẻ, con đã yêu Chúa quá muộn màng! Bấy giờ Chúa ở trong con mà con thì ở ngoài, con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài. Con thật hư hỏng, khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp. Bởi thế, bấy giờ Chúa ở với con mà con lại không ở với Chúa. Các thụ tạo xinh đẹp kia cứ giữ con ở xa Chúa, trong khi chúng hiện hữu được là nhờ Chúa. Chúa đã gọi con, đã gọi to và phá tan sự điếc lác của con. Chúa đã soi sáng và xua đi sự mù lòa của con. Chúa đã tỏa hương thơm ngát để con được thưởng thức, và giờ đây hối hả quay về với Chúa. Con đã nếm thử Chúa và giờ đây con đói khát Người. Chúa đã chạm đến con, nên giờ đây con nóng lòng chạy đi tìm an bình nơi Chúa. (Thánh Âu-Tinh)

8. Lý do của tình yêu

"Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi, và yêu người thân cận như chính mình".
Tác giả Lovasik trong quyển "Dụ ngôn đời thường" của Rev. Frank Mihalie - SVD có kể câu chuyện về đại văn hào người Nga Tolstoy như sau:
Nạn đói lan tràn lãnh thổ. Một người ăn xin nơi góc phố tiến tới gần Tolstoy. Tolstoy dừng lại, sờ khắp mọi túi nhưng không tìm được đồng nào. Thật lòng thương cảm, ông nói: "xin đừng giận tôi, người anh em ạ, tôi không có đồng nào ở đây". Người ăn xin ngước mặt đáp: "ông gọi tôi là người anh em thì cũng là món quà lớn lắm rồi".
Vâng, yêu thương không nhất thiết phải được đánh giá bằng những tài sản vật chất lớn lao mà hơn thế đó là lòng thương cảm của chúng ta dành cho nhau. Nhưng đôi lúc bạn sẽ hỏi - sao phải yêu thương người khác trong khi họ không có quan hệ thân thuộc nào với mình? Hay tại sao phải yêu? Chẳng phải đó là một trong những thất tình sao? Giữa một xã hội kim tiền này mà còn yêu hết lòng thì dễ bị thua thiệt lắm. Nghĩ như vậy quả là thiển cận. Tôi sẽ cho bạn thấy có hai lý do để chúng ta phải yêu thương nhau như bài học của đoạn Kinh Thánh hôm nay.
Thứ nhất, vì chúng ta là con người. Tình yêu chỉ có duy nhất nơi con người. Ở các loài động vật tất cả hoạt động của chúng là do bản năng. Hơn nữa, hành động gọi là yêu thương của chúng chỉ xảy ra ở những thời điểm nào đó. Khi nhìn thấy cảnh tượng gà mẹ ủ con mình dưới cánh rất mẫu tử ấy, nhưng chỉ một thời gian ngắn. khi gà con đã đủ lông đủ cánh thì đường mẹ, mẹ đi, đường con, con đi. Các loài khác thì cũng không có gì lạ hơn. Còn ở con người, tình yêu bao hàm nhiều góc độ và ngữ cảnh. Tình yêu gia đình, dân tộc, quê hương, vợ chồng, anh em, bạn hữu..., bao trùm lên tất cả các quan hệ tình cảm trên là tình yêu của con người dành cho nhau. Yêu tới cùng, yêu mãnh liệt, yêu đến hy sinh bản thân cho đối tượng yêu thương của mình. Đó là một tình yêu thật phát xuất từ khối óc có lý trí, biết suy tư, chọn lựa, từ trái tim biết rung cảm. Khi con người không còn biết yêu thương thì không còn là con người nữa. Chẳng vậy mà khi có ai đó làm chuyện bất nhân người ta kết luận "nó mất hết tính người". Chỉ nơi con người tình yêu mới được thực hiện phong phú nhất, đẹp nhất và trọn vẹn nhất. Cho nên, không sống yêu thương tức là phủ nhận nhân tính của mình.
Thứ hai, chúng ta phải yêu thương nhau vì "tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa" (1 Ga 4,7). Thiên Chúa đã yêu thương ta trước và tự trở nên gương mẫu của tình yêu cho chúng ta. Ngài đã để máu và nước từ cạnh sườn mình đổ ra để nuôi dưỡng tình yêu nơi trái tim con người, cũng như gội rửa hận thù nơi lương tâm nhân thế. "Thật vậy, chính Đức Giêsu là bình an của chúng ta. Người đã hy sinh thân mình để phá vỡ bức tường ngăn cách là sự thù ghét (Eph 2,14). Mong ước và hy vọng duy nhất của Đức Giêsu không gì khác hơn là "các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương"(Ga15,12). Khi sống yêu thương tức là chúng ta thực hiện chúc thư và nguyện ước ấy, là đáp trả lời mời gọi yêu thương của Ngài, là hoạ lại hình ảnh của Thiên Chúa nơi trần gian, "với dấu này mà người ta sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là các con hãy yêu thương nhau"( Ga 13,35), là bày tỏ lòng tin tưởng vào Thiên Chúa - là đường, là sự thật, và là sự sống.
Tóm lại, yêu thương là một hoạt động tự nhiên mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người, và nơi tình yêu ấy ta còn thấy đó là một huyền nhiệm. Bởi không ai có thể sống mà không yêu. Do vậy, khi sống yêu thương chính là lúc ta bày tỏ rực rỡ nhất nhân tính và phẩm giá của một người con Chúa - Đấng yêu thương.

9. Giới răn mến Chúa và yêu người

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Trung Điểm)
Được một luật sĩ hỏi đâu là giới răn trọng nhất trong lề luật, Đức Giêsu trả lời: "Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình". Những lời nầy chúng ta đã biết đến từ nhỏ và được trích ra ở đầu bản luật Thiên Chúa đã ban cho toàn thể dân Do Thái (xem Đnl 6,5).
Đức Giêsu nói đến "lòng" theo nghĩa của Sách Thánh, như từ ngữ diễn tả thực tại sâu xa nhất của con người. "Yêu mến Chúa hết lòng" nghĩa là hướng toàn thể con người mình và hành động của mình về Thiên Chúa trong thái độ mến yêu.. Để giải thích rõ ràng hơn, Tin Mừng nhắc đến "hết linh hồn", nghĩa là với tất cả sự sống; "hết trí khôn" bao gồm tư tưởng và trí tuệ. Với những lời nầy, Tin Mừng không để ý đến những khả năng khác nhau của con người, cho bằng nhấn mạnh điều quan trọng duy nhất là yêu mến Chúa với toàn thể con người mình. Trong Sách Thánh, yêu mến Thiên Chúa không bao giờ được coi chỉ là một tình cảm hay một thực tại trừu tượng, mà có nghĩa là lắng nghe Chúa và đem thực hành lời Người dạy.
Khi trả lời cho vị kinh sư, Đức Giêsu tiếp tục nói là điều răn thứ hai là: "yêu mến người thân cận như chính mình". Điều răn ấy tóm tắt tất cả mọi điều răn khác. Như vậy, lòng yêu mến Chúa không kéo ta ra khỏi thế gian nầy, không cô lập ta trong sự sùng bái riêng tư. Hơn thế, lòng mến yêu ấy là nguồn liên tục và sức thúc đẩy ta yêu mến tất cả mọi người không trừ ai.
Chúng ta có khả năng yêu thương người khác như thế, chính vì chúng ta được Thiên Chúa yêu thương trước: "Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5,5). Do đó, lòng mến Chúa và yêu người ấy là bảo đảm duy nhất để tạo nên một xã hội trong đó con người được tôn trọng thực sự. Thực thế, Thiên Chúa là Cha của tất cả chúng ta, và chúng ta là anh em với nhau. Người là nền tảng cho sự bình đẳng và phẩm giá của mỗi con người. Lấy đi nền tảng đó, nhân loại sẽ trở thành kỳ thị chủng tộc, con người sẽ bị chà đạp, cách nầy hay cách khác, nơi bản tính của mình; sẽ nẩy sinh sự oán ghét và chia rẽ thành người trên kẻ dưới, kẻ giàu kẻ nghèo, da trắng da đen, đàn ông đàn bà, người tự do người nô lệ, v.v... Trái lại, khi yêu mến Thiên Chúa, chúng ta cũng sẽ yêu mến cha mẹ mình, vì Chúa muốn như vậy. Nếu yêu mến Chúa, chúng ta sẽ yêu mến bè bạn hay những người cộng sự, bởi vì họ là những anh chị em Chúa đã đặt bên cạnh chúng ta.
Nếu yêu mến Chúa, chúng ta sẽ yêu mến nghề nghiệp, công ăn việc làm của mình, bởi vì chúng là con đường mà Thiên Chúa vì yêu thương đã chuẩn bị cho chúng ta. Nếu yêu mến Chúa, chúng ta cũng sẽ yêu mến việc học hành của mình, bởi vì chúng ta muốn chuẩn bị chu toàn dự định Chúa dành cho đời ta. Nếu yêu mến Chúa, chúng ta sẽ yêu mến thể thao hoặc những lúc nghỉ ngơi giải trí, bởi vì biết rằng Chúa muốn chúng ta chăm lo cho sức khỏe của mình... Chỉ khi nào yêu mến như vậy, tâm hồn chúng ta mới không bị chia sẻ và lòng yêu mến của chúng ta sẽ không nửa vời.
Qua bí tích Rửa Tội chúng ta được đón nhận vào tình yêu Thiên Chúa. Mỗi lần tham dự Thánh lễ, chúng ta lại được tham dự vào Mình Máu Thánh Đức Giêsu, tham dự vào tình yêu dâng hiến của Người. Được Thánh Thể nuôi dưỡng, chúng ta có khả năng sống yêu thương như Chúa Giêsu dạy.

10. Mến Chúa và yêu người

Nhóm Sađốc chất vấn Chúa về sự sống lại đã bị Chúa bẻ gẫy không dám hỏi nữa. Nghe vậy bọn biệt phái muốn tấn công lại, cho nên một nhà thông luật đã đưa ra vấn đề để thử Chúa: Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất. Luật Do Thái gồm cả thảy 613 điều được chia thành 248 điều phải làm và 365 điều phải tránh. Đồng thời có những điều nặng và những điều nhẹ. Phạm những điều nhẹ thì chịu phạt đền tội, còn phạm những điều nặng, có thể bị án tử hình. Các nhà thông luật thường tranh luận với nhau xem điều luật nào quan trọng nhất.
Trước vấn nạn được đưa ra, Chúa Giêsu đã trả lời một cách rõ ràng và xác đáng: Ngươi hãy kính mến Chúa hết lòng. Đó là giới răn quan trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là yãy yêu thương anh em như chính mình. Chúa đem điều luật yêu người đặt ngang hàng với luật mến Chúa, đó là điểm đặc sắc trong những lời giảng của Người.
Lời xác quyết của Chúa thật minh bạch. Đi theo chiều hướng ấy, các tông đồ cũng nhấn mạnh, chẳng hạn thánh Gioan đã viết: Thiên Chúa là tình yêu. Ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa. Rồi thánh Phaolô cũng căn dặn: Anh em hãy mặc lấy đức ái, đó là giềng mối của sự trọn lành. Như vậy mến Chúa hết lòng và yêu anh em như chính mình, đó là đỉnh cao của sự thánh thiện và đó cũng là việc chúng ta cần thực hiện trong cuộc sống trần gian.
Nên thánh không phải là làm phép lạ, vì có vị thánh suốt đời chẳng làm một phép lạ nào cả. Nên thánh cũng không phải là không phạm tội bao giờ, vì có nhiều vị thánh đã sa ngã nặng nề như thánh Phaolô, thánh Augustinô. Nên thánh cũng không phải chỉ là ăn chay đánh tội, thức khuya dậy sớm, làm mòn mỏi thân xác. Thực hiện được những hy sinh to lớn ấy là điều đáng khen, đáng ca ngợi, nhưng không phải là điều cốt yếu của sự thánh thiện. Nên thánh cũng không hệ tại việc đọc kinh dài, xem lễ rước lễ hằng ngày và cầu nguyện lâu giờ. Những việc đạo đức này thật tốt, song chỉ là những phương tiện giúp chúng ta nên thánh chứ không phải là bản chất của sự thánh thiện.
Vì thế, sự thánh thiện cốt tại lòng mến Chúa và yêu người. Bất kỳ những gì, dù nhỏ bé, kín đáo, tầm thường đến đâu, song được làm vì lòng mến Chúa và yêu người, thì nó sẽ trở nên thánh thiện cho chúng ta. Bởi vậy, thánh Augustinô đã nói: Ama et fac quod vis, hãy yêu mến rồi làm gì cũng được.
Rất tiếc có những người đã uổng công xây căn nhà đạo đức thánh thiện của mình không đúng cách vì không có được lòng mến Chúa yêu người làm nền tảng, cho nên không bao lâu chiếc mặt nạ đạo đức bị rớt xuống, và họ chỉ là những kẻ giả hình, gian dối mà thôi. Chúa không kể thời gian lâu mau. Chúa không xét việc làm to nhỏ. Chúa không coi việc làm vất vả hay nhẹ nhàng, nhưng Chúa đo mọi hành vi chúng ta làm bằng tình yêu, Người dùng mức độ tình yêu để đánh giá và ấn định công trạng đời sống chúng ta. Bởi đó, yêu nhiều là làm nhiều, và làm nên công nghiệp của mình trước mặt Thiên Chúa.
 

11. Trò chơi hòa bình

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Ngày kia, ông Macsa, một nhà văn người Nga, đi ngang qua một sân chơi, ông dừng lại quan sát một đám trẻ em trạc tuổi lên 6 lên 7 đang chơi với nhau. Thấy chúng chơi trò gì là lạ, ông cất tiếng hỏi:
- Này các cháu, các cháu đang chơi trò gì thế?
Đám trẻ nhốn nháo trả lời:
- Chúng cháu chơi trò đánh nhau.
Nghe thế ông Macsa hơi cau mày, rồi gọi các em đến, ông ôn tồn giải thích:
- Tại sao các cháu chỉ chơi trò đánh nhau mãi. Các cháu biết chứ, đánh nhau hay chiến tranh có gì là đẹp đâu. Các cháu hãy chơi trò hòa bình xem nào.
Ông vừa dứt lời, một em bé reo lên:
- Phải rồi, tụi mình thử chơi trò hòa bình một lần xem sao.
Thế là cả bọn kéo nhau ra sân, chụm đầu vào nhau bàn tán. Thấy chúng chấp nhận ý kiến của mình, nhà văn hài lòng mỉm cười tiếp tục đi. Nhưng chưa được mấy bước ông nghe có tiếng chân chạy theo. Và chưa kịp quay lại, ông đã nghe giọng của một em bé hỏi:
- Ông ơi, trò chơi hòa bình làm sao? Chúng cháu không biết.
Thưa anh chị em, làm sao trẻ em biết chơi trò hòa bình, khi người lớn cứ chơi trò chiến tranh? Làm sao trẻ em biết chơi hòa bình, khi trong nhà, cha mẹ, anh chị lớn bất hòa, cãi cọ… khi ngoài xóm ngõ người lớn chửi bới, đánh nhau…? Làm sao trẻ em biết chơi trò hòa bình, khi chúng vẫn thấy trên Tivi, báo chí, những cảnh chiến tranh khốc liệt, khủng bố và chém giết dã man?
Dường như thế giới ngày nay chỉ muốn giải quyết những tranh chấp, những xung đột lan tràn bằng bạo động, bằng vũ khí giết người. Mặc dù thế giới đang có trong tay sức mạnh vạn năng của tình yêu, nhưng chỉ một ít người biết sử dụng:
- Mục sư Luther King, người da đen, đã sử dụng khí giới của tình yêu. Ông đã ngã gục, nhưng hàng triệu người da đen đã được đưng lên làm người như những người da trắng.
- Đức Giám Mục Đêmông Tutu, người Nam Phi, cũng đã đi theo vết chân của Ganđi và Luther King.
- Mẹ Têrêsa thành Calcutta cũng đang dùng khí giới của tình yêu để những người không nhà không cửa, những người hấp dẫn hối đầu đường xó chợ được sống và chết như những con người.
Tất cả những tấm gương đó trên đây chỉ là phản bội của một Tình Yêu trọn vẹn hơn. Đó là tình yêu của Đấng đã chịu chết cho người mình yêu. Chính Ngài đã dạy chúng ta điều luật của trò chơi hòa bình. Đó là tình yêu: Yêu Chúa và yêu người. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đáp lại vấn nạn của nhà thông luật Pharisêu về điều luật trọng nhất, bằng cách ghép lại hai điều luật của tình yêu: “Yêu Chúa với tất cả trái tim (Đnl 6,5) và yêu người như yêu mình” (Lv 19,18). Chúa Giêsu đã không đưa ra một điều gì mới mẻ. Nhưng cái độc đáo của Ngài đã cho thấy đâu là cái cốt yếu, cái quan trọng nhất của Luật Môsê: yêu Chúa hết lòng và yêu người như chính mình, cả hai điều luật đều có tầm quan trọng như nhau. Như thế, Ngài đã giải phóng con người khỏi một khối lượng lớn các điều răn (613 điều: 365 điều cấm làm, 248 điều phải làm), để rồi tập trung vào việc tuân giữ hai điều luật chủ yếu: Mến Chúa- Yêu người. Giữ được hai điều luật ấy là chu toàn tất cả pháp luật. Yêu người là thước đo lòng yêu mến Chúa. “Ai không yêu người anh em mình thấy trước mắt, tất cả cũng không thể yêu mến Thiên Chúa mà mắt mình không thấy được” (1Ga 4,20).
Thế nhưng, trong thực tế hằng ngày, có lẽ chúng ta thường quen tách rời Thiên Chúa ra khỏi yêu người; coi như hai điều luật hoàn toàn không liên hệ gì với nhau. Do đó, chúng ta có thái độ mâu thuẫn rõ rệt: làm việc gọi là đạo đức để yêu mến Chúa, nhưng đồng thời cũng làm những việc ám hại tha nhân để trục lợi hoặc ít ra cũng dửng dưng với những nhu cầu cấp bách của người khác. Chúng ta chỉ chú trọng đến việc gọi là mến Chúa mà không tha thiết gì đến việc thương người. Có khi chỉ mến Chúa yêu người vì có thể trục lợi được, chứ không phải vì đó là ý Chúa muốn, là bổn phận của con cái Chúa và vì là anh em với nhau. Mến Chúa bằng cách yêu tha nhân, yêu tha nhân là cách thế tỏ lòng yêu mến Chúa, đó là đều chúng ta phải qua tâm và áp dụng thực hành.
Tuy nhiên, chúng ta đừng quên: “Tình yêu tha nhân phải được nền trên tình yêu Thiên Chúa. Khi trái tim tôi thuộc trọn về Thiên Chúa thì ngay lúc ấy nó cũng thuộc trọn về tha nhân. Người ta chỉ có khả năng yêu tha nhân đến vô cùng khi được tình yêu Chúa chiếm hữu” (Rm 5,5). Trong Chúa, tôi bắt gặp tha nhân là anh em tôi. Trong Chúa, tôi cảm nhận được phẩm giá đích thực và trọn vẹn của một con người, dù đó là một người bệnh tật hay già yếu, một phạm nhân, một người mất trí, một thai nhi còn trong bụng mẹ, một thiếu nữ lầm lỡ, một người mắc bệnh Sida… Trong Chúa, tôi yêu mến họ và nhận ra chính khuôn mặt của Chúa Giêsu đang đau khổ, đói khát, trần trụi, yếu đau, ở tù, cô thế cô thân… (x.Mt 25,35-36).
Tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em. Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa, nguồn mạch tình yêu, để múc lấy ở đó sức mạnh hầu tiếp tục trao hiến. Đó là nhịp sống bình thường của người Kitô hữu: cứ đong đưa giữa hai tình yêu. Chính nhờ sự đong đưa này mà trái tim tôi được dần dần mở ra và trở nên giống như trái tim Chúa Giêsu trên Thập giá.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta chỉ là Kitô hữu đích thực khi sống bằng chính sức sống và tình yêu của Đấng đã sống và chết vì yêu thương ta. Chừng nào thế giới của người lớn chúng ta biết sống quảng đại yêu thương, biết giải quyết những tranh chấp không thể tránh được bằng đường lối ôn hòa, thông cảm và tha thứ, chừng đó thế giới trẻ thơ mới biết trò chơi hòa bình, mới triển nở được trong bầu khí hồn nhiên tươi sáng, hứa hẹn một tương lai huy hoàng cho gia đình, xã hội và thế giới.

12. Luật yêu mến

Người Do Thái có quá nhiều luật lệ. Họ lại có thái độ duy Lề Luật. Nên tỉ mỉ tuân giữ tất cả mọi điều. Không còn biết điều nào là chính điều nào là phụ nữa. Hôm nay, nhân một câu hỏi. Chúa Giêsu đã cho ta biết chỉ có một điều luật quan trọng: LUẬT YÊU MẾN. Luật này có 2 khía cạnh.
1) Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Nghĩa là yêu mến hết khả năng, hết sức lực. Ta phải yêu mến Chúa như thế thật hợp tình hợp lý.
Vì Chúa đáng yêu đáng mến vô cùng. Chúa là nguồn mạch mọi sự thiện hảo. Ngài là toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ. Nơi Ngài không có một tì vết, khuyết điểm nào. Trong đời sống ai cũng yêu thích những gì tốt đẹp. Chúa là Đấng vô cùng tốt đẹp. Yêu mến Ngài là điều tự nhiên. Ai hiểu biết cũng đều yêu mến Chúa.
Hơn nữa Chúa còn là Đấng sinh thành ra ta. Chính Chúa ban cho ta tất cả. Ta có mặt ở đời này là do ý định của Chúa. Tất cả nhừng gì chúng ta có và chúng ta là đều bởi Chúa. Chúa là vị ân nhân lớn nhất của ta. Yêu mến Chúa là việc làm không những tự nhiên mà còn là bổn phận nữa.
2) Yêu người thân cận như chính mình. Đó là điều răn thứ hai mà Chúa Giêsu nói cũng giống như điều răn thứ nhất. Thực ra đó chỉ là một điều răn vì những lý do sau:
Yêu Chúa và yêu người là hai khía cạnh của một tình yêu. Tình yêu chân thật là tình yêu không có giới hạn, không có loại trừ. Vì thế đã yêu Chúa thì phải yêu người. Nếu tình yêu bị giới hạn, có loại trừ thì sẽ trở thành giả tạo.
Tình yêu đối với tha nhân kiểm chứng tình yêu đối với Thiên Chúa. Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta nhận được từ nơi Người: Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1Ga 4,20-21).
Còn hơn thế nữa. Ai yêu anh em là yêu chính Chúa. Vì Chúa ở trong anh em. Hơn thế nữa, Chúa ẩn thân trong những anh em bé mọn nhất. Vì thế trong ngày phán xét Chúa nói với ta rằng: “Ta bảo thật cho các người: mỗi lần các người làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25-40).
Tất cả mọi điều răn khác đều quy về hai điều răn này. Nếu ta giữ trọn vẹn giới răn này, không những ta chu toàn Lề Luật mà còn góp phần xây dựng một thế giới mới, thế giới chan hòa yêu thương, chan hòa tình người. Và đó chính là khởi điểm của thiên đàng mai sau.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Yêu mến Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn. Bạn thấy điều này có hợp tình hợp lý không?
2) Tại sao ta phải yêu tha nhân?
3) Bạn có cảm nghiệm được niềm vui khi ta yêu thương không?
4) Bạn nghĩ thế nào về một thế giới trong đó chỉ có những người yêu thương nhau.
 

13. Yêu thương là truyền giáo

(Suy niệm của Lm JB. Nguyễn Minh Hùng)
"Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi. Và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi". Có bao giờ bạn tự hỏi xem, vì sao Chúa lại dạy phải yêu Chúa và yêu người? Lấy ví dụ: bạn có con đi học. Khi thấy nó lười học, thì nói với nó: "Con học bài đi, con phãi siêng học". Sở dĩ bạn bảo con mình chịu khó học là vì nó chưa chăm học. Chúa dạy loài người phải yêu Chúa yêu người vì loài người chưa yêu Chúa và cũng chưa yêu người. Hoặc chưa yêu một cách trọn vẹn như Chúa muốn. Yêu như Chúa muốn đó là: "Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khốn. Và yêu kẻ khác như yêu chính mình".
Yêu Chúa là phải yêu bằng cả tấm lòng, cả linh hồn, cả trí khôn. Tấm lòng, linh hồn, trí khôn là thành phần trọng yếu nhất của con người. Nếu thiếu tấm lòng, nghĩa là thiếu trái tim, con người chỉ là một cái xác. Nếu không có linh hồn, không phải là người nữa. Nếu thiếu trí khôn, dù mang hình dáng con người, người đó cũng trở nên ngu đần. Yêu Chúa bằng tất cả tấm lòng, cả linh hồn và trí khôn, yêu bằng tất cả thành phần chủ yếu của một con người là yêu vô cùng, yêu không tính toán, yêu Chúa một cách mạnh mẽ. Nhưng chỉ có lòng mến Chúa thôi, chưa đủ. Lòng yêu mến Chúa đòi phải có một giới răn khác bổ túc. Đó là yêu người. Yêu người cũng quan trọng không kém giới răn yêu Chúa. Chính Chúa Giêsu nói: "Giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất là: ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi". Yêu Chúa và yêu người luôn đi đôi với nhau. Nếu nói rằng yêu Chúa mà trong thực tế không yêu tha nhân, không giúp đỡ người khác, là nói dối.
Ngược lại, chính khi yêu thương và giúp đỡ người khác là bằng chứng chứng tỏ mình yêu mến Thiên Chúa.
Tuần trước chúng ta cử hành ngày thế giới truyền giáo. Nhưng tôi nghĩ, sẽ không có truyền giáo đúng nghĩa nếu không biết yêu thương. Lòng yêu thương anh em là phương thế truyền giáo hữu hiệu, vì nhân loại luôn luôn cần đến tình yêu. Chính vì đặt tình yêu lên trên mọi chuẩn mực của một hành vi đạo đức nào đó, nên đạo Công giáo cũng là đạo của tình yêu. Không thể nói với ai, rao giảng cho ai về tình yêu mà bản thân ta không hề biết yêu thương. Đó là sự mâu thuẫn lớn mà ta phải trút bỏ đi. Nếu ta không biết yêu thương thì cũng không thể truyền giáo. Ngược lại, ta có một đời sống yêu thương thật sự, tử tế, vui vẻ với mọi người, sẵn sàng giúp đỡ người khác, những việc làm tốt đó, tự bản thân nó đã chứng minh ta là người có đạo, đã là truyền giáo rồi.
Nhưng không thể lúc nào cũng có thể nói về Chúa được. Lấy ví dụ: một thầy cô giáo có đạo, đi dạy ở một trường học nào đó, chắc chắn thầy cô đó không thể vào lớp học để nói về đạo, về Chúa được. Nhưng điều mà người thầy hay cô đó có thể làm được là chứng minh đời sống đạo của mình như: vui vẻ với đồng nghiệp, yêu thương, độ lượng với học trò... Trong đời sống hằng ngày, mọi người có thể làm được những chuyện rất bình thường như: lượm một cục đá trên đường bỏ vào một nơi nào đó để các em nhỏ đi không bị vấp, các cụ già không bị té. Hoặc là ta biết giữ vệ sinh chung, đừng ném mọi thứ rác rưởi ra đường, ở nơi công cộng... tất cả những việc làm đó đều là những việc làm cụ thể, ai cũng làm được.
Với tất cả những phương thế thực hành vừa đề nghị bên trên, không phải là thể hiện lòng yêu Chúa, yêu tha nhân hay sao? Đó cũng không là phương thế truyền giáo hay sao? tin rằng bạn và tôi đều luôn là những người cố gắng sống tốt, để người ngoài nhìn vào có thể nói rằng: anh hay chị ấy sống tốt vì họ là người Công giáo.

14. Điều răn nào trọng nhất?

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)
Điên rồ hay là đơn giản
Sau nhóm Xađốc, đến nhóm Pharisêu đặt câu hỏi với Đức Giêsu cũng với ý định bắt bẻ Người. Trước câu hỏi được nêu lên như một cái bẫy, Đức Giêsu đã trả lời ngay, không cần suy nghĩ. Chỉ trong một câu ngắn, Đức Giêsu đã rút gọn toàn bộ lề luật, đổng thời cho thấy tinh thần cũng như nét phong phú của luật pháp.
Xưa kia, bộ luật Do-thái gồm những quy định phức tạp, chặt chẽ với 613 điều -368 điều cấm và 245 điều phải làm, nay được Đức Giêsu đơn giản hoá thành 2 điều, hay đúng hơn chỉ là một: "yêu mến Thiên Chúa và người thân cận." Qua việc nối kết lòng yêu mến Thiên Chúa với tình yêu thương đồng loại, Đức Giêsu đã tóm tắt toàn bộ Kinh Thánh, coi đó như giá trị luân lý nền tảng hay quy tắc của đời sống. Khi tuyên bố điều răn thứ hai cũng quan trọng như điều răn thứ nhất, Đức Giêsu muốn cho thấy rằng tình yêu thương đồng loại có giá trị ngang hàng với lòng yêu mến Thiên Chúa.
Thế là từ nay, những khoản luật phức tạp, những chi tiết khắt khe đã được đơn giản hoá và trở nên thật dễ dàng. Tất cả bộ luật được thu tóm lại trong hai điều răn có liên hệ với nhau cách chặt chẽ. Nói cách khác, toàn bộ các điều răn khác được đặt nền trên hai điều răn này như là những điều cơ bản không thể thiếu, đồng thời cũng hướng tới hai điều răn này như là mục đích sau cùng, như tiêu chuẩn phán đoán. Tất cả những khoản luật đi ngược với tinh thần của hai điều răn này đều trở thành vô giá trị.
Như vậy, Đức Giêsu mở rộng cánh cửa hướng đến sự công chính. Luật pháp chỉ là phương tiện và chỉ có được ý nghĩa khi nó diễn tả được điều cốt yếu là sự thánh thiện nội tâm, là đức tin sống động, là tình yêu nổng nàn thúc đẩy mọi hoạt động.
Thế nhưng, chính tóm tắt có vẻ đơn giản và dễ dàng này lại buộc những người theo Đức Kitô phải sống tích cực hơn và mỗi ngày một hơn. Người ta sẽ không chỉ tuân thủ những chi tiết luật pháp, nhưng là tình yêu mến. Mà lòng yêu mến không thể bị giới hạn ở một mức độ nào đó. Đức Giêsu không nói: "Hãy yêu mến Thiên Chúa và người thân cận bao nhiêu có thể", nhưng Người đã trích dẫn luật Mô-sê: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi."Tại sao Thiên Chúa lại đòi buộc con người phải yêu mến "hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn"? Bản tính con người vốn yếu đuối, giới hạn và hay thay đỗi: điều này Người quá biết. Tại sao Người lại yêu cầu con người phải vượt quá khả năng của mình?
Thật ra, nếu đứng trên quan điểm sự khôn ngoan loài người, thì Tin Mừng toàn là những đòi hỏi vô lý, điên rổ. Những ai mong muốn tìm thấy trong Tin Mừng những câu châm ngôn hợp lý và dễ dàng, người ấy sẽ thất vọng. Quan niệm loài người sao có thể chấp nhận nỗi "Bài giảng trên núi", trong đó người nghèo được đề cao, người hèn kém được vào Nước Thiên Chúa, còn những người được coi là đạo đức lại bị loại trừ? Lý luận của con người làm sao có thể hiểu nỗi câu nói: "Ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ giữ lấy được". (Mt 10,39)? Và sau cùng, còn gì gây chướng kỳ hơn khi chứng kiến con người tự nhận là Đấng Cứu độ, Đấng ban sự sống, lại chịu treo trên thập giá? Toàn là những chuyện điên rồ!
Nên nhớ rằng, Kitô giáo không phải là một tôn giáo có thể lý luận được cách có hệ thống. Tinh thần Kitô giáo luôn hàm chứa một khả năng gây bất ngờ, và cả khó khăn nữa. Kitô giáo không phải là một thứ tôn giáo trong đó mọi sự được sắp xếp cách trật tự và hoàn hảo như một tài sản được quản lý tốt. Trái lại, Kitô giáo luôn là một sự hướng tới: hướng tới vô biên, tới Đấng mà "tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta."(Is 55,8). Đó là một sự điên rồ, điên rồ của tình yêu và đó cũng là tình yêu, tình yêu đối với Thiên Chúa và với đồng loại.
Từ "và" đến "trong"
Vào thời Đức Kitô và cả ngày nay nữa, vẫn có những trường phái tự cho rằng mình có quyền ưu tiên đưa ra giải thích đúng đắn về chân lý. Họ cho rằng quan niệm của mình là có lý còn của người khác thì sai lầm. Có lẽ con người ngày nay không cần quan tâm đến việc tìm hiểu những chi tiết trong các cuộc tranh luận của người Do-thái. Thế nhưng, khi suy niệm lời giải thích của Đức Giêsu, người ta sẽ thấy đòi hỏi luân lý được sáng tỏ và tìm ra được nét thống nhất cho mọi hoạt động và suy nghĩ của mình. Phải yêu mến Thiên Chúa "hay là" yêu mến người thân cận? Nên theo chủ trương chiều dọc "hay là" chiều ngang? Đó là những câu hỏi con người thời nay thường nêu lên. Với một số người, sự quan tâm đến những vấn đề cụ thể của con người có thể gây nguy hại cho lòng tin vào Thiên Chúa. Với những người khác, thời giờ dành cho Thiên Chúa có nguy cơ làm quên lãng người thân cận. Thật ra, ngày nay cũng như ngày xưa, Đức Giêsu luôn mời gọi và bó buộc phải vượt ra khỏi những song quan luận theo kiểu này. Chúng chỉ là những thứ mặt nạ che dấu thái độ từ khước cũng như những nỗi sợ hãi của con người. Trả lời cho nhà thông luật về điều răn trọng nhất, Đức Giêsu đã khẳng định đó là lòng yêu mến Thiên Chúa. Tuy vậy, Người còn đưa ra, hay đúng hơn, còn nối kết tình yêu thương đồng loại với lòng yêu mến Thiên Chúa, "cũng giống điều răn ấy".
Điều răn thứ hai này "cũng giống" điều răn thứ nhất, tức là cả hai đều quan trọng. Nói cách khác, điều răn thứ hai có bản chất và tầm quan trọng cũng "lớn" như điều răn thứ nhất. Dầu vậy, giống nhau chứ không phải là đồng nhất: hai việc đó vẫn khác nhau và có thứ tự trước sau, không thể đổi qua đổi lại với nhau như thể yêu đồng loại cũng là yêu mến Thiên Chúa, và yêu mến Thiên Chúa tức là yêu mến đồng loại: Thiên Chúa luôn ở phía chân trời và luôn mời gọi con người tiến xa hơn; đồng loại là thực tại gần gũi với những giới hạn cụ thể. Giáo huấn của Đức Giêsu có ý nhấn mạnh rằng yêu mến đồng loại cũng có tính cách khẩn thiết như là yêu mến Thiên Chúa, và không được xao lãng nhiệm vụ nào.
Do đó, không có vấn đề bên này hay bên kia. Không được quyền nói "hay là", nhưng phải nói "và". Một cách chính xác hơn: chỉ có thái độ mở ra với Thiên Chúa mới dẫn đến tình yêu thương đồng loại cách đích thực; và chỉ có thái độ sẵn sàng với người khác mới cho phép con người nói rằng mình yêu mến Thiên Chúa mà không dối trá. Sau đó, "và" sẽ biến thành "trong": con người yêu mến Thiên Chúa "trong" người thân cận, và yêu mến người thân cận "trong" Thiên Chúa. Huyền nhiệm và con người hành động không phải là kẻ thù của nhau, nhưng là anh em của nhau.
Bài học phải thuộc lòng
Bài Tin Mừng này con đã thuộc lòng con biết rất rõ điều răn phải yêu mến Thiên Chúa và người thân cận bắt nguồn từ một tâm tình duy nhất. Thế nhưng, hình như bản Tin Mừng chỉ là một thứ kỷ niệm, tựa những câu chuyện cổ tích thời thơ ấu, như một điều không có thực. Làm sao con có thể yêu nỗi mình và cả người khác đang vắng mặt?
Không, con chỉ mới thuộc mặt chữ, con quên rằng chính Thầy đang thì thầm trong hồn con, và đang thúc đẩy con ra khỏi mình. Con đã quên rằng lề luật không phải là nhà tù, cũng không phải là một sự sắp xếp. Trái lại, đó là một lời mời gọi hướng tới tình yêu, đó là lời kêu mời hãy nhận ra rằng: bàn tay con được dựng nên để nắm lấy, và trái tim con được dựng nên để thứ tha. Lắng nghe lời Thầy, con sẽ không cảm thấy gì khác hơn là con đang mang trong mình một khát vọng vô biên. Con nghĩ rằng mình thuộc lòng bài Tin Mừng, nhưng con đã không hiểu thấu Thầy là ai, cũng chẳng hiểu rõ các điều răn. Thầy là tình yêu, và con đã quên mất - Thầy đã đến gặp con để con được sinh ra, và cũng trở thành tình yêu. Thầy biết rõ con không hiểu về chính con, cũng không hiểu về người khác, về Thiên Chúa. Chính vì vậy, Thầy đã đến trần gian. Hãy đến và sống theo Thầy bấy giờ con sẽ thuộc và hiểu rõ về Tin Mừng.

15. Hàng ngàn giới răn?

Một lần nữa những người Pharisêu muốn giăng bẫy Chúa Giêsu, kiểm tra giáo lý của Ngài, dồn Ngài vào chân tường, dẫn Ngài vào trong sự rắc rối của hàng ngàn luật lệ. Người ta sắp thấy điều Ngài biết, sắp thấy Ngài có dạy dỗ tốt điều cần phải dạy dỗ hay không.
Chúa Giêsu thoát ra khỏi cái bẫy với một sự tự do, một sự trong sáng và một sức mạnh sáng tạo làm cho những người Pharisêu không nói được một lời nào. Ngài trích dẫn hai câu cổ điển: “Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa... Ngươi phải yêu thương anh em ngươi...”. Đây là câu trả lời đơn giản của học trò giỏi, nhưng Ngài rút ra từ đó hai điều mới lạ.
Điều thứ nhất, Ngài đưa hai điều luật tới gần nhau bằng cách cho hai điều luật đó có tầm quan trọng như nhau. Kể từ giây phút này tình yêu thương anh em được nâng lên gần với tình yêu thương Thiên Chúa và sẽ không rời ra nữa.
Điều thứ hai, Ngài làm cho viên ngọc duy nhất nay sáng lên bằng cách để cho nó ngự trị trên toàn bộ những điều chúng ta nghĩ và làm: tất cả đều tuỳ thuộc vào tình yêu. Việc kể ra nhiều những điều phải làm hoặc không được làm, làm phát sinh hàng ngàn câu trả lời cho một câu hỏi: tôi có thể yêu thương như thế nào?
Chúa Giêsu nói tất cả những gì chứa đựng trong Kinh Thánh, lề luật và các tiên tri, và do đó tất cả những gì Thiên Chúa chờ đợi nơi chúng ta, phát xuất từ hai điều răn gắn với nhau này. Những người chẻ sợi tóc làm tư đã hỏi Ngài nay bị buộc quay về điều cốt lõi: “Hãy yêu thương”.
Chúng ta cũng thế, chúng ta cảm thấy rằng tuân giữ hoàn toàn hai giới răn lớn này là một cách thức triệt để, nhưng có tính cách bó buộc đến nỗi chúng ta thích đi quanh co ở giữa hàng ngàn điều qui định. Đàng khác, những qui định này là cần thiết, “yêu thương” thì quá mơ hồ, phải hun đúc yêu thương bằng những bó buộc khác nhau. Tôi phải biết rằng tôi thật sự yêu mến Thiên Chúa và anh em của tôi nếu tôi làm điều này điều kia.
Nhưng thế rồi nổi lên một nguy cơ muôn đời: làm mất tác dụng sự bó buộc yêu thương bằng việc cứ nhắm mắt tuân thủ bó buộc đó. Với ít nhiều ý thức chúng ta lý luận theo cách này: nếu tôi làm tất cả những gì được yêu cầu thì đã yêu thương rồi đó. Không đâu. Điều đó chưa đúng, bởi vì điểm xuất phát thì xấu. Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng tất cả trước tiên tùy thuộc vào dự kiến triệt để đó là yêu thương. Chúng ta đừng bao giờ bắt đầu bằng hàng ngàn điều phải làm nhưng là bằng xác tín mà tất cả đều tuỳ thuộc vào đó: tôi phải yêu thương.
Theo Tin Mừng, bí mật của cuộc sống là: trước hết phải thực hành yêu thương điều gì đó một cách hoàn toàn vô điều kiện. Thế rồi ý thức muốn yêu thương này sẽ dần dần hóa thân vào trong tất cả các biến cố, các cuộc gặp gỡ và các sự tuân phục –nhưng không đắm chìm vào trong đó. Sẽ là bất hạnh nếu lại rơi vào trong sự âu lo và sự nô lệ hàng ngàn giới răn, sau khi đã nhận được từ Chúa điều răn ngắn nhất và tự do nhất trong số các điều răn của cuộc sống: Tôi có yêu thương hay không?
 

16. Giới luật thứ nhất và trên hết – Lm. An Phong

Nếu tình cờ có ai hỏi: "Đối với bạn, điều gì quan trọng nhất?"; chắc hẳn sẽ có rất nhiều câu trả lời. Có người sẽ cho rằng đó là chu toàn trách nhiệm; vì ai sinh ra đời cũng đều lãnh nhận trách nhiệm, trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội.
Có người sẽ không ngần ngại trả lời: đó là sống trong sạch; vì quả thật, theo nhà phân tâm học Freud, chúng ta chào đời với đầy những ám ảnh về những cấm kỵ, những cám dỗ về điều răn thứ 6, tội dâm dục…
Người khác lại sẽ cho rằng đó là sự công bằng. Bởi lẽ phải có công bằng trước đã, rồi mới có thể nói đến bác ái, tình yêu. Một xã hội công bằng, đó đã là một điều tuyệt vời lắm rồi.
Và còn có thể có nhiều câu trả lời khác nữa cho câu hỏi này; cũng như người Do Thái khi xưa đã tranh luận mãi về một giới răn trọng nhất.
Đức Giêsu, Ngài tóm tắt điều quan trọng nhất trong một giới luật: "Mến Chúa, yêu người". Tất cả những câu trả lời khác đều tốt, nếu chúng thể hiện được lòng "mến Chúa yêu người"; và sẽ chẳng là gì nếu chúng không xuất phát từ lòng "mến Chúa yêu người". Có thể chúng ta đã coi trọng chuyện "nhà thờ nhà thánh" hơn là quan tâm đến một người hàng xóm đang gặp túng quẫn; có thể chúng ta giữ kỹ mọi lề luật, nhưng lại so đo tính toán với Chúa từng ly từng tí… như thế thì còn đâu là "mến Chúa yêu người" được.
Thái độ căn bản của tình yêu là cởi mở, đón nhận. Mở lòng ra với Thiên Chúa và quảng đại đón nhận anh chị em. Mở lòng ra với Chúa để chu toàn những luật lệ đòi buộc ta không làm như người nô lệ; quảng đại đón nhận anh chị em để mối tuơng quan con người với nhau không bị đổ vỡ, méo mó vì những chấp nhất, tỵ hiềm, ganh ghét.
Thánh Phaolô đã diễn tả tình yêu đó như sau: "Đức Mến thì nhẫn nhục, hiền hậu; không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng vui khi thấy sự ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả" (1Cr 13,4-7).
Chỉ có một điều quan trọng nhất là lòng Mến; nhưng lòng Mến lại được thể hiện trong muôn vàn cách thức khác nhau.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu thương;
và vì tình yêu đó,
Chúa đã dám làm tất cả cho người Chúa yêu.
Xin cho chúng con
cũng được tràn đầy tình yêu như Chúa.
Xin cho chúng con cũng dám vì yêu thương
mà tận tâm phục vụ anh chị em của con.

17. Mến Chúa yêu người

Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy giới răn thứ nhất đó là hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng. Còn giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là hãy yêu thương anh em như chính mình vậy.
Tuy nhiên đọc lại Phúc âm, chúng ta có cảm tưởng dường như Chúa Giêsu đặc biệt nhấn mạnh tới giới răn thứ hai. Ngài đã coi việc yêu người là cách thức để biểu lộ tình mến Chúa. Thực vậy có lần Ngài đã phán: Mỗi khi lên đền thờ dâng của lễ mà sực nhớ người anh em có điều chi bất bình với ngươi thì hãy để của lễ đó, trở về làm hoà với người anh em mình trước đã rồi mới tới mà dâng của lễ sau. Hơn nữa mỗi hành động bác ái yêu thương chúng ta thực hiện cho người anh em là chúng ta thực hiện cho chính Chúa. Thế nhưng đặc điểm của lòng yêu người là gì? Tôi xin thưa: đó là tinh thần phục vụ. Phục vụ một cách nhưng không, một cách vô vị lợi, không cần đền ơn báo đáp, không mưu cầu danh vọng địa vị hay được bù lỗ cách này cách khác. Chính Chúa Giêsu đã từng làm gương cho chúng ta: Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Tình yêu Ngài dành cho chúng ta thật cao cả, bởi vì Ngài đã hiến mạng sống Ngài cho chúng ta. Hơn thế nữa, Ngài còn đòi hỏi các môn đệ, những kẻ bước theo Ngài cũng phải sống tinh thần phục vụ như thế. Trong bữa Tiệc Ly, sau khi đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, thì Ngài đã nói với các ông: Nếu Thầy đã rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi vào một vấn đề thời sự nóng bỏng trong giáo xứ, đó là vấn đề bầu ban hành giáo. Khi thi hành chức vụ của ban hành giáo, thì một trật chúng ta thể hiện tinh thần phục vụ đối với Chúa cũng như đối với người khác tại cộng đồng giáo xứ. Trong những ngày qua, tôi rất xúc động vì có những bà mẹ, những bà vợ, biết mình không thể ra ban hành giáo được, cho nên đã tích cực động viên chồng con của mình. Một bà vợ thì nói: Tôi rất mừng khi thấy ông ra ứng cử, bởi vì khi đã vào ban hành giáo, ông sẽ đạo đức hơn và chừa bỏ được những thói hư tật xấu của mình. Một bà mẹ thì bảo: Mẹ cho con ăn học và mong con sẽ làm được một cái gì lợi ích cho đời. Thế nhưng dưới một góc độ khác, chúng ta không khỏi lo âu và băn khoăn, vì suốt hơn hai tháng cổ động mà hiện giờ, khu vực Thánh đường Vô Nhiễm vẫn còn khiếm khuyết một ứng cử viên. Trong giáo xứ rất nhiều người hội đủ điều kiện, có dư thiện chí và tinh thần phục vụ, nhưng vì hoàn cảnh, vì lý do này lý do khác, đã không thể ra được. Chúng ta hoàn toàn thông cảm với những anh em có lý do chính đáng. Thế nhưng cũng có những người mạnh miệng tuyên bố, nhưng rồi khi đến việc lại chẳng thấy đâu, cho nên sự thể có những tên gọi vừa khôi hài lại vừa chua chát, chẳng hạn như: chánh lặn, chánh chuồn, chánh né… Như thế xem ra phục vụ bằng mồm thì dễ hơn phục vụ bằng hành động, bằng việc làm. Một trong những lý do thường được đưa ra để chuồn, để lặn, để né đó là bà xã. Thực sự thì hiện nay, gia đình nào mà chẳng có những khó khăn, đã ra gánh vác việc chung thì thế nào cũng phải chấp nhận hy sinh một phần công việc nhà. Mà các bà thì vốn tham lam, muốn độc quyền, không muốn ông xã của mình bị chia sẻ, bị hy sinh, cho nên đã ngáng chân, đã làm kỳ đà cản mũi, để ông xã đừng ra. Bởi vì nếu ông xã mà ra, sợ ông ấy quá siêng năng việc chung mà bê trễ việc riêng, nhất là những khi mùa màng dồn dập, cho nên khi có người đến vận động thì tay chân dãy lên đành đạch và miệng thì chối bai bải. Hành động như thế, chứng tỏ chúng ta thiếu tinh thần phục vụ, thiếu trách nhiệm chung, cũng như thiếu tin tưởng vào Chúa, bởi vì Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi những kẻ phục vụ Ngài. Bằng chứng cụ thể là rất nhiều vị chánh, vị phó, vị trùm, vị quản trong những năm phục vụ giáo xứ, kinh tế gia đình vẫn không bị suy giảm, mà hơn nữa lại còn tậu đất, sắm tivi cassette, mua máy bơm, máy suốt cũng như máy cày, như vậy cũng vẫn ăn nên làm ra, cả về tiền bạc cũng như về con cháu.
Để kết luận tôi xin mượn lời kinh hoà bình của thánh Phanxicô Assie: Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.

18. Yêu thương

Ngày xưa có một hoàng tử trẻ sống trong lâu đài tráng lệ. Vào một đêm mùa đông, một bà lão ăn xin lỡ đường, muốn trọ qua đêm, đã bị hoàng tử từ chối. Chẳng may, bà lão lại là một bà phù thủy. Để phạt tội hoàng tử không có lòng thương người, bà đã biến chàng thành một con mãnh thú, hình tượng xấu xí và hung dữ. Trước khi ra đi, bà cho con mãnh thú một lời hứa sẽ biến trở lại thành hoàng tử nếu có ai thực sự yêu thương mãnh thú.
Trong ngôi làng gần chỗ con mãnh thú ở, có một thiếu nữ xinh đẹp tên là Belle. Cô mồ côi mẹ, sống với cha già. Cha già con mọn bị đám thợ săn thường xuyên quấy phá. Một ngày nọ, cha cô vào rừng săn thú, đi lạc vào lâu đài, bị mãnh thú bắt giữ. Nhờ con ngựa khôn ngoan đã dẫn cô tìm được cha. Vì thương cha, cô chấp nhận đổi mạng, ở lại sống với con mãnh thú để người cha được tự do ra về.
Về đến nhà, người cha đã kết hợp với bọn thợ săn tìm cách giết con mãnh thú để cứu con gái. Trong khi đó cô gái bắt đầu quen thân, trò chuyện và đem lòng yêu mến mãnh thú, tuy rất đau khổ phải xa cách người cha. Còn mãnh thú vì yêu thương cô gái, không nỡ để cô sống trong đau khổ, nên đã đồng ý thả cô về nhà với cha. Chiến trận ác liệt đã xảy ra giữa bọn thợ săn và con mãnh thú. Đang khi giao chiến với bọn thợ săn, mãnh thú bị thương nặng. Sau khi về thăm cha già, cô gái thương nhớ con mãnh thú và quyết định trở lại tiếp cứu. Cô đến đúng khi mãnh thú bị thương, đang quằn quại trong đau đớn. Cô năn nỉ: “Không! Xin đừng chết! Mãnh thú ơi ta yêu mi!” Rồi cô ôm hôn lên mặt mãnh thú. Nhờ nụ hôn yêu thương đó, mãnh thú biến trở lại thành một hoàng tử khôi ngô tuấn tú như trước. Đó là câu chuyện tình đẹp đẽ được tóm lược trong cuốn phim hoạt hình “The Beauty and the Beast”, “Mãnh Thú và Giai Nhân”.
Câu chuyện trên nói lên sức mạnh cứu độ của tình yêu. Tình yêu có khả năng giải thoát và biến đổi con người. Thật vậy! Hầu hết những vấn đề rắc rối và thảm kịch xẩy ra trên thế giới đều do thiếu tình thương. Rất nhiều phạm nhân đã gây nên tội ác chỉ vì không thể ban tặng hay đón nhận tình yêu thương.
Điều mỗi con người đều khao khát, ước ao và cần đến là tình yêu. Thánh Kinh dạy rằng,:Thiên Chúa là Tình Yêu”. Tình yêu là bản chất của Thiên Chúa. Và bởi con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, nên cũng luôn khát khao và tìm kiếm tình yêu. Dựa trên nhu cầu căn bản này của con người, trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đã dạy cho những người Biệt phái biết điều răn duy nhất của đức ái, sự viên mãn của lề luật: “Yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn…” Điều răn thứ hai là:”Yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”.
Câu chuyện được kể về một đôi vợ chồng tới gặp cha sở và nói: “Thưa cha, chúng con sắp ly dị, nhưng chúng con muốn xin cha cho chúng con biết ý kiến?” Cha sở suy nghĩ giây lát rồi quay sang hỏi người chồng: “Thánh Kinh dạy rằng con phải yêu thương vợ con như Chúa Giêsu Kitô đã yêu thương Hội Thánh. Con có thể thực hành được điều đó không?” Người chồng thưa: “Thưa không. Con không nghĩ con giữ được điều đó”. Cha sở nói: “Vậy thì con hãy bắt đầu ở mức độ thấp hơn vậy. Thánh Kinh dạy rằng con phải yêu thương người lân cận như yêu chính mình. Con có thể yêu thương vợ con một cách tối thiểu như vậy được không?” Người chồng nói, “Thưa cha không. Điều này cũng còn quá cao!” Một cách tuyệt vọng, sau cùng cha sở đành nói: “Thánh Kinh cũng dạy rằng, con hãy yêu thương kẻ thù của con, thôi con hãy về nhà và bắt đầu từ đó đi!”
Nhóm Biệt phái, đa số gồm các luật sĩ, chủ trương phải tuân giữ các luật lệ của Cựu Ước và cộng thêm khoảng 613 luật lệ do truyền thống của các thầy Rabbi. Còn nhóm Sađđucêô chỉ tin vào các luật lệ và các tiên tri mà thôi, không tin vào truyền thống của các thầy Rabbi. Câu hỏi được đặt ra cho Chúa Giêsu: “Trong luật lệ, giới răn nào quan trọng nhất?” đã được tranh cãi giữa những người Biệt phái và Sađđucêô. Âm mưu của nhóm người Biệt phái nhằm gài bẫy Chúa Giêsu vào những trường hợp xung khắc khó giải quyết giữa các phe nhóm tôn giáo và chính trị để tiêu diệt Ngài. Tâm hồn họ mang nặng thù hận và ích kỷ đang khi bề ngoài giả vờ bàn hỏi về những giới luật yêu thương!
Chàng ca sĩ nhạc pop, Cliff Richard sau một chuyến viếng thăm trại tị nạn Bihari ở Bangladesh trở về nhà đã kể lại một biến cố cảm động như sau: “Buổi sáng đầu tiên ở trại tị nạn, tôi phải rửa tay hàng chục lần. Tôi đã không dám đụng vào bất cứ cái gì, nhất là dân chúng. Mọi người ở trong những trại tị nạn đó đều bị ghẻ lở. Toàn thân đầy mụn nhọt. Tôi đang cúi xuống với một em bé gái, mục đích chính chỉ là chụp vài tấm hình để phô trương với bè bạn. Tôi đã cố gắng hết sức đừng cúi xuống quá gần kẻo đụng chạm vào người em. Ngay lúc ấy, một người nào đó tình cờ đạp lên những ngón chân của em. Bé gái hét lên, và như một phản xạ, tôi nắm lấy em, quên đi sự bẩn thỉu dơ dáy và đầy mụn nhọn trên người em. Tôi nhớ mãi một thân hình nhỏ bé và ấm áp bám chặt vào tôi, ngay lập tức tiếng khóc ngưng bặt. Từ đấy, tôi biết rằng tôi còn phải học hỏi rất nhiều điều thực tế về tình yêu Kitô giáo, nhưng tối thiểu gì tôi cũng đã bắt đầu.
Một nhà tâm lý học nổi tiếng đã đưa ra nhận xét rằng việc yêu thương một người khác là điều thử thách lớn nhất trong mọi sinh hoạt của con người, vì nó đòi hỏi phải hy sinh và từ bỏ bản thân mình. Chính vì những đòi hỏi này nên có nhiều người đã chưa bao giờ yêu người khác một cách thực sự. Hoặc có thể đã yêu, nhưng sau đó gặp đau khổ, họ đã tháo lui. Để thực sự yêu thương một người khác ở mức độ sâu xa, cần phải có sức mạnh để tiến tới việc chia sẻ chính cuộc sống của mình. Đó chính là tình yêu hướng về Thiên Chúa và tha nhân được Chúa Giêsu đề cập đến.

19. Yêu thương

Có một bản tin “Phở nóng chiều mưa” của tác giả Bút Bi. Câu chuyện sư sau: “Tiệm phở A đường Kỳ Đồng” chiều hôm kia mưa như trút nước. Một ông già khoảng 70 tuổi, tay lần dò chiếc gậy, tay xách chiếc gà men cũ kỹ lập cập bước vào quán, mua phở mang về. Lúc ông đang lóng ngóng lấy tiền – gói trong hai ba lớp bịch ni lông – ra để trả, một trong hai thanh niên đang ngồi ăn phở ở chiếc bàn ngoài cùng bảo là đã trả tiền phở cho ông rồi. Ông già lãng tai ngớ ra không hiểu, người thanh niên vừa nói câu trên chỉ người bạn đang cắm cúi ăn: “Thằng này trả chứ không phải cháu đâu”. Rồi anh nói thêm có lẽ để câu chuyện được tự nhiên hơn: “Nó hỏi bác có con gái không?” Ông già dường như vẫn còn chưa hết ngạc nhiên thật thà nói có. Người thanh niên kia bật cười, bảo nói chơi đó bác ơi. Bút Bi tình cờ có mặt ở đó cũng bật cười. Mấy cô phục vụ trong quán cũng cười ầm lên. Ông già hiểu ra, hoạt bát hẳn lên, nói vài câu vui vẻ rồi chống gậy đi về.
Tò mò, Bút Bi nhìn hai người thanh niên. Họ ăn mặc giản dị, mang dép, đi chiếc Cub đời cũ, trông có lẽ là những người lao động lam lũ, và cử chỉ của họ thật dễ thương. Người già thường có cảm giác bị bỏ rơi, thèm sự hỏi han, chăm sóc. (Ông già phải tự chống gậy đi mua phở dù có con cái?). Chắc tối hôm ấy ông sẽ thấy vui lắm, chẳng những vậy có khi nó còn trở thành một kỷ niệm của ông, để ông đi kể lại với bà con, chòm xóm. Còn Bút Bi cũng thấy vui quá, bèn quyết định ăn luôn… hai tô phở!
Nghe xong câu chuyện “Phở nóng chiều mưa” trên đây, chúng ta cảm thấy ấp áp lên tình con người. Một sự quan tâm tế nhị, một lời thăm hỏi chân thành, một nghĩa cử yêu thương thầm kín, đã làm cho mối quan hệ giữa người với người thân gần gũi hơn, thông cảm nhau hơn, và quí mến nhau hơn.
Điều cốt lõi của Kitô giáo chính là yêu thương. Giới răn lớn nhất của đạo cũng chỉ là Mến Chúa, yêu người. Đó là sứ điệp mà Tin Mừng hôm nay muốn loan báo. Đức Giêsu trả lời cho người thông luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi… Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”.
Người Kitô hữu, luôn mang trên mình cây thập giá. Cây thập giá ấy có một ý nghĩa rất cao đẹp: Thanh dọc của cây thập giá muốn nói rằng, người tín hữu phải vươn lên cao tới Thiên Chúa, để yêu mến Người với tất cả trái tim, với trọn vẹn con người. Thanh ngang của cây thập giá muốn nói với người tín hữu, phải vươn đến với tất cả mọi người, để yêu thương họ như chính mình, không loại trừ một ai, kể cả kẻ thù. Nếu có thanh dọc mà không có thanh ngang, thì đâu phải là cây thập giá. Nếu có mến Chúa mà không có yêu người, thì chưa phải là Kitô hữu. Cũng như đồng tiền luôn có hai mặt, thì người Kitô hữu luôn phải sống trọn vẹn hai giới răn mến Chúa và yêu người mới đích danh là Kitô hữu.
Có nhiều người nghĩ rằng Mến Chúa thì dễ quá. Tôi vẫn đọc kinh sáng tối, đi lễ cầu nguyện hàng ngày, năng tham dự các bí tích. Và họ bằng lòng với mức độ ấy. Thực ra, Chúa đâu chỉ đòi hỏi có thế! Hãy nghe lại điều răn lớn nhất này: “Phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”. Trong điều răn có ba chữ hết, chúng ta đã yêu được mấy chữ hết đó. Thường chúng ta chỉ yêu Chúa nửa vời, yêu tùy hứng, yêu đại khái, yêu theo vụ mùa.
Chúng ta chỉ yêu mến Chúa hết lòng khi chúng ta dám hy sinh thì giờ, công việc, lợi nhuận, để đi tham dự thánh lễ, các giờ cầu nguyện, các buổi tĩnh tâm, hầu nâng cao đời sống thiêng liêng.
Chúng ta chỉ yêu mến Chúa hết linh hồn khi chúng ta dám từ bỏ danh vọng, lợi lộc, chức quyền để trung thành với Chúa và các giới răn của Người.
Chúng ta chỉ yêu mến Chúa hết trí khôn khi chúng ta dám làm nhân chứng cho Người trước lương tâm, trước kẻ bách hại, cho dù phải đe dọa đến cuộc sống và tính mạng.
Mến Chúa đã khó, yêu người lại càng khó hơn. Vì người ta đâu phải ai cũng dễ mến, dễ thương. Với cái nhìn không thân thiện của chúng ta sẽ có rất nhiều người dễ ghét và đáng ghét. Yêu người như Chúa dạy là yêu như chính mình. Có ai lại ghét mình bao giờ. Trái lại, người ta thường yêu mình quá độ.
Chúng ta chỉ có thể yêu người thân cận như chính mình khi chúng ta tránh hết sức không làm tổn thương đến nhân phẩm và quyền lợi của người khác.
Chúng ta chỉ có thể yêu người thân cận như chính mình khi chúng ta biết kính trọng người già yếu, an ủi người khổ đau, giúp đỡ những ai nghèo đói, bênh vực những kẻ cô thế, cô thân.
Chúng ta chỉ có thể yêu người thân cận như chính mình khi chúng ta biết quảng đại trao ban và xả thân phục vụ những ai đang cần sự trợ giúp.
Mauriac viết: “Ngày nào bạn không còn thắp sáng tình yêu, ngày đó nhiều người sẽ chết vì giá lạnh”.
 

20. Luật trọng đại nhất

Hôm nay Chúa Nhật 30 Thường Niên, Chúa Giêsu và Mẹ Giáo Hội muốn nhắn gửi chúng ta một giới luật quan trọng nhất của người tín hữu Kitô, đó là giới răn "Mến Chúa và Yêu Người". Đây là một giới răn được gồm tóm tất cả các giới răn trong đạo. Vì thế, khi đến trần gian, Chúa Giêsu không chỉ đến để giải thoát con người khỏi mọi tội lỗi mà thôi, nhưng Ngài muốn giải thoát con người một cách toàn diện, tức là khỏi mọi áp bức bất công, khỏi mọi độc tài kìm kẹp, cốt để đem lại cho con người được tự do, hầu sống đúng với phẩm giá của mình là người Kitô hữu. Vào thời Chúa Giêsu, trong xã hội Do Thái bấy giờ, con người lúc nào cũng bị trói buộc bởi những lề luật. Bởi thế, người ta đếm được 248 điều dạy phải làm và 365 điều buộc phải tránh. ‘Nhất cử nhất động’ con người đều nằm trong mạng lưới chằng chịt của lề luật. Đó là điều làm cho con người lúc nào cũng mang tâm trạng lo âu, sợ sệt. Không biết tôi làm điều kia việc nọ có đúng luật không? Và nếu tôi sai luật thì tôi không phải là người công chính.
Thật vậy, nếu con người chỉ căn cứ vào những luật lệ bó buộc như vậy thì đó là một sai lầm, vì lấy lề luật làm nền tảng cho đời sống luân lý để đo mức độ công chính của đời sống con người. Bởi vậy, chúng ta không lạ gì thế giới có học của thời đại Do Thái bấy giờ, như các luật sĩ và biệt phái nhờ học biết luật và giữ luật nên họ cho là công chính, là thánh thiện, là hoàn hảo hơn người, đến độ trở nên kiêu căng, hách dịch với đại đa số dân chúng là những người không am tường lề luật để tuân giữ.
Nhưng Chúa Giêsu đến, Ngài đã đặt lại nền tảng sự công chính, đem đến sự sống đời đời trên tình yêu thương. Ngài đã phản đối những lề luật chẻ cọng tóc ra làm tư đó. Lề luật đặt ra để giúp cho con người, chứ không phải con người sinh ra để giữ lề luật. Vì thế, Chúa Giêsu đã đưa ra một giới luật yêu thương hết sức quan trọng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi". Đó là điều răn thứ nhất, và điều răn thứ hai cũng giống như điều răn thứ nhất là "ngươi hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi". Thật ra, Chúa Giêsu không dạy làm điều chi mới lạ, vì hai điều răn đó đã có trong Cựu ước, trong sách Đệ Nhị Luật và Lêvi. Ngài chỉ lấy hai điều đó nhập lại làm một và đặt nó làm nền tảng cho đời sống con người chúng ta.
Chúa Giêsu đã dạy cho con người biết Thiên Chúa là người Cha nhân từ. Trong lịch sử nhân loại, đây là lần đầu tiên qua lời dạy của Chúa Giêsu, con người gọi Thiên Chúa là Cha: "Lạy Cha chúng con ở trên trời". Một người con ngoan biết thương cha mến mẹ, khi làm một việc gì không cần phải coi cha mẹ tôi có cấm cái này không? Có cho phép cái kia không?
Nếu có cấm thì cố tìm xem trong các lời cấm đó có câu nào, tiếng nào để có thể tìm ra một kẽ hở để lánh qua không? Nhưng một người con ngoan bao giờ cũng tự hỏi: "Tôi làm cái này, cha mẹ tôi có vui không? Và tôi chỉ thích làm cho cha mẹ tôi hài lòng mà thôi ".
Thánh Augustinô sau khi hiểu rõ lời dạy của Chúa Giêsu, ngài đã đưa ra một định luật táo bạo: "Hãy yêu đi rồi làm gì thì làm". Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta đâu dám cả lòng cố tình làm mất lòng Thiên Chúa được. Khi chúng ta yêu mến anh chị em mình thật lòng, thì làm sao chúng ta dám nói xấu người khác được, làm sao chúng ta thấy người hoạn nạn mà mình vui được, làm sao chúng ta cố tình làm hại người khác được.
Để dễ thấy tầm quan trọng của hai điều răn "Mến Chúa và Yêu Người" trong đời sống, chúng ta hãy hình dung đó là hai chiều kích trong cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta: Chiều dọc nối liên hệ với Thiên Chúa và chiều ngang nối liên hệ với tha nhân. Hai chiều kích đó hợp lại thành cây Thánh giá, đó là dấu hiệu của người Công giáo chúng ta. Hằng ngày chúng ta thấy hình ảnh của cây Thánh giá khắp nơi, trong nhà thờ, nơi nhà ở và chúng ta còn có những người luôn mang Thánh giá trong mình, bởi thế không ai có thể hình dung cây Thánh giá mà chỉ có một chiều hoặc dọc hoặc ngang mà thôi.
Tôi còn nhớ trong những năm chiến tranh ở Việt Nam, một đêm nọ họ đạo tôi bị pháo kích, sáng ra tôi đi thăm hỏi và an ủi kẻ đau khổ và thăm những người lớn tuổi để củng cố tinh thần của họ trong cảnh lo âu sợ hãi. Tôi ghé thăm một bà đạo đức nọ, bà đi lễ hằng ngày không bỏ sót một ngày nào hết; Chúa Nhật có hai lễ bà cũng đi dự cả hai Thánh lễ luôn. Nhưng khi tôi ghé vào thăm bà, bà nói với tôi rằng: "Thưa cha, thật Chúa thương con vô cùng, vì đêm rồi khi họ pháo kích vào làng, con cầu xin Chúa hết lòng hết sức và Chúa đã nhận lời con rõ ràng cha ơi. Bằng chứng là bao nhiêu bom đạn, pháo kích đều rơi ở xóm trên hết". Bấy giờ tôi nghĩ thầm trong lòng: "Chúa mà nhận lời bà kiểu đó, thì chết mẹ người ta hết rồi".
Vậy khi chúng ta chỉ mến Chúa mà quên yêu người thì cũng lố bịch và buồn cười như câu chuyện của bà già trên vậy thôi. Tình yêu đối với tha nhân phải là sự biểu lộ ra bên ngoài của tình yêu đối với Thiên Chúa. Tình yêu đối với Thiên Chúa hoàn thiện hoá đối với tha nhân, không thể tách rời hai tình yêu đó ra khỏi đời sống đạo của mình được.
Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thật sự, tự nhiên chúng ta cảm thấy yêu mến tất cả anh em đồng loại của mình, và khi chúng ta yêu mến anh em đồng loại của mình đến nơi, đến chốn với tất cả lòng bác ái vị tha, tự nhiên tâm hồn chúng ta hướng về Thiên Chúa. Chúng ta nên nhớ kỹ hai điều này: "Ai bảo mình mến Chúa mà không yêu thương anh em thì là kẻ nói dối. Còn ai bảo mình yêu người mà không mến Chúa thì là sai lầm".
Xin Chúa cho tất cả chúng ta được mến Chúa hết tâm hồn, biết yêu thương anh em mình như chính mình vậy, để cho danh Chúa được cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
 

21. Lạy Chúa, xin giúp con yêu mến Chúa

Có lẽ các bạn đã nghe bài thơ “Cây cối” kết thúc với những lời “Những bài thơ được làm do những người ngốc như tôi, nhưng chỉ Thiên Chúa có thể tạo dựng được một cây”. Tác giả của bài thơ đó theo đạo công giáo lúc 27 tuổi. Ông là một văn sĩ nhạy cảm, cởi mở và đơn sơ, lấy những vật thông thường như thảo mộc và nói lên vẻ đẹp của chúng. Ong tòng quân vào thời thế chiến thứ nhất và đã bị giết đi khi thi hành nghĩa vụ vào tuổi 32, để lại người vợ và gia đình. Tinh thần tôn giáo sâu sắc của Klmer đạt tới sung mãn trong đức tin công giáo. Ông yêu mến và sống đức tin ấy. Những bức thư ông gửi cho vợ, cũng là một thi sĩ, cho các con và bạn hữu đầy tràn những hiểu biết thiêng liêng. Trong một bức thư ông viết có một cái gì rất gần với Tin Mừng hôm nay: “Hãy cầu nguyện cho tôi được yêu mến Chúa hơn. Đối với tôi, nếu tôi có thể yêu mến Chúa mãnh liệt hơn, kiên trì hơn mà không sao nhãng thì thật không có gì khác đáng kể... Tôi đạt được niềm tin do cầu xin ơn ấy. Tôi hy vọng đạt được lòng yêu mến cũng bằng cách đó”.
Bao nhiêu người trong chúng ta đã xin Chúa giúp chúng ta yêu mến Ngài? Yêu mến là một hồng ân do chính Thiên Chúa. Có nhiều người nghĩ lầm rằng chúng ta có thể tiến triển trong lòng yêu mến Chúa do những nỗ lực của chính mình, rằng hoàn toàn tùy thuộc ở cách chúng ta học biết yêu mến Thiên Chúa. Chắc chắn là chúng ta cần làm mọi sự có thể để thực thi lệnh truyền Chúa Kitô: “Hãy kính mến Thiên Chúa là Chúa con”. Nhưng trên hết và vượt mọi nỗ lực của chúng ta, hồng ân này sẽ được ban cho chúng ta khi chúng ta cầu xin cùng cha chúng ta trên trời.
Chúng ta muốn ám chỉ điều gì khi nói “Yêu mến Chúa?” Đây là định nghĩa có giá trị giúp ta hiểu. Yêu mến Chúa nghĩa là ao ước làm vui lòng Chúa. Lệnh truyền của Chúa Kitô có thể đọc là: “Con hãy ao ước làm vui lòng Chúa”. Yêu mến tha nhân có nghĩa là ao ước làm điều thiện hảo cho họ. Chúng ta không thể “làm điều thiện hảo” cho Chúa, nhưng chúng ta có thể ao ước làm vui lòng Ngài. Chúng ta có thể và phải làm điều thiện hảo cho tha nhân. Một trong những cách tốt nhất để làm vui lòng Chúa là làm điều thiện hảo cho tha nhân. Đã có những lần Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: ai yêu mến Chúa thì tuân giữ giới răn của Ngài. Cách đây vài Chúa nhật, chúng ta đã thấy rằng giới răn của Chúa là bằng chứng tình yêu của chúng ta đối với Ngài.
Bạn đến tham dự Thánh lễ bởi vì Thiên Chúa được vui lòng khi bạn tôn thờ Ngài. Bạn năng rước lễ bởi vì Thiên Chúa muốn ở với bạn. Bạn cầu nguyện bởi vì Thiên Chúa được vui lòng khi bạn thưa chuyện với Ngài. Bạn tôn kính danh thánh Chúa bởi vì điều đó làm viu lòng Ngài. Bạn thảo kính cha mẹ bởi điều đó là vui lòng Chúa. Bạn tôn trọng sức khỏe và đời sống của tha nhân bởi vì điều đó làm vui lòng Chúa. Bạn tôn trọng năng lực của phái tính vì điều đó làm vui lòng Chúa. Bạn tôn trọng quyền lợi của tha nhân đối với của cải của họ, danh thơm tiếng tốt, vợ con họ, bởi vì điều đó làm vui lòng Chúa.
Thưc hiện những điều này là yêu mến Thiên Chúa. Và để thực hành những điều này, chúng ta cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa, chúng ta phải xin Ngài giúp đỡ như Kilmer đã làm, như các thánh đã làm. Bạn hãy cầu xin như trong lời nguyện nhập lễ: “Xin cho chúng con được thêm lòng tin cậy mến, và biết yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy”.
Lạy Chúa, con muốn làm vui lòng Chúa. Xin Chúa giúp con làm vui lòng Chúa
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.

22. Điều răn trọng nhất - JKN

Câu hỏi gợi ý:
1. Theo tinh thần của Đức Giêsu, thì trong hai điều răn quan trọng nhất ấy, điều răn nào quan trọng hơn? Phải ưu tiên sống điều răn nào?
2. Tại sao thánh Phao-lô tóm toàn bộ lề luật vào một điều răn duy nhất: «Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật» (Rm 13,8)? Ngài bỏ điều răn yêu Chúa sao?
3. Nếu bạn là một người cha đông con, đồng thời là người cha tốt lành không chút vị kỷ, bạn muốn con cái yêu thương mình bằng cách nào?
CHIA SẺ
1. Hai điều răn trọng nhất của Do Thái giáo và Kitô giáo
Người khôn ngoan thì trong mọi lãnh vực luôn luôn phân biệt điều chính và điều phụ, điều cốt lõi và điều «bì phu», điều cần thiết và điều ích lợi, điều quan trọng và điều không quan trọng. Phân biệt như thế không phải để chỉ làm điều chính và bỏ điều phụ, mà để khi không thể làm được cả hai, thì phải ưu tiên cho điều chính. Vì điều chính là yếu tố quyết định thành công, không thực hiện nó thì chắc chắn sẽ thất bại. Còn điều phụ, nếu làm được thì rất tốt, rất ích lợi, có thể làm cho sự thành công rực rỡ hơn, nhưng không làm được thì cũng vẫn có thể thành công.
Trong việc giữ đạo và nên thánh, chúng ta cũng cần biết điều nào là cốt tủy, là quan trọng nhất; nếu không giữ điều này thì coi như chưa phải là giữ đạo, và không thể nên thánh, cho dù có giữ những điều phụ thuộc một cách thật hoàn hảo. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết, giữa biết bao giới răn, thì giới răn quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người. Đó là cốt tủy của lề luật: «Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy». Nếu giữ đạo mà không phân biệt điều nào chính điều nào phụ, thì chúng ta dễ giữ đạo theo «kiểu Pha-ri-siêu» đã bị Đức Giêsu tố cáo: «Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành» (Mt 23,23); «Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà» (23,24). Hướng dẫn người khác giữ đạo và nên thánh mà không phân biệt chính phụ, thì dễ trở thành «những kẻ dẫn đường mù quáng» (23,16). Do đó, bài Tin Mừng hôm nay có tầm quan trọng đặc biệt cho mọi Kitô hữu muốn giữ đạo và nên thánh.
2. Hai điều răn tóm lại thành một điều răn: «yêu thương»
Cũng trong chiều hướng tìm cái chính yếu, ta có thể tiếp tục đặt vấn đề: trong hai điều răn ấy, điều răn nào quan trọng, chính yếu hơn?
Phải nói đây là hai giới răn rất đặc biệt, có vẻ là hai giới răn khác nhau, nhưng thật ra chỉ là hai cách diễn tả khác nhau của một giới răn duy nhất. Cả hai giới răn chỉ có một động từ duy nhất là «yêu», đối tượng của động từ «yêu» này có vẻ là hai đối tượng khác biệt nhau: tuy có thể phân biệt rõ rệt trên lý thuyết, nhưng trên thực tế và thực hành thì dường như không thể phân biệt, và không nên phân biệt. Vì thế, hai điều răn ấy «tuy hai mà một», tương tự như hai trang của cùng một tờ giấy: tuy là hai mặt khác nhau, nhưng chỉ là một tờ giấy duy nhất.
Thật vậy, rất nhiều lời trong Thánh Kinh cố tình đồng hóa Thiên Chúa với tha-nhân-của-chúng-ta. Cụ thể nhất là trong đoạn nói về cuộc phán xét cuối cùng (x. Mt 25,31-46), Đức Giêsu đồng hóa chính Ngài với tha nhân, đặc biệt những người đau khổ, nhỏ bé, bị khinh thường, áp bức: «Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta», và «mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta».
Tại sao thế? Vì con người là «hình ảnh của Thiên Chúa» (St 1,26-27; 9,6). Có ai yêu một người mà lại không yêu bức ảnh của người ấy không? Ta thấy những cặp tình nhân, khi không có mặt nhau, thường hôn lên ảnh của nhau. Hơn thế nữa, con người là con cái của Thiên Chúa: ngay khi được tạo dựng, con người đã được Thiên Chúa yêu thương và nâng lên hàng con cái Ngài (x. Kn 5,5; Lc 20,36; Ga 11,52; Rm 8,16). Và Ngài yêu quí con người đến mức, sau khi họ sa ngã, Ngài đã cho Con Độc Nhất của Ngài xuống trần, chịu đau khổ và chết để cứu chuộc họ (x. Ga 13,1; Rm 5,6-8; 14,15b; 1Cr 15,3; 2Cr 5,15; 1Tx 5,10; 1Pr 3,18). Do đó, ai yêu Thiên Chúa, tất nhiên cũng phải yêu con cái của Ngài, những người mà Ngài hết mực yêu thương: «ai yêu mến Đấng sinh thành, thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra» (1Ga 5,1).
Như vậy, tha nhân bên cạnh và chung quanh chúng ta chính là hiện thân cụ thể và gần gũi chúng ta nhất của chính Thiên Chúa. Vì thế, yêu những người ấy là yêu chính Thiên Chúa, và không yêu họ chính là không yêu Ngài. Người Kitô hữu có đức tin đích thực phải nhìn thấy chính Thiên Chúa ở nơi những người mình gặp hằng ngày, và yêu Ngài ở nơi họ. Không thể yêu Ngài ở nơi một ai khác chính đáng hơn nơi tha nhân. Chính vì thế, thánh Gio-an mới nói: «Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy» (1Ga 4,20). Do đó, «ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình» (4,21).
Quả thật, không phải là phi lý mà thánh Phao-lô và Gia-cô-bê đã tóm lại toàn bộ lề luật không còn vào hai giới răn, mà vào một giới răn duy nhất: «Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô» (Gl 6,2); «Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật» (Rm 13,8); «Các điều răn đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. (...) Yêu thương là chu toàn Lề Luật» (13,9-10); «Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là "Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình"» (Gc 2,8). Không những ta phải yêu thương những người chung quanh mình, hy sinh cho họ, mà còn phải làm sao để họ cũng sống yêu thương và thúc đẩy nhau sống yêu thương nữa: «Chúng ta hãy để ý đến nhau, làm sao cho người này thúc đẩy người kia sống yêu thương và làm những việc tốt» (Dt 10,24).
3. Thực hiện việc yêu Thiên Chúa bằng việc yêu tha nhân
Để dễ hiểu những điều trên, ta hãy xét trường hợp của một người cha rất giàu có, rất khỏe mạnh, không thiếu thứ gì, cũng không cần thứ gì cả. Người cha ấy có một đàn con đông đảo, nhưng vì lỗi của chúng nên chúng trở nên nghèo nàn, đau khổ, thiếu thốn. Nguyên nhân gây nên tình trạng đau khổ ấy là chúng không biết yêu thương. Người cha ấy đã tìm đủ cách để đàn con hạnh phúc hơn, bằng cách giáo dục để chúng có nhiều tình thương hơn, vì một khi chúng biết yêu thương thì tất nhiên và tự nhiên hạnh phúc sẽ đến với chúng. Thử hỏi người cha ấy mong mỏi gì nơi đàn con? Chắc chắn là mong chúng yêu thương nhau (x. Ga 13,34-35).
Có một đứa con kia mong cha ban cho mình của này vật nọ, nên chỉ biết nghĩ đến cha, mong hầu hạ cha, lo cho cha từng chút, đang khi cha đã quá đầy đủ, chẳng cần ai lo cho mình một thứ gì. Ngược lại, đối với những anh em ruột thịt bên cạnh mình đang đau khổ và thiếu thốn, đang cần được chăm nom săn sóc, thì người ấy chẳng thèm đoái hoài đến. Thử hỏi người cha ấy có hài lòng về cách xử sự của người con ấy không? Cách xử sự như thế có hợp lý không? Nếu ta là người cha ấy, ta sẽ nghĩ gì về đứa con ấy, ta muốn nó xử sự thế nào?
Nếu ta là người cha ấy, chắc chắn điều ta mong mỏi nhất là thấy con cái mình yêu thương nhau, lo cho nhau, hy sinh cho nhau, và hễ chúng làm được điều ấy, thì ta sẽ hài lòng vô cùng, vì tình thương của chúng đối với nhau sẽ làm cho chúng hạnh phúc, là điều ta mong muốn nhất. Ta nghĩ rằng chính những đứa biết yêu thương anh em mình một cách vô vị lợi mới là những đứa con hiếu thảo, vì chúng có tình thương đích thực. Vì nếu anh em chúng nghèo khó và khó thương mà chúng còn thương được, ắt chúng phải thương yêu cha chúng hơn nhiều. Còn những đứa chỉ nghĩ tới cha mình giàu có, nên lo chăm chút cho cha đang khi cha chẳng cần điều đó, mà chẳng hề nghĩ đến anh em mình, thì tình thương của chúng đối với cha rất đáng nghi ngờ. Có thể chúng chỉ yêu bản thân chúng mà thôi, còn việc chúng chăm chút đến cha có thể chỉ là một chiến thuật cầu lợi theo sự khôn ngoan ích kỷ của chúng.
Minh họa trên cho thấy chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa bằng cách nào. Có thể nói điều răn quan trọng nhất chính là «yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn». Nhưng phải thể hiện tình yêu ấy thế nào cho phù hợp với ý của Thiên Chúa? Qua giáo huấn của Đức Giêsu, ta thấy cách tốt nhất để thể hiện tình yêu của mình đối với Thiên Chúa chính là thực hiện điều răn thứ hai: «yêu người thân cận như chính mình». Đức Giêsu đã làm gương về điều ấy. Ngài chết trên thập giá vì yêu thương con người, đồng loại của Ngài (với tư cách Ngài là một con người), nhưng cái chết ấy chính là lễ hy sinh để thờ phượng Thiên Chúa được Thiên Chúa đánh giá cao nhất. Vậy cách thờ phượng Thiên Chúa, yêu mến Thiên Chúa tốt nhất chính là yêu thương những người người chung quanh mình, những người mình gặp hằng ngày, và hy sinh bản thân mình cho họ.
Cầu nguyện
Tôi nghe Thiên Chúa nói với tôi: «Cha là Thiên Chúa, Cha không cần và không thiếu một thứ gì. Vậy thì con yêu Cha cách nào đây? Nếu con muốn yêu Cha cách thực tế, con hãy yêu Cha nơi những người sống chung quanh con, họ chính là hiện thân của Cha ở bên cạnh con. Con yêu họ, chính là con yêu Cha, và đó là cách tốt nhất để con tỏ lòng hiếu thảo đối với Cha».
 

23. "Ngừng lại!"

Để làm cho mọi người chú ý, một nhà giảng thuyết thường hay bày ra nhiều kiểu cách có tính khôi hài trong khi ông giảng. Một lần kia, khi bắt đầu đọc kinh Lạy Cha, ông đọc to hai chữ đầu "Lạy Cha" rồi bất ngờ ông la to "Ngừng lại". Ngay lập tức ông vào bài giảng của ông. Điều ông làm đó gây cho dân chúng cảm thấy xấu hổ khi họ đọc tiếp kinh Lạy Cha, vì họ không hiểu ý nghĩa của nó.
Trong đoạn Phúc Âm hôm nay cũng có đoạn mà chúng ta không nên để cho nó thoáng qua khi nghe, nhưng chúng ta phải tìm hiểu thâm sâu về ý nghĩa của nó. Câu Phúc Âm đó như sau: "Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa ngươi." Chúng ta hãy ngừng tại đây để suy nghĩ. Giới luật này có ý ám chỉ về điều gì? Làm thế nào để chúng ta có thể bày tỏ lòng chúng ta yêu mến Thiên Chúa? Chúng ta đối thoại với Chúa qua việc chúng ta cầu nguyện. Chúng ta tôn thờ Chúa hiện diện nơi mỗi người chúng ta và chúng ta cám tạ Chúa vì Ngài thương yêu chúng ta. Chúng ta cám tạ Chúa vì Ngài ban sự sống cho chúng ta và tất cả mọi sự mà chúng ta đang hưởng dùng tại cõi đời này. Chúng ta cảm tạ Chúa vì qua Chúa Giêsu chúng ta biết được rằng Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta và còn ban nhiều ơn lành cho chúng ta khi chúng ta còn sống. Chúng ta có thể nói" Cám tạ Chúa, Cám tạ Chúa" triệu triệu lần nhưng chúng ta vẫn chưa hiểu ý nghĩ của nó ám chỉ về điều gì thì có ích gì cho chúng ta.
Giới luật mến Chúa mà chúng ta không thể hiểu thấu được vì chúng ta còn hay lỗi phạm đến giới luật "yêu mến kẻ khác." Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu được hỏi "Giới luật nào cao trọng nhất?" Ngài dùng một câu trong Cựu Ứơc để trả lời cho chúng ta. Thứ nhất, "Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa ngươi," thứ hai, "Ngươi phải yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi." Chúa Giêsu muốn chúng ta phải hiểu cao sâu hơn nữa về giới luật tình yêu trong mọi khía cạnh. Giới luật yêu mến Chúa và yêu mến kẻ khác không thể nào tách rời nhau được. Chúng ta không thể nói chúng ta yêu mến Thiên Chúa nhưng đồng thời lại ghét anh em mình.
Chúa Giêsu phán: "Ta ban cho các ngươi giới luật mới... Hãy yêu mến kẻ khác như Thầy đã yêu thương các con. Nếu các con yêu thương nhau, mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy" (Jn 14:34-35).
Chúng ta hãy bày tỏ lòng yêu mến Chúa tha thiết của chúng ta qua việc chúng ta yêu thương tha nhân. Nếu sự quan tâm của chúng ta nơi tha nhân quá nông cạn thì việc chúng ta yêu mến Chúa cũng nông cạn như vậy. Việc đến nhà thờ chỉ có ý nghĩa khi chúng ta thay đổi lối nhìn của chúng ta đối với tha nhân.
Một nhóm linh mục tu sĩ đã mời một nhà quảng cáo thật nổi tiếng đến để hướng dẫn họ biết làm cách nào để cho cộng đoàn của họ được tăng triển và mọi người trong cộng đoàn sống hăng hái hơn. Họ hy vọng có thể đạt được nhiều kết quả nơi vị thuyết trình này. Nhưng nhà thuyết trình này đã làm cho họ trở nên bỡ ngỡ giống như nhà giảng thuyết trong câu truyện trên. Ông ta không một lời chào hỏi hoặc giới thiệu. Ông ta nhập đề vào buổi thuyết trình với một câu như sau: "Nếu Thiên Chúa đã quên các bạn thì một người hèn kém như tôi thì có thể làm gì cho các bạn được đây? Các bạn có biết rằng sức mạnh nào đã làm cho các môn đệ Chúa Giêsu trở nên bạo dạn và thay đổi cả Tây phương như vậy không? Đó chính là sức mạnh của Đức tin và phép lạ." Sau đó ông ta kết thúc bài thuyết trình của ông ta như sau: "Bởi vì các bạn không còn niềm tin Chúa nơi các bạn nữa, các bạn đã tìm kiếm những sự khôn ngoan thầm kín để thay vào niềm tin đó. Khi các bạn làm như vậy thì các bạn đã tự đưa mình vào hố sâu không lối ra." Quả thật như vậy, trong đời sống mỗi người chúng ta ai cũng tìm cách nào đó để cho những sự khôn ngoan thế tục làm lu mờ niềm tin trong tâm hồn chúng ta. Do đó chúng ta khó lòng đáp trả tiếng nói của Đức tin, vì lòng tin của chúng ta về giới luật yêu thương của Chúa Giêsu đã không còn nơi chúng ta. Chúa Giêsu phán: Chúng ta sẽ được nhận biết chúng ta là con Thiên Chúa qua việc chúng ta thương yêu kẻ khác, nhưng chúng ta đã không chấp nhận điều đó. Chúng ta muốn yêu mến Thiên Chúa, nhưng chúng ta lại oán hận kẻ khác. Điều đó không thể nào xẩy ra được.
Chúng ta hãy ngừng lại, suy nghĩ và kiểm điểm cõi lòng nơi mỗi người chúng ta xem coi chúng ta đã hiểu được ý nghĩa thật sự về lòng yêu mến Chúa của chúng ta như thế nào. Chúng ta chân nhận rằng yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân là hai giới luật không bao giờ tách rời ra được.

24. Điều răn trọng nhất – Lm PX. Vũ Phan Long

Sự liên kết giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận, đồng thời sự khác biệt giữa hai tình yêu đó, giúp ngăn cản một sự tách biệt giữa tôn giáo và xã hội, giữa bản tính bên trong và đời sống bên ngoài.
1.- Ngữ cảnh
Trong cấu trúc văn chương của TM Mt, đoạn văn 22,34-40 phải được coi như một bài tường thuật về một cuộc tranh luận nữa của Đức Giêsu với các đối thủ, là các đại diện Do Thái giáo chính thức. Họ tìm cách gài bẫy Đức Giêsu bằng chính những lời nói của Người (cc. 15 và 35) về những vấn đề ngày càng thêm quan trọng: nộp thuế cho Xêda, là vấn đề đặt đối lập các nhóm Hêrôđê, Pharisêu và Nhiệt Thành (Quá Khích) với nhau; sự sống lại của kẻ chết, là vấn đề được phái Xađốc đặt ra; điều răn lớn nhất, là mối bận tâm của người Do Thái tuân thủ luật Môsê nghiêm nhặt, tức phái Pharisêu. Các vấn đề ấy được đặt ra cho một vị Rabbi: “Thưa Thầy” (didaskale; x. cc. 15.24.36); đây là danh hiệu cho thấy là họ hiểu Đức Giêsu đứng vào vị trí nào. Vấn đề cuối cùng được chính Đức Giêsu nêu ra sẽ là vấn đề “con vua Đavít” (22,41-46). Đây là bốn vấn đề thường được người Do Thái thời Đức Giêsu tranh luận nhiều nhất.
Có lẽ bản văn hôm nay cũng phác lại một cuộc gặp gỡ nào đó giữa Đức Giêsu và một vị tôn sư của Do Thái giáo; vị này hẳn là muốn làm sáng tỏ hoặc đào sâu các điều răn. Ở Mc 12,28-34 và Lc 10,25-28, ta không thấy có giọng điệu bút chiến như ở bản văn Mt (x. c. 34). Riêng trong bản văn Mt, vị thông luật hỏi là để “thử” Đức Giêsu.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Câu chuyển tiếp: Người Pharisêu quy tụ lại (22,34);
2) Câu hỏi về điều răn trọng nhất: mục tiêu và nội dung (22,35-36);
3) Câu trả lời của Đức Giêsu (22,37-40).
3.- Vài điểm chú giải
- Điều răn nào là điều răn trọng nhất (36): Do Thái giáo vẫn đang đi tìm một nguyên tắc thống nhất. Các kinh sư cũng tìm cách xác lập một hệ thống tổng hợp với các đường hướng chủ đạo: Đavít xác định mười một điều (Tv 15,2-5), Isaia sáu (Is 33,15), Mikha ba (Mk 6,8), Amốt hai (Am 5,4), và Khabacúc một (Kb 2,4). Đây là bản tóm lược của Rabbi Simbai (tk iii).
- yêu mến (37): Động từ Híp-ri ’âhav có một loạt ý nghĩa, từ tình yêu tính dục đến tình yêu đới với người trong gia đình, đối với bạn bè, sự trung thành trong đời sống chính trị đến tình yêu đối với Thiên Chúa. Theo cách giải thích của người Do Thái về Đnl 6,5, “tình yêu đối với Thiên Chúa” được diễn tả trước tiên bằng những hành vi vâng phục, trung thành với Torah. Yêu mến Thiên Chúa là hy sinh mạng sống vì các điều răn của Người.
- hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn (37): Theo nhân học Híp-ri, “trái tim” (lòng) là cơ sở của tình cảm; còn “linh hồn” là phương diện sinh lực của con người. “Trí khôn” (dianoia) là từ Hy Lạp cũng có ý nghĩa như “trái tim” theo ngôn ngữ Híp-ri. Tác giả Mt đã lấy từ Mc 12,30 (“lòng, linh hồn, trí khôn và sức lực”), nhưng bỏ “sức lực” và chọn giữ lại “trí khôn” để có bộ ba. Cả ba danh từ này được dùng theo nghĩa tổng hợp: tình yêu đối với Thiên Chúa phải trọn vẹn, huy động tất cả con người, thậm chí phải chết.
- yêu người thân cận (39): Ngữ cảnh của Lv 19,11-18 là như sau: Đây là những điều khoản luân lý căn bản của Thiên Chúa liên hệ đến người thân cận, kể cả người yếu thế về mặt xã hội hoặc một đối thủ tại tòa án. Song song với “yêu” là: không trộm cắp, cư xử sai lệch, nói dối, thề gian, lừa gạt, cướp đoạt, nguyền rủa, xét xử bất công, vu khống, thù ghét. Lv 19,34 thêm: không vi phạm quyền lợi của tha nhân.
- thân cận (39): Theo bản văn căn bản Lv 19,18 và theo hầu như cách giải thích Lv 19,18 của toàn thể Do Thái Paléttina, “thân cận” (đồng loại) đây là người Israel mà thôi, những người đã được Thiên Chúa ban Lề Luật cho. Chỉ những người ngoại quốc đang sống tại đất Israel, cũng đước áp dụng một nền công lý này, mới được kể vào số “người thân cận” (Lv 19,34); sau này, chỉ những người dự tòng mới được coi như thế. Đức Giêsu theo truyền thống Mt đã mở rộng nghĩa của từ ngữ này mà áp dụng cho tất cả mọi người (x. Mt 5,43-48; 7,12; 19,19).
- Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ (40): Đức Giêsu không chỉ đặt hai điều răn này đứng đầu 613 quy định của Luật Môsê, như thể ở bên cạnh các quy định ấy; Người còn làm thành một tổng hợp. “Luật và các Ngôn sứ” là cách gọi tên bộ Kinh Thánh Do Thái (tức Cựu Ước thu hẹp), cũng có thể hiểu là ý muốn của Thiên Chúa đã được ghi giữ trong Kinh Thánh.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Câu chuyển tiếp: Người Pharisêu quy tụ lại (34)
Bản văn hôm nay vẫn nằm trong chiều hướng các cuộc tranh luận các nhóm đại diện Do Thái giáo chính thức gây ra với Đức Giêsu. Tuy vậy, các hoàn cảnh tiêu cực này vẫn không ngăn cản Đức Giêsu cống hiến những mạc khải hoặc giáo huấn quan trọng.
Để đáp lại tin tức về sự thất bại của phái Xađốc, người Pharisêu đã họp nhau lại.
* Câu hỏi về điều răn trọng nhất (35-36)
Một người thông luật trong nhóm đã hỏi để “thử” (peirazôn) Người (c. 35), như họ đã từng làm (x. Mt 22,15.18). Tuy nhiên, câu hỏi này cũng có lý do của nó: các trường phái và các vị thầy Israel vẫn đang cống hiến những lối phân phối và giải thích Lề Luật (Torah) khác nhau. Họ đã phân tích Luật ra thành 613 điều khoản khác nhau. Các kinh sư đã chọn chủ trương giữ luật thật chi li (“vị luật”). Xu hướng vị luật tỉ mỉ này làm phát sinh khi thì niềm vui do tuân giữ được trọn vẹn các điều khoản, khi thì sự tự mãn kiểu Pharisêu (x. Lc 15,29), khi thì sự lo lắng vì không tuân giữ được tất cả (x. Mt 19,18). Dù sao, cần phải tìm ra một nguyên tắc thống nhất giúp người ta biết định hướng trong cuộc đời và nhất là biết cách quyết định trong các chọn lựa thực tiễn. Vì thế, câu hỏi của vị thông luật để “thử” Đức Giêsu có lý do: không chỉ là một tranh luận lý thuyết nhà trường, nhưng cũng có một nhu cầu thực tế. Bởi vì có khi họ đã phải chỉ cho biết những điều răn nào không được vi phạm, cho dù người ta có bị giết, hoặc phải dạy điều gì là quan trọng nhất đối với Lề Luật và các điều răn này dẫn xuất từ các điều răn khác thế nào. Vì vậy, họ có nói tới một kơlal (tiếng Híp-ri có nghĩa là phổ quát tính, nguyên tắc căn bản, tóm tắt, danh hiệu) và một guph (tiếng Híp-ri có nghĩa là phần thân, phần cốt yếu) trong Lề Luật.
* Câu trả lời của Đức Giêsu (37-40)
Câu trả lời của Đức Giêsu cũng chẳng độc đáo, dù là trong lời nhắc lại giới răn tình yêu đối với Thiên Chúa, hay trong lời nhắc nhớ về tình yêu đối với người thân cận. Cả hai điều răn này đều được nói đến trong Lề Luật, và bất cứ người Israel tốt lành nào cũng đều ghi nhớ mà tuân giữ. Đức Giêsu đã chỉ làm một việc là trích sách Đệ nhị luật (6,4-5) và Lêvi (19,18). Nếu có lạ là ở chỗ Người đã đặt hai điều răn này ngang hàng với nhau: “cũng giống” (homoia) có nghĩa là điều răn thứ hai cũng đáng được quan tâm tuân giữ như đối với điều răn thứ nhất, tức là Người nối kết hai điều răn với nhau và dành cho chúng vị trí cao nhất. Hơn nữa, Đức Giêsu còn tuyên bố rằng “tất cả Luật (Môsê) và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”, có nghĩa là hai điều răn này diễn tả trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa trong Kinh Thánh, do đó hàm chứa tất cả mọi điều răn khác, hay là tất cả các điều răn khác quy về hai điều răn này. Như thế yêu mến người thân cận có nghĩa là phải dành cho người thân cận một sự chăm sóc, một tình yêu y như dành cho Thiên Chúa. Nói cách khác, người thân cận cũng phải được yêu mến “hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn”. Không cần phải phân biệt giữa ba từ ngữ này, bởi vì hy-ngữ thường dùng hai từ “trái tim” và “trí khôn” để dịch từ lev Híp-ri (= trái tim). Câu văn có nghĩa là phải vận dụng tất cả bản thân mà yêu mến Thiên Chúa.
Như vậy, câu trả lời của Đức Giêsu đã rõ. Phải yêu mến người khác với trọn vẹn bản thân mình, tức là trong thực tế không chỉ bằng lời nói, còn về phương diện con người, bằng cách giúp đỡ tận tình, nồng nhiệt. Cách đặt ngang hàng hai điều răn như thế, chúng ta đã thấy trong Bài Giảng trên núi, trong đó Đức Giêsu mời gọi người ta làm hành vi phượng tự sau khi đã giao hòa với người anh em (5,23-24) và yêu mến cả kẻ thù như Thiên Chúa yêu họ (5,44-48).
Có thể nói ở c. 40, tác giả Mt tóm tắt cái nhìn của ngài về hai điều răn trọng nhất. Công thức “ Luật (Môsê) và các sách ngôn sứ” đưa chúng ta trở lại với hai đoạn trung tâm ở 5,17 và 7,12. Ở đó, bản văn nói rằng Đức Giêsu làm trọn Lề Luật và các ngôn sứ, và cả hai khối này tập trung vào hoàng kim quy tắc. Như vậy, c. 40 hàm ý là Lề Luật và các sách ngôn sứ được hoàn tất qua Đức Giêsu. Đồng từ “tùy thuộc vào” (kremannymi en) cho chúng ta biết quan niệm của tác giả Mt về Lề Luật. Hai điều răn này, cũng như hoàng kim quy tắc, chính là nguyên tắc căn bản hướng dẫn việc giải thích bài Giảng trên núi, cũng như Lề Luật và các sách ngôn sứ.
+ Kết luận
Câu trả lời của Đức Giêsu không phải là câu trả lời của một kinh sư, dù Người được các người Pharisêu coi như thế. Đây là câu trả lời của vị Chúa Tể Lề Luật. Chính Người công bố Luật và chính Người hoàn tất Luật (x. 5,17). Chính do sự kiện Đức Giêsu hoàn tất Luật mà Người mang lại cho Luật tính chất mới mẻ đích thật. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân không phải chỉ là những thái độ con người bị buộc phải có; hai tình yêu này nhập thể nơi bản thân Đức Giêsu. Chính vì Người đã đến dùng cuộc đời, cái chết và sự sống lại của Người mà hoàn tất “Luật và các Ngôn sứ”, mà Người có thể công bố với giọng uy quyền rằng toàn thể Giao ước cũ đều “tùy thuộc” vào việc yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Chính nơi Người mà không những Lề Luật, dưới dạng điều răn, mà cả lời hứa ân phúc, được các Ngôn sứ loan báo, đã được thực hiện trọn vẹn.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Khi tuyên bố về điều răn trọng nhất (“hai trong một”), Đức Giêsu đã công bố sự giải phóng tuyệt vời cho con người. Bây giờ, ta chỉ còn phải tuân giữ hai điều mà thôi. Người nào chu toàn thật sự những gì được yêu cầu trong hai điều răn này thì có thể chắc chắn là đã hoàn tất Lề Luật và thực hiện ý muốn của Thiên Chúa (x. Mt 7,12; Gl 5,14; Rm 13,8-10). Đây chính là điều Thiên Chúa nhắm khi tạo thành con người. Họ được tạo nên để vâng phục Thiên Chúa như chủ và chúa của mình, và cũng để yêu thương Người như cha của mình. Thế mà sự vâng phục chỉ nên trọn vẹn trong tình yêu mà thôi.
2. Người thân cận không phải chỉ là người thuộc về cùng một dân tộc, ở trong cùng một quốc gia, nói cùng một ngôn ngữ. Bất cứ ai cũng có thể là người thân cận của tôi, nhưng không phải lúc nào cũng thế. Tránh né luật yêu thương bằng cách nói đến những người thân cận ở xa, để lơ đi những người ở bên mình đang cần được mình quan tâm, là một cám dỗ dễ rơi vào. Chính tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta phải là mẫu mực cho tình yêu của con người đối với nhau.
3. Yêu thương anh em không phải chỉ bởi vì Thiên Chúa yêu cầu, để vâng lời Thiên Chúa. Liên hệ giữa hai tình yêu này không phải là một liên hệ pháp lý, võ đoán, mà là liên hệ nội tại: ta không thể yêu mến Thiên Chúa nếu không yêu thương anh em. Trong khi yêu thương người khác vì chính họ, ta yêu mến Thiên Chúa vì chính Người. Chỉ có một tình yêu duy nhất, vì con người chỉ có một con tim. Ta có thể suy ngẫm lại bài thánh ca đức mến của thánh Phaolô để thêm xác tín về điểm này (1 Cr 13,4-6).
4. Sự liên kết giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận, đồng thời sự khác biệt giữa hai tình yêu đó, giúp ngăn cản một sự tách biệt giữa tôn giáo và xã hội, giữa bản tính bên trong và đời sống bên ngoài. Yêu mến bản thân mình có thể được nhờ tình yêu đối với Thiên Chúa; chính tình yêu đối với Thiên Chúa đưa tới chỗ không tuyệt đối hóa bản thân, mà lại có một sự nội tâm hóa mới, đồng thời có một tình yêu nồng nàn hơn đối với người thân cận.

25. Phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự
Suy niệm Chúa nhật XXX năm – A
(Mt 22, 34-40)
Lại một bẫy khác do con người đặt ra để thử lòng Thiên Chúa. Thay vì một nhóm người như trước, họ chọn ra một đại diện cho cả nhóm. Vì muốn thử thách Chúa, họ chọn một vị thông luật, đã là thông luật nên chắc ông này phải thuộc nằm lòng 613 điều luật ghi trong sách Luật Do thái, trong đó 365 điều luật cấm và 248 điều luật truyền làm, chưa kẻ các điều luật phụ nữa. Ông cũng biết các điều trên được chia thành hai vế trọng luật và khinh luật. Phạm khinh luật thì chịu phạt đền tội, nhưng phạm trọng luật như giết người, thờ tà thần, gian dâm... thì bị tử hình. Vì là viên thông luật, hiển nhiên ông biết rõ mỗi nhóm thích giữ một điều luật và cho rằng điều ấy đối với họ là quan trọng hơn cả, có thể Chúa Giêsu đưa ra điều này trọng đối với nhóm này nhưng lại thường đối với nhóm kia, đó là lý do ông đặt ra câu hỏi với Chúa Giêsu hòng nắm chắc phần thắng về mình : “Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất” ?
Hai Điều răn
Thật không dễ để trả lời. Nếu Chúa trả lời điều luật này trọng, điều luật kia không trọng thì thế nào Người cũng bị qui lỗi  là về phe nhóm này, chống nhóm kia, và như vậy Người sẽ mắc bãy của họ.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa thấu hiểu lòng người, nhưng Chúa vẫn trả lời. Chúng ta cũng cám ơn vị thông luật này đã hỏi thử Chúa để chúng ta co được chỉ dẫn rõ ràng, xác thực về thứ tự các giới răn.
Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi" (Mt 22, 37). Câu luật này trích trong sách Đệ nhị luật 6,5 có đổi một chút, thay vì “hết sức” thì Chúa nói là “hết trí khôn”. Song cốt yếu không có gì đổi.
Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: "Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi" (Mt 22, 39). Luật này trích ở sách Lêvi 19,18 có khác ở chỗ thay vì yêu kẻ khác thì yêu đồng loại : "Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình".  
Ba đối tượng yêu thương
Chúa Giêsu kết luận : "Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó" (Mt 22, 38). Điều răn thì có : thứ nhất mến Chúa, thứ hai yêu người, nhưng gồm ba đối tượng yêu thương : Thiên Chúa, kẻ khác và bản thân.
Đối tượng thứ nhất là Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu " Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất"(Mt 22, 37-38).
Thiên Chúa không đòi hỏi chúng ta nhiều điều, bởi "yêu mến là chu toàn cả Lề luật"(Rm 13, 10). Nhưng tình yêu có hai vế : Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương kẻ khác... Khi dạy chúng ta yêu mến Thiên Chúa, Chúa đòi hỏi chúng ta phải yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Còn yêu thương kẻ khác, Chúa Giêsu không bảo ta phải yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ; nhưng "yêu kẻ khác như chính mình. Tại sao vậy ? Vì Thiên Chúa "là dũng lực, là Đá Tảng, chiến luỹ, cứu tinh, là sơn động, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù chúng ta " (x. Tv 17, 2-3), nên chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa không những hết… mà còn trên hết mọi sự, hơn cả chính mình, vì theo lời Chúa Giêsu thì : " Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất" (Mt 22, 38).
Đối tượng thứ hai là " kẻ khác" Chúa phán : "Giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi " (Mt 22, 39).
Theo quan niệm của Người Do thái lúc bấy giờ thì "tha nhân" là những người đồng chủng, đồng hương, đồng xứ (x. Lv 19, 18).  Còn “kẻ khác” được hiểu là hết mọi người, (x. Mt 25, 40). Khi Chúa Giêsu bảo người thông luật "hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi", Người có ý dạy phải thương yêu mọi người chứ không giới hạn trong những người đồng hương với nhau (Mt 25, 40), không những thế mà lại còn phải yêu thương cả địch thù nữa (Mt 5, 43), và yêu như thế nào ? "Yêu như chính mình ngươi".
Chúa có truyền dạy chúng ta yêu chính mình không ? Thưa : Thiên Chúa xét thấy không cần buộc con người phải yêu chính mình, vì không ai ghét mình bao giờ. Nhưng cũng có nhiều người tự đánh mất mình khi yêu mến sự ác.. Chúa dạy chúng ta yêu mến Thiên Chúa hết lòng, Người truyền cho chúng ta giới luật phải yêu chính mình. Chắc chắn ai trong chúng ta cũng muốn yêu mình. Thiên Chúa là Tình Yêu, chúng ta là kẻ có tình yêu. Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Thiên Chúa đã dành cho chúng ta một tình yêu khác với chúng ta nghĩ. Tình yêu ấy nuôi dưỡng và củng cố các mối quan hệ của tình yêu chúng ta dành cho bản thân và kẻ khác. Trong thực tế, chúng ta phải yêu bản thân mình trong tình yêu Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, và chúng ta có thể bước vào trong tình yêu. Vậy, hãy yêu mến Thiên Chúa hết mình, thì trong Thiên Chúa chúng ta sẽ tìm được chính mình, và tránh được nguy cơ tự đánh mất mình… Nên, theo nguyên tắc, ta yêu kẻ khác như chính mình, yêu Thiên Chúa hết mình và yêu chính mình.
Yêu kẻ khác như chính mình
Khi truyền dạy "Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình", Chúa Giêsu như đặt một tấm gương để tự chúng ta soi xem mình có yêu "kẻ khác" hay không? Chúa Giêsu xem tình yêu " kẻ khác " như "mệnh lệnh của Người," mệnh lệnh tóm tắt toàn thể lề luật. "Đây là mệnh lệnh của Thầy, là anh em hãy yêu nhau như Thầy đã yêu anh em" (Ga 15, 12). Nhiều người có khi đồng hóa toàn thể Kitô giáo với luật yêu người.
Chúng ta cố gắng đi xa hơn một chút bề mặt của nsự việc. Khi nói về tình yêu kẻ khác, người ta nghĩ ngay tới những "việc làm" như bác ái, hay "phải làm" cho kẻ khác như : cho họ ăn, uống, thăm viếng họ, nói tóm tắt là giúp đỡ kẻ khác. Nhưng đó là hậu quả của tình yêu, chứ chưa phải là tình yêu. Lòng từ tâm tới trước sự làm phúc. Trước khi làm phúc, người ta phải muốn làm phúc.
Thánh Phaolô nói rõ : Đức bác ái phải là "không giả vờ," tức là, phải chân thật, nghĩa đen, "không giả hình," (Rm 12, 9); người ta phải yêu "với một con tim trong sạch" ( 1 Pr 1, 22). Trên thực tế, người ta có thể làm việc bác ái và bố thí vì nhiều lý do không dính dáp gì với tình yêu: tô điểm chính mình, để ra vẻ là một người làm điều thiện, được lên thiên đàng, và có khi để trấn an một lương tâm xấu.
 "Như chính mình" Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh người được yêu đồng hóa với người yêu, vì vậy, phải yêu thương kẻ khác bằng chính tình yêu đối với bản thân, nhưng tiên vàn phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

26. Cốt Lõi Của Lề Luật
CN 30 A


Nhóm Pharisiêu liên minh với nhóm Hêrôđê gài bẫy Chúa Giêsu về vấn đề nộp thuế cho Cêsarê. Họ đã thất bại.
Nhóm Pharisiêu lại tiếp tục liên kết với nhóm Xađốc gài bẫy lần nữa: Có bảy anh em trai cùng lấy một người vợ, ngày tận thế khi sống lại, người đàn bà đó là vợ của ai trong bảy anh em?. Họ cũng thất bại.
Chưa chịu thua. Lần này, như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại, họ chọn ra một người thông luật để tranh luận với Chúa Giêsu: Thưa Thầy, trong lề luật giới răn nào trọng nhất?. Đây là một câu hỏi hóc búa, bởi vì đạo Do thái có rất nhiều khoản luật mà luật nào cũng đều quan trọng cả.Luật Do thái có tất cả 613 điều luật khác nhau, trong đó có 365 điều luật cấm và 248 luật phải giữ. Điều răn nào quan trọng nhất? Sở dĩ họ đặt câu hỏi này với Chúa Giêsu là vì một phần vì họ không nhất trí đựơc với nhau, phần vì muốn thử Chúa Giêsu để mong đặt Người vào thế bí không thể giải quyết được.
Chúa Giêsu đã trả lời thật tuyệt vời: Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi hết lòng hết linh hồn hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và là điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn này là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.
Như thế trong 613 điều luật, Chúa Giêsu đã chọn lọc ra hai điều luật quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người từ sách Đệ Nhị Luật (Đnl 6,5) và sách Lêvi (Lv 19,18). Người liên kết hai điều đó lại: mến Chúa thì phải yêu người, yêu người thì phải mến Chúa. Cả hai điều ấy có thể tóm lại thành một điều duy nhất là yêu thương. Yêu thương là cốt lõi của tất cả mọi khoản luật khác.
 
Suốt cuộc đời, Chúa Giêsu đã làm chứng về sự quan trọng của hai luật đó. Người không chỉ làm chứng bằng lời giảng dạy mà còn bằng chính cuộc sống và cái chết của mình.

Yêu Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn. Lòng mến Chúa phải toàn diện, liên quan đến trái tim, linh hồn và cả khối óc của con người.Tình yêu ấy phải là động lực thúc đẩy tất cả mọi hoạt động tinh thần cũng như thể xác. Chúa Giêsu đã yêu mến Chúa Cha, luôn sống đẹp lòng Cha, luôn dành thời giờ cầu nguyện tâm sự với Cha. Chấp nhận cuộc khổ nạn và cái chết thập giá bởi lòng yêu mến Cha và yêu thương nhân loại.
Yêu người thân cận như chính mình. Điều răn này cũng quan trọng ngang với điều răn thứ nhất về lòng mến Chúa, vì lòng yêu người phát xuất từ lòng mến Chúa và cũng cần thiết như lòng mến Chúa vậy. Đọc Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu thể hiện lòng yêu mến đối với hết mọi người.
- Với người ngoại giáo Samaria, trước đây người Do thái xa lánh khinh khi, nay Chúa gần gũi trân trọng.
-Với người tội lỗi, trước đây người Do thái kết án loại trừ, nay Chúa liên kết tìm về.
-Với người thù địch, trước đây người Do thái báo oán tiêu diệt, nay Chúa cầu nguyện làm ơn.
-Với người nghèo, trước đây người Do thái dửng dưng coi thường, nay Chúa chăm sóc tôn trọng.
-Với người anh em, trước đây người Do thái vị kỷ nhỏ nhen, nay Chúa vị tha quảng đại.

Chúa Giêsu đã sống tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người thật tuyệt hảo. Người còn ban thêm điều răn mới: Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Yêu thương nhau như Thầy đã yêu. Yêu Chúa và yêu người có một động từ chung là yêu. Đối tượng của động từ yêu này có vẻ khác biệt nhưng lại không phân biệt. Hai điều răn ấy tuy hai mà một, giống như hai trang của cùng một tờ giấy, tuy hai mặt khác nhau nhưng cũng chỉ là một tờ giấy duy nhất. Yêu người là yêu Chúa và yêu Chúa là yêu người. Người Kitô hữu có đức tin sẽ nhìn thấy Thiên Chúa nơi anh chị em mà mình gặp gỡ hàng ngày, yêu Chúa nơi họ.
Hai điều răn mến Chúa, yêu người không thể tách rời nhau.Yêu Thiên Chúa chắc chắn dẫn đến yêu tha nhân.Tình yêu tha nhân cần đặt nền trên lòng yêu mến Thiên Chúa.Người Kitô hữu đi từ nhà thờ ra nơi cuộc sống rồi từ cuộc sống đi vào nhà thờ.Ngoài cuộc đời, họ gặp Chúa nơi anh em.Trong nhà thờ, họ gặp anh em nơi Chúa.Thánh Gioan đã nói: Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy (1Ga 4,20). Do đó, “ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình” (Ga 4,21).
Chủ đề Sứ điệp Truyền Giáo năm 2011 của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI là: “Hãy yêu người lân cận như chính mình” (Mt 23,39). Khi yêu thương người lân cận là chúng ta yêu thương Chúa. Yêu thương người lân cận là thước đo tình yêu của người tín hữu đối với Chúa. Sứ điệp viết: “Một trong các mục tiêu của Ngày Thế Giới Truyền Giáo là …giúp cải thiện cuộc sống cho những người đang sống trong các quốc gia nghèo khổ, đói kém, nhất là các trẻ em suy dinh dưỡng, bệnh tật, thiếu chăm sóc y tế và giáo dục là những công tác quan trọng nhất. Tất cả các công việc này đều đi kèm với sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội. Khi loan báo Tin Mừng, Giáo Hội sống gắn bó với cuộc sống con người theo nghĩa rộng nhất”.
Sứ điệp Truyền Giáo năm 2014, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi: “Niềm vui của Tin Mừng  phát sinh từ việc gặp gỡ Đức Kitô và việc chia sẻ với người nghèo. Vì lý do này, tôi khuyến khích các cộng đoàn giáo xứ, các hội đoàn và các nhóm hãy sống một đời sống huynh đệ đậm đà, đặt nền trên tình yêu đối với Đức Kitô và quan tâm tới các nhu cầu của những người yếu thế nhất. Ở đâu có niềm vui, sự phấn khởi và ước muốn đem Đức Kitô đến với người khác, ở đấy sẽ phát sinh nhiều ơn gọi đích thực…loan báo Tin Mừng cho nhân loại cần dựa trên tình thương.” (Số 4 và 5).
Mẹ Têrêxa Calcutta đã sống lời Chúa Giêsu dạy: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,34). Mẹ Têrêxa đã thực thi lời Thánh Phaolô: ”Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái, vì ai yêu người thì đã chu toàn lề luật. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy”(Rm 13,8-10).
 
Mẹ Têrêxa đã sống điều răn yêu thương cách trọn vẹn. Mẹ nhìn thấy Chúa trong những người phong cùi. Mẹ gặp Chúa nơi những người bần cùng khốn khổ. Mẹ yêu Chúa trong những con người bất hạnh. Mẹ tận tình chăm sóc họ. Mẹ dạy các nữ tu: "Con thấy linh mục nâng niu trân trọng Mình Thánh Chúa trong thánh lễ ra sao thì con hãy làm như thế đối với người cùng khổ."
Mẹ Têrêxa yêu mến Chúa hịên diện trong những người nghèo khổ. Mẹ đã yêu Thiên Chúa trong con người. Tông huấn Giáo hội tại Á châu dạy: “ Việc công bình, bác ái và thương xót phải gắn bó mật thiết với đời sống cầu nguyện và chiêm niệm đích thực, và thật vậy, chính cũng một tu đức này là nguồn suối của mọi công trình rao giảng Tin mừng của chúng ta”. Mẹ Têrêxa là nhà truyền giáo “chiêm niệm trong hành động”.
 
Linh đạo truyền giáo của Mẹ Têrêxa chính là cầu nguyện và yêu thương. Nét đặc sắc của cuộc đời truyền giáo Mẹ Têrêxa là niềm vui nội tâm phát xuất từ đức tin thể hiện qua đời sống yêu thương phục vụ. Mẹ được Giáo hội phong Chân Phước. Mẹ là một vị thánh của thời đại. Mẹ được người đời xem là vĩ nhân. Mẹ được mọi người trên thế giới này yêu mến, cả những người Hồi giáo, Ấn giáo, Cộng sản…
Truyền giáo là nói về Chúa Giêsu cho người khác nghe; sống như Chúa Giêsu cho người khác thấy. Truyền giáo là giới thiệu Chúa Giêsu Kitô cho mọi người bằng chính cuộc sống phục vụ và yêu thương của chúng ta.
Truyền giáo là nói về Chúa Giêsu cho mọi người biết bằng chính cuộc sống yêu thương của mình. Truyền giáo khởi sự bằng cuộc sống và con tim. Cuộc sống và con tim đòi hỏi các môn đệ Chúa Kitô sống có tấm lòng “yêu người lân cận như chính mình”.
 
Sống linh đạo truyền giáo của Mẹ Têrêxa là yêu mến Thiên Chúa trong con người, chúng ta sẽ giới thiệu cho tha nhân Đạo Chúa là “Đạo những người yêu nhau”, một Đạo rất đẹp, rất bác ái.
 
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho nhân loại hai giới răn quan trọng nhất là yêu Chúa và yêu người.
Xin dạy chúng con biết sống tâm tình biết ơn về những hồng ân Chúa ban, xin cho chúng con biết yêu mến và phụng sự Chúa trong mọi người. Xin dạy chúng con nhận ra hình ảnh Chúa nơi anh em để chúng con yêu Chúa và yêu người với tâm hồn bác ái rộng mở. Amen.
 
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
 
 27. Cốt Lõi Của Luật Là Lòng Mến
(CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN, A)
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Khi nói về tình yêu, hẳn đã có quá nhiều người biết và định nghĩa về chúng. Tuy nhiên, khi sống căn tính về tình yêu, thì có lẽ không mấy người đạt được! Đôi khi còn hiểu sai hay hành động lệch lạc hoặc phiến diện. Vì thế, sự cao quý của nó đôi khi bị mất ý nghĩa...!
Tin Mừng hôm nay được Đức Giêsu nói đến là một thứ tình yêu hoàn hảo và phong phú. Hoàn hảo là vì khi yêu mến Chúa trên hết mọi sự, thì chúng ta sẽ được kín múc nguồn lực để yêu mến tất cả mọi người không trừ ai. Phong phú vì: “Giới hạn của tình yêu là không có giới hạn nào” (thánh Augustinô). Thật thế, mến Chúa và yêu người là hai mặt nhưng chỉ có một tình yêu. Vì thế, nó không thể tách rời nhau, mà là hòa quyện lại với nhau để làm nên điều thiện hảo.
  1. Mến Chúa gắn liền với yêu người
Những người Biệt Phái vốn đã có sẵn sự hiềm khích với Đức Giêsu. Có lẽ, với người Biệt Phái, họ không mong muốn gì hơn là việc loại bỏ Đức Giêsu càng sớm càng tốt cho đỡ ngang tai trái mắt, bởi vì Đức Giêsu chẳng khác gì cái đó ngáng chỗ của họ. Vì Ngài, mà những người này đã phải mất ăn mất ngủ để tìm ra những mưu kế nhằm gài bẫy Đức Giêsu.
Hôm nay, vẫn nằm trong ý định đó, nên họ đã nhất trí với nhau là đề cử một người đại diện để đứng lên hỏi Đức Giêsu về điều răn nào là trọng nhất trong Sách Luật. Đây là câu hỏi khó, không dễ trả lời.
Tại sao họ lại hỏi câu nói đó? Thưa vì trong Sách Luật Môsê có tới 613 điều luật, được chia thành 248 điều phải làm và 365 điều phải tránh.  Tuy nhiên, ngay trong các nhóm của họ cũng bất đồng với nhau: mỗi nhóm thích giữ một điều luật và cho điều luật ấy là quan trọng hơn cả. Như vậy, nếu Đức Giêsu nói điều này hơn điều kia, thì hẳn Ngài sẽ làm phật lòng các nhóm còn lại, và như thế, không có lợi gì cho Ngài.
Tuy nhiên, lại một lần nữa, Đức Giêsu đã làm cho mục đích của họ bại lộ và phải câm miệng như nhóm Sađốc. Ngài nói: "Ngươi phải yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ðó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy". (Mt 22,37-40).
Khi nói "Điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy", Đức Giêsu muốn dạy cho họ một chân lý rằng: mến Chúa thì phải yêu thương anh chị em mình. Hai điều răn này luôn gắn liền với nhau. Kẻ nào mến Chúa mà không yêu người thì mâu thuẫn, hay yêu người mà không mến Chúa cũng chẳng khác gì “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.
Thánh Gioan cũng nói trong thư của ngài như sau: "Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4, 20).
Qua câu trả lời của Đức Giêsu, chúng ta thấy có sự mới mẻ và phổ quát, không hàm hồ mà thực tế. Bởi lẽ, câu trả lời này đều được rút ra từ chính trong sách Luật Môsê và nó có sự liên đới với nhau mật thiết đến độ không thể bỏ một lấy một hay coi trọng điều này mà giảm khinh điều kia.
Đây chính là điều răn mới và đây cũng chính là tiêu chuẩn để mặc khải dung mạo của một vị Thiên Chúa giàu tình thương, nhưng lại được hiện tại hóa nơi người loan truyền: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13,34-35).
Thật vậy, tình yêu thương là quan trọng. Thiếu đi tình yêu thương, chúng ta đánh mất đi cốt lõi của luật. Vì thế, thánh Phaolô cũng quả quyết: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1 Cr 13, 13).
  1. Mến Chúa, yêu người gắn liền với lòng bác ái và hy sinh
Như vậy, chúng ta đã nhận ra điều quan trọng trong toàn bộ Lề Luật, đó là lòng mến. Lòng mến này được thể hiện qua đức ái. Nếu không có đức ái, thì tình yêu của chúng ta sẽ chẳng khác gì một sự lừa bịp. Hay như trò “khua chiêng gõ mõ”.
Khi nói về vấn đề này, thánh Phaolô đã giải thích như sau: "Dầu tôi nói được các thứ tiếng loài người và thiên sứ [...] Dầu tôi được ơn nói tiên tri, cùng biết đủ các sự mầu nhiệm, và mọi sự hay biết; dầu tôi có cả đức tin đến nỗi dời núi được,[...] Dầu tôi phân phát gia tài để nuôi kẻ nghèo khó, lại bỏ thân mình để chịu đốt, song không có tình yêu thương, thì điều đó chẳng ích chi cho tôi" (x. 1 Cr 13,1-3). 
Như vậy, đối với chúng ta, những người Công Giáo, dấu chỉ để nhận biết chúng ta có yêu Chúa thật lòng hay không lại phụ thuộc vào tình yêu của chúng ta dành cho tha nhân. Và để nhận biết được tình yêu đó lớn hay nhỏ lại phụ thuộc vào đức ái được đặt để trong tình yêu. Thật vậy: “Ðức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (x. 1Cr 13,7).
Khi yêu thương anh chị em mình cách chân thành, đấy là dấu chỉ chúng ta đang thuộc về Chúa, vì: "Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy" (1 Ga 4,16), còn nếu: "Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu" (1 Ga 4,8).
Nói cách khác, chúng ta biết yêu và có động lực để yêu là vì chúng ta được Thiên Chúa yêu thương trước: "Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5,5). 
Như vậy, ta cũng có thể hiểu tình yêu được khơi nguồn từ chính Thiên Chúa, và ai có được tình yêu với tha nhân thì đã hội ngộ cùng Thiên Chúa và đã ở trong Ngài.
  1. Sống sứ điệp Lời Chúa
Cả cuộc đời của Đức Giêsu là hiện thân của một cuộc tình giữa Thiên Chúa và loài người. Cuộc tình đó, Đức Giêsu là người đi bước trước để đến với loài người. Tình yêu của Ngài là một tình yêu hướng tha.
Khi khai mở một cuộc tình như thế, Đức Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta hãy đi trên lộ trình của cuộc tình như Ngài là chấp nhận hy sinh, phục vụ và hiến thân vì người mình yêu. Bởi vì: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13).
Ngày nay, có rất nhiều người lầm tưởng và nghĩ rằng: muốn nên thánh thì phải làm được những chuyện lớn lao, vĩ đại, siêu quần bạt chúng; hay phải là một người đạo đức trổi vượt, ăn chay quanh năm suốt tháng, sáng lễ, chiều kinh, tối chầu; rồi luôn tham gia hết hội đoàn này đến hội đoàn kia; hoặc ở đâu có hành hương là đầu tư tiền bạc để đi cho kỳ được... Những việc làm này thật đáng ca ngợi, bởi vì một cách nào đó thể hiện sự anh hùng, trung thành, tin tưởng... Tuy nhiên, đây không phải là cốt lõi của Đạo, và đây cũng chưa hẳn là bản chất của sự thánh thiện...
Thật vậy, sự thánh thiện không hệ tại ở việc tuân giữ giới luật của Chúa bề ngoài. Bề ngoài thực sự chỉ có giá trị khi nó được thúc đẩy bởi lòng mến mà thôi. Nếu có lòng yêu mến Chúa và yêu thương anh chị em thực sự thì những việc ta làm ở trên mới có giá trị, bằng không nó sẽ vô nghĩa nếu không muốn nói là sẽ nguy hại cho linh hồn vì: chúng ta sẽ dễ rơi vào tình trạng như những người Biệt Phái, Luật Sĩ khi xưa là sống hình thức, giả hình bên ngoài.
Thiên Chúa sẽ không căn cứ vào chuyện ta làm được nhiều hay ít; đọc nhiều kinh; cầu nguyện lâu giờ cũng như đi hết nơi này nơi kia..., nhưng, Chúa sẽ dựa trên tình yêu ta đặt vào đó nhiều hay ít mà trọng thưởng chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu được rằng: mọi sự sẽ vô nghĩa nếu không có tình yêu. Xin Chúa ban cho chúng con luôn luôn lấy tình yêu làm căn cốt, để chúng con được ở trong tình yêu của Thiên Chúa. Amen.
 
 28. Mến Chúa Thể Hiện Qua Đức Yêu Người
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 22,34-40
(34) Khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, thì những người Pha-ri-sêu họp nhau lại. (35) Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: (36) “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn lớn nhất ?”. (37) Đức Giê-su đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của người hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn đứng đầu. (39) Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. (40) Tất cả Luật Mô-sê và các sách Ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”.
2. Ý CHÍNH:
Câu hỏi của người thông luật trong nhóm Pha-ri-sêu nêu ra với Đức Giê-su để thử Người vốn là một trong những vấn đề mà các Rá-bi Do Thái luôn bất đồng ý kiến và không ngừng tranh cãi nhau: “Trong sách Luật Mô-sê thì điều răn nào là điều răn lớn nhất ?” Nhưng điều họ cho là khó thì Đức Giê-su lại dễ dàng giải đáp. Theo Đức Giê-su thì toàn bộ sách Luật và các Ngôn sứ đều tóm gọn trong hai điều răn lớn nhất là mến Chúa và yêu Người.
3. CHÚ THÍCH:
- C 34-35: + Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng: Trong dân Do Thái có nhiều phe nhóm khác nhau. Phái Xa-đốc vì chỉ dựa trên Luật thành văn là bộ sách Ngũ Thư, nên nghĩ rằng không có chuyện kẻ chết sống lại (x. Mt 22,23). Họ đã dựa trên luật “thế huynh” (x. Đnl 25,5-10) để đặt vấn đề với Đức Giê-su. Người đã trả lời bằng hai điểm: Một là khi sống lại, người ta sẽ sống như các thiên thần (x. Mt 22,30). Hai là Người nhắc lại lời Thiên Chúa phán với Mô-sê rằng: Người là Thiên Chúa của các tổ phụ, ngầm ám chỉ các tổ phụ ấy vẫn đang sống với Người (x. Xh 3,6). Trước những bằng chứng rút từ Thánh Kinh ấy, họ đuối lý và đành câm miệng. + Thì những người Pha-ri-sêu họp nhau lại: Họp nhau ở đây nhằm đối phó với Đức Giê-su. Sau này các đầu mục Do Thái cũng họp nhau để tìm cách giết hại Người (x. Mt 26,3-4). + Một người thông luật trong nhóm: Đây là một kinh sư trong nhóm Pha-ri-sêu. Thời Đức Giê-su có khoảng sáu ngàn người thuộc nhóm Pha-ri-sêu hay Biệt Phái. Cũng như nhóm Ét-sê-ni, nhóm Pha-ri-sêu thường kết nạp những người có lòng đạo đức muốn chống lại ảnh hưởng ngoại giáo. Nhóm gồm các kinh sư, các tiến sĩ Luật và cả tư tế nữa. Họ tổ chức thành hội, nhằm giúp nhau giữ đạo của cha ông và trung thành với Luật Mô-sê. + để thử Người: Ở đây nhóm Pha-ri-sêu nêu câu hỏi nhằm đưa Đức Giê-su vào thế bí, để xem Người sẽ giải quyết thế nào đối với một vấn đề nan giải, thường gây tranh cãi giữa các ráp-bi với nhau.
- C 36-37: + Luật Mô-sê: Luật hay “Tô-ra” trong tiếng Do Thái, ám chỉ giáo huấn mặc khải của Thiên Chúa nhằm hướng dẫn cách sống của dân Chúa về nhiều lãnh vực như: Luân lý, tổ chức gia đình và xã hội, nghi thức phụng tự, các thừa tác viên và các điều kiện cử hành… Đây là toàn bộ những điều luật ghi trong Ngũ Thư và chi phối đời sống tôn giáo và trần thế của dân It-ra-en. Luật Mô-sê gồm 613 điều khoản khác nhau, trong đó có 246 điều truyền buộc và 365 điều luật cấm đoán. + Điều răn nào là điều răn lớn nhất: Lớn nhất tức là quan trọng nhất. Sở dĩ họ đặt câu hỏi này với Đức Giê-su, phần vì họ không nhất trí được với nhau, phần vì muốn thử Đức Giê-su để mong đặt người vào thế bí không thể giải đáp được. + Ngươi phải yêu mến Đức Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi: Lòng mến Chúa phải toàn diện, liên quan đến trái tim, linh hồn và cả khối óc của con người. Tình yêu ấy phải là động lực thúc đẩy tất cả mọi hoạt động tinh thần cũng như thể xác. + Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu: Đây là điều răn thứ nhất trong Thập Giới (x. Đnl 6,5). Tầm mức quan trọng của điều luật này không phải vì được xếp đầu tiên, nhưng vì việc mến Chúa là điều quan trọng bậc nhất. Vì thế mỗi người Ít-ra-en đều phải đọc đi đọc lại Luật này mỗi ngày hai lần: lúc vừa thức giấc cũng như trước khi nghỉ đêm.
- C 38-40: + Điều răn thứ hai cũng giống điều thứ nhất: Điều răn thứ hai tuy nói về đức yêu người, nhưng cũng quan trọng ngang với điều răn thứ nhất nói về lòng mến Chúa. Vì đức yêu người bắt nguồn từ lòng mến Chúa và cần thiết ngang với lòng mến Chúa vậy. + Yêu người thân cận: Đối với dân Ít-ra-en: người thân cận là những người cùng chủng tộc, cùng huyết thống. Nhưng Đức Giê-su đã mở rộng tình yêu tha nhân đến hết mọi người: Dù là Do Thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do… và yêu cả kẻ thù của mình nữa (x. Mt 5,43-48). + như chính mình: Yêu kẻ khác giống như yêu bản thân mình, là đặt mình vào hoàn cảnh của người khác. Nói cách khác yêu người bằng mình là: “Muốn người ta làm gì cho mình, thì hãy làm cho người ta như vậy” (x. Mt 7,12), và ngược lại “Điều gì con không thích thì đừng làm cho ai” (Tb 4,15). + Tất cả Luật Mô-sê và các sách Ngôn sứ: Luật Mô-sê và các sách Ngôn sứ là cách nói chỉ toàn bộ Cựu Ước. Luật Mô-sê gồm có năm cuốn sách trong bộ Ngũ Thư. Còn sách các Ngôn sứ gồm hai loại: sách các Ngôn sứ lớn như I-sai-a, Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en, Đa-ni-en và sách các Ngôn sứ nhỏ như Ba-rúc, Hô-sê, Giô-en, A-mốt, Giô-na, Mi-kha, Na-khum, Kha-ba-cúc, Xô-phô-ni-a, Khác-gai, Da-ca-ri-a, Ma-la-khi. + đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy: Thánh ý của Thiên Chúa biểu lộ qua các giới răn, và qui về hai giới răn là “Mến Chúa” và “Yêu người”. Như vậy, Đức Giê-su đã gắn liền điều răn yêu người với điều răn mến Chúa, bằng cách cho cả hai cùng quan trọng như nhau, và tập trung tất cả lề luật vào hai điều răn này. Từ nay, người ta không cần phải lo lắng chu toàn tất cả 613 điều khoản, với các chi tiết khó nhớ và khó áp dụng. Nhưng họ chỉ cần giữ hai điều then chốt là “Mến Chúa hết lòng hết sức” và “Yêu thương tha nhân như chính mình”. Giữ hai điều này là đã giữ trọn Lề Luật và đã làm theo thánh ý Thiên Chúa rồi. Sau này, Đức Giê-su còn thêm một điều răn mới là: “Anh em hãy thương yêu nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).
4. HỎI ĐÁP:
HỎI 1: Thái độ của nhóm Pha-ri-sêu đối với Đức Giê-su thế nào?
ĐÁP:
Trong nhóm Pha-ri-sêu, một số người có thiện cảm với Đức Giê-su, nên đã mời Người đến nhà (x. Lc 7,36;11,37), trong số đó cũng có người có chức vị thủ lãnh (x. Lc 14,1). Có người đã bảo vệ Người tránh khỏi bị Hê-rô-đê bắt (x. Lc 13,31). Ông Ni-cô-đê-mô một thành viên của nhóm Pha-ri-sêu cũng đã bí mật gặp Đức Giê-su vào ban đêm (x. Ga 3,1-2), và sau đó đã công khai bênh vực Người (x. Ga 7,50), và góp phần vào việc mai táng Người như một môn đệ (x. Ga 19,39-40). Ông Ga-ma-li-ên, một kinh sư thuộc nhóm Pha-ri-sêu trong Thượng Hội Đồng có lần đã lên tiếng bênh vực các Tông đồ (x. Cv 5,34-39). Tông đồ Phao-lô trước khi theo Chúa đã từng là một thành viên nhiệt thành nhất trong nhóm Pha-ri-sêu (x. Cv 26,4-5). Tuy nhiên, đại đa số người Pha-ri-sêu không tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai, nên kịch liệt chống lại Người và giáo lý của Người.
HỎI 2: Thái độ của Đức Giê-su đối với nhóm Pha-ri-sêu ra sao?
ĐÁP:
Về phần Đức Giê-su, tuy nhiều lần nặng lời quở trách nhóm Pha-ri-sêu về lối sống vụ Lề Luật, giả đạo đức, vụ lợi, nói mà không làm, kiêu căng, ưa xu nịnh, khinh thường các tội nhân và dạy giáo lý sai lạc (x. Mt 9,10-11;23,1-7;16,5.12)… Nhưng Người công nhận họ siêng năng cầu nguyện, bố thí và ăn chay (x. Mt 6,1-18); nhiệt tâm truyền giáo (x. Mt 23,15), phần nào ăn ở công chính (x. Mt 5,20), gắn bó với truyền thống của cha ông (x. Mt 6,16), giữ Luật cách nghiêm nhặt (x. Mt 23,23). Đức Giê-su cho biết Người đến không nhằm bãi bỏ nhưng kiện toàn luật Mô-sê hay các ngôn sứ (x. Mt 5,17-19), và nhất là Người kiện toàn luật về ngày hưu lễ Sa-bát và truyền thống rửa tay trước khi dùng bữa (x Mt 12,2; 15,1-2).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 2,37-39).
2. CÂU CHUYỆN:
1) SỨC MẠNH CỦA TÌNH YÊU.
Có một cậu bé 7 tuổi bị mồ côi cha mẹ, nên được ông nội đón về nhà nuôi. Ông nội cậu bé đang làm chủ một xí nghiệp lớn có hằng trăm công nhân, sản xuất quy mô theo dây chuyền. Ông vốn là một người tham lam và độc ác, thường tỏ ra hống hách và bớt xén tiền lương ít ỏi của công nhân. Nhưng mỗi khi có mặt cậu bé, ông lại tỏ thái độ nhân hậu và biết quan tâm đến những người nghèo khổ. Nhất là ông rất yêu thương chăm sóc cậu bé, khiến cậu coi ông như một thần tượng. Cậu luôn miệng khen những việc tốt ông đã làm, và cả những việc xấu nhưng đã được cậu bào chữa do động cơ tốt. Cậu thường nói với ông: “Nội ơi, nội được nhiều người yêu quý lắm phải không ? Cháu dám cá là họ phải yêu ông nội thật nhiều, giống như cháu yêu nội vậy !” Chính tình yêu thương của cậu bé khiến trái tim sơ cứng của người ông dần dần trở nên mềm mại, và cuối cùng đã biến ông trở thành một người tốt lúc nào không hay, theo những đức tính mà cậu bé thường hay ca ngợi người ông thân thương của mình.
2) LỜI NÓI HƯƠNG BAY, GƯƠNG BÀY LÔI KÉO.
Một hôm một người khách đến thăm một tu viện thuộc dòng Thừa Sai Bác Ái do Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta sáng lập. Ông ta nhìn thấy các sơ vừa đem về tu viện một bệnh nhân sắp chết, được tìm thấy đang nằm trên vỉa hè cạnh một lỗ cống xông lên hôi thối. Trên mình người này  đầy những chí rận. Ông khách thấy các sơ vui vẻ giúp người này tắm rửa, diệt trừ chí rận với thái độ ân cần đầy cảm thông. Sau đó, ông đến gặp Mẹ Tê-rê-sa và nói: “Thưa mẹ, khi đến đây con vẫn đang có ác cảm và thù ghét đối với hội thánh công giáo. Con nghĩ rằng các linh mục và nữ tu chỉ là bọn người đạo đức giả ! Nhưng giờ đây, con đã loại bỏ tất cả những hiểu lầm và thành kiến lâu nay. Vì tại tu viện này, con đã chứng kiến tình yêu Chúa được diễn tả cụ thể qua hành động và thái độ của các sơ, khi các sơ săn sóc cho người bệnh sắp chết kia. Bây giờ thì con đã xác tín “Thiên Chúa là tình yêu”. Vì nếu không có Thiên Chúa trong tâm hồn, thì chắc các sơ đã không thể đủ nghị lực để quên mình xả thân phục vụ cách vô vụ lợi những người bệnh tật bất hạnh như vậy !”
3. SUY NIỆM:
1) MẾN CHÚA ĐI ĐÔI VỚI YÊU NGƯỜI: Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giê-su đã trả lời cho một kinh sư thuộc nhóm Pha-ri-sêu biết hai giới răn quan trọng nhất là: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là: Người phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách Ngôn Sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22,37-40). Lời tuyên bố này giống như lời của một vị tôn sư tối cao, chấm dứt được sự tranh luận lâu nay của các hệ phái Do Thái về điều răn nào trọng nhất trong bộ Luật Mô-sê.
2) BA BẬC MẾN CHÚA:
Có ba bậc mến Chúa là mến Chúa hình thức, mến Chúa thông thường và mến Chúa hết lòng như sau:
+ Mến Chúa hình thức: Một số người chỉ giữ những việc đạo như mười điều răn, đi lễ Chúa Nhật, xưng tội rước lễ… vì sợ bị mắc tội nặng phải sa hỏa ngục. Còn những tội nhẹ như: chửi nhau, tục tĩu, ăn cắp vặt, gian dối, tham lam… thì họ không quan tâm chừa cải. Những người này giống như những đứa trẻ chỉ học hành hay làm các việc nhà vì sợ cha mẹ rầy la trừng phạt, nên dễ dàng đi chơi khi cha mẹ vắng nhà. Đó là những người “chỉ mến Chúa ngoài môi miệng, còn lòng họ thì ở xa Chúa” mà người Pha-ri-sêu trong Tin mừng hôm nay là bằng chứng.
+ Mến Chúa thông thường: Một số người khác cố gắng sống đạo nghĩa là giữ các giới răn để sau này được lên thiên đàng. Nhưng vì tình mến Chúa không nhiều, nên đến khi buộc phải hy sinh bản thân thì họ lại làm như các môn đệ trong cuộc khổ nạn của Chúa: Kẻ thì “hèn nhát chối không biết Thầy là ai” (Si-mon Phê-rô); Kẻ thì “bỏ Thầy để chạy thoát thân” (các môn đệ khác); Thậm chí có kẻ còn “liên kết với các đầu mục Do thái để bán nộp Thầy” (Giu-đa Ít-ca-ri-ốt)…
+ Mến Chúa hết lòng: Chúng ta phải liệu sao để có đức “Mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn”, nghĩa là phải yêu mến Thiên Chúa hơn tất cả mọi người và mọi sự khác trên đời. Chúa Giê-su cũng đòi môn đệ phải yêu Thầy hơn yêu cha mẹ và con cái (x. Mt 10,37-39), và nếu cần còn phải sẵn sàng hy sinh cả mạng sống để chứng tỏ tình yêu Thầy (x. Ga 15,13). Tông đồ Gio-an mến Thầy nên đã can đảm bán sát khi Thầy bị xét xử tại dinh Thượng Tế và bị hành hình trên đồi Can-va-ri-ô. Thánh Phao-lô thể hiện lòng yêu Chúa tột đỉnh khi nói: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Đức Ki-tô ? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo ?” (Rm 8,35). Đúng như lời Chúa Giê-su: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Chúng ta cần xin ơn Thánh Thần giúp chúng ta đạt tới lòng mến Chúa hết lòng như vậy.
3) HAI BẬC YÊU NGƯỜI:
a) Yêu người như yêu bản thân mình: Đây là tình yêu nhân bản vị tha của Do thái giáo: Như Tô-bi-a cha đã khuyên Tô-bi-a con: “Điều gì con không thích, thì cũng đừng làm cho ai cả” (Tb 4,16), và “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta. Vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12). Ngoài ra còn phải yêu thương hết mọi người, dù là người thân hay người xa lạ, dù là bạn hay thù như lời Chúa dạy: ”Thầy nói với anh emlaf những người đang nghe Thầy đây: Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em. Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì hãy cho. Ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại. Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Lc 6,27-31). Mỗi tín hữu chúng ta cần phải xin Chúa giúp thực tập đức ái theo từng bước như vậy.
b) Yêu người như Chúa đã yêu : Đây là tỉnh yêu tuyệt hảo của Thiên Chúa do Chúa Giê-su đề ra, nêu gương và mời gọi môn đệ học tập làm theo:
- Một tình yêu rộng mở: Khác với tình yêu bình thường của loài người là chỉ yêu những ai yêu mình và ghét bỏ những ai ghét mình; Chỉ yêu những người nào đáng yêu, ghét những kẻ dễ ghét; Chỉ giới hạn tình thương nơi những người thân quen với mình... Còn tình yêu của Thiên Chúa lại rộng mở: Yêu hết mọi người không phân biệt tốt xấu. Tình yêu ấy không loại trừ bất cứ ai, kể cả những kè thù ghét làm hại mình, như lời Đức Giê-su đã dạy: “Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái Cha anh em, Đấng ngự trên trời. Vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt. Và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,44b-45). Tình yêu của Thiên Chúa còn thể hiện tới mọi loài mọi vật khác nữa như các thú vật cỏ cây: “Hãy nhìn những con quạ mà suy: chúng không gieo không gặt, cũng không có kho có lẫm. Thế mà Thiên Chúa vẫn nuôi chúng. Anh em còn quý giá hơn loài chim biết bao!... Hãy nhìn hoa huệ mà suy: Làm sao chúng không kéo sợi, không dệt vải. Thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: Ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy.” (Lc 12,24.27).
- Một tình yêu quên mình phục vụ: Vì yêu thương, Thiên Chúa đã dựng nên loài người, thừa nhận loài người làm con cái để chia sẻ hạnh phúc với Người. Nhưng loài người đã đáp lại tình yêu ấy bằng thái độ tệ bạc là nghe lời cám dỗ của ma quỷ phạm tội chống lại Thiên Chúa. vì thế, loài người phải bị phạt là chịu đau khổ bệnh tật và cuối cùng là bị chết. Nhưng Thiên Chúa không bỏ mặc loài người, đã đề ra chương trình cứu độ: Ngài hứa ban ban dòng giống người nữ sẽ đánh vào đầu con rắn hỏa ngục là ma quỷ, còn ma quỷ sẽ tìm cách chống lại (x. St 3,15b). Dòng giống người nữ ấy là Chúa Giê-su, Con yêu dấu của Thiên Chúa. Đức Giê-su Ki-tô Con Thiên Chúa sẽ xuống thế làm người, vâng lời Chúa Cha, bằng lòng chịu chết thập giá để đền tội thay cho loài người, và sống lại để mở ra một con đường cứu độ là đạo công giáo, hầu ai tin Chúa Giê-su và đi con đường mến Chúa yêu người của Người sẽ được hưởng ơn cứu độ (x Pl 2,5-11).  
- Một tình yêu tha thứ vô điều kiện. Tha thứ là dấu hiệu của một tình thương thực sự. Khi yêu ai, người ta sẽ dễ dàng tha thứ lỗi lầm của người đó. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu cũng đề cập nhiều đến tình yêu tha thứ của Thiên Chúa, như trong dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu. Người Cha này đã sẵn sàng tha thứ cho đứa con bỏ nhà đi hoang, luôn chờ mong đứa con hư sớm trở về, vui mừng ra tận cổng đón nó, và lập tức tha thứ lỗi lầm cho nó, trả lại quyền làm con và mở tiệc ăn mừng. Ông đã trả lời anh con cả biết lý do vui mừng như sau: “…Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỉ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống. Đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15,32). Đức Giê-su cũng muốn các tín hữu chúng ta noi gương yêu thương của Chúa Cha: Đối xử bao dung với nhau như Thiên Chúa đã đối xử với chúng ta: “Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chứng con” (Kinh Lạy Cha). Chúa muốn chúng ta yêu thương hết mọi người. Nhất là yêu thương những người nghèo hèn, bất hạnh, bệnh tật và bị bỏ rơi… Chúa muốn chúng ta luôn tha thứ cho tha nhân đã xúc phạm đến mình cách vô điều kiện (x. Mt 18,21). Chúa muốn chúng ta có tình yêu thương quảng đại hy sinh, sẵn sàng chấp nhận thua thiệt. Đó mới chính là tình yêu đích thực bắt nguồn từ Thiên Chúa. Chỉ tình thương như thế mới bền vững và mang lại hạnh phúc đời đời cho chúng ta.
4. THẢO LUẬN:
1) Làm thế nào để phân biệt một tình yêu thật sự với tình yêu vụ lợi ngoài môi miệng ? 2) Mỗi tín hữu cần thực hành Lời Chúa để đi bước trước trong tình yêu tha nhân: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7,12)?
5. LỜI CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU.  Ngày nay Chúa cũng muốn chúng con mở rộng vòng tay đến với hết mọi người. Chúng con chỉ có thể “nối vòng tay lớn” nếu biết gắn bó với Chúa. Ước gì khi nhìn lên cây thánh giá, chúng con thấy mẫu gương một tình thương tột đỉnh của Chúa là hy sinh quên mình chịu chết để cho chúng con được sống. Tình thương của Chúa mời gọi chúng con giang tay cầu nguyện, rồi nắm tay nhau để hợp tác xây dựng một thế giới mới ngày một công bình, yêu thương và an bình thịnh vượng hơn.
- LẠY CHÚA. Ước chi chúng con biết làm mọi việc vì lòng mến Chúa và sẵn sàng hiến thân phụng sự Chúa như lời thánh Phao-lô: “Tình yêu Chúa Ki-tô thôi thúc chúng tôi” (2 Cr 5,14). “Đối với tôi sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi” (Pl 1,21); Từ nay “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20); Tôi “Không còn được sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì tôi” (2 Cr 5,15).
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH -  HHTM


 



 
Tác giả bài viết: Nhiều tác giả
Từ khóa:

Chúa Nhật XXX TNA

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

 

   

LƯỢT XEM TRANG

  • Đang truy cập: 5
  • Khách viếng thăm: 3
  • Máy chủ tìm kiếm: 2
  • Hôm nay: 1911
  • Tháng hiện tại: 77892
  • Tổng lượt truy cập: 12222152