Trang mới   https://gpquinhon.org

Lược sử Giáo xứ Mằng Lăng

Đăng lúc: Thứ bảy - 02/02/2013 18:08
GIÁO XỨ MẰNG LĂNG
Bổn mạng: Lễ Thánh Giuse ngày 19-03


 
 
           
           I. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ:


            Giáo Xứ Mằng Lăng thuộc phía Bắc Phú Yên. Phía Bắc giáp giáo xứ Sông Cầu, phía Nam giáp giáo xứ Tuy Hoà, phía Tây giáp giáo xứ Đồng Tre, phía Đông giáp Biển Đông. Phần đất của giáo xứ Mằng Lăng hiện nay bao gồm thị trấn Chí Thạnh và 12 xã của huyện Tuy An: An Thạch, An Cư, An Hiệp, An Hoà, An Mỹ [1], An Ninh Đông, An Ninh Tây, An Dân, An Định, An Nghiệp, An Xuân, An Lĩnh. Trên Quốc lộ IA Từ Bắc vô Nam qua trụ cây số 1300 sẽ gặp cầu Ngân Sơn bắc qua sông Kỳ Lộ, dân địa phương gọi là sông Cái. Qua khỏi cầu Ngân Sơn chừng 600 mét, hoặc nếu từ Nam ra Bắc cách ngã ba Chí Thạnh 02 Km, gặp trụ cây số 1301, đi theo huyện lộ về hướng Đông 1900 mét sẽ đến nhà thờ Mằng Lăng cổ kính thuộc thôn Hội Tín, xã An Thạch. Nét cổ kính của ngôi nhà thờ đã nói lên bề dày lịch sử của giáo xứ.

            II. ĐÔI DÒNG LỊCH SỬ:

            Sách Đại Nam Nhất Thống Chí [2] có ghi: “Đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ 6 [3] đánh Chiêm Thành mở đến đất nầy lấy núi Thạch Bi làm giới hạn, nhưng từ núi cù Mông vào Nam còn thuộc man lèo. Qua triều Nguyễn đời chúa Tiên năm Mậu Dần [4] vua ủy nhiệm ông Lương Văn Chánh làm Trấn Biên Quan, chiêu tập lưu dân đến cù Mông, Bà Đài, khẩn hoang ở Đà Diễn.” Theo đó, ông Lương Văn Chánh làm Trấn Biên Quan nhưng mãi đến năm Kỷ Tỵ 1629, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên mới cho lập Dinh Trấn Biên và giao cho người con rể là Nguyễn Phúc Vinh làm Quan Trấn Thủ. Trong bản đồ Việt Nam gồm Đàng Ngoài và Đàng Trong của cha Đắc Lộ năm 1651 ghi Dinh Trấn Biên là Dinh Phoan, phía trước Dinh là một dòng sông. Ngày nay Dinh Trấn Biên được người địa phương gọi là Thành cũ thuộc thôn Hội Phú, xã An Ninh Tây, cách nhà thờ Mằng Lăng về hướng Đông Bắc chừng 01 km đường thẳng, tất cả Dinh Trấn đã vang bóng một thời xưa, nay chìm sâu dưới nước dòng sông Cái [5].
Vợ Quan Trấn Thủ là Ngọc Liên công chúa, trưởng nữ của chúa Sãi, đã lãnh nhận bí tích rửa tội năm 1636 với tên thánh Maria-Mađalêna. cuộc tòng giáo của bà được sử liệu ghi chép như sau: “ Tại phú Yên lúc ấy xảy ra một cuộc cãi lý giữa một giáo hữu sốt sắng tên là Hiêrônimô, và một nho sĩ ngoại giáo trước mặt Quan Trấn Thủ... Nho sĩ nầy phải đuối lý không trả lời được câu nào... Quan Trấn Thủ rất mộ mến đạo ta, song ông không theo vì ông không thể bỏ được các vợ bé của ông; tuy vậy ông cho bà vợ cả theo đạo, nếu bà muốn. Bà nầy liền tòng giáo và chúng tôi hy vọng bà sẽ làm cho chồng bà trở lại[6]. Sau khi tòng giáo bà lập một nhà nguyện ngay trong Dinh Trấn Biên, hằng ngày nhiều giáo hữu đến đây tham gia việc bác ái và truyền giáo làm cho nhiều người nhận biết Thiên Chúa. Tại Trại Thủy [7] có vợ chồng quan coi cửa biển cũng giữ đạo sốt sắng đều lấy tên thánh là Biển Đức. Ngoài ra còn có ông thầy thuốc danh tiếng, đạo đức, thương người tên là Emmanuel ở tại Hội Phú được nhiều người Qui mến [8].

            Như thế, nhóm giáo hữu đầu tiên ở vùng đất nầy thuộc thành phần một số quan viên dinh trấn, hoặc những di dân phía Bắc đến lập nghiệp theo chủ trương di dân lập ấp [9], và một số người mới đón nhận Tin Mừng được các nhà truyền giáo Dòng Tên rửa tội .

            Trong khoảng 50 năm (1615-1664) những báo cáo thường niên của các nhà truyền giáo Dòng Tên ở Đàng Trong chỉ ghi có 03 cư sở: Hội An, Nước Mặn và Thanh Chiêm. Đây là những trung tâm, từ đó xuất phát đi truyền giáo các vùng lân cận. Như thế, lúc bấy giờ Phú Yên (Ranran) nói chung và vùng Dinh Trấn Biên nói riêng là vùng hoạt động của các nhà truyền giáo đặt cư sở tại Nước Mặn do cha Buzomi làm trưởng đoàn [10].

            Vào một buổi sáng ngày 31/3/1641 [11] cha Đắc Lộ đến cửa biển Bà Đài [12]. Cha được Quan Trấn Thủ tiếp đón và ở lại đây 02 tháng, cha thăm viếng các giáo hữu và đã rửa tội cho Anrê Phú Yên cùng với khoảng 90 người khác tại nhà nguyện trong Dinh Trấn Biên.

            Năm 1642, cha Đắc Lộ trở lại viếng thăm Phú Yên một lần nữa và khi trở về Hội An [13], nơi có trụ sở của Hội Thày Giảng, Ngài đã dẫn theo Anrê Phú Yên. Anrê Phú Yên đã bị bắt, chịu tử đạo vào ngày 26 tháng 7 năm 1644 tại Gò Xử, Thanh Chiêm [14], lúc 19 tuổi, sau 03 năm lãnh nhận Bí tích rửa tội. Năm 1645, cha Đắc-Lộ bị trục xuất vĩnh viễn khỏi Việt Nam. Vị Tử Đạo “Tiên Khởi” của Việt nam là Anrê Phú Yên đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong chân phước vào ngày 05 tháng 3 năm 2000.

            Sau khi các nhà truyền giáo Dòng Tên rời khỏi Đàng Trong (1665), lúc đầu vùng truyền giáo Phú Yên do các Linh mục thừa sai Ba-Lê đảm nhận. Số giáo hữu tăng dần, nhiều giáo điểm có nhà nguyện được thiết lập, nhưng số Thừa Sai còn ít ỏi, không ở cố định một nơi, sự hiện diện của các Thừa Sai chỉ có tính cách vãng lai. Thời điểm 1674-1834, có các Linh mục làm việc tại Phú Yên : [15]
-  Gabriel Bouchard ( s.1636 - t.1682)
-  Jean Baptiste Ausiès de Fonbone (1655-1709)
-  Jean Baptiste Capony (1651-1707)
-  Charles Gouge (1654- 1733)
-  Charles Flory  (...-1720)
-  Nicolas Langellerie (....-1732)
-  Bertrand Azéma (1709-1759)
-  Henri Joseph Freney (1709-1739)
-  Paul Bourgine (1700- ...)
-  Pierre Halbout (...-1788)
-  Jean Arcet (....-1790)
-  Pierre Gire (....-1804)

               Trong bản tóm lược tiểu sử Đức cha Charles Marin Labbé, Giám mục Phó Đàng Trong (1697-1723) cho thấy Ngài đã qua đời và được chôn cất tại nhà thờ chính trong vùng Mằng Lăng  [16] vào ngày 24/03/1723. Đức cha Edmon Bennetat, Giám mục Phó Đàng Trong (1748-1758), trước khi làm Giám mục, cũng đã làm việc tại đây.  Thời gian nầy công cuộc truyền giáo ở Phú Yên được giao cho 2 nhóm thừa sai: Các vùng phía Bắc của tỉnh thuộc quyền Hội Thừa Sai Balê, đặt cư sở tại Chợ Mới  và vùng phía Nam được giao cho các nhà truyền giáo của Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin, đặt cư sở tại Phong-Lua[17]. Năm 1736,  cha Giuseppe Martiali xây dựng tại Phong-Lua một nhà nguyện [18] . Như vậy, cơ sở của hai nhóm đều đặt tại phần đất giáo xứ Mằng Lăng ngày nay. Lúc bấy giờ, đây là trung tâm của công cuộc truyền giáo tỉnh Phú Yên. Lúc bấy giờ, theo kiểm kê của Đức cha Bennetat , tỉnh Phú Yên gồm có 10 Nhà Nguyện và 6 Nhà Thờ [19]. Theo báo cáo của Hội Thừa Sai Paris năm 1747, trong tỉnh Phú Yên có 14 nhà thờ và nhà nguyện, trong đó có những nơi thuộc vùng đất giáo xứ Mằng Lăng ngày nay: Chợ Mới có 200 giáo dân, Thầy Đông 100 giáo dân, Mái Nhà 25 giáo dân, Quán Cau 100 giáo dân. Trong danh sách các linh mục tham dự công đồng Gò Thị năm 1841 có các linh mục làm việc tại Phú Yên: Gioakim Lê Văn Tự, Tôma Phan Văn Tông, Anrê Nguyễn Phước Nguyên, Phaolô Đặng Văn Lợi. Trong danh sách các linh mục bản xứ của vùng truyền giáo có ghi số linh mục xuất thân từ Phú Yên: Cha Thới, cha Hòa, cha Lộc [20], cha Hoàng [21], cha Đạt, cha Hậu [22], cha Cẩm [23]. cũng trong danh sách nầy có các linh mục làm việc tại Phú Yên: Cha Hiền, cha Thọ [24]. Trong báo cáo năm 1850  của Đức cha Stêphanô Thể gởi cho Hội Thừa Sai Ba-Lê Truyền Giáo Hải Ngoại, vùng Mằng Lăng hiện nay có những họ đạo: Chợ Mới 423 giáo dân, Đồng Cháy 243, Lò Giấy 303, Mằng Lăng 154, Thầy Đông 65, Đồng Thổ 72, Diêm Điền 230, An Hòa 123, Suối Môn 168, Quán Cau 194.

               Cách Quán Cau về hướng Nam chừng 07 km có họ đạo Gò Mỹ [25] là nơi cha Phạm Ẩn Sĩ [26] đã làm việc mục vụ trước khi chịu chết vì Đạo tại Thái Nguyên năm 1862 [27]. Thời điểm nầy số linh mục rất hiếm hoi, năm 1867 –1870 một mình cha Gustave Louis Derenne ở Mằng Lăng phụ trách toàn vùng Phú Yên, năm 1870 ngài lâm bệnh, phải đưa về Singapore điều trị nhưng không cứu khỏi, ngài qua đời vào ngày 08/12/1870. Năm 1872, cha Armand Landier đến thay thế. Chẳng may bị một con chó dại cắn, Ngài đã qua đời tại Thầy Đông[28] vào ngày 09-09-1873. cha Mazoyer vừa thụ phong linh mục năm 1881 sau đó đến Quán Cau và bệnh sốt rét đã sớm kết thúc cuộc sống trần thế của ngài tại Quán Cau ngày 06/10/1882 [29]. Một thời gian sau, có cha Iribarne được bổ nhiệm đến làm việc tại Quán Cau.

              Chặng đường dài truyền giáo kể trên như thời gian tung gieo hạt giống chờ ngày mùa tử đạo. Tiền bán thế kỷ 19 với những sắc chỉ cấm đạo triệt để, rồi dây dưa tiếp diễn một thời gian dài. Tín hữu khắp nước thông phần thập giá với Chúa Giêsu đủ trăm ngàn cách. Tại Lò Giấy có chú Tađêo Nghiêm theo giúp Đức cha Stêphanô Thể, chú cùng bị bắt với Đức cha tại nhà bà Lưu và chịu chết vì Đạo tại Gò Chàm, Bình Định năm 1861 [30]. cùng quê Lò Giấy có thầy Phêrô Quờn đã lãnh bốn chức nhỏ, chịu tử đạo ngày 27/06/1862 tại Gò Chàm với hình án giảo quyết [31].  Cao điểm khốc liệt nhất là những ngày tháng của phong trào Văn Thân “Bình Tây Sát Tả”. Tổng kết toàn tỉnh: Trước Văn Thân có 6.890 tín hữu gồm 40 họ đạo, 02 nhà phước, sau Văn Thân còn 1.109 người [32].

               Riêng tại vùng Mằng Lăng:

               Ngày 19/8/1885 cha Iribarne [33] bị sát hại tại Quán Cau, đầu thì treo trên cây, thân mình thì được phân mảnh rồi thiêu đốt [34]. Tại Chợ Mới, cha Bảo cũng đã bị sát hại. Còn Nhà Phước Mằng Lăng thì cha Durand viết: “Mới đây, tại Phú Yên là tỉnh phía Bắc Khánh Hòa, tôi đã thăm cảnh tro tàn thê lương của nhà dòng Mằng Lăng và Hoa Vông. Nhà dòng đầu tiên chỉ còn lại hai nữ tu chuyên đi rửa tội, đã may mắn vắng mặt lúc đám quân sát nhân tới bao vây giáo họ[35]. Cam chịu, phó thác, các nhóm tín hữu trong vùng Mằng Lăng đồng chịu số phận, những kỳ tích các nơi còn vang tiếng: Lò Giấy, Phú Sơn, Cầu Nhánh, Núi Một, Mằng Lăng, Soi Giữa, Thầy Đông.

            Sau phong trào Văn Thân, đầu năm 1887 Đức chaVan Calmelbecke bổ nhiệm cha Guitton cùng 02 cha phụ tá: Cha Gioakim Đạt và cha Phêrô Huề đến Phú Yên. Cha Guitton phụ trách phía Tây [36], 02 cha phụ tá phụ trách phía Nam [37]. Sau ngày 10/04/1888 cha Lacassagne được bổ nhiệm đến Phú Yên với chức năng quản nhiệm toàn vùng truyền giáo Phú Yên, ngài được tự do chọn Hoa Vông hoặc Mằng Lăng làm trụ sở. Ngài đã chọn Mằng Lăng.

              Tháng 09/1888 Đức cha Van Camelbecke chia Phú Yên làm 02 vùng: Cha Guitton phụ trách vùng Nam Phú Yên có cha phụ tá người Việt Nam là cha Đạt đặt cư sở tại Hoa Vông. Cha Lacassagne phụ trách vùng phía Bắc đặt cư sở tại Mằng Lăng, có cha Huề [38] làm phụ tá ở tại Cây Gia. Năm 1893 cha Giuse Trần Nhi về thay thế cha Huề, hơn 04 tháng sau cha Antôn Bản thay cho cha Nhi. Năm 1895 cha Bản về Gò Duối, cha Wendling đảm nhiệm vùng Miền Núi Phú Yên. Năm 1897 cha F.x Hương về Gò Duối thay cha Bản, năm 1898 cha Phêrô Cao thay cho cha Hương [39]. Như thế mùa gặt tử đạo đã qua và những giọt máu tử đạo đã trở nên những hạt giống mới trổ sinh nhiều hoa trái.

              1. Linh mục Joseph Lacassagne [40]:

              Đến Mằng Lăng năm 1888. Hai năm sau có 564 người lớn lãnh nhận bí tích rửa tội, 162 em được rửa tội trong trường hợp nguy tử. Ngài vừa ổn định đời sống giáo dân vừa lo công việc truyền giáo, xây dựng lại Phước Viện Mằng Lăng, lập Cô Nhi Viện giao cho 2 nữ tu người bản xứ chăm sóc. Năm 1892, cha Lacassagne khởi công xây dựng ngôi thánh đường Mằng Lăng hiện nay. Năm 1896, Phú Yên được chia thành 03 giáo xứ [41] giao cho 03 Thừa Sai: Giáo xứ vùng Phía Nam giao cho cha Dubulle, Miền Núi giao cho cha Wendling và vùng phía Bắc cha Lacassagne đảm nhiệm [42], như thế từ đây ta có thể gọi Mằng Lăng như là một giáo xứ, và là giáo xứ trung tâm của Phú Yên, những sinh hoạt chung của các linh mục như tịnh tâm đều tập trung về đây. Khi công việc xây dựng ngôi thánh đường còn đang dang dỡ, ngài bất ngờ lâm trọng bệnh và mất tại bệnh viện Quân Đội ở ĐàNẵng vào ngày 01/8/1900, lúc 44 tuổi. Hài cốt được cải táng đem về chôn cất trong Thánh đường Mằng Lăng hiện nay.

              2. Linh mục Antoine Joseph Louis Edmon Wendling [43]:

              Cha Wendling về làm cha sở Mằng Lăng năm 1901. Năm 1903 có 2.555 tín hữu trong 19 giáo điểm. Số người tòng giáo rất đông nhưng số tín hữu không gia tăng vì những trận sốt rét đã cướp đi nhiều nhân mạng. Năm 1906 số tín hữu chỉ còn trên dưới 2.360 người. Ngài tiếp tục công trình xây dựng Nhà thờ của cha Lacassagne, khánh thành vào ngày 14 tháng 4 năm 1907. Nhà thờ có hai tháp chuông với 03 chuông lớn nhỏ, ngày 30/5/1905 thầy Cách đã đến cửa biển Tiên Châu đưa chuông lớn [44] về Mằng Lăng. Đức cha Grangeon đến khánh thành, Đức cha ngỏ lời khen ngợi ‘ước gì đem được về Bình Định để làm nhà thờ Chính Toà cho giáo Phận...[45]. Liền kề sau nhà thờ là nhà vuông có hè rộng tứ hướng được chia làm 03 gian thoáng mát tồn tại cho đến ngày nay.

            Bên cạnh nhà thờ có nhà lẫm kiên cố [46], tường dày 60 phân, sau năm 1975 nhà lẫm hoàn toàn được san bằng. Nhờ nguồn thu từ số ruộng đất trên 200 mẫu ta, nên sau khi hoàn thành nhà thờ, ngài lập lệ phát chẩn hằng tháng cho các gia đình nghèo. Những người mới lập gia đình, ngài cấp đất làm nhà. Các Chức Việc phục vụ giáo xứ cũng được cha phụ cấp hằng năm. Những việc làm nầy được các cha sở kế nhiệm tiếp tục cho đến năm 1945. Năm 1918, vì lâm bệnh cha Wendling phải trở về Pháp để chữa trị và qua đời ngày 03 tháng 12 năm 1923, lúc 46 tuổi.

              3. Linh mục Marius Julien Jean [47]:

               Cha Jean về làm cha sở Mằng Lăng từ tháng 05/1919 đến tháng 12/1926. Năm Giáp Tý (1924), có trận bão lớn làm sụp đổ tầng mái cổ lầu nhà thờ, cha làm lại phần mái hạ thấp xuống gần 2m như hiện nay.

               4. Linh mục Jean Marie François Porcher [48]:

               Ngài đến Mằng Lăng vào tháng 02 năm 1927 và ở đây được 15 tháng, ngài là vị thừa sai cuối cùng ở đây. Vào tháng 6 năm 1928, Đức cha Tardieu Quiết định giao giáo xứ cho các linh mục Việt Nam coi sóc.

            ¨CÁC LINH MỤC QUẢN XỨ VIỆT NAM

               (1928 cho đến nay):

             1. 1928 – 1944 Linh mục Giacôbê Lê Kim Dung [49] từ Trà Kê đổi đến. Ngài củng cố, xây dựng nhà nguyện các họ nhánh, phát triển Phước Viện, Cô Nhi Viện, xây hang đá Lộ Đức, cổ võ việc tôn sùng Thánh Tâm. Ngài xây dựng trường tiểu học bên cạnh nhà thờ, dạy miễn phí, thu nhận học sinh không phân biệt lương giáo. Ngôi trường nầy sinh hoạt cho tới năm 1965, vì chiến tranh, bỏ hoang phế 10 năm. Sau 30/4/1975 còn 01 phòng dùng làm nhà ở cho các nữ tu đến giúp giáo xứ. Năm 2004, phòng nầy được san bằng để xây nhà khách hành hương Anrê Phú Yên như  thấy ngày nay.

              2.1944–1947 Linh mục Phaolô Trương Công Chánh [50].

              3. 1947 – 1950 Linh mục Phêrô Nguyễn Đình Tịch [51]. Ngài mở trường Trung Học Tư Thục Trương Vĩnh Ký, trường trung học thứ hai trong toàn tỉnh sau trường công lập Lương Văn Chánh. Ngôi trường nầy ngày nay (2004) vẫn còn, dùng làm lớp học giáo lý, phòng đọc sách và phòng truyền thống Anrê Phú Yên. Năm 2005, ngôi trường nầy được tháo dỡ lấy mặt bằng xây dựng đền Anrê Phú Yên. Cha Tịch còn tổ chức đắp đập, mở hệ thống kênh mương đưa nước về các cánh đồng trong vùng.

               4.  1951           Linh mục Phêrô Nguyễn Vĩnh Lưu [52].

                5. 1952 – 1955 Linh mục Phaolô Huỳnh Tấn Ngoan [53].

                6. 1956 – 1957 Linh mục Gioan Phùng Văn Như [54]. Cho đến lúc nầy giáo xứ Mằng Lăng là giáo xứ quan trọng hàng đầu của Phú Yên. Hằng tháng các linh mục trong vùng về đây tĩnh tâm. Còn một tờ giấy giới thiệu trong sổ rửa tội của Mằng Lăng có ký tên Linh mục Gioan Phùng Văn Như, Hạt Trưởng.

                7. 1957 – 1959 Linh mục Antôn Hoàng Liên Mầu [55].

                 8.1959 – 1974 Linh mục Phaolô Nguyễn Xuân Bàn [56]. Vì chiến tranh, nên năm 1964, ngài tạm rời Mằng Lăng về Phú Tân, xã An Cư. Phước Viện và Cô Nhi Viện dời vào Tuy Hoà, dân chúng di cư nhiều nơi, Mằng Lăng trở thành hoang vắng cho đến sau năm 1975 mới dần dần hồi sinh.

                  9. 1974 – tháng 12/1975 Linh mục Phaolô Trương Đắc Cần [57]. Ngài đến Phú Tân thay cha Bàn được vài tháng, sau ngày 30/4/1975 ngài về Mằng Lăng lo tu sửa, phục chế nhà thờ, nhà xứ sau 10 năm hoang vắng. Ngài đã đề nghị với Đức Giám mục giáo pận thành lập Trung tâm Đại Chủng Viện Mằng Lăng qui tụ được 06 chủng sinh, hiện nay có 3 chủng sinh thuộc Trung Tâm Mằng Lăng đã được thụ phong linh mục: Giuse Trương Đình Hiền, Vinh-Sơn Nguyễn Văn Bản và Gioan Võ Đình Đệ. Vào tháng 7 năm 1976 có cha Phêrô Võ Tá Khánh từ Đà Lạt về hướng dẫn nhóm chủng sinh nầy nhưng đến 13/10/1976 cha phải trở về lại Đà Lạt. Ngày 21/02/2009, cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản đã được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI bổ nhiệm làm Giám mục giáo phận Ban Mê Thuột.

                 10. 1975 – tháng 10/1986 Linh mục F.X. Nguyễn Xuân Văn . Sau ngày 30/4/1975 cha F.X Nguyễn Xuân Văn và cha Giacôbê Nguyễn Thành Tri từ giáo phận Đà Nẵng trở về giáo phận Qui Nhơn. Đức Giám mục giáo phận quyết định lấy 03 giáo họ của giáo xứ Mằng Lăng: Chợ Mới, Xóm Làng, Đồng Cháy lập thành giáo xứ Chợ Mới, giao cho cha Giacôbê Nguyễn Thành Tri. Còn lại 09 giáo họ thuộc giáo xứ Mằng lăng do cha F.X. Nguyễn Xuân Văn đảm nhiệm. Số giáo dân hồi cư ngày càng đông.

                  11. 1986 – tháng 03/1992 Linh mục Giacôbê Nguyễn Thành Tri (nguyên quán Tân Lộc, Quảng Ngãi). Khi cha Tri làm cha sở Mằng Lăng, giáo xứ Chợ Mới không có linh mục đến ở thường xuyên, cha sở Mằng Lăng kiêm nhiệm Chợ Mới.

                  12. 1992 – 27/07/1997 Linh mục Phêrô Bùi Huy Bích (nguyên quán Gia Hựu, Bình Định). Ngài có công trùng tu Nhà Thờ, mở rộng sân trước nhà thờ, xây tường rào bao quanh, công việc hoàn thành vào ngày Lễ Tổng Lãnh Thiên Thần 29/9/1994, kỷ niệm 102 năm xây dựng Nhà Thờ. Ngài đột ngột qua đời do tai biến mạch máu não vào ngày 27/7/1997. Mộ ngài nằm trước đài Thánh Giuse trong khuôn viên nhà thờ.

                  13.Tháng 09/1997 – tháng 11/1997 Linh mục Phêrô Tuần Nguyễn Cao Hiên (tạm Quyền quản xứ).

                  14. Tháng 12/1997 – tháng 06/2003 Linh mục Phaolô Nguyễn Minh Chính

                  Nhân sự kiện Thầy giảng Anrê Phú Yên được phong chân phước, cha Phaolô Chính lập phòng truyền thống Anrê Phú Yên, phòng đọc sách Anrê Phú Yên dành cho các em thanh thiếu nhi trong vùng, không phân biệt lương giáo. Đêm 25/7/2000, hội trại Anrê Phú Yên dành cho các giáo lý viên trong giáo phận được tổ chức. Ngày 26/07/2000, thánh lễ mừng kính chân phước Anrê Phú Yên được tổ chức long trọng, mở màn cho những năm kế tiếp.

                 15. 02/07/2003 - 
28/5/2013 Linh mục Phêrô Nguyễn Cấp.

                 Cha Phêrô Cấp đã mở rộng khuôn viên nhà thờ và xây dựng nhà khách hành hương Anrê Phú Yên. Nhân dịp mừng lễ chân phước Anrê Phú Yên ngày 26/07/2005, Đức Giám mục giáo phận cũng đã làm phép viên đá đầu tiên cho ngôi đền kính chân phước Anrê Phú Yên, ngôi đền nầy được xây dựng tại phía Tây sân trước nhà thờ. Ngày 28/5/2013 cha Phêrô được Đức cha Matthêô bổ nhiệm làm cha sở Chợ mới.

                16.  Vào lúc 4 giờ chiều, ngày 28/05/2015, Đức cha Matthêô đã bổ nhiệm cha Phêrô Trương Minh Thái làm cha sở giáo xứ Mằng lăng, thay thế cha Phêrô Nguyễn Cấp về làm cha sở giáo xứ Chợ mới. 

 
 
 CÁC CHA PHÓ
 
STT HỌ TÊN NGUYÊN QUÁN THỜI CHA SỞ
01 Cha Phêrô HUỀ Phú Điền, Phú Yên cha Lacassagne
 
02 Cha Giuse Trần NHI Triều Thủy, Phú Yên
03 Cha Antôn BẢN Khánh Mỹ, Khánh Hoà
04 Cha F.x. HƯƠNG Tân Dinh, Bình Định
05 Cha Phêrô CAO Nước Nhỉ, Bình Định
06 Cha PHỤC  [58] Làng Sông, Bình Định
07 Cha Antôn Linh Nam Bình, Bình Định Cha Wendling
08 Cha Giuse DỤNG Tân Quán, Bình Định
09 Cha Antôn CẨM Hà Dừa, Nha Trang
10 Cha Phêrô  Lê CHÂU Gia Hựu, Bình Định
11 Cha Micae THIÊN Hoà Mục, Bình Định
12 Cha  Philip KHIÊM Gò Găng, Bình Định
13 Cha Phêrô NHO Tân Dinh, Bình Định Cha.Jean   và
Cha Porcher
14 Cha Simon LUẬN Sông Cát, Bình Định
15 Cha Phaolô BƯỜNG Truông Dốc, Bình Định
16 Cha Giacôbê Ng. Đình THUẬN Trà Kiệu, Quảng Nam Cha Giacôbê Dung
 
17 Cha Joan  SUẤT TrungTín , Quảng Ngãi
18 Cha Aug. Nguyễn Thanh LONG An Chỉ, Quảng Ngãi
19 Cha Tôma Trần Ngọc HUỜN Trà Câu, Quảng Ngãi
20 Cha Gioakim Huỳnh Văn HÓA Suối Nổ, Bình Định Cha
 P. Chánh
21 Cha Phêrô Trần Anh TƯỚC Vân Đoả, Quảng Nam
22 Ch Giacôbê Nguyễn Thanh LIÊM Gò Thị, Bình Định
23 Cha Phaolô Võ Hữu TƯ Suối Nổ, Bình Định Cha
Phêrô Tịch
24 Cha Phaolô Nguyễn Tấn LẠC Chợ Mới, Nha Trang Cha
Gioan Như
25 Cha Phanxicô Phạm Đình Triều Đồng Tre, Phú Yên Cha
Phaolô Chính
26 Cha Phêrô Võ Hồng Sinh Qui Hòa, Bình Định Cha
Phêrô Cấp
27 Cha Philipphê Phạm Cảnh Hiển Tân Dinh, Bình Định
 
CÁC  THẦY  GIÚP XỨ
 
STT HỌ TÊN GHI CHÚ THỜI CHA SỞ
01-08 Thầy BA HIỆP, Thầy ĐỊNH, Thầy HỨA, Thầy CẬY, Thầy CHÂU, Thầy NHI ( Lm 1893), Thầy SÔ, Thầy TÀI. Thầy Đại Chủng Viện Cha Lacassagne
09-21 Thầy CÁCH, Thầy SANG, Thầy HIỆU, Thầy QUẢNG, Thầy HẠNH, Thầy CHẨN, Thầy THẾ, Thầy HIỂN, Thầy CAO (Thụ phong linh mục đổi tên là cha Luận, quê Sông Cát), Thầy THIẾT (Trà Câu), Thầy LAI , Thầy PHÒ, Thầy THÀNH Thầy Đại Chủng Viện  
Cha Wendling
 
22 Thầy SÂM ( Quảng Nam ) Thầy Đ.C.V. Cha M.J.Jean
23 Thầy LOAN ( Quảng Ngãi ) Thầy Đ.C.V.
24 Thầy TRÍ ( Bình Định ) Thầy Giảng Cha Giacôbê Dung
25 Thầy LY ( Quảng Nam ) LM 1939
26 Thầy VINH ( Tân Dinh ) Thầy Giảng
27 Thầy SEN ( Quảng Ngãi ) Thầy Giảng
28 Thầy SỒ ( Gò Dài ) LM 1943
29 Thầy CHÁNH Thầy Đ.C.V. Cha Phaolô Chánh
30 Thầy THIỀU ( Gò Dài ) LM
31 Thầy MARC Dòng Thánh Giuse Cha Giuse Tịch,
Cha Phêrô Lưu,
Cha Phaolô Ngoan
32 Thầy AMBROISE
33 Thầy DOMINIQUE
34 Thầy SÉRAPHINE
35 Thầy BONIFAC
36 Thầy LUC
37 Thầy LÂN Thầy Đ.C.V. Cha Antôn Mầu
38 Thầy Phêrô Hoàng  KYM LM 1965 Cha Phaolô Bàn
39 Thầy Giuse Nguyễn Thanh Châu LM 1966
40 Thầy Micae Nguyễn Tri PHƯƠNG LM 1969
41 Thầy Phaolô Nguyễn Minh CHÍNH LM 1997 Cha  Phêrô Bích
42 Thầy Phanxicô Phạm Đình TRIỀU LM 2002 Cha Phaolô Chính
 
 
¨CÁC NỮ TU DÒNG MẾN THÁNH GIÁ QUI NHƠN GIÚP XỨ

 
STT HỌ TÊN THỜI GIAN
  1.  
Antonia Nguyễn Thị Bảo 1975 - 1982
  1.  
Clara Mai Thị Mỹ Xoa 1975 - 1982
  1.  
Marie Consolata Trần Thị Bích Ngọc 1978 - 1997
  1.  
Barthélémie Trần Thị Bích Liên 1976 - 1977
  1.  
Jérémia Nguyễn Thị Tươi 1976 - 1994
  1.  
Maria Nguyễn Thị Ngọc Ánh 1982 - 1993
  1.  
Maria Nguyễn Thị Nghiệp 1987 - 1989
  1.  
Sophia Nguyễn Thị Ngọc Lan 1987 - 1989
  1.  
Brigitte Nguyễn Thị Trọn 1997 - 1998
  1.  
Maria Võ Thị Thu Thủy 1992 - 1996
  1.  
Mađalêna Bùi Thị Thanh Huyền 1996 - 1998
  1.  
Léonie Nguyễn Thị Ngời 1998 - 2002
  1.  
Lucia Trần Thị Quyền 1999 - 2001
  1.  
Matta Phan Thị Thanh 1998 - 2000
  1.  
Cêcilia Nguyễn Thị Thu Thủy 1996 - 1997
  1.  
Matta Nhuyễn Thị Thủy 1997 - 1998
  1.  
Anna Hồ Thị Hạnh  2002 -
  1.  
Anna Lê Thị Nhị Dung  2001 -

III. CÁC GIÁO HỌ THUỘC GIÁO XỨ MẰNG LĂNG NGÀY NAY

              Sau năm 1892, giáo dân lần lượt Qui tụ, phân ra ở thành từng nhóm, nhiều người gia nhập đạo. Năm 1903 số giáo dân lên đến 2.555 người sống rải rác trong 19 giáo điểm. Ngày nay số giáo dân chưa tới 3000 người trong 12 giáo họ như sau:

             1. Họ chính Mằng Lăng, thuộc thôn Hội tín, xã An Thạch, huyện Tuy An. Ngôi Thánh đường nguy nga được xây dựng năm 1892, với một quần thể gồm: Nhà xứ, Nhà các nữ tu giúp xứ, hang đá Đức Mẹ, tượng đài Thánh Giuse. Để đánh dấu sự kiện trọng đại là Anrê Phú Yên được tôn phong chân phước ngày 5/3/2000 tại Roma, tượng đài chân Phước Anrê Phú Yên và phòng truyền thống Anrê Phú Yên được thành lập. Đồng thời, một phòng đọc sách mang tên Anrê Phú Yên cũng được đưa vào hoạt động để phục vụ các em thiếu nhi trong vùng bất kể lương giáo. Bên ngoài phạm vi thánh đường, còn có Phước viện Mằng Lăng và Cô Nhi Viện Mằng Lăng, là những cơ sở hoạt động cùng thời với ngôi thánh đường.

             2. Họ Lò Giấy, thuộc thôn Long Uyên, xã An Dân, bị sụp đổ vào thời chiến tranh, nay chỉ còn một nền đất cao.

             3. Họ Chợ Mới, thuộc thôn Hà Yến, xã An Thạch. Đây là một trong những họ đạo lâu đời, là một trong những họ đạo đầu tiên trong tỉnh.

             4. Họ Thầy Đông, thuộc thôn Long Hoà, xã An Định. Hiện nay, nền nhà thờ đã bị cư dân chiếm dụng.

             5. Họ Hội Tín, trước kia gọi là Diêm Điền. Năm 1998, được xây mới hoàn toàn cùng với các công trình phụ.

             6. Họ Gò Chung, thuộc thôn Bình Hoà, xã An Dân. Nhà nguyện được chỉnh trang vào năm 1995 và nới rộng thêm phòng thánh vào năm 2000.

             7. Họ Đồng Cháy, thuộc thôn Phước Lương, xã An Cư. Nhà nguyện được tân tạo năm 1997.

             8. Họ Xóm Làng, thuộc thôn Quảng Đức, xã An Thạch. Năm 1996, được xây mới hoàn toàn.

            9. Họ Đồng Thổ, thuộc xã An Nghiệp. Hiện nay chỉ còn di tích nền và khu vườn.

            10. Họ Sông Cái, thuộc thôn Định Trung, xã An Định. Hiện nay chỉ còn nền nhà nguyện.

            11. Họ Hội Phú, thuộc thôn 1, xã An Ninh Tây. Hiện nay còn nền nhà nguyện.

            12. Họ Phú Nhuận, thuộc thôn 5, Xã An Ninh Đông. Hiện nay nền nhà nguyện đã được làm trường học.

             Nói chung, trong số 12 chi họ, hiện nay chỉ còn họ chính Mằng Lăng và 5 chi họ có nhà nguyện, có đông đúc tín hữu, có sinh hoạt tổ chức; còn các nơi khác thì hoặc sáp nhập với chi họ kế cận hoặc nhập về họ chính Mằng Lăng để sinh hoạt.
Tổng số giáo dân hiện nay (2008) có 2479 người trong 703 gia đình.

              IV. LINH MỤC, TU SĨ XUẤT THÂN TỪ MẰNG LĂNG (tính đến năm 2004):

              1. Các linh mục:

 
STT HỌ VÀ TÊN GIÁO HỌ NĂM SINH CHỊU CHỨC NƠI LÀM VIỆC
  1.  
Gioakim Đạt Quán Cau 1821 1865 Chết 1902
  1.  
Cha Gương  Mằng Lăng     Chết 1937
  1.  
Phêrô Nguyễn Văn Quyển Mằng Lăng 1897 1929 Chết 1997
  1.  
Phêrô Nguyễn Vĩnh Lưu Mằng Lăng 1908 1937 Chết 1968
  1.  
Giuse Nguyễn Tấn Châu Chợ Mới   1945 Chết 1952
  1.  
Phêrô Nguyễn Hoàng Mằng Lăng 1920 1958 Chết 2009
  1.  
Phêrô Nguyễn Kim Thăng Chợ Mới 1958 1995 Nha Trang
  1.  
Tôma Lê Trung Khuê Hội Tín 1957 1991 Hoa Kỳ
  1.  
Aug. Nguyễn Văn Phú Hội Tín 1968 2002 Phú Yên
  1.  
Tôma Nguyễn Công Binh Hội Tín 1970 2002 Phú Yên
  1.  
Carôlô Nguyễn Phan Huy Dũng Mằng Lăng 1981 2013 Phú Yên
 
                2. Các tu sĩ:
 
STT
HỌ VÀ TÊN
GIÁO HỌ DÒNG    G.chú
  1.  
Tađêo Trần Tấn Đạo   Mằng Lăng Chúa Cứu Thế  
  1.  
Karol Tám Hội Phú Chúa Cứu Thế  
  1.  
Tađêo Dương Tha Gò Chung Chúa Giêsu  
  1.  
Dì Vở   Hội Tín Phước viện Chết
  1.  
Dì Khen Thầy Đông Phước viện Chết
  1.  
 Dì Lại Mằng Lăng Phước Viện Chết
  1.  
 Dì Chẳn Mằng Lăng Phước Viện Chết
  1.  
Thecla Lê Thị Thừa Thầy Đông MTG Qui Nhơn   Chết
  1.  
Sophia Nguyễn Thị Ngọc Lan Chợ Mới MTG Qui Nhơn   2001 +
  1.  
Jacintha Nguyễn Thị Sen Xóm Làng MTG Qui Nhơn  
  1.  
Bénigna Bùi Thị Lành Mằng Lăng MTG Qui Nhơn  
  1.  
Maria Nguyễn Thị Ngọc Ánh Chợ Mới MTG Qui Nhơn  
  1.  
Têrêxa Thái Thị Huyền Linh Chợ Mới MTG Qui Nhơn  
  1.  
Maria Trần Thị Đan Tâm Mằng Lăng MTG Qui Nhơn  
  1.  
Maria Nguyễn Thị Tuyết Hụê Hội Tín MTG Qui Nhơn  
  1.  
Ysave Đặng Thị Bích Trâm Mằng Lăng MTG Qui Nhơn  
  1.  
Anna Ngô Thị Kim Chung Đồng Cháy MTG Qui Nhon  
  1.  
Anna Phạm Thị Thu Nga Mằng Lăng MTG Qui Nhơn  
  1.  
M.Madalena Lê Thị Nữ Mằng Lăng MTG Qui Nhơn  
  1.  
Ysave Ng Thị Tuyết Thanh Mằng Lăng MTG Qui Nhơn  
  1.  
Luxia Huỳnh Thị Kim Cương Mằng Lăng MTG Qui Nhơn  
  1.  
M.Bénigna Mai Thị Ánh Mằng Lăng Nữ Vương
Hoà Bình
 
  1.  
Jean B.t. Nguyễn Thị Thương Mằng Lăng Đức Bà Tr. Giáo  
  1.  
Maria Dương Thị Lê Gò Chung   MTG Thủ Thiêm  
  1.  
Matta Nguyễn Thị Hoàng Thi Xóm Làng   MTG Thủ Thiêm  
  1.  
Anna Nguyễn Thị Tuyết Trinh Mằng Lăng   MTG Thủ Thiêm  
  1.  
Matta Phạm Thị Bích Thủy Mằng Lăng Phaolô Đà Nẵng  
  1.  
Anna Trần Thị Khúc Ca An Xuân  Đa Minh  
 
                     Trải ngót 400 năm phát triển của giáo xứ, từ một tia sáng đức tin manh nha loé lên để rồi dần dần lan toả khắp miền trong tỉnh như hiện nay, mảnh đất này đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của mình là đón nhận và gieo vãi hạt giống Tin Mừng. Hưng thịnh rồi suy tàn, sự không vững bền đã được Thiên Chúa xếp đặt trong mọi sự vật để nhắc nhớ rằng chỉ có Thiên Chúa là Đấng Trường Tồn và Bất Biến. Tuy nhiên, trong khi tìm kiếm Thiên Chúa vĩnh hằng,  người giáo dân Mằng Lăng không ngừng tiếc nuối thời gian hào hùng đã qua. Hào quang sáng chói nhất trên vùng trời giáo xứ vẫn là chân Phước Anrê Phú Yên, người đã làm rạng danh cho giáo xứ trên khắp thế giới, đã được Đức Gioan Phaolô II nhắc tên như một mẫu gương đức tin sống động cho giới trẻ toàn cầu trong Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 17 tại Toronto, 2002. Vì thế, trong khi nỗ lực sống đạo cho xứng với di sản tinh thần cha ông để lại, người giáo dân Mằng Lăng mong muốn phục hồi lại những gì đã mất, những chi họ mang những địa danh mà ngày nay chỉ còn nghe nhắc đến tên, bởi lẽ đó cũng là những di sản mà cha ông đã khổ công gầy dựng.  

Địa chỉ:

Nhà thờ Mằng Lăng
Hội tín - An Thạch, Tuy An, Phú Yên

Cha sở: Lm. Phêrô Trương Minh Thái
0905117103

Cha phó: Lm. Anphongsô Hoàng Phú Khánh


 
 

[1] Bắc Hòa Đa
[2] mục Phú Yên, trang 07
[3] năm 1475
[4] năm 1578
[5] Sông Kỳ Lộ Chảy đến đây người địa phương gọi là Sông Cái
[6] Người Chứng Thứ Nhất – Phạm Đình Khiêm – sđd trang 50-51
[7] gần cửa biển Tiên Châu
[8] sđd
[9] năm Mậu dần 1578, với Ông Lương Văn Chánh
[10] cách thành Qui Nhơn thời đó 10Km về hướng Đông
[11] lễ Phục Sinh
[12] cửa biển Tiên Châu, vịnh Xuân Đài, An Ninh Tây ngày nay
[13] Quảng Nam
[14] Cách Hội An khoảng 07 km.
[15] Năm 1834, thời điểm Cha Pierre Léopold Jeanne đã ở và làm việc tại Hoa Vông, cư sở truyền giáo Nam Phú Yên đã được thành lập.
[17] Phong lua đó là Phường Lụa, tục danh thôn Ngân Sơn thị trấn Chí Thạnh ngày nay, một vùng sản xuất lãnh lụa ngũ sắc nỗi tiếng một thời, ca dao còn để lại: Đất Cù Du là nơi chiếu tốt, Lãnh nào tốt bằng lãnh Ngân Sơn
[18] BAVH, No.4, p.208-209 . Cha Martiali thuộc Dòng Sylvestrê, người Ý, thừa sai Thánh Bộ Truyền Giáo.
[19] BAVH, No.4, p.208-209
[20] thụ phong linh mục trước năm 1844
[21] Đức Cha Stêphanô Thể truyền chức
[22] Đức Cha Charbonnier Trí truyền chức
[23] Đức Cha Luy Galibert Lợi truyền chức
[24] trước 1862
[25] Gò Me – Hòa Đa
[26] quê Gia Hựu, Bình Định
[27] Mm. No.62/1910, p.12-14
[28] Ngày nay thuộc thôn Long Hoà, xã An Định, huyện Tuy An
[29] Nécrologie de Mazoyer
[30] Mm. 1909 /No. 51/ P. 48
[31] Mm.5/1909,p.77,79,86
[32] R.A.E 1885. Mgr Van Camelbeke
[33] Cố Thành
[34] Nécrologie de Iribarne
[35] AMEP, tập 821, p.3-7
[36] Cây Gia
[37] Hoa Vông
[38] quê Phú Điền
[39] Mémoriale 4/1927, p. 30
[40] Cố Xuân
[41] (Secteurs paroissiaux) Theo Giáo Luật, chỉ nơi nào đã được thành lập Hàng Giáo Phẩm mới có giáo xứ chính thức (Paroisse ). Giáo xứ là do Giám Mục giáo phận Chính Tòa thiết lập. Trong các vùng truyền giáo như tại Việt Nam lúc bấy giờ thường chỉ có Trụ Sở Truyền Giáo (Station missionnaire ). Tuy nhiên khi một trụ sở có đông giáo dân, lại có phương tiện sống đầy đủ thì có thể nâng lên hàng giáo xứ bán chính thức. Trong các bài nầy khi dùng cách gọi ‘giáo xứ’ là theo cách dùng từ ‘Curé’ trong những bổ nhiệm các linh mục.
Ngày 31/01/1958 Đức Cha P.M. Phạm Ngọc Chi đã Quiết định và công bố nâng lên hàng giáo xứ bán chính thức (quasi paroisse) những nơi sau đây: Đà Nẵng, Trà Kiệu, Cù Và, Gia Hựu, Nhà Đá, Gò Thị, Qui Nhơn và Mằng Lăng (Thông Tin số 03/1958, trang 03).
Ngày 24/11/1960. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII ký Sắc Chỉ thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam.
Ngày 06/02/1961, theo Quiết nghị của Hội Đồng Giáo Phận họp tại Toà Giám Mục, các nơi sau đây được công bố là giáo xứ chính thức: (ở đây chỉ ghi hạt Phú Yên ):Mằng Lăng, Đồng Tre và Tuy Hoà. (Thông tin số 22/1961, trang 13).
[42] Fiche individuelle de Wendling
[43] Cố Linh
[44] quà tặng từ Marseille
[45] Mm. 04/1907. p.34
[46] Nhà lẫm nầy nằm trong vườn nhà thờ, chổ phần mộ Cha Phêrô Bùi Huy Bích.
[47] Cố Gioan
[48] Cố Kính
[49] nguyên quán Trà Kiệu, Quảng nam
[50] nguyên quán Hoà Mục, Bình Định
[51] nguyên quán Đồng Tre, Phú Yên
[52] nguyên quán Mằng Lăng
[53] nguyên quán Nghĩa Hành, Quảng Ngãi
[54] nguyên quán Bình Cang, Nha Trang
[55] nguyên quán Tiên Đỏa, Quảng Nam
[56] nguyên quán Phú Thượng, Quảng Nam
[57] nguyên quán Gia Hựu, Bình Định
[58]  Qua đời tại Mằng Lăng năm 1900


Nguồn tin: Gpquinhon.org

Những tin cũ hơn

Ý kiến bạn đọc

 

   

LƯỢT XEM TRANG

  • Đang truy cập: 36
  • Hôm nay: 9300
  • Tháng hiện tại: 84327
  • Tổng lượt truy cập: 12061114