Cha Giuse Trần Ngọc Châu, giáo sư chủng viện Qui Nhơn, sau khi làm các lễ phép tại hang đá, đã giảng thuyết về quyền phép Đức Mẹ và khuyên dụ mọi người luôn luôn chạy đến Mẹ trong hết thảy những khi vui buồn. Giọng nói khoan thai, dịu dàng và đầy sốt sắng đã khiến mọi người nức lòng tin tưởng nơi Mẹ một cách vững chắc.
Đi bộ bằng con đường ngắn nhất, nghĩa là qua đường Truông Ổi và Gia Trị, chúng ta sẽ đi từ Đồng Dài đến Gia Chiểu không đầy một tiếng rưỡi đồng hồ, đi qua sông An Lão ở bến Đồng Dài và qua sông Kim Sơn ở bến An Thường, gần huyện mới. Nếu đi bằng ôtô, chúng ta quay trở xuống Bồng Sơn, qua cầu Lại Giang ...
Thầy Sáu Do được sinh ra, lớn lên trong một gia đình, một họ đạo, một môi trường huấn luyện thích hợp cho công cuộc truyền giáo Tây Nguyên. Chúng ta thử tìm hiểu môi trường đã hun đúc nên con người cho công việc nầy.
Chúng tôi xin trình bày một giai đoạn lịch sử đau thương của Giáo phận Qui Nhơn vào năm 1885 do Nạn Văn Thân gây ra. Vả lại, phong trào Văn Thân với chủ trương “Bình Tây Sát Tả” được xem như một hiện tượng xã hội trong một thời điểm nhất định, trong một hoàn cảnh xã hội cụ thể. Vậy đâu là nguyên nhân tạo nên phong trào này? Tính chất của hiện tuợng này là gì? Chúng tôi đề cập các điểm sau đây trong 3 phần chính, trong cái nhìn tổng hợp xuyên suốt bài nghiên cứu này về tính chất của Văn Thân. (Lm. Gioakim Nguyễn Hoàng Sơn)
Ba cây số trước khi đến nơi, chúng ta thấy một mái tranh nhỏ cắm cây thánh giá gỗ ở trên đỉnh, lưng dựa vào ngọn đồi đầy cây cối. Đó là Long Quan (Long Quơn). Chân phước Gagelin[1] của chúng ta đã được che giấu trong sở họ nhỏ bé này, khi ngài đi đến quyết định nộp mình cho quan tri phủ Bồng Sơn để rồi bị giải giao ra Huế.
Sông Lại Giang có một điều đặc biệt này, có thể là khá hiếm trong miền truyền giáo của chúng ta, là có một làng chài. Cư dân sống trên thuyền của họ ngay trên sông ; Họ sinh ra ở đó và chết ở đó, và chắc chắn dòng sông là nơi an nghỉ cuối cùng của họ. Tòa thị sảnh của họ phải bập bềnh trên sông và chắc chắn ngôi nhà thờ của họ trong tương lai cũng phải như vậy.
Từ 1889 đến sau năm 1900, tất cả những sở họ cũ được tái lập, thêm đông đúc nhờ có người ngoại giáo cải đạo, ngoại trừ Lò Gốm ở phía trước Mỹ Thọ, phía bờ sông bên kia. Mỹ Thọ, Vạn, Tân Đức được hồi sinh, nhập vào địa sở mới Hội Đức. Những sở mới nổi lên đây đó: Định Bường, Diên Khánh, Lại Đức, Lại Khánh.
Về công tình truyền giáo trong 10 năm qua chúng ta đã thâu cả lúa chắc và lúa lép, thời cuộc và hoàn cảnh đã sàng sảy cho chúng ta. Kiểm điểm lại giáo dân tân tòng từ 1955 đến nay, ta được biết có nơi chỉ mất độ 15% thường là nơi trước đây phong trào tòng giáo yếu ớt, có nơi mất tới 85% thường là những nơi phong trào tòng giáo mạnh....
Cũng Khoa Canh Ngọ (1870), số người đậu Cử nhân tại trường thi Bình Định được Bộ Lễ quy định là 16 người. Trong khoa thi nầy các sĩ tử Quảng Ngãi chiếm 08 người, Phú Yên 01 người, Bình Định 07 người. Trong số 07 người Bình Định đậu Cử nhân có 02 anh em ruột của một gia đình thuộc xã Xuân Quang...
Trái lại, các thủ lĩnh và đám đông theo họ đã kính trọng các thừa sai và các linh mục bản xứ, dành cảm tình đối với các kitô hữu. Họ giữ khoảng cách, chào hỏi khi gặp một linh mục. Họ cho ngài biết về những kỳ vọng của họ, đôi khi xin ngài lời khuyên. Nhiều người ở Quảng Ngãi, sau khi phong trào bị giải tán, đã đến xin các thừa sai can thiệp. Hàng trăm người biểu tình đau yếu, có người bị thương, đã xếp hàng mỗi ngày trước hiệu thuốc của cha Vallet ở Bình Định.
Dù «khổ cực, túng thiếu, tình hình bất an», các cha địa phận vẫn hiên ngang «hy sinh trong nhiệm vụ phụng sự» và điều rất quan trọng là các vị tiền bối đáng kính của chúng ta vẫn luôn «hào hứng và hài hước» … «bất chấp những nguy hiểm»! Và tôi tin rằng điều đó đã là một … truyền thống! (Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính)
Nhân dịp đi Quảng Ngãi làm lễ Sinh Nhựt, trên đường về Qui Nhơn ngày 26.12.1960, Đức giám mục địa phận (Đức cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi) đã ghé địa sở Trà Câu. Cùng đi với ngài, ngoài cha Hạt trưởng và một số đông các cha các thầy,....
Đây là vùng đất màu mỡ mà giáo dân Gia Hựu có được nhờ giá máu mà họ đã đổ ra rất nhiều vào năm 1885. Khoảng chục năm sau đó, một mùa lúa tươi tốt đã chín rộ trên những nấm mồ của họ: không xa lắm cách nơi mà các chứng nhân của chúng ta hoàn tất hy tế của mình, hai hay ba trăm tân tòng đã tụ họp lại thành một địa sở; ....
Cha Porcher đã đến nhậm sở tại Hội Đức. Tham dự ngày nhậm sở có các cha Jean, Perreaux, Nhuận và Luận, tất cả đều là người Phú Yên. Người ta nói rằng tỉnh Phú Yên khí hậu độc và từ xưa nay đã mang tiếng xấu này như cha Porcher đã từng biết đến trong suốt 27 năm và giờ thì không chịu nỗi nữa, cha Huấn suốt 24 năm và cha Dung suốt 18 năm ... (Trích dịch "Mémorial de Quinhon", số tháng Sáu 1928, tr. 92)
Lối vào nhà thờ Gia Hựu thật thoáng đãng với đài kỷ niệm hùng vĩ tưởng niệm các tử đạo năm 1885, viền theo con đường rộng là bức tường thấp bằng đá Biên Hòa được cho là có niên đại từ thời tiền sử, với hàng dừa cao vút được trồng như những tán dù. Nếu không có ngôi nhà thờ với mặt tiền màu trắng đập vào mắt, nếu không có cha Jamet cùng với cha phó của ngài là cha Thọ chạy ra đón tiếp chúng tôi, thì chắc ta cứ tưởng lạc vào cung phủ nào đấy trước thời Pháp thuộc.