Trang mới   https://gpquinhon.org

Iuvenescit Ecclesia (Giáo Hội Tươi Trẻ)

Đăng lúc: Thứ bảy - 01/10/2016 20:28



Ngày 23 tháng 5 năm 2016
BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN                               00120 Città del Vaticano,
                                                                        Palazzo del S. Uffizio
 
96/00- 55639
PROT.N.
 
 
Gửi các Hồng Y và các Giám Mục
Chủ tịch các Hội Đồng Giám Mục
 
Bộ Giáo Lý Đức Tin đã quyết định công bố Thư Iuvenescit Ecclesia (Giáo Hội Tươi Trẻ)được gửi tới các Giám Mục thuộc Giáo Hội Công Giáo.
 
Văn kiện này muốn nhắc lại cho mọi tín hữu một vài nguyên tắc nền tảng mang tính giáo hội học về tương quan giữa những hồng ân phẩm trật và đặc sủng trong Giáo Hội, để cùng nhau góp phần vào đời sống và sứ mạng của Giáo Hội một cách có hiệu quả.
 
Khi gửi cho anh em Văn kiện Iuvenescit Ecclesia sẽ được giới thiệu tại Phòng Báo Chí Tòa Thánh ngày 14 tháng 6 năm 2016, chúng tôi xin anh em gửi văn kiện này đến các Giám mục trong Hội Đồng Giám Mục và mời gọi các vị quan tâm đón nhận cũng như phổ biến văn kiện cho hàng linh mục và các tín hữu trong giáo phận của mình trong khi chăm lo cho nội dung của văn kiện trở thành những điểm quy chiếu soi sáng và làm chuẩn cho đời sống của Giáo Hội.
 
Tôi chân thành biết ơn về sự cộng tác quý báu của anh em và xin gửi tới anh em chân tình của tôi trong Đức Kitô.
 
 
Hồng Y Gerhard Muller
Tổng trưởng
 

 
BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN
 
Thư Giáo Hội Tươi Trẻ (Iuvenescit Ecclesia)
gửi các giám mục thuộc Giáo Hội Công giáo
về mối tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và đặc sủng
đối với đời sống và sứ mạng của Giáo Hội
 
DẪN NHẬP
Những ân huệ của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội truyền giáo
1. Giáo Hội trở nên tươi trẻ nhờ sức mạnh của Tin Mừng, và Chúa Thánh Thần không ngừng canh tân Giáo Hội, qua việc xây dựng và hướng dẫn Giáo Hội “nhờ sự đa dạng của  hồng ân phẩm trật và đặc sủng”[1].Công Đồng Vatican II đã nhấn mạnh nhiều lần tới công trình kỳ diệu của Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hóa và dẫn dắt Dân Chúa, cũng như tô điểm bằng nhiều nhân đức và làm cho Dân Người trở nên phong phú bằng nhiều đặc sủng khác nhau. Hoạt động của Đấng Bảo Trợ trong Giáo Hội rất đa dạng, như các giáo phụ thường nhấn mạnh. Thánh Gioan Kim Khẩu đã viết: “Trong số các ơn huệ được ban nhằm cứu rỗi chúng ta, liệu có ơn nào không đến từ Chúa Thánh Thần không? Nhờ Người, chúng ta được giải thoát khỏi ách nô lệ, được mời gọi sống tự do, được vinh dự làm con cái Thiên Chúa; có thể nói chúng ta được tái tạo; chúng ta trút được gánh nặng và ghê tởm của tội lỗi chúng ta. Chính nhờ Chúa Thánh Thần mà chúng ta có các linh mục đoàn, các bậc tiến sĩ. Từ nguồn mạch này, chúng ta nhận được những mạc khải, những phương thuốc cứu chữa linh hồn chúng ta; sau cùng cũng từ đó xuất phát mọi lợi ích tô điểm Giáo Hội của Chúa”[2]. Rất may nhận thức về hoạt động đa dạng của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội gia tăng, nhờ chính đời sống của Nhiệm Thể Chúa Kitô, nhờ nhiều lần can thiệp của Huấn Quyền và sự nghiên cứu thần học. Như thế, nhận thức này gợi ra mối quan tâm đặc biệt tới các hồng ân đặc sủng, mà Dân Chúa được nên phong phú trong mọi thời nhằm chu toàn sứ mạng của mình.
Loan báo Tin Mừng cách hữu hiệu là trách vụ hết sức cấp bách của thời đại chúng ta. Trong Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô nhắc nhở: “Nếu có cái gì đáng chúng ta phải trăn trở và áy náy lương tâm, thì đó chính là sự kiện nhiều anh chị em chúng ta đang sống mà không có sức mạnh, ánh sáng và niềm an ủi phát sinh từ tình bạn với Đức Giêsu Kitô, không có một cộng đoàn đức tin nào nâng đỡ họ, không tìm thấy ý nghĩa và mục tiêu trong đời sống”[3]. Lời kêu gọi trở nên một Giáo Hội “đi ra”[4] cho chúng ta cơ hội đọc lại toàn bộ cuộc sống Kitô hữu theo viễn tượng truyền giáo. Nhiệm vụ phúc âm hóa liên quan tới mọi lãnh vực trong Giáo Hội: mục vụ thông thường, loan báo Tin Mừng cho những ai đã xa rời đức tin Kitô Giáo và, cách riêng, cho những người chưa bao giờ được đón nhận Tin Mừng của Chúa Giêsu hoặc cho những người luôn luôn chối bỏ Tin Mừng[5].Theo đòi hỏi này của công cuộc tân phúc âm hóa, điều cần hơn bao giờ hết là nhận biết và quí trọng những đặc sủng khác nhau, có khả năng thức tỉnh và nuôi dưỡng đời sống đức tin của Dân Chúa.
Các hiệp hội khác nhau trong Giáo Hội
2. Nhiều hiệp hội trong Giáo Hội đã ra đời trước và sau Công Đồng Vatican II; các hiệp hội này tạo ra nguồn canh tân quan trọng cho Giáo Hội và cho “việc hoán cải mục vụ và truyền giáo”[6]của toàn bộ đời sống Giáo Hội, một việc cấp bách cần phải làm. Các hiệp hội mới này, đối tượng được nói đến trong văn kiện, có thể được mô tả như những hiệp hội các tín hữu, các phong trào thuộc Giáo Hội, các cộng đoàn mới; chúng thêm vào giá trị và sự phong phú của các hình thức hiệp hội truyền thống hướng tới những mục đích riêng, cũng như các Tu hội đời sống thánh hiến và các Tu đoàn tông đồ. Các hiệp hội này không chỉ được coi là các nhóm thiện nguyện quyết theo đuổi một mục tiêu đặc thù thuộc tôn giáo hoặc xã hội. Trong quang cảnh của Giáo Hội, tính chất “phong trào” của các hiệp hội này tạo ra những thực tại rất năng động, có khả năng đặc biệt hấp dẫn con người đến với Tin Mừng và mời gọi họ sống đời sống kitô hữu vốn thấm nhuần mọi phương diện của cuộc sống con người. Nhóm tín hữu, tích cực tham gia vào đời sống nhằm tăng triển đời sống đức tin, đức cậy và đức mến, diễn tả rõ sự năng động của Giáo Hội như mầu nhiệm hiệp thông để truyền giáo, và biểu hiện dấu chỉ hiệp nhất của Giáo Hội trong Chúa Kitô. Theo cái nhìn này, các hiệp hội trong Giáo Hội được hình thành bởi chia sẻ một đặc sủng, có ý đạt tới “mục đích tông đồ chung của toàn Giáo Hội”[7]. Trong viễn tượng này, các hiệp hội tín hữu, các phong trào trong Giáo Hội và các cộng đoàn mới đề ra những hình thức mới bước theo Chúa Kitô nhằm đào sâu sự hiệp thông với Thiên Chúa (Communio cum Deo) và sự hiệp thông của các tín hữu (Communio fidelium), bằng cách lôi cuốn người ta đến gặp gỡ Chúa Giêsu cũng như cho họ thấy vẻ đẹp trọn vẹn của đời sống kitô hữu, trong những bối cảnh mới của xã hội. Trong những hiệp hội này, có thể thấy một hình thức đặc biệt của truyền giáo và làm chứng, nhằm gia tăng và phát triển nhận thức sắc bén về ơn gọi Kitô hữu của họ, cũng như những lộ trình huấn luyện Kitô giáo vững chắc và những con đường hoàn thiện theo Tin Mừng. Theo các đặc sủng khác nhau, các hiệp hội này cũng có thể cho thấy những bậc sống khác nhau (tín hữu giáo dân, thừa tác viên có chức thánh và những người thánh hiến), như thế biểu hiện sự phong phú đa dạng của sự hiệp thông trong Giáo Hội. Khả năng sống thành một hiệp hội là một chứng từ có ý nghĩa về cách thức Giáo Hội không lớn mạnh “nhờ chiêu dụ nhưng ‘bằng lôi cuốn’”[8].
Ngỏ lời với đại diện các phong trào và các cộng đoàn mới, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhận ra nơi họ một “câu trả lời đầy tính quan phòng”[9], dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần; họ đáp ứng nhu cầu loan báo Tin Mừng cho thế giới cách thuyết phục, lưu tâm đến các tiến trình thay đổi đáng kể đang diễn ra trên bình diện hoàn cầu, những thay đổi mang dấu ấn của nền văn hóa bị tục hóa trầm trọng. Hạt giống của Chúa Thánh Thần “đã mang đến cho đời sống Giáo Hội một sự mới mẻ bất ngờ, thậm chí bùng nổ”[10]. Đức Thánh Cha cũng lưu ý rằng thời “chín mùi của Giáo Hội” được mở ra cho mọi hiệp hội trong Giáo Hội; điều này bao hàm sự lớn mạnh và hội nhập đầy đủ của chúng “vào các giáo hội địa phương và các giáo xứ, bằng cách luôn hiệp thông với các Mục tử và nghe theo sự hướng dẫn của các ngài”[11]. Các thực tại mới mẻ vốn mang lại cho Giáo Hội tràn ngập niềm vui và lòng biết ơn, được mời gọi tích cực bước vào trong tương quan với những ân huệ khác hiện có trong đời sống Giáo Hội.
Cứu cánh của văn kiện
3.  Dưới ánh sáng của mối tương quan giữa các “hồng ân phẩm trật và đặc sủng”, Bộ Giáo Lý Đức Tin muốn nhắc lại, qua văn kiện Iuvenescit Ecclesia này, những khía cạnh thần học và giáo hội học mà việc thấu hiểu chúng có thể giúp cho sự tham dự hữu hiệu và có trật tự của các hiệp hội mới vào sự hiệp thông và sứ mạng của Giáo Hội. Theo cái nhìn này, trước hết, chúng tôi  trình bày một số yếu tố chủ chốt như lý thuyết về đặc sủng theo Tân Ước, cũng như suy tư của Huấn Quyền về các thực tại mới này. Sau đó, khởi đi từ một vài nguyên tắc của thần học hệ thống, chúng tôi đề nghị các yếu tố tương đồng giữa hồng ân phẩm trật và hồng ân đặc sủng, cũng như một số tiêu chuẩn để nhận định các hiệp hội mới trong Giáo Hội. 
I.  ĐẶC SỦNG THEO TÂN ƯỚC
Ân sủng và đặc sủng
4. Thuật ngữ “đặc sủng” dịch tiếng Hy Lạp “chárisma”, thường được dùng trong các Thư của Thánh Phaolô; nó cũng xuất hiện trong thư thứ nhất của Thánh Phêrô. Thông thường, chárisma chỉ “ơn được ban” và, trong Tân Ước, chỉ được dùng để nói tới hồng ân của Thiên Chúa. Trong một số đoạn, bối cảnh cho chúng ta một nghĩa chính xác hơn (x. Rm 12,6; 1Cr 12, 4-31; 1Pr 4,10), mà đặc điểm chính là việc phân phối các hồng ân khác nhau[12]. Nghĩa này trong các ngôn ngữ hiện đại nổi trội hơn các từ cùng gốc với thuật ngữ Hy Lạp. Đặc sủng, ở số ít, không phải là hồng ân được ban cho tất cả mọi người (x. 1 Cr 12,30), khác với các ơn căn bản như ơn thánh hóa hay các ơn tin, cậy và mến là những ơn cần thiết cho mỗi Kitô hữu. Đặc sủng, ở số nhiều, chỉ những ơn đặc biệt Chúa Thánh Thần ban phát “tùy ý Người” (1Cr 12,11). Để lưu ý về sự hiện hữu cần thiết của các đặc sủng khác nhau trong Giáo Hội, hai bản văn rõ nhất Rm 12,4-8 và 1Cr 12,12-30 chọn cách so sánh với thân thể con người: “Vì cũng như trong một thân thể, chúng ta có nhiều bộ phận, mà các bộ phận không có cùng một chức năng, thì chúng ta cũng vậy, tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể trong Đức Kitô, mỗi người liên đới với những người khác như những bộ phận của một thân thể. Chúng ta có những đặc sủng khác nhau, tùy theo Thiên Chúa ban cho mỗi người” (Rm 12,4-6). Giữa các chi thể của một thân thể, sự khác biệt không phải là điều khác thường cần phải tránh, nhưng trái lại, là sự cần thiết mang lại ích lợi, giúp cho các phần vụ khác nhau được hoàn thành. “Giả như tất cả chỉ là một thứ bộ phận, thì làm sao mà thành thân thể được? Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một” (1Cr 12,19-20). Mối tương quan mật thiết giữa các đặc sủng  (charísmata) và ân sủng (cháris) của Thiên Chúa được Thánh Phaolô khẳng định trong Rm 12,6 và Thánh Phêrô trong 1Pr 4,10[13].Các đặc sủng được nhìn nhận như là biểu hiện của“ân sủng đa dạng của Thiên Chúa” (1Pr 4,10). Do đó, chúng không phải là những khả năng thông thường của con người. Nguồn gốc thần thiêng của chúng được diễn tả bằng nhiều cách khác nhau: theo một số bản văn, chúng phát xuất từ Thiên Chúa (x. Rm 12,3; 1Cr 12,28; 2Tm 1,6; 1Pr 4,10); theo Ep 4,7, chúng phát xuất từ Chúa Kitô; theo 1Cr 12,4-11, chúng phát xuất từ Chúa Thánh Thần. Vì trích dẫn cuối cùng nhấn mạnh các đặc sủng là hồng ân của Chúa Thánh Thần (Chúa Thánh Thần được nhắc đến 7 lần), các đặc sủng thường được trình bày như là “biểu hiện của Chúa Thánh Thần” (1Cr 12,7). Tuy nhiên, rõ ràng sự qui kết này không có tính loại trừ và không mâu thuẫn với hai qui kết trước đó. Các hồng ân của Thiên Chúa luôn bao hàm công trình của cả Ba Ngôi như thần học luôn khẳng định ngay từ đầu, cả bên Tây lẫn bên Đông[14].
Các hồng ân được ban “để sinh ích cho mọi người” và ưu vị của đức ái
5. Trong 1 Cr 12,7, Thánh Phaolô tuyên bố rằng: “Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người vì một lợi ích nào đó”. Nhiều dịch giả thêm “vì lợi ích chung”, vì phần lớn các đặc sủng được thánh nhân nhắc đến, không phải tất cả, trực tiếp sinh ích lợi chung. Cứu cánh này là xây dựng mọi người; và Thánh Basilio Cả hiểu rất rõ điều này khi khẳng định: “ Mỗi người đón nhận hồng ân cho người khác hơn là cho chính mình […] Trong cuộc sống thường ngày, sức mạnh của Chúa Thánh Thần được ban cho một người cần phải được thông truyền cho mọi người. Kẻ chỉ biết sống cho mình, có thể có đặc sủng, nhưng họ làm cho đặc sủng trở nên vô ích khi giữ nó bất động, vì đã chôn vùi nó trong lòng mình”[15]. Tuy nhiên, Thánh Phaolô không chối bỏ việc đặc sủng có thể hữu ích cho riêng người lãnh nhận nó. Đó là trường hợp ơn nói tiếng lạ, khác với ơn nói tiên tri[16]. Những đặc sủng vì lợi ích chung, cho dù là đặc sủng trong lời nói (ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn nói tiên tri, ơn dạy dỗ) hay là đặc sủng trong việc làm (ơn sức mạnh, ơn thừa tác, ơn cai quản) cũng vì lợi ích riêng, bởi khi phục vụ ích chung chúng vẫn giúp tăng triển đức ái nơi những người có những đặc sủng ấy.Về vấn đề này, Thánh Phaolô nhận định rằng nếu  thiếu đức ái, thì ngay các đặc sủng cao trọng nhất cũng chẳng mang lại lợi ích gì cho người lãnh nhận chúng (x. 1Cr 13,1-3). Đoạn Tin Mừng Mt 7, 22-23 trình bày cùng một thực tại: việc thực hành các đặc sủng mang tính lạ kỳ (nói tiên tri, trừ quỷ, làm phép lạ) có thể thiếu một cách đáng tiếc mối tương quan đích thực với Đấng Cứu Thế. Vì thế, Thánh Phêrô, cũng như Thánh Phaolô, nhấn mạnh tới sự cần thiết qui hướng mọi hồng ân về đức ái. Thánh Phêrô đưa ra một qui luật chung: “Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy, anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa” (1Pr 4,10). Thánh Phaolô thì quan tâm tới việc sử dụng các đặc sủng trong các cuộc hội họp của cộng đoàn Kitô hữu. Ngài nói: “Tất cả những điều ấy đều phải nhằm xây dựng Hội Thánh” (1Cr 14,26).
Các đặc sủng khác nhau
6. Trong một số bản văn, chúng tôi thấy có bảng liệt kê ngắn gọn các đặc sủng khác nhau (x. 1Pr 4,10), cũng có những bảng liệt kê chi tiết hơn (x. 1Cr 12, 8-10, 28-30; Rm 12, 6-8). Trong số các đặc sủng được liệt kê, có những ơn đặc biệt (chữa bệnh, làm phép lạ, nói nhiều tiếng lạ) và có những ơn thông thường (dạy dỗ, phục vụ, làm phúc), các thừa tác viên hướng dẫn cộng đoàn (x. Ep 4,11) và những đặc sủng được ban qua việc đặt tay (x. 1Tm 4,14; 2Tm 1, 6). Việc các hồng ân này được coi hay không được coi là các “đặc sủng” đúng nghĩa, không phải lúc nào cũng rõ ràng. Thật vậy, những hồng ân đặc biệt được nhắc nhiều lần trong 1Cr 12-14 không thấy có trong các bản văn sau đó; bảng liệt kê trong Rm 12, 6-8 chỉ trình bày các đặc sủng không rõ ràng, nhưng hằng mang lại ích lợi cho đời sống cộng đoàn Kitô hữu. Không có bảng liệt kê nào được cho là đầy đủ. Vả lại, Thánh Phaolô gợi ý: việc chọn sống độc thân vì tình yêu đối với Chúa Kitô phải được coi là hoa trái của đặc sủng, việc chọn bậc sống hôn nhân cũng vậy (x. 1 Cr 7,7 trong ngữ cảnh của toàn chương). Các bảng liệt kê này là những minh họa tùy thuộc vào mức độ phát triển của Giáo Hội thời ấy, và do đó, chúng có thể được thêm bớt sau này. Thực vậy, Giáo Hội luôn phát triển theo thời gian, nhờ hoạt động làm cho sống của Chúa Thánh Thần.
Việc thực hành hiệu quả các đặc sủng trong cộng đoàn Giáo Hội
7. Các nhận định trên đây cho thấy rõ các bản văn Thánh Kinh không chống lại các đặc sủng khác nhau, nhưng liên kết chúng một cách hài hòa và khẳng định chúng bổ túc cho nhau. Phản đề giữa Giáo Hội cơ chế theo kiểu Kitô giáo gốc Do Thái và Giáo Hội đặc sủng theo Thánh Phaolô, dựa trên một số chú giải giản lược về Giáo Hội, không thực sự có nền tảng trong các bản văn Tân Ước. Thay vì đặt các đặc sủng một bên và những thực tại mang tính cơ chế một bên, hoặc đối lập Giáo Hội “theo đức ái” với Giáo Hội “theo cơ chế”, Thánh Phaolô tập hợp một bảng liệt kê tất cả các đặc sủng cai quản và giảng dạy, những đặc sủng phục vụ cho đời sống thường ngày của cộng đoàn và các đặc sủng nổi trội nhất[17]. Thánh Phaolô mô tả thừa tác vụ tông đồ của ngài như “thừa tác vụ của Chúa Thánh Thần” (2Cr 3,8). Ngài cảm thấy được trao cho một thẩm quyền (exousía) bởi chính Chúa (x. 2Cr 10,8; 13,10), quyền này cũng được mở rộng cho những ai có đặc sủng. Thánh Phêrô và Thánh Phaolô dạy cho những người có đặc sủng cách thực hành các đặc sủng đã lãnh nhận. Trước hết, họ phải có thái độ đón nhận đặc sủng để sinh ích; họ phải xác tín được nguồn gốc thần thiêng của các đặc sủng; tuy nhiên, họ không được xem những đặc sủng này như là những ơn miễn trừ cho họ khỏi vâng lời phẩm trật Giáo Hội, hoặc cho họ quyền thực hành các đặc sủng cách độc lập. Thánh Phaolô ý thức được những vấn đề mà việc thực hiện các đặc sủng một cách vô trật tự có thể gây ra cho cộng đoàn kitô hữu[18]. Vì thế, Thánh Tông Đồ dùng quyền mà can thiệp để thiết lập những qui luật minh định việc thực hành các đặc sủng “trong Giáo Hội” (1Cr 14,19.28), nghĩa là trong các cuộc hội họp của cộng đoàn (x. 1Cr 14,23.26). Thí dụ, ngài hạn chế việc thực hành ơn ngôn ngữ[19]. Các qui luật tương tự cũng được đề ra cho ơn nói tiên tri (x. 1Cr 14,29-31)[20].
Các hồng ân phẩm trật và đặc sủng
8. Việc khảo sát các bản văn Kinh Thánh liên quan tới các đặc sủng cho thấy Tân Ước, dù không đưa ra một giáo huấn có tính hệ thống đầy đủ, nhưng đã khẳng định nhiều điều rất quan trọng có khả năng định hướng suy tư và thực hành của Giáo Hội. Chúng ta phải nhìn nhận rằng thuật ngữ “đặc sủng” không được dùng theo một nghĩa duy nhất; nhưng tốt hơn ghi nhận các nghĩa khác nhau mà suy tư thần học cũng như Huấn Quyền đã giúp ta hiểu trong khuôn khổ của cái nhìn toàn diện về mầu nhiệm Giáo Hội. Trong văn kiện này, điểm nhấn được đặt trên nhị thức được nêu trong tựa đề của số 4 Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium: “các hồng ân phẩm trật và các đặc sủng”, mối tương quan mật thiết cũng như sự tương trợ giữa các ân sủng. Chúng có chung một nguồn gốc và theo đuổi cùng một cứu cánh. Đây là các hồng ân của Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần và Chúa Kitô, được ban để chúng ta góp phần, cách này hay cách khác, vào việc xây dựng Giáo Hội. Người được ơn lãnh đạo trong Giáo Hội cũng có trách nhiệm trông coi việc thực hành đúng đắn các đặc sủng khác, để tất cả đều thực hiện vì ích lợi và cho sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội, vì biết rõ chính Chúa Thánh Thần phân phát các hồng ân đặc sủng cho bất cứ ai Người muốn (x. 1Cr 12,11). Chính Chúa Thánh Thần cũng ban cho phẩm trật trong Giáo Hội khả năng phân định các đặc sủng đích thực, đón nhận các đặc sủng trong niềm vui và lòng biết ơn, làm cho các đặc sủng ấy được nảy nở, theo dõi chúng bằng tình phụ tử đầy quan tâm. Chính lịch sử minh chứng nhiều hình thức hoạt động của Chúa Thánh Thần, nhờ đó, Giáo Hội “được xây trên nền tảng các Tông đồ và các Ngôn sứ và đá tảng góc tường là chính Chúa Giêsu Kitô” (Ep 2,20), chu toàn sứ mạng của mình trong lòng thế giới. 
TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC HỒNG ÂN PHẨM TRẬT
VÀ ĐẶC SỦNG TRONG HUẤN QUYỀN GẦN ĐÂY
Công Đồng Vatican II
9. Các đặc sủng khác nhau không ngừng xuất hiện trong suốt dòng lịch sử của Giáo Hội, tuy nhiên, chỉ trong thời điểm gần đây, mới phát triển một suy tư mang tính hệ thống về chủ đề này. Trong suy tư ấy, học thuyết về các đặc sủng cũng chiếm một vị trí quan trọng trong thông điệp Mystici Corporis[21](29-06-1943) của Đức Thánh Cha Piô XII. Nhưng bước ngoặt có tính quyết định giúp hiểu rõ mối tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và các đặc sủng, chỉ được thực hiện với giáo huấn của Công Đồng Vatican II. Về đề tài này, các đoạn văn có ý nghĩa nhất[22] chỉ ra trong đời sống Giáo Hội, nhất là trong bản văn Kinh Thánh cũng như trong Thánh truyền, các bí tích và thừa tác vụ phẩm trật có chức thánh, các hồng ân, các ân sủng đặc biệt hoặc các đặc sủng do Chúa Thánh Thần ban phát cho các tín hữu thuộc mọi điều kiện. Đoạn văn trình bày rõ nhất được thấy trong Hiến chế Lumen Gentium, số 4:“ Chúa Thánh Thần …. hướng dẫn Giáo Hội trong sự thật toàn vẹn (x. Ga 16,13); Ngài đảm bảo sự hiệp nhất trong cộng đoàn cũng như trong thừa tác vụ, xây dựng và dẫn dắt sự hiệp nhất này nhờ các hồng ân phẩm trật và các đặc sủng khác nhau, và tô điểm nó bằng hoa trái của Ngài (x. Ep 4,11-12; 1Cr 12,4; Gl 5,22)”[23]. Khi nói về các hồng ân xuất phát từ Chúa Thánh Thần, Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium làm nổi bật lên sự khác biệt trong hợp nhất của chúng, qua sự phân biệt các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng. Các xác quyết trong Lumen Gentium số 12 liên quan đến thực tại đặc sủng, trong bối cảnh Dân Chúa tham dự vào sứ mạng tiên tri của Chúa Kitô, cũng đầy ý nghĩa: ở đây Hiến Chế nhấn mạnh đến cách thức mà Chúa Thánh Thần không tự giới hạn trong việc “thánh hóa Dân Chúa qua các bí tích và các chức vụ, hướng dẫn và tô điểm Dân Chúa bằng các nhân đức” nhưng “còn phân phát giữa các thành phần tín hữu […] các ơn huệ đặc biệt, những ơn huệ này mang đến cho họ khả năng và sự sẵn sàng đảm nhận các trách vụ và chức vụ khác nhau nhằm canh tân và phát triển Giáo Hội”.
Cuối cùng, Hiến Chế mô tả đặc tính đa dạng và quan phòng của các đặc sủng như sau: “Các ân sủng này, từ những đặc sủng nổi bật cho đến các đặc sủng đơn giản và được ban phát rộng rãi hơn, phải được đón nhận với lòng biết ơn và mang lại sự an ủi, trước hết được ban theo nhu cầu của Giáo Hội và để đáp ứng những nhu cầu ấy ”[24]. Những suy tư tương tự cũng được tìm thấy trong Sắc Lệnh của Công Đồng về Tông Đồ Giáo Dân[25]. Sắc lệnh này khẳng định “các hồng ân ấy không được coi là nhiệm ý trong đời sống Giáo Hội; đúng hơn, “từ việc đón nhận các đặc sủng này, ngay cả các đặc sủng đơn giản nhất, mỗi tín hữu đều có quyền và bổn phận xử dụng những hồng ân này trong Giáo Hội và trong thế giới, vì lợi ích của con người và để xây dựng Giáo Hội, trong tự do của Chúa Thánh Thần”[26]. Do đó, các đặc sủng đích thực phải được xem như những hồng ân cần thiết và quan trọng đối với đời sống và sứ mạng của Giáo Hội. Sau cùng, trong giáo huấn của Công Đồng, chúng ta thấy luôn có sự thừa nhận vai trò quan trọng của các mục tử trong việc phân định các đặc sủng và để các đặc sủng ấy được thi hành trong sự hiệp thông Giáo Hội[27].
Huấn Quyền sau Công Đồng
10. Trong suốt thời kỳ sau Công Đồng Vatican II, những can thiệp của Huấn Quyền trong lãnh vực này tăng gấp bội[28]. Sức sống tăng trưởng của các phong trào mới, các hiệp hội tín hữu, và các cộng đoàn Giáo Hội, đã góp phần vào nhu cầu làm sáng tỏ vai trò của đời sống thánh hiến trong lòng Giáo Hội[29].  Trong giáo huấn của mình, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đặc biệt nhấn mạnh đến nguyên tắc đồng yếu tính của các hồng ân này: “Nhiều lần, tôi có dịp nhấn mạnh, trong Giáo Hội, không có sự tương phản hay mâu thuẫn giữa chiều kích cơ chế và chiều kích đặc sủng mà các phong trào là một diễn tả đầy ý nghĩa. Cả hai chiều kích này có cùng một yếu tính với tổ chức Giáo Hội do Chúa Giêsu thiết lập, vì chúng làm cho mầu nhiệm Chúa Kitô và công trình cứu rỗi của Người hiện diện trong thế giới”[30]. Đức Thánh Cha Benedicto XVI, sau khi khẳng định đặc tính đồng yếu tính này, đã đào sâu khẳng định của vị tiền nhiệm, khi nhắc lại rằng “trong Giáo Hội, các cơ chế chính yếu cũng mang tính đặc sủng, mặt khác, các đặc sủng, bằng cách này hay cách khác, phải được cơ chế hóa để có được sự nối kết và liên tục. Như thế, cả hai chiều kích vốn bắt nguồn từ một Chúa Thánh Thần để xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô, cùng làm cho mầu nhiệm và công trình cứu rỗi của Chúa Kitô hiện diện trong thế giới”[31]. Các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng có liên hệ hỗ tương với nhau ngay từ cội nguồn của chúng. Sau cùng, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc lại “sự hòa hợp” mà Chúa Thánh Thần tạo ra giữa các hồng ân khác nhau và thu hút sự quan tâm của các hiệp hội đặc sủng trong việc mở ra cho truyền giáo, vâng phục cần phải có đối với các mục tử, và sự nội tại của Giáo Hội[32], vì “chính trong cộng đoàn mà các hồng ân Chúa Cha ban cho chúng ta, nảy nở và sinh hoa kết trái; và chính giữa lòng cộng đoàn, mà chúng ta học nhận ra những hồng ân ấy như dấu chỉ tình yêu của Chúa Cha dành cho con cái của Người”[33]. Để tóm tắt, có thể nhận ra sự tập trung của Huấn Quyền gần đây vào sự đồng yếu tính giữa các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng. Sự đối nghịch giữa các hồng ân cũng như việc đặt chúng bên cạnh nhau là biểu hiện của một sự hiểu biết lệch lạc hoặc phiến diện về hoạt động của Chúa Thánh Thần trong đời sống và sứ mạng của Giáo Hội.
III. NỀN TẢNG THẦN HỌC CỦA MỐI TƯƠNG QUAN
GIỮA CÁC HỒNG ÂN PHẨM TRẬT VÀ ĐẶC SỦNG
Chiều kích ba ngôi và kitô học của các ân huệ Chúa Thánh Thần
11. Để hiểu các lý do sâu xa của mối tương quan đồng yếu tính giữa các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng, cần nhắc lại nền tảng thần học của chúng. Thật vậy, sự cần thiết phải vượt qua mọi đối nghịch vô ích giữa các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng hoặc việc đặt chúng bên cạnh nhau nhưng ở ngoài nhau, được đòi hỏi bởi nhiệm cục cứu độ vốn bao hàm mối tương quan nội tại giữa sứ mạng của Ngôi Lời nhập thể và của Chúa Thánh Thần. Thật vậy, mỗi hồng ân của Chúa Cha đều quy hướng về hoạt động chung và khác biệt của các sứ mạng thần linh: mọi ân sủng đều phát xuất từ Chúa Cha, qua Chúa Con, trong Chúa Thánh Thần. Ân huệ của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội gắn liền với sứ mạng của Chúa Con đã được hoàn tất cách khôn sánh trong Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người. Chính Chúa Giêsu đã nối kết việc hoàn tất sứ mạng của Người với việc cử Thánh Thần đến với cộng đoàn các tín hữu[34]. Vì lý do này, Chúa Thánh Thần không thể mở ra một nhiệm cục khác với nhiệm cục của Ngôi Lời nhập thể, chịu đóng đinh và sống lại[35]. Quả thực, toàn bộ nhiệm cục bí tích của Giáo Hội là sự thể hiện mang tính thần khí của việc nhập thể: bởi thế, Chúa Thánh Thần được Truyền Thống coi là linh hồn của Giáo Hội, Thân Thể Chúa Kitô. Hành động của Thiên Chúa trong lịch sử luôn bao hàm mối tương quan giữa Chúa Con và Chúa Thánh Thần mà Thánh Irênê thành Lyon gọi cách bóng bẩy là “hai bàn tay của Chúa Cha”[36]. Theo nghĩa này, mọi ân huệ của Chúa Thánh Thần chỉ tồn tại trong tương quan với Ngôi Lời làm người[37].
Mối liên hệ nguyên thủy giữa các hồng ân phẩm trật được thông ban nhờ bí tích Truyền Chức Thánh và các hồng ân đặc sủng được Chúa Thánh Thần ban phát cách tự do, được lý giải bởi tương quan giữa Ngôi Lời nhập thể và Chúa Thánh Thần, Đấng luôn là Thần Khí của Chúa Cha và của Chúa Con. Để tránh những quan điểm thần học mập mờ vốn chủ trương một “Giáo Hội Thần Khí” khác biệt và tách biệt khỏi “Giáo Hội phẩm trật và cơ chế”, cần khẳng định lại cách mà hai sứ mạng thần linh bao hàm lẫn nhau, theo cách thức tương trợ nhau trong mỗi ân huệ được ban cho Giáo Hội. Thật vậy, sứ mạng của Chúa Giêsu Kitô bao hàm trong chính nó hoạt động của Chúa Thánh Thần. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong thông điệp về Chúa Thánh Thần, Dominum et Vivificantem, cho thấy tầm quan trọng chính yếu của hoạt động Chúa Thánh Thần trong sứ mạng của Chúa Con[38]. Đức Thánh Cha Benedicto XVI cũng đã đào sâu khía cạnh này trong Tông huấn Sacramentum Caritatis, bằng cách nhắc lại rằng Đấng Bảo Trợ “vốn hoạt động trong công trình sáng tạo (x. St 1,2), hiện diện một cách trọn vẹn trong đời sống của Ngôi Lời Nhập Thể”. Đức Giêsu-Kitô “được thụ thai bởi Đức Trinh Nữ Maria do quyền năng Chúa Thánh Thần (x. Mt 1,18; Lc 1,35); lúc khởi đầu sứ vụ công khai, tại bờ sông Giordan, Chúa Giêsu thấy Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu (x. Mt 3,16); nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, Người hành động, giảng dạy và hớn hở vui mừng (x. Lc 10,21), và chính trong Thánh Thần mà Người có thể tự hiến tế chính mình (x. Dt 9,14). Trong “diễn văn từ biệt” được Thánh Gioan thuật lại, Chúa Giêsu rõ ràng liên kết việc hiến mạng sống của Người trong Mầu Nhiệm Vượt Qua với ơn của Chúa Thánh Thần được ban cho những kẻ thuộc về Người (x. Ga 16,7). Khi sống lại, ngay lúc còn mang trên mình các dấu tích của cuộc thương khó, Người có thể ban Chúa Thánh Thần (x. Ga 20,22), để làm cho những ai thuộc về Người tham dự vào chính sứ mạng của Người (x. Ga 20,21). Rồi, Chúa Thánh Thần dạy các môn đệ mọi điều và làm cho họ nhớ lại mọi điều Chúa Kitô đã nói với họ (x. Ga 14,26), bởi vì với tư cách là Thần Khí sự thật (x. Ga 15,26), Người trở lại dẫn đưa các tông đồ tới sự thật trọn vẹn (x. Ga 16,13). Trong Công Vụ Tông Đồ, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ đang tụ họp để cầu nguyện cùng với Đức Maria, vào Ngày Lễ Ngũ Tuần (x. Cv 2,1-4) và ban cho họ đầy tràn sức mạnh để thi hành sứ mạng loan báo Tin Mừng cho mọi dân tộc[39].
Hoạt động của Chúa Thánh Thần trong các hồng ân phẩm trật và đặc sủng
12. Việc làm nổi bật lên chiều kích ba ngôi và kitô học của các hồng ân huệ cũng soi sáng mối tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng. Thật vậy, mối tương quan với hoạt động cứu rỗi của Chúa Kitô xuất hiện trước hết trong các hồng ân phẩm trật, vì các hồng ân này gắn liền với bí tích Truyền Chức Thánh. Đó là trường hợp thiết lập Bí Tích Thánh Thể (x. Lc 22,19 tt; 1Cr 11,25), quyền tha tội (x. Ga 20,22tt), lệnh truyền tông đồ với bổn phận rao giảng Tin Mừng và làm phép rửa (Mc 16,15tt; Mt 28,18-20). Rõ ràng không một bí tích nào có thể được thông ban mà không có hoạt động của Chúa Thánh Thần[40]. Mặt khác, các hồng ân đặc sủng được thông ban bởi Chúa Thánh Thần, “Đấng muốn thổi đâu thì thổi” (Ga 3,8) và phân phát các hồng ân của Người “theo cách Người muốn” (1Cr 12,11), luôn có tương quan với sự sống mới trong Chúa Kitô, vì « mỗi kitô hữu » (1Cr 12,27) là một chi thể trong Thân Thể của Chúa Kitô. Do đó, chỉ có thể hiểu đúng đắn các hồng ân đặc sủng khi qui chiếu vào sự hiện diện của Chúa Kitô và sự phục vụ của Người; như Đức Gioan Phaolô II đã khẳng định, “các đặc sủng đích thực chỉ có thể hướng tới cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô trong các bí tích”[41]. Do đó, các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng hợp nhất chiếu theo mối tương quan nội tại giữa Chúa Giêsu-Kitô và Chúa Thánh Thần. Đấng Bảo Trợ vừa là Đấng phân phát cách hữu hiệu qua các bí tích ơn cứu rỗi bởi Chúa Kitô đã chết và sống lại, vừa là Đấng ban phát các đặc sủng.Trong truyền thống phụng vụ của các kitô hữu Đông Phương, đặc biệt trong truyền thống Syria, vai trò của Chúa Thánh Thần được diễn tả bằng hình lưỡi lửa, giúp làm sáng tỏ mọi điều. Thực vậy, Thánh Ephrem, người Syria, nhà thần học vĩ đại và cũng là thi sĩ, khẳng định rằng : “Lửa ân sủng xuống trên bánh và ở lại đó”[42], để chỉ không những việc biến đổi của Chúa Thánh Thần gắn với các ân huệ, mà còn liên hệ tới các tín hữu sắp ăn bánh Thánh nữa. Nhờ việc xử dụng hữu hiệu các hình ảnh, quan điểm Đông Phương giúp ta hiểu Chúa Kitô ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta thế nào khi chúng ta rước Thánh Thể. Tiếp đến, Chúa Thánh Thần nuôi dưỡng đời sống trong Chúa Kitô nơi các tín hữu, khi hướng dẫn họ tới một đời sống bí tích sâu sắc hơn, cách riêng trong Thánh Thể. Bằng cách này, hành động tự do của Ba Ngôi Chí Thánh trong lịch sử mang lại cho các tín hữu hồng ân cứu rỗi, đồng thời động viên họ đáp lại cách tự do và trọn vẹn bằng cuộc sống dấn thân.
 
IV. MỐI TƯƠNG QUAN
GIỮA CÁC HỒNG ÂN PHẨM TRẬT VÀ CÁC HỒNG ÂN ĐẶC SỦNG
TRONG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ MẠNG CỦA GIÁO HỘI
Trong Giáo Hội như mầu nhiệm hiệp thông
13. Giáo Hội hiện diện như “một dân được được qui tụ nhờ sự hợp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”[43], trong đó, mối tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng như được qui hướng bởi sự tham dự trọn vẹn của tín hữu vào sự hiệp thông và sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Trong Đức Kitô, chúng ta đã được tiền định cách nhưng không để hưởng sự sống mới (Rm 8,29-31; Ep 1,4-5). Chúa Thánh Thần “thực hiện sự hiệp thông tuyệt diệu giữa các tín hữu và hiệp nhất tất cả trong Chúa Kitô mật thiết đến độ Người trở thành nguyên lý của sự hợp nhất trong Giáo Hội[44].Quả thực, chính trong Giáo Hội mà con người được mời gọi trở thành các chi thể của Chúa Kitô[45] và chính trong sự hiệp thông của Giáo Hội mà họ được hợp nhất với nhau trong Chúa Kitô, như các chi thể của nhau. Hiệp thông luôn “là một sự tham dự kép rất sống động: một là sự tháp nhập của các Kitô hữu vào đời sống Chúa Kitô, hai là sự thông chuyển đức ái giữa toàn thể các tín hữu, ở đời này và đời sau. Hợp nhất với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô, và hợp nhất giữa các Kitô hữu trong Giáo Hội”[46].Theo ý hướng này, mầu nhiệm Giáo Hội chiếu sáng “trong Chúa Kitô như một bí tích, tức vừa là một dấu chỉ vừa là phương tiện của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và hợp nhất của toàn thể nhân loại”[47]. Ở đây, cội rễ bí tích của Giáo Hội xuất hiện như mầu nhiệm hiệp thông: “Căn bản là sự hiệp thông với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu-Kitô, trong Chúa Thánh Thần. Sự hiệp thông này đạt được trong Lời Chúa và trong các bí tích; liên kết chặt chẽ với bí tích Thêm Sức, “bí tích Rửa Tội là cánh cửa và là nền tảng của sự hiệp thông trong Giáo Hội. Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và đỉnh cao của đời sống Kitô hữu”[48]. Các bí tích khai tâm này làm nên đời sống Kitô hữu và là nền tảng của các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng. Đời sống hiệp thông trong Giáo Hội, như đã được thiết đặt, diễn ra trong việc chăm chỉ lắng nghe Lời Chúa và được nuôi dưỡng bằng các bí tích. Chính Lời Chúa tỏ cho chúng ta thấy nó liên kết sâu xa với các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể[49], dựa trên chiều kích bí tích duy nhất của Mạc Khải. Truyền thống Đông Phương nhìn Giáo Hội, Thân Thể Chúa Kitô “được linh hoạt” bởi Chúa Thánh Thần, như sự hiệp nhất có trật tự, điều này cũng được diễn tả ngay trong các ân huệ. Sự hiện diện hữu hiệu của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn các tín hữu (x. Rm 5,5) là cội rễ của sự hợp nhất trong các biểu hiện đặc sủng[50]. Thật vậy, các đặc sủng được ban cho mỗi phần tử của Giáo Hội và được thiết đặt để giúp cho đời sống Giáo Hội nên mạnh mẽ hơn. Viễn tượng này cũng được thấy trong các bài viết của chân Phúc John Henry Newman: “Tâm hồn của mỗi Kitô hữu phải đại diện cho Giáo Hội Công Giáo thu nhỏ, bởi vì chỉ có một Thánh Thần duy nhất làm nên toàn thể Giáo Hội và làm cho tất cả mọi kitô hữu trở nên đền thờ của Người ”[51]. Do đó, sự vô lý của việc đặt các hồng ân phẩm trật đối nghịch hoặc bên cạnh các hồng ân đặc sủng, càng hiển nhiên hơn.
Tóm lại, mối tương quan giữa các hồng ân đặc sủng và cơ cấu bí tích của Giáo Hội khẳng định sự đồng yếu tính giữa các hồng ân phẩm trật - vốn bền vững, thường hằng và không thể thay đổi - và các hồng ân đặc sủng. Cho dù các hình thức lịch sử của những hồng ân đặc sủng có thể thay đổi[52], nhưng chiều kích đặc sủng không thể thiếu vắng trong đời sống và trong sứ mạng của Giáo Hội.
Căn tính của các hồng ân phẩm trật
14. Để thánh hóa mọi thành viên của Dân Chúa và sứ mệnh của Giáo Hội trên thế giới, trong các hồng ân khác nhau, “ơn được ban cho các Tông Đồ chiếm vị trí hàng đầu : chính Chúa Thánh Thần buộc những người hưởng đặc sủng phải thuộc thẩm quyền của các ngài”[53]. Chúa Giêsu Kitô đích thân muốn có các hồng ân phẩm trật để bảo đảm cho việc làm trung gian cứu độ duy nhất của Ngài: “Các Tông Đồ được Đức Kitô làm cho phong phú bằng cách tuôn tràn Thánh Thần xuống trên các ngài (x. Cv 1,8; 2,4; Ga 20,22-23), chính các ngài cũng thông ban ơn thiêng này cho các cộng tác viên của mình qua việc đặt tay (x. 1Tm 4,14; 2Tm 1,6-7)”[54]. Do đó, việc trao ban các hồng ân phẩm trật trước hết phải được cấp cho sự viên mãn của bí tích Truyền Chức Thánh qua việc tấn phong giám mục vốn “cùng với chức vụ thánh hóa, các chức vụ giảng dạy và cai quản cũng được trao ban, tuy nhiên những chức vụ này, do bản chất của nó, chỉ có thể thi hành trong sự hiệp thông phẩm trật với người đứng đầu và các thành viên của giám mục đoàn”[55]. Cũng vậy, “qua các giám mục được trợ giúp bởi các linh mục, chính Chúa Giêsu-Kitô […] hiện diện giữa các tín hữu […]. Qua sự phục vụ tuyệt vời của các ngài […], Ngài rao giảng Lời Chúa cho mọi dân tộc và không ngừng ban các bí tích đức tin cho các tín hữu; chính nhờ vai trò đầy tình phụ tử của các ngài (x. 1Cr 4,15), Chúa Giêsu tháp nhập các chi thể mới vào Thân Thể của Ngài qua việc tái sinh siêu nhiên; và sau cùng qua sự khôn ngoan và thận trọng của các ngài, Chúa cai quản và hướng dẫn Dân của Giao Ước Mới trong hành trình hướng về hạnh phúc đời đời”[56]. Truyền thống kitô giáo Đông Phương, liên kết chặt chẽ với các giáo phụ, giải thích tất cả những điều này theo quan niệm đặc biệt về trật tự (taxis).Theo Thánh Basilio Cả, rõ ràng sự sắp đặt của Giáo Hội là công trình của Chúa Thánh Thần, và ngay cái trật tự (taxis) mà trong đó Thánh Phaolô liệt kê các đặc sủng khác nhau (x. 1Cr 12,28), “cũng theo sự phân phối các ân huệ của Chúa Thánh Thần” [57], khi cho thấy ơn ban cho các Tông Đồ chiếm vị trí hàng đầu. Khởi đi từ sự quy chiếu vào việc tấn phong giám mục, chúng ta cũng có thể hiểu được các hồng ân phẩm trật liên hệ với các cấp bậc khác của bí tích Truyền Chức Thánh; trước hết, hồng ân của các linh mục, những người “được thánh hiến để rao giảng Tin Mừng và trở thành Mục Tử của các tín hữu cũng như cử hành phụng tự thánh”. “Thánh hóa và dẫn dắt, dưới quyền của vị giám mục, một phần đoàn chiên Chúa trao phó cho các ngài”, phần các linh mục, trong khi trở nên “gương mẫu cho đoàn chiên”, các ngài phải “dẫn dắt và phục vụ cộng đoàn địa phương của mình”[58]. Trong bí tích Truyền Chức Thánh, việc xức dầu thánh hiến làm cho các giám mục và linh mục “nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô Linh mục, để các ngài có khả năng hành động với tư cách là hiện thân của Chúa Kitô là Đầu”[59]. Phải thêm vào các hồng ân trên đây những hồng ân ban cho các phó tế ,“những người đã được đặt tay không phải để làm linh mục, nhưng để làm thừa tác viên” ; “ân sủng bí tích mang lại cho họ sức mạnh cần thiết để phục vụ Dân Chúa với “chức vụ trợ tế” của phụng vụ, Lời Chúa và bác ái, trong sự hiệp thông với giám mục và linh mục đoàn”[60]. Tóm lại, các hồng ân phẩm trật dành riêng cho bí tích Truyền Chức Thánh, trong những cấp bậc khác nhau, đã được trao ban để, trong Giáo Hội hiểu như là sự hiệp thông, không một tín hữu nào không được ban ân sủng của các bí tích, loan báo Lời Chúa và chăm sóc bởi các mục tử của họ. 
Căn tính của các hồng ân đặc sủng
15. Nếu việc thi hành các hồng ân đặc sủng, trong suốt dòng lịch sử, bảo đảm cho việc  ban ân sủng của Chúa Kitô cho toàn thể Dân Chúa, thì tất cả mọi tín hữu được mời gọi đón nhận và đáp lại đòi hỏi của ân sủng ấy trong những hoàn cảnh cụ thể của đời sống. Vì thế, các hồng ân đặc sủng được ban phát tự do bởi Chúa Thánh Thần, để ân sủng bí tích mang lại hoa trái trong đời sống kitô hữu theo nhiều cách khác nhau và ở mọi cấp độ. Nhờ sự phong phú đa dạng của các đặc sủng “trước hết, được ban theo nhu cầu cần thiết của Giáo Hội và nhằm đáp ứng những nhu cầu ấy”[61], Dân Chúa có thể sống đầy đủ sứ mạng rao giảng Tin Mừng, khi dò xét và giải thích các dấu chỉ của thời đại dưới ánh sáng Tin Mừng[62]. Thật vậy, các hồng ân đặc sủng thúc đẩy các tín hữu, với đầy đủ tự do và cách thức phù hợp với thời đại, đáp lại hồng ân cứu độ bằng cách làm cho mình trở nên ân huệ tình yêu cho những người khác và chứng tá đích thực cho Tin Mừng trước mọi người.
Các hồng ân đặc sủng được thông chia
16. Trong bối cảnh này, nên nhớ các hồng ân đặc sủng có thể khác nhau, không chỉ vì tính chất đặc biệt của chúng mà còn vì sự lan tỏa của chúng trong cộng đoàn Giáo Hội. Các hồng ân đặc sủng “được ban cho một người rõ rệt, nhưng chúng có thể được chia sẻ bởi những người khác, đến độ chúng được duy trì qua thời gian như một di sản sống động và quý giá, di sản này tạo ra quan hệ thiêng liêng đặc biệt giữa nhiều người”[63]. Mối tương quan giữa đặc tính cá nhân của đặc sủng và khả năng tham dự vào đặc sủng ấy diễn tả một yếu tố có tính quyết định trong sự năng động của nó, vì mối tương quan này liên hệ tới mối tương quan luôn nối kết cá nhân với cộng đoàn trong sự hiệp thông Giáo Hội[64]. Trong thực hành, các hồng ân đặc sủng có thể tạo ra quan hệ, gần gũi, và họ hàng thiêng liêng, qua đó, gia sản đặc sủng được chia sẻ và đào sâu khởi đi từ vị sáng lập, mang lại sức sống cho các gia đình thiêng liêng. Dưới những hình thức khác nhau, các hiệp hội trong Giáo Hội hiện diện như những hồng ân đặc sủng được chia sẻ. Các phong trào trong Giáo Hội và các cộng đoàn mới cho thấy cách thức một đặc sủng nguyên thủy nhất định có thể qui tụ các tín hữu và giúp họ sống trọn vẹn ơn gọi Kitô hữu và bậc sống của họ, phục vụ sứ mạng của Giáo Hội. Các hình thức cụ thể và mang tính lịch sử của việc chia sẻ này có thể khác nhau, đây là lý do dẫn đến việc các cộng đoàn khác nhau được thành lập, khởi đi từ đặc sủng nguyên thủy, người sáng lập, như lịch sử linh đạo đã minh chứng.
Được thẩm quyền Giáo Hội thừa nhận
17. Trong số các hồng ân đặc sủng được ban phát tự do bởi Chúa Thánh Thần, nhiều đặc sủng được cộng đoàn kitô hữu đón nhận và sống, không cần đến qui chế đặc biệt nào. Tuy nhiên, nếu hồng ân đặc sủng là “đặc sủng sáng lập” hay “đặc sủng nguyên thủy”, thì nó cần có sự thừa nhận đặc biệt để sự phong phú của nó lan tỏa trong sự hiệp thông của Giáo Hội và lưu truyền cách trung thành trong thời gian. Ở đây, thẩm quyền Giáo Hội có nhiệm vụ phải nhận định[65]. Thừa nhận một đặc sủng là xác thực không luôn là nhiệm vụ dễ dàng, nhưng là việc cần thiết mà các mục tử phải chu toàn. Cộng đoàn các tín hữu có “quyền được Mục tử thông báo về tính xác thực của các đặc sủng và về sự tin tưởng mà chúng ta có thể ưng thuận với những người đã lãnh nhận các đặc sủng ấy”[66]. Vì lý do này, thẩm quyền Giáo Hội phải ý thức về đặc tính không thể dự kiến các đặc sủng được Chúa Thánh Thần linh hứng, bằng cách lượng giá các đặc sủng này theo qui luật đức tin để xây dựng Giáo Hội[67]. Tiến trình cần có thời gian và đòi hỏi qua các giai đoạn rõ ràng để có được sự chứng thực, với sự nhận định nghiêm túc, cho tới khi được thẩm quyền Giáo Hội thừa nhận. Thực thể phát sinh từ một đặc sủng phải có thời gian thích hợp để trải nghiệm và lắng xuống, từ sự nhiệt thành ban đầu chuyển sang hình thức ổn định.Trong suốt lộ trình thẩm định này, giáo quyền phải đồng hành với thực thể mới này một cách nhân hậu. Về phần các Mục tử, việc đồng hành không bao giờ chấm dứt, vì chẳng có hạn định nào cho tình phụ tử của những người, trong Giáo Hội, được mời gọi đại diện cho Đấng Chăn Chiên Lành và được tình yêu thôi thúc, không bao giờ ngừng đồng hành với đoàn chiên của mình. 
Các tiêu chuẩn để phân định các hồng ân đặc sủng
18. Trong khuôn khổ này, ta có thể nhắc lại một số tiêu chuẩn được làm rõ bởi Huấn Quyền của Giáo Hội, trong mấy năm gần đây, để phân định các hồng ân đặc sủng nơi các hiệp hội trong Giáo Hội. Các tiêu chuẩn này có mục đích giúp thừa nhận đặc tính giáo hội thực sự của các đặc sủng.
a)Ưu vị của ơn gọi nên thánh của mỗi kitô hữu. Mọi thực thể, được sinh ra từ việc chia sẻ một đặc sủng thực sự, phải là khí cụ của sự thánh thiện trong Giáo Hội và như thế, của sự tăng triển đức ái và sự căng thẳng hướng đến sự hoàn hảo của tình yêu[68].
b)Dấn thân trong việc rao giảng Tin Mừng. Những thực thể đặc sủng đích thực “là quà tặng của Chúa Thánh Thần được tháp nhập vào thân thể Giáo Hội, được lôi cuốn vào tâm điểm là Chúa Kitô và từ đó ra đi với động lực rao giảng Tin Mừng”[69]. Theo cách thức này, những thực thể mới phải “hòa hợp và cộng tác vào mục đích tông đồ của Giáo Hội”, bằng cách thể hiện sự “hứng khởi truyền giáo biến các thực thể này trở thành những dụng cụ ngày càng tích cực hơn của công cuộc tân phúc âm hóa”[70].
c)Tuyên xưng đức tin Công Giáo. Mọi thực thể đặc sủng nhất thiết phải là môi trường giáo dục đức tin ,“bằng cách đón nhận và tuyên xưng sự thật về Chúa Kitô, về Giáo Hội và về con người, hợp với huấn quyền của Giáo Hội vốn giải thích sự thật đó cách đúng đắn[71]”; như thế, phải tránh phiêu lưu “quá xa (proagon) đạo lý và cộng đoàn Giáo Hội”. Thật vậy, nếu “không ở lại trong giáo huấn và cộng đoàn của Giáo Hội, chúng ta không hợp nhất với Thiên Chúa của Đức Giêsu-Kitô” (x. 2Ga 9)[72].
d)Làm chứng cho sự hiệp thông thực sự với toàn thể Giáo Hội. Điều này bao hàm “tương quan nghĩa tử đối với đức giáo hoàng, tâm điểm trường tồn và hữu hình của sự hiệp nhất trong Giáo Hội phổ quát, và với đức giám mục, ‘nguyên tắc hữu hình và nền tảng của sự hợp nhất’ trong Giáo Hội địa phương”[73]. Điều này bao hàm sự “sẵn sàng trung thành đón nhận các giáo huấn đức tin và các chỉ dẫn mục vụ”[74], cũng như “sẵn sàng tham gia các chương trình và hoạt động của Giáo Hội trên bình diện quốc gia cũng như quốc tế; dấn thân trong việc dạy giáo lý và khả năng sư phạm để huấn luyện các Kitô hữu”[75].
e)Trân trọng và nhìn nhận sự bổ túc lẫn nhau giữa các thành phần đặc sủng khác trong Giáo Hội. Từ đó phát sinh việc sẵn sàng hợp tác với nhau[76]. Thực vậy, “dấu chỉ rõ ràng tính xác thực của một đặc sủng là tính giáo hội của nó, khả năng tháp nhập cách hài hòa vào đời sống Dân thánh của Thiên Chúa, vì lợi ích của mọi người. Một sự mới mẻ thực sự do Chúa Thánh Thần thúc đẩy, không cần làm lu mờ các linh đạo và các ân sủng khác để khẳng định chính mình”[77].
f)Chấp nhận những lúc bị thử thách trong việc phân định các đặc sủng. Vì hồng ân đặc sủng có thể có “một mức độ mới mẻ nào đó trong đời sống thiêng liêng của Giáo Hội và một sáng kiến nào đó trong hành động, đôi khi gây ra sự khó chịu”, nên tiêu chuẩn của tính đích thực biểu lộ nơi “sự khiêm nhường chịu đựng những nghịch cảnh; mối tương quan đúng đắn giữa một đặc sủng đích thực, hướng đến sự mới mẻ, và đau khổ tạo ra một hằng số mang tính lịch sử: đó là sự liên kết giữa đặc sủng và thập giá”[78].Việc nảy sinh căng thẳng tạm thời đòi hỏi tất cả thực thi bác ái lớn hơn, vì sự hiệp thông và hiệp nhất trong Giáo Hội ngày một sâu sắc hơn.
g)Sự hiện diện của hoa trái thiêng liêng của đức ái, niềm vui, bình an và sự trưởng thành nhân bản (x. Gl 5,22); “sống mạnh mẽ hơn đời sống của Giáo Hội”[79], nhiệt thành hơn trong việc “lắng nghe và suy niệm lời Chúa”[80]; “ưa thích hơn việc cầu nguyện, chiêm niệm, đời sống phụng vụ và bí tích; giúp ý thức về ơn gọi hôn nhân Kitô-giáo, ơn gọi làm linh mục thừa tác hay đời sống thánh hiến”[81].
          Những tiêu chuẩn căn bản chúng tôi vừa nêu lên được chứng thực trong những hoa trái cụ thể đi kèm với đời sống và những công trình của các hình thức hiệp hội khác nhau, đặc biệt là sự ưa thích cầu nguyện, chiêm niệm, đời sống phụng vụ và bí tích ; giúp ý thức về ơn gọi hôn nhân Kitô-giáo, ơn gọi làm linh mục thừa tác hay đời sống thánh hiến ; sẵn sàng tham gia vào các chương trình và hoạt động trên bình diện quốc gia cũng như quốc tế ; dấn thân vào việc giảng dạy giáo lý và khả năng sư phạm trong việc huấn luyện các kitô-hữu; hoán cải trở về với đời sống kitô-hữu hay đối với những người đã rửa tội nhưng “lìa xa” được hiệp thông trở lại với Giáo Hội.
h)Chiều kích xã hội của việc rao giảng Tin Mừng. Ngoài ra còn phải thừa nhận rằng, nhờ đức ái thúc đẩy, “lời loan báo Tin Mừng đầu tiên (kérygma) chứa đựng một nội dung mang tính xã hội rõ rệt: Ở tâm điểm của Tin Mừng, có đời sống cộng đoàn và sự dấn thân cùng với những người khác”[82]. Trong tiêu chuẩn phân định không chỉ qui chiếu các thực thể giáo dân trong Giáo Hội, chúng ta nhấn mạnh tới sự cần thiết phải là “những trào lưu đẩy mạnh sự tham gia và liên đới, để kiến tạo những điều kiện sống công bằng và huynh đệ hơn giữa lòng xã hội”[83]. Về vấn đề này, những việc sau đây rất có ý nghĩa: “thúc đẩy sự hiện diện của người kitô-hữu trong môi trường khác nhau của đời sống xã hội ; thành lập và linh hoạt các công tác từ thiện, văn hóa và thiêng liêng ; tinh thần siêu thoát và thanh bần phúc âm để thực hiện tình bác ái đại lượng hơn với mọi người”[84]. Việc qui chiếu vào Học thuyết Xã hội của Giáo Hội cũng là một yếu tố mang tính quyết định[85]. Cách riêng, “từ đức tin của chúng ta vào Chúa Kitô, Đấng đã trở nên nghèo khó, và luôn luôn gần gũi những người nghèo và kẻ bị hất hủi, phát sinh mối quan tâm của chúng ta đối với sự phát triển toàn diện những người bị bỏ rơi nhất trong xã hội”[86], mối quan tâm này không thể thiếu trong một thực thể giáo hội đích thực.
 
V. THỰC HÀNH TRONG GIÁO HỘI VỀ MỐI TƯƠNG QUAN
GIỮA CÁC HỒNG ÂN PHẨM TRẬT VÀ CÁC HỒNG ÂN ĐẶC SỦNG
19. Để kết thúc, cần xem xét một số yếu tố thực hành cụ thể trong Giáo Hội có liên hệ tới mối tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng trong Giáo Hội hiện diện như những hiệp hội đặc sủng trong sự hiệp thông Giáo Hội.
Qui chiếu mang tính hỗ tương
20. Việc thực hiện mối tương quan tốt đẹp giữa các hồng ân khác nhau trong Giáo Hội đòi hỏi trước hết sự tháp nhập hữu hiệu của các thực thể đặc sủng vào đời sống mục vụ của Giáo Hội địa phương. Điều này bao hàm việc các hiệp hội khác nhau thừa nhận thẩm quyền của các Mục tử trong Giáo Hội như là một thực tại bên trong đời sống Kitô hữu, bằng cách ước muốn được thừa nhận, đón tiếp và thanh luyện bởi các mục tử, luôn sẵn sàng phục vụ sứ mạng của Giáo Hội. Tiếp đến, những người được ủy thác các hồng ân phẩm trật, khi thi hành việc phân định và đồng hành các đặc sủng, phải hết lòng đón nhận điều Chúa Thánh Thần thúc đẩy ngay trong sự hiệp thông Giáo Hội, lưu ý tới hoạt động mục vụ và lượng giá những đóng góp của các đặc sủng như là sự phong phú đích thực vì ích lợi của mọi người.
Các hồng ân đặc sủng trong Giáo Hội phổ quát và trong Giáo Hội địa phương
21. Liên quan tới sự lan tỏa và tính đặc thù của các thực thể đặc sủng, cần lưu ý tới mối tương quan thiết yếu và thiết định giữa Giáo Hội phổ quát và các Giáo Hội địa phương. Về vấn đề này, cần nhắc lại rằng Giáo Hội của Chúa Kitô, như ta đã tuyên xưng trong kinh Tin Kính  của các Tông Đồ, “là Giáo Hội phổ quát, nghĩa là cộng đoàn phổ quát của các môn đệ Chúa  Kitô đang hiện diện và hoạt động trong sự đặc thù và khác biệt của những con người, các nhóm, các thời kỳ và các nơi chốn”[87]. Do đó, chiều kích đặc thù là chiều kích nội tại so với chiều kích phổ quát và ngược lại; thật vậy, có một tương quan “nội tại”[88] giữa các Giáo Hội địa phương và Giáo Hội phổ quát. Trong bối cảnh này, các hồng ân phẩm trật dành cho Vị Kế Nhiệm Thánh Phêrô được thi hành để bảo đảm và giúp cho Giáo Hội phổ quát hiện diện trong các Giáo Hội địa phương. Cũng vậy, chức vụ tông đồ của các giám mục không bị giới hạn trong giáo phận được trao phó cho các ngài, nhưng được mời gọi hướng về toàn thể Giáo Hội, ngang qua tính tập đoàn thân tình và hiệu quả, và nhất là ngang qua sự hiệp thông với tâm điểm của sự hợp nhất Giáo Hội (centrum unitatis Ecclesiae) là Giáo hoàng Roma. Thật vậy,“với tư cách là người kế nhiệm Thánh Phêrô, ngài là nguyên lý và là nền tảng vĩnh viễn, hữu hình của sự hợp nhất hoặc giữa các giám mục hoặc giữa các tín hữu. Còn mỗi giám mục là nguyên lý và nền tảng hữu hình của sự hợp nhất trong các Giáo Hội địa phương của mình vốn được hình thành theo hình ảnh của Giáo Hội phổ quát, chính nhờ và trong các Giáo Hội này mà có Giáo Hội Công Giáo duy nhất”[89]. Điều này hàm nghĩa là trong mỗi Giáo Hội địa phương “Giáo Hội  duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền của Chúa Kitô thực sự hiện diện và hoạt động”[90]. Vì thế, mọi Giáo Hội địa phương được thành lập, phải qui chiếu vào thẩm quyền của vị Kế nhiệm Thánh Phêrô, tức hành động với và dưới quyền Thánh Phêrô (cum Petro et sub Petro)[91].
Theo cách này, nền tảng của mối tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và đặc sủng được đặt trong mối tương quan giữa Giáo Hội phổ quát và các Giáo Hội địa phương. Thật thế, một đàng, các hồng ân đặc sủng được ban cho toàn thể Giáo Hội; đàng khác, tính năng động của các hồng ân này chỉ được thực hiện để phục vụ một giáo phận cụ thể, vốn “là một phần của Dân Chúa được ủy thác cho một giám mục” với sự trợ giúp của linh mục đoàn”[92]. Về vấn đề này, cũng nên nhắc lại trường hợp của đời sống thánh hiến; đời sống thánh hiến không phải là một thực tại nằm ngoài hoặc độc lập đối với đời sống của Giáo Hội địa phương, nhưng thể hiện một cách thức hiện diện đặc biệt, được đánh dấu bởi tính triệt để của Tin Mừng, hiện diện trong lòng Giáo Hội địa phương, với những ân huệ đặc biệt. Đặc ân “miễn trừ” (exemption) mà truyền thống ban cho nhiều Tu hội đời sống thánh tiến[93], không là thứ “siêu tòng thổ không nhập tịch”(supralocalité désincarnée) hay tự trị bị hiểu sai, nhưng đúng hơn là sự tương tác chặt chẽ hơn giữa chiều kích phổ quát và chiều kích địa phương của Giáo Hội[94]. Tương tự như thế, các thực thể đặc sủng mới, khi có được tính siêu giáo phận (supra-diocésain), không được coi mình hoàn toàn tự trị đối với Giáo Hội địa phương; đúng hơn, họ phải phong phú hóa và phục vụ Giáo Hội bằng những đặc điểm riêng, được chia sẻ vượt khỏi giới hạn của một giáo phận riêng biệt.
Các hồng ân đặc sủng và các bậc sống của người Kitô hữu
22. Các hồng ân đặc sủng do Chúa Thánh Thần ban phát có thể có liên hệ với toàn bộ trật tự của sự hiệp thông trong Giáo Hội, trên bình diện bí tích cũng như Lời Chúa. Theo tính chất đặc biệt của chúng, các hồng ân giúp mang lại nhiều hoa trái trong việc chu toàn các bổn phận phát sinh từ các bí tích Rửa Tội, Thêm Sức, Hôn Phối và Truyền Chức Thánh, đồng thời giúp hiểu Truyền Thống Tông đồ hơn trên bình diện thiêng liêng. Truyền Thống này có thể được hiểu thấu đáo, không chỉ nhờ nghiên cứu và giảng dạy của những vị đã lãnh nhận cách “chắc chắn đặc sủng về chân lý” (charisma veritatis certum)[95], nhưng còn nhờ “thông hiểu về những cảm nghiệm thiêng liêng”[96]. Trong viễn tượng này, cũng nên liệt kê những câu hỏi nền tảng liên quan tới mối liên hệ giữa các hồng ân đặc sủng và các bậc sống khác nhau, với sự qui chiếu đặc biệt tới chức vụ tư tế chung của Dân Thiên Chúa và chức tư tế thừa tác hay phẩm trật, hai chức vụ này “dù khác nhau trong yếu tính chứ không chỉ trong mức độ […], nhưng tương trợ lẫn nhau: mỗi chức vụ, theo cách riêng của mình, tham dự vào chức tư tế duy nhất của Chúa Kitô”[97]. Thực vậy, “hai cách thức tham dự vào chức tư tế duy nhất của Chúa Kitô, trong đó, cả hai chiều kích đều hiện diện, kết hợp trong hy tế cao cả trên thập giá”[98].
a) Thứ nhất, ta cần nhìn nhận sự tốt lành của các đặc sủng khác nhau đã khai sinh nhiều hiệp hội trong giáo hội giữa tất cả các tín hữu được mời gọi làm cho ân sủng bí tích sinh nhiều hoa trái, dưới sự dẫn dắt của các Mục tử hợp pháp. Chúng cho thấy khả năng thực sự để sống và phát triển ơn gọi kitô hữu[99]. Các hồng ân đặc sủng này giúp các tín hữu sống chức vụ tư tế chung của Dân Thiên Chúa trong đời sống hằng ngày: như “những môn đệ của Chúa Kitô, chuyên chăm cầu nguyện và ca ngợi Thiên Chúa, (x. Cv 2,42-47), các tín hữu phải hiến dâng đời mình như của lễ hy sinh sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa (x. Rm 12,1), làm chứng về Chúa Kitô trên khắp cùng cõi đất, và trả lời cho bất cứ ai muốn chất vấn về niềm hy vọng đạt được sự sống đời đời nơi chính mình (x. 1Pr 3,15)”[100]. Trong viễn tượng này, có những hiệp hội trong Giáo Hội tìm được ý nghĩa đặc biệt cho đời sống Kitô hữu trong hôn nhân, các hiệp hội này có thể “bằng lý thuyết hay hành động, nâng đỡ đức tin cho thanh thiếu niên và các đôi vợ chồng, nhất là những người mới kết hôn, và […] huấn luyện cho họ về đời sống gia đình, xã hội và tông đồ”[101].
b)Trong việc tham dự vào một thực thể đặc sủng, các thừa tác viên có chức thánh cũng có thể tìm được lời mời gọi nhớ lại ý nghĩa của bí tích Rửa Tội đã làm cho họ trở nên con cái Thiên Chúa, cũng như nhớ lại ơn gọi và sứ mạng đặc biệt của mình. Người tín hữu có chức thánh tìm được, trong một hiệp hội của Giáo Hội, sức mạnh và sự trợ giúp rõ rệt để sống triệt để hơn những đòi hỏi của thừa tác vụ đã lãnh nhận, cũng như trong tương quan với toàn thể Dân Chúa, cách riêng trong tương quan với thành phần Dân Chúa được ủy thác cho họ, trong sự vâng phục Đấng Bản Quyền[102]. Một diễn từ tương tự cũng có giá trị đối với các ứng viên chức tư tế thừa tác thuộc một hiệp hội trong Giáo Hội, như Tông Huấn Pastores Dabo Vobis[103] của hậu thượng hội đồng các giám mục khẳng định; một tương quan như thế cần được diễn tả qua việc sẵn sàng đón nhận một sự huấn luyện đặc biệt, bằng cách mang lại sự phong phú từ đặc sủng đã lãnh nhận. Cuối cùng, sự trợ giúp mục vụ mà vị linh mục mang lại cho hiệp hội, theo đặc điểm của phong trào, được thực hiện trong khi tuân thủ “định chế”(regimen) đã được thiết lập trong sự hiệp thông giáo hội, liên quan tới việc nhập tịch[104](incardination) và vâng phục đấng bản quyền[105].
c) Sự đóng góp của hồng ân đặc sủng vào chức tư tế chung và vào chức tư tế thừa tác được diễn tả rõ ràng qua đời sống thánh hiến; đời sống này, tự nó, nằm trong chiều kích đặc sủng của Giáo Hội[106]. Đặc sủng vốn làm cho chúng ta nên “đồng hình đồng dạng đặc biệt với Chúa Kitô khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục”[107]như một hình thức sống vững chắc [108]nhờ khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm, được ban tặng để “có thể thu lượm được hoa trái dồi dào hơn từ ân sủng của phép rửa”[109]. Linh đạo của các Tu hội đời sống thánh hiến có thể trở thành nguồn lực có ý nghĩa giúp giáo dân cũng như linh mục sống ơn gọi riêng của mình. Hơn nữa, không ít  thành viên các Tu hội đời sống thánh hiến, với sự ưng thuận cần thiết của bề trên,[110]có thể tìm thấy trong tương quan với các hiệp hội mới sự nâng đỡ quan trọng để sống ơn gọi riêng của mình, và đến lượt mình, cống hiến một “chứng tá vui tươi, trung thành và về đặc sủng của đời sống thánh hiến”, nhờ thế tạo nên một sự “phong phú hóa hỗ tương”[111].
d) Sau cùng, điều đáng lưu ý là Huấn Quyền cũng khuyến khích các thừa tác viên có chức thánh sống tinh thần của các lời khuyên Phúc Âm[112]. Đời sống độc thân, đòi buộc đối với các linh mục thuộc truyền thống la tinh đáng kính[113], được trình bày rõ ràng theo hướng hồng ân đặc sủng; trước hết nó không thuộc chức năng, nhưng trình bày“sự đồng hình đồng dạng cách đặc biệt với lối sống của chính Chúa Kitô”[114], trong đó, thể hiện việc toàn hiến cho sứ mạng đã lãnh nhận qua bí tích Truyền Chức Thánh[115].
Các hình thức thừa nhận của Giáo Hội
23. Văn kiện này có ý định làm sáng tỏ khía cạnh thần học và giáo hội học liên quan đến các hiệp hội mới trong Giáo Hội dưới ánh sáng của mối tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng, bằng cách giúp cho việc nhận diện cụ thể các dạng thức thích hợp nhất trong việc thừa nhận của Giáo Hội. Bộ Giáo Luật hiện hành trù liệu các hình thức pháp lý khác nhau để thừa nhận các thực thể mới trong Giáo Hội phát xuất từ các hồng ân đặc sủng. Các hình thức này cần phải được xem xét kỹ lưỡng[116], tránh các hình thức không quan tâm đúng đắn tới các nguyên tắc luật căn bản, bản chất và tính đặc thù của các thực thể đặc sủng khác nhau.
Từ quan điểm về mối tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và đặc sủng, cần tôn trọng hai tiêu chuẩn căn bản không thể tách biệt nhau: a) tôn trọng nét riêng về đặc sủng của các hiệp hội trong các Giáo Hội địa phương, tránh những trói buộc pháp lý bóp nghẹt sự mới mẻ phát sinh từ kinh nghiệm chuyên biệt. Như thế, tránh được nguy cơ xem các đặc sủng đa dạng như các nguồn lực không đáng kể trong Giáo Hội; b) tôn trọng các “định chế” (regimen) nền tảng trong Giáo Hội khi giúp cho các hồng ân đặc sủng tháp nhập hữu hiệu vào đời sống của Giáo Hội phổ quát cũng như địa phương, đồng thời tránh việc coi một thực thể đặc sủng nào đó như một thực thể song song với đời sống Giáo Hội, mà không có sự qui chiếu mang tính hữu cơ vào các hồng ân phẩm trật.
KẾT LUẬN
24.Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần được ban tràn đầy trên các môn đệ đầu tiên, đồng tâm và chuyên cần cầu nguyện cùng với Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu (x. Cv 1,14). Đức Trinh Nữ Maria đã đón nhận các trọn hảo và làm cho các ân sủng đặc biệt sinh nhiều hoa trái, các ân sủng mà Ba Ngôi Chí Thánh đã ban cho Mẹ cách dư tràn: trước hết là hồng ân được làm Mẹ Thiên Chúa. Mọi con cái của Giáo Hội có thể chiêm ngưỡng sự thuần phục trọn vẹn của Mẹ đối với hoạt động của Chúa Thánh Thần; một sự thuần phục hoàn toàn trong đức tin và trong sự khiêm nhường thuần khiết. Như thế, Mẹ Maria đã làm chứng cách tuyệt hảo về sự đón nhận đầy vâng phục và trung thành mọi ân huệ của Chúa Thánh Thần. Hơn nữa, như Công Đồng Vatican II dạy, tình mẫu tử của Đức Trinh Nữ Maria khiến Mẹ“quan tâm đến anh em của Con mình, những đứa con vẫn còn đang lữ thứ trên trần gian, giữa vòng vây của nguy hiểm và thử thách, cho tới lúc chúng được đưa vào cõi vinh phúc”[117]. Bởi vì Mẹđã để cho Chúa Thánh Thần dẫn dắt trên hành trình đức tin, hướng tới sứ mạng phục vụ và sinh hoa kết trái”, ngày nay, chúng ta cũng “hướng về Mẹ để Mẹ giúp chúng ta loan báo sứ điệp cứu độ cho mọi người và để các môn đệ mới trở thành các người rao giảng Tin Mừng”[118]. Vì thế, Đức Maria được nhìn nhận là Mẹ Giáo Hội và chúng ta chạy đến cùng Mẹ với đầy lòng tin tưởng, để nhờ sự giúp đỡ hữu hiệu và chuyển cầu đắc lực của Mẹ, các đặc sủng đã được Chúa Thánh Thần ban phát dư tràn cho các tín hữu, được họ đón nhận cách nhiệt tâm và làm sinh hoa kết trái cho đời sống và sứ mạng của Giáo Hội cũng như cho thiện ích của thế giới.
Đức Thánh Cha Phanxicô, trong buổi yết kiến dành cho Đức Hồng Y Bộ trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin, ngày 14 tháng Ba năm 2016, chuẩn nhận Thư đã được thông qua trong Phiên Họp khoáng đại của Bộ, và truyền cho công bố.
 Ban hành tại Rôma, từ Văn Phòng Bộ Giáo Lý Đức Tin, ngày 15 tháng 5 năm 2016, dịp Lễ Hiện Xuống.
Hồng Y Gerhard Müller
Bộ Trưởng
                                                                                                       
Luis F. Ladaria, S.I.,
                                                                                                Tổng Giám Mục hiệu tòa Thibica,
                                                                                                                   Thư Ký
 
 
 
 

[1] CONC.ŒCUM. VAT.II, Const. Dogm. Lumen gentium, 4.
[2] JEAN CHRYSTOSTOME, Bài giảng dịp lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, II, 1- PG 55, 464 SC 561.
[3] FRANÇOIS, Tông Huấn Evangelii gaudium, (24-11-2013) 49 : AAS 105 (2013), 1040 ; La Documentation catholique 2513 (2014), trang 20.
[4] Cf. ibid., 20-24 : AAS 105 (2013), 1028-1029 ; La Documentation catholique 2513 (2014), trang 12-13.
[5] Cf. ibid., 14 : AAS 105 (2013), 1025 ; La Documentation catholique 2513 (2014), trang 11.
[6]Ibid., 25 : AAS 105 (2013), 1030 ; La Documentation catholique 2513 (2014), trang 13.
[7] CONC.ŒCUM. VAT.II, Décr. Apostolicam actuositatem, 19.
[8] FRANÇOIS, Tông Huấn Evangelii gaudium,14 : AAS 105 (2013), 1026 ; La Documentation catholique 2513 (2014), trang 11. Cf. BENOIT XVI, bài giảng trong buổi khai mạc hội đồng chung của hàng giám mục Châu Mỹ-Latinh và Caraibes, trong nguyện đường Notre Dame de la Conception d’Aparecida » (13-05-2007), ASS 99 (2007) số 43 ; La Documentation catholique 104 (2007), trang 530.
[9] JEAN-PAUL II, Bài nói chuyện với các phong trào trong Giáo Hội và các cộng đoàn mới, trong đêm Vọng lễ Chúa Thánh Phần Hiện Xuống (30-05-1998), 7 : Insegnamenti di Giovanni Paolo II, XXI, 1 (1998), 1123, La Documentation catholique 95 (1998), trang 625.
[10]Ibid. 6 : Insegnamenti di Giovanni Paolo II, XXI, 1(1998), 1122 ;
[11] Ibid. 8: Insegnamenti XXI,1 (1998), pp. 1124.
[12]« Tuy nhiên có sự khác biệt giữa các ân sủng » (1Cr 12,4) ; « Có những ân sủng  khác nhau” (Rm 2,6); « mỗi người nhậnơn riêng do Chúa ban, kẻ thế này, người thế kia” (1Cr 7,7).
[13] Trong tiếng Hy Lạp, hai từ chárisma cháris có cùng nguồn gốc.
[14] X. ORIGENE, De principiis, I, 3, 7: PG 11, pp. 153: “những gì đến từ Chúa Thánh Thần, được ban cho qua công trình Chúa Con và được tạo ra bởi Chúa Cha”.
[15]BASILE DE CESAREE, Regulae fusius Tractae, 7,2 : PG 31, 933-934.
[16]“Ai nói tiếng lạ tự xây dựng chính mình, nhưng ai nói tiên tri thì xây dựng Giáo Hội” (1 Cr 14,4). Thánh Tông Đồ không bác bỏ ơn nói tiếng lạ (glossolalia), một đặc sủng cầu nguyện hữu ích cho mối tương quan cá vị với Thiên Chúa, và ngài thừa nhận đó là một đặc sủng chân chính, dù không trực tiếp có ích lợi cộng đồng: Tôi cảm tạ Thiên Chúa vì tôi đã nói tiếng lạ hơn bất cứ ai trong anh em, nhưng trong Giáo Hội, tôi chẳng thà nói năm ba thứ tiếng có thể hiểu được để dạy dỗ kẻ khác, hơn là nói mười ngàn chữ tiếng lạ” (1Cr 14,18-19).
[17]1Cr 12,28: “Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác, để quản trị, để nói các thứ tiếng lạ”.
[18]Trong các tụ họp cộng đồng, việc có quá dư các biểu hiện đặc sủng có thể tạo ra khó khăn, tạo ra bầu khí tranh chấp, mất trật tự và hỗn độn. Những Kitô hữu ít hồng ân hơn có nguy cơ rơi vào mặc cảm tự ti (x. 1Cr 12,15-16); trong khi ấy, những người có nhiều đặc sủng dễ bị cám dỗ có những dáng bộ tự cao tự đại (x. 1Cr 12,21).
[19]Nếu trong cộng đoàn, không tìm thấy ai có khả năng giải thích các từ ngữ lạ lùng của người nói tiếng lạ, thì Thánh Phaolô dạy những người nói tiếng lạ nên giữ im lặng. Nếu có người biết giải thích, Thánh Phaolô cho phép hai, hay nhiều nhất ba người nói tiếng lạ (x. 1Cr 14,27-28).
[20]Thánh Phaolô không chấp nhận ý niệm linh hứng tiên tri không kiềm chế; thay vào đó, ngài quả quyết rằng: “Ngôn sứ thì làm chủ những cảm hứng tiên tri của mình, bởi vì Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa gây hỗn loạn, nhưng là Thiên Chúa tạo bình an” (1Cr 14,32-33). Ngài quả quyết rằng: “Nếu ai tưởng mình là ngôn sứ hoặc được Thần Khí linh hứng, thì hãy nhìn nhận rằng các điều tôi viết đây là mệnh lệnh của Chúa. Ai không nhận biết điều ấy, thì cũng không được Chúa biết đến” (1Cr 14,37-39). Tuy nhiên, ngài kết luận một cách tích cực khi mời gọi họ hãy khao khát ơn nói tiên tri và đừng ngăn cấm nói các tiếng lạ (x. 1Cr 14,39).
[21]Đức Giáo Hoàng PIÔ XII, Thông Điệp Mystici Corporis (29 tháng 6, 1943): AAS 35 (1943), pp. 206-230.
[22]CÔNG ĐỒNG VATICAN II, Hiến chế Lumen Gentium, các số 4, 7, 11, 12, 25, 30, 50; Hiến chế Dei Verbum, số 8; Sắc lệnh Apostolicam Actuositatem, các số 3, 4, 30; Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis, các số 4, 9.
[23]Hiến chế Tín Lý Lumen Gentium, số 4.
[24] Ibid., 12
[25]CÔNG ĐỒNG VATICAN II, Sắc lệnh Apostolicam Actuositatem, số 3: “Ðể thể hiện việc tông đồ này, Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hóa dân Chúa qua tác vụ và các bí tích, cũng ban cho các tín hữu những ơn đặc biệt (x. 1Cr 12,7), "phân phát những ơn đó cho mọi người tùy ý Ngài’ (1Cr 12,11) để mỗi người tùy theo ơn đã nhận mà giúp đỡ nhau và chính họ trở nên như ‘những người quản lý trung tín giữ mọi thứ ơn của Thiên Chúa’ (1Pr 4,10) hầu xây dựng toàn thân trong đức ái (x. Ep 4,16)”.
[26]Ibid.,
[27]CÔNG ĐỒNG VATICAN II, Hiến chế Lumen Gentium, số 12: “Những vị thủ lãnh trong Giáo Hội có thẩm quyền phán quyết về tính cách chân chính và sự sử dụng hợp lý các ơn lạ ấy; các ngài có nhiệm vụ đặc biệt phải khảo sát tất cả, không phải để dập tắt Thánh Thần, nhưng để giữ lại những điều thiện hảo (x. 1Th 5,12.19-21)”. Dù câu trích dẫn trên đây liên quan tới việc biện phân các hồng ân ngoại thường, nhưng do loại suy, điều nói ở đây cũng áp dụng chung cho mọi đặc sủng.
[28]Thí dụ: x. Đức Giáo Hoàng PHAOLÔ VI, Tông Huấn Evangelii nuntiandi (8 tháng 12, 1975), số 58: AAS 68 (1976), pp. 46-49; THÁNH BỘ CÁC VIỆN TU DÒNG VÀ TU TRIỀU – THÁNH BỘ GIÁM MỤC, Chỉ thị Mutuae relationis (14 tháng 5, 1978): AAS 70 (1978), pp. 473-506; ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Christifideles Laici (30 tháng 12, 1988): AAS 81 (1989), pp. 393-521; Tông huấn Vita Consecrata (25 tháng 3, 1996): AAS 88 (1996), pp. 377-486.
[29]Lời quả quyết của văn kiện liên bộ nói trên, tứcMutuae relationes, khá điển hình. Trong đoạn 34, văn kiện này nhấn mạnh:“Sẽ là một sai lầm nghiêm trọng khi biến hai thực tại: đời sống tu dòng và cơ cấu Giáo Hội, độc lập với nhau, hay đặt chúng đối nghịch nhau như thể chúng hiện tồn như hao thực thể xa lạ, một có tính đặc sủng, một có tính định chế. Cả hai yêu tố, tức các hồng ân thiêng liêng và cơ cấu Giáo Hội tạo nên một thực tại duy nhất, cho dù phức tạp”.
[30]Đức Giáo Hoàng GIOAN PHAOLÔ II, Sứ điệp gửi các tham dự viên Hội Nghị Thế Giới các Phong Trào Giáo Hội được Hội Đồng Giáo Hoàng về Giáo Dân cổ vũ(27 tháng 5 năm 1998), số 5: Insegnamenti XXI,1(1998), 1065; Cũng nên xem: Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Các Phong Trào Giáo Hội tụ họp dự hội nghị chuyên đề quốc tế(2 tháng 3 năm 1987): Insegnamenti 10/1 (1987), pp. 476-479.
[31]Đức Giáo Hoàng BENEDICTO XVI, Diễn văn trước các tham dự viên về hành hương được huynh đoàn Hiệp Thông và Giải Phóng cổ vũ(24 tháng 3 năm 2007): Insegnamenti III,1(2007), p. 558.
[32]“Hành trình với nhau trong Giáo Hội, dưới sự hướng dẫn của các mục tử Giáo Hội có đặc sủng và thừa tác vụ đặc biệt, là dấu chỉ hành động của Chúa Thánh Thần. Có một cảm thức về Giáo Hội là một điều nền tảng đối với mọi Kitô hữu, mọi cộng đồng và mọi phong trào”: ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICÔ, Bài giảng trong Lễ Trọng Hiện Xuống(19 tháng 5 năm 2013): Insegnamenti I(2013), p. 208.
[33]Đức Giáo Hoàng PHANXICÔ, Buổi tiếp kiến chung(1 tháng 10 năm 2014): L’Osservatore Romano (2 tháng 10 năm 2014), p. 8.
[34]x.Ga 7,39; 14,26; 15,26; 20,22.
[35]THÁNH BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN,  Dominus Iesus (6 tháng 8, 2000), số 9-12: AAS 92 (2000), pp. 749-754.
[36]THÁNH IRENÉE THÀNH LYON, Adversus haereses, IV, 7, 4: PG 7, pp. 992-993; V, 1, 3: PG 7, p. 1123; V, 6, 1: PG 7, p. 1137; V, 28, 4: PG 7, p. 1200, SC XXX.
[37]THÁNH BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN,  Dominus Iesus, số 12: AAS 92 (2000), pp. 752-754.
[38]Đức Giáo Hoàng GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Dominum et Vivificantem (18 tháng 5, 1986), số 50: AAS 78 (1986), pp. 896-870; Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, số 727-730.
[39]Đức Giáo Hoàng BENEDICTO XVI, Tông huấn Sacramentum Caritatis (22 tháng 2 năm 2007), số 12: AAS 99 (2007), p. 114.
[40]x. Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, số 1104-1107.
[41]Đức Giáo Hoàng GIOAN PHAOLÔ II, Diễn Văn với những người thuộc các phong trào Giáo Hội và các cộng đồng mới ngày Vọng Lễ Hiện Xuống (30 tháng 5 năm 1998), số 7: Insegnamenti XXI, 1 (1998), p. 1123.
[42]Thánh EPHREM SYRIA, Các Thánh Ca về đức tin, 10, 12: CSCO 154, 50.
[43]Thánh CYPRIANO THÀNH CARTHAGE, De oratione dominica, 23: PL 4, pp. 553; x. CÔNG ĐỒNG VATICAN II, Hiến chế Lumen Gentium, số 4.
[44]CÔNG ĐỒNG VATICAN II, Sắc lệnh Unitatis Redintegratio, số 2.
[45]x. THÁNH BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Dominus Iesus, số 16: AAS 92 (2000), p. 757: “Sự viên mãn của mầu nhiệm cứu rỗi của Chúa Kitô cũng thuộc về Giáo Hội, vốn kết hợp bất khả phân với Chúa của mình”.
[46]Đức Giáo Hoàng, Bài Giáo Lý (8 tháng 6 năm 1966): Insegnamenti VI (1966), p. 794.
[47]CÔNG ĐỒNG VATICAN II, Hiến chế Lumen Gentium, số 1.
[48]KỲ HỌP TOÀN THỂ ĐẶC BIỆT LẦN THỨ HAI THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC, Ecclesia sub Verbo mysteria Christi celebrans pro salute mundi (Giáo Hội dưới Ngôi Lời, mầu nhiệm Chúa Kitô cử hành để cứu rỗi thế gian). Phúc trình sau cùng (7 tháng 12 năm 1985), II, C, 1: Enchiridion Vaticanum, 9, 1800; x. THÁNH BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Communionis Notio (28 tháng 5, 1992), số 4-5: AAS 85 (1993), pp. 839-841.
[49]x. Đức Giáo Hoàng BENEDICTO XVI, Tông huấn Verbum Domini (30 tháng 9, 2010), số 54: AAS 102 (2010), pp. 733-734; Đức Giáo Hoàng PHANXICÔ, Tông huấn Evangelii Gaudium, số 174: AAS 105 (2013), pp. 1092-1093.
[50]x. Thánh BASILIO THÀNH CESAREA, De Spiritu Sancto, 26: PG 32, p. 181.
[51]J.H. NEWMAN, Sermons Bearing on Subjects of the Day, London 1869, p. 132.
[52]Lời khẳng định điển hình về vấn đề này liên quan tới Đời Sống Thánh Hiến có thể tìm thấy trong giáo huấn của Đức Gioan Phaolô II, Bài Giáo Lý (28 tháng 9 năm 1994), 5: Insegnamenti XVII, 2 (1994), pp. 404-405.
[53]CÔNG ĐỒNG VATICAN II, Hiến chế Lumen Gentium, số 7.
[54]Ibid., 21
[55]Ibid.,
[56]Ibid.,
[57]Thánh BASILIO THÀNH CESAREA, De Spiritu Sancto, 16, 38: PG 32, p. 137
[58]CÔNG ĐỒNG VATICAN II, Hiến chế Lumen Gentium, số 28.
[59]CÔNG ĐỒNG VATICAN II, Sắc lệnh Presybyterium Ordinis, số 2.
[60]CÔNG ĐỒNG VATICAN II, Hiến chế Lumen Gentium, số 29.
[61]Ibid.,
[62]CÔNG ĐỒNG VATICAN II, Hiến chế Gaudium et Spes, các số 4, 11.
[63]Đức Giáo Hoàng GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Christifideles Laici, số 24: AAS 81 (1989), p. 434.
[64]x. Ibid., 29: AAS 81 (1989), pp. 443-446.
[65]x. CÔNG ĐỒNG VATICAN II, Hiến chế Lumen Gentium, số 12.
[66]Đức Giáo Hoàng GIOAN PHAOLÔ II, Bài Giáo Lý (9 tháng 3 năm 1994), số 6: InsegnamentiXVII,1 (1994), p. 641.
[67]x. Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, số 799 tt; THÁNH BỘ CÁC VIỆN ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN VÀ CÁC HỘI ĐỜI SỐNG TÔNG ĐỒ, Mutuae Relationes, số 51: AAS 70 (1978), pp. 499-500; Đức Giáo Hoàng GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Vita Consecrata, số 48: AAS 88 (1996), pp. 421-422; Đức Giáo Hoàng GIOAN PHAOLÔ II, Bài Giáo Lý (24 tháng 6 năm 1992), số 6: InsegnamentiXV,1 (1992), pp. 1935-1936.
[68]x. CÔNG ĐỒNG VATICAN II, Hiến chế Lumen Gentium, số 39-42; Đức Giáo Hoàng GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Christifideles Laici, số 30: AAS 81 (1989), p. 446.
[69]Đức Giáo Hoàng PHANXICÔ, Tông huấn Evangelii Gaudium, số 130: AAS 105 (2013), p. 1074.
[70]Đức Giáo Hoàng GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Christifideles Laici, số 30: AAS 81 (1989), p. 447; x. Đức Giáo Hoàng PHAOLÔ VI, Tông huấn Evangelii Nuntiandi, số 58: AAS 68 (1976), p. 49.
[71]Đức Giáo Hoàng GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Christifideles Laici, số 30: AAS 81 (1989), pp. 446-447.
[72]Đức Giáo Hoàng PHANXICÔ, Bài Giảng Lễ Hiện Xuống (19 tháng 5 năm 2013): Insegnamenti I (2013), p. 208.
[73]Đức Giáo Hoàng GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Christifideles Laici, số 30: AAS 81 (1989), p. 447; x. Đức Giáo Hoàng PHAOLÔ VI, Tông huấn Evangelii Nuntiandi, số 58: AAS 68 (1976), p. 48.
[74]Đức Giáo Hoàng GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Christifideles Laici, số 30: AAS 81 (1989), pp. 47.
[75]Ibid.,: AAS 81 (1989), p. 448.
[76]x. Ibid.,: AAS 81 (1989), p. 447.
[77]Đức Giáo Hoàng PHANXICÔ, Tông huấn Evangelii Gaudium, số 130: AAS 105 (2013), pp. 1074-1075.
[78]THÁNH BỘ CÁC VIỆN ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN VÀ CÁC HỘI ĐỜI SỐNG TÔNG ĐỒ, Chỉ thị Mutuae Relationes, số 12: AAS 70 (1978), pp. 480-481; x. Đức Giáo Hoàng GIOAN PHAOLÔ II, Diễn Văn Dịp gặp Các Phong Trào Giáo Hội và Cộng Đồng Mới ngày Vọng Lễ Hiện Xuống (30 tháng 5 năm 1998), số 6: Insegnamenti XXI,1 (1998), p. 1122.
[79]Đức Giáo Hoàng PHAOLÔ VI, Tông huấn Evangelii Nuntiandi, số 58: AAS 68 (1976), p. 48.
[80]x. Đức Giáo Hoàng PHANXICÔ, Tông huấn Evangelii Gaudium, số 174-175: AAS 105 (2013), pp. 1092-1093.
[81]Đức Giáo Hoàng GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Christifideles Laici, số 30: AAS 81 (1989), p. 448.
[82]Đức Giáo Hoàng PHANXICÔ, Tông huấn Evangelii Gaudium, số 177: AAS 105 (2013), p. 1094.
[83]Đức Giáo Hoàng GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Christifideles Laici, số 30: AAS 81 (1989), p. 448.
[84]Ibid.,
[85]x. Đức Giáo Hoàng PHANXICÔ, Tông huấn Evangelii Gaudium, số 184, 221: AAS 105 (2013), pp. 1097, 1110-1111.
[86]Ibid., số 186: AAS 105 (2013), p. 1098.
[87]THÁNH BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Communionis Notio, số 7: AAS 85 (1993), pp. 846-848..
[88]Ibid., số 9: AAS 85 (1993), p. 843.
[89]CÔNG ĐỒNG VATICAN II, Hiến chế Lumen Gentium, số 23.
[90]Sắc lệnh Christus Dominus, số 11.
[91]Ibid., 2:THÁNH BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Communionis Notio, số 13-14: AAS 85 (1993), p. 842.
[92]Sắc lệnh Christus Dominus, số 11.
[93]x. Ibid., số 35; Bộ Giáo Luật,điều 591; Bộ Giáo Luật Đông Phương, điều 412, §2; THÁNH BỘ CÁC VIỆN ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN VÀ CÁC HỘI ĐỜI SỐNG TÔNG ĐỒ, Chỉ thị Mutuae Relationes, số 22: AAS 70 (1978), p. 487.
[94]x. THÁNH BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Communionis Notio, số 15: AAS 85 (1993), pp. 847.
[95]x. CÔNG ĐỒNG VATICAN II, Hiến chế Dei Verbum, số 8; Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, số 888-892.
[96]CÔNG ĐỒNG VATICAN II, Hiến chế Dei Verbum, số 8.
[97]Ibid; Hiến chế Lumen Gentium, số 10.
[98]Đức Giáo Hoàng GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Pastores Gregis (16 tháng 10 năm 2003), số 10: AAS 96 (2004), p. 838.
[99]x. Đức Giáo Hoàng GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Christifideles Laici, số 29: AAS 81 (1989), pp. 443-446.
[100]CÔNG ĐỒNG VATICAN II, Hiến chế Lumen Gentium, số 10.
[101]CÔNG ĐỒNG VATICAN II, Hiến chế Gaudium et Spes, số 52; x. Đức Giáo Hoàng GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấnFamiliaris Consortio (22 tháng 11 năm 1981), số 72: AAS 74 (1982), pp. 169-170.
[102]x. Đức Giáo Hoàng GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Pastores Dabo Vobis (25 tháng 3 năm 1992), số 68: AAS 84 (1992), p. 777.
[103]x. Ibid., số 31, 68: AAS 84 (1992), pp. 708-709, 775-777.
[104]x. Bộ Giáo Luật, điều 265; Bộ Giáo Luật Đông Phương, điều 357, §1.
[105]x. Bộ Giáo Luật,điều 273; Bộ Giáo Luật Đông Phương, điều 370.
[106]THÁNH BỘ CÁC VIỆN ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN VÀ CÁC HỘI ĐỜI SỐNG TÔNG ĐỒ, Chỉ thị Mutuae Relationes, số 19, 34: AAS 70 (1978), pp. 485-486, 493.
[107]Đức Giáo Hoàng GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Vita Consecrata, số 31: AAS 88 (1996), pp. 404-405.
[108]x. CÔNG ĐỒNG VATICAN II, Hiến chế Lumen Gentium, số 43.
[109]Ibid., số 44; x. Sắc lệnh Perfectae Caritatis, số 5; Đức Giáo Hoàng GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Vita Consecrata, số 14, 30: AAS 88 (1996), pp. 387-388, 403-404.
[110]x. Bộ Giáo Luật, điều 307, §3; Bộ Giáo Luật Đông Phương, điều 578, §3.
[111]THÁNH BỘ CÁC VIỆN ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN VÀ CÁC HỘI ĐỜI SỐNG TÔNG ĐỒ, Chỉ thị Ripartire Da Cristo (19 tháng 5 năm 2002), số 30: Enchiridion Vaticanum, 21, 472.
[112]x. Đức Giáo Hoàng GIOAN PHAOLÔ II,Tông huấn Pastores Dabo Vobis, số 27-30: AAS 84 (1992), pp. 700-707.
[113]x. Đức Giáo Hoàng PHAOLÔ VI, Thông điệp Sacerdotalis Caelibatus (24 tháng 6 năm 1967): AAS 59 (1967), pp. 657-697.
[114]Đức Giáo Hoàng BENEDICTO XVI, Tông huấn Sacramentum Caritatis, số 24: AAS 99 (2007), p. 124.
[115]x. Đức Giáo Hoàng GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Pastores Dabo Vobis, số 29: AAS 84 (1992), pp. 703-705; CÔNG ĐỒNG VATICAN II, Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis, số 16.
[116]Hình thức pháp lý đơn giản nhất để thừa nhận các thực thể Giáo Hội có bản chất đặc sủng hiện nay dường như là hình thức hiệp hội tư của các tín hữu Kitô (x. Bộ Giáo Luật, điều 321-326; Bộ Giáo Luật Đông Phương, điều 573, §2-583). Tuy nhiên, cũng nên xem xét các hình thức pháp lý khác với các đặc điểm chuyên biệt, như các hiệp hội công của các tín hữu Kitô (x. Bộ Giáo Luật, điều 573-730; Bộ Giáo Luật Đông Phương, điều 573, §1-583), các hiệp hội giáo sĩ của tín hữu Kitô (x. Bộ Giáo Luật, điều 302), các viện đời sống thánh hiến (x. Bộ Giáo Luật, điều 573-730; Bộ Giáo Luật Đông Phương, điều 410-571), các Hội Đời Sống Tông Đồ (x. Bộ Giáo Luật,điều 731-746; Bộ Giáo Luật Đông Phương, điều 572) và các giám hạt tòng nhân (x. Bộ Giáo Luật, điều 294-297).
[117]CÔNG ĐỒNG VATICAN II, Hiến chế Lumen Gentium, số 62.
[118]Đức Giáo Hoàng PHANXICÔ, Tông huấn Evangelii Gaudium, số 287: AAS 105 (2013), p. 1136.
 
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

 

   

LƯỢT XEM TRANG

  • Đang truy cập: 8
  • Hôm nay: 1667
  • Tháng hiện tại: 77213
  • Tổng lượt truy cập: 12221473