[1] Phanxicô, Tông huấn
Evangelii Gaudium,
Niềm vui Tin mừng (23.11.2013), [=Evangelii Gaudium], số 33.
[2] Evangelii Gaudium, số 33.
[3] Evangelii Gaudium, số 54.
[4] Evangelii Gaudium, số 57.
[5] Evangelii Gaudium, số 59.
[6] Evangelii Gaudium, số 63.
[7] Xem
Evangelii Gaudium, số 15.
[8] Xem
Evangelii Gaudium, số 49.
[9] Evangelii Gaudium, số 47.
[10] Gioan Phaolô II, Tông hiến
Sacrae Disciplinae Leges (
Các luật lệ của kỷ luật thánh), trong
Bộ giáo luật 1983, tr. 10, NXB Tôn Giáo, Hà Nội 2007, (Bản dịch việt ngữ của HĐGM Việt Nam).
[11] Gioan Phaolô II, Tông hiến
Sacrae Disciplinae Leges (các luật lệ của kỷ luật thánh), trong
Bộ giáo luật 1983, tr. 10, NXB Tôn Giáo, Hà Nội 2007.
[12] Xem
Evangelii Gaudium, số 43.
[13] Gioan Phaolô II, Tông hiến
Sacrae Disciplinae Leges (
Các luật lệ của kỷ luật thánh), trong
Bộ giáo luật 1983, tr. 10,-11, NXB Tôn Giáo, Hà Nội 2007.
[14] Để đào sâu về nền tảng Thánh Kinh của chế tài, tham khảo Velasio De Paolis, Davide Cito,
Le sanzioni nella Chiesa, commento al codice di diritto canonico librro VI, Urbaniana University press, Roma 2001, 22-25. (
Chế tài trong Giáo Hội, chú giải bộ giáo luật quyển VI).
[15] Một số người cho rằng, ở hình luật, hạn từ “
sanctio” vẫn còn giữ ý tưởng nguyên thuỷ là “nhìn nhận, phê chuẩn” nhưng theo một nghĩa tiêu cực: nhìn nhận rằng hành vi đã đi ngược lại với các giá trị mà xã hội tôn trọng, nhìn nhận rằng hành vi đó gây tai hại cho xã hội và đòi buộc người đã thực hiện hành vi đó phải sửa chữa. Nhân đây cũng nên biết một loạt bài tranh luận về hạn từ “chế tài” giữa linh mục Thiện Cẩm và ông Nguyễn Xuân Diện, một chuyên viên pháp chế tôn giáo Hà Nội, được đăng trên Nguyệt San Công giáo và Dân tộc trong các số 57 và 58 năm 1999. Nguyên do là văn bản Nhà Nước áp dụng từ “chế tài” đối với tôn giáo trong Thông tư 1/1/1999/TT-TGCP ngày 16/06/1999 về việc hướng dẫn thi hành nghị định 26/1999/NĐ-CP ngày 14/04/1999 đối với tôn giáo. Theo cha Thiện Cẩm việc áp dụng từ chế tài đối với các tôn giáo như thế được hiểu theo nghĩa tiêu cực, và là sự phân biệt đối xử giữa người có đạo và người không có đạo. Chế tài theo tự điển Hán Việt của Nguyễn Văn Khôn đó là “
cắt, sửa (áo)… lại cho vừa. Hình phạt những người vi phạm luật đã định”. Ngoài ra cha Thiện Cẩm đã trích dẫn định nghĩa Chế Tài theo Từ Điển Bách Khoa Việt Nam “
Chế Tài (luật), một trong ba bộ phận cấu thành của quy phạm pháp luật (giả định, quy định và chế tài), trong đó chế tài là bộ phận xác định các hình thức trách nhiệm pháp lý khi có hành vi trái ngược với với những quy tắc xử sự đã được ghi trong phần quy định và giả định. Chế tài được chia thành nhiều loại: chế tài hành chính, chế tài dân sự, chế tài hình sự…”; “
Chế tài thể hiện thái độ của nhà nước đối với những hành vi phạm pháp và có tác dụng phòng ngừa, giáo dục để bảo đảm việc tuân thủ luật pháp, góp phần thực hiện pháp chế và dân chủ”. Trong khi đó ông Nguyễn Xuân Diện lại trích từ sổ tay pháp lý thông dụng- NXB Giáo Dục, 1996, tr. 57 về Chế Tài như sau “
Chế tài là một trong ba bộ phận cấu thành của một quy phạm pháp luật. Thông thường chế tài gắn liền với các quy phạm pháp luật nhưng nó có khi tồn tại độc lập ở một vài điều cuối của văn bản pháp luật đó hoặc ở văn bản pháp luật khác. Phần chế tài của quy phạm là những phương tiện và biện pháp mà người làm luật cố ý sử dụng nhằm bảo đảm cho điều quy định của quy phạm được thực hiện. Vì vậy, chế tài có thể là biện pháp cưỡng chế được thể hiện là: chế tài trừng trị, chế tài khôi phục trạng thái pháp lý ban đầu, chế tài bảo vệ và khuyến khích khen thưởng, lúc nầy chế tài sẽ là chế tài khuyến khích”. Tuy nhiên cha Thiện Cẩm nhận xét là từ điển Bách Khoa có giá trị hơn cuốn sổ tay của NXB Giáo Dục. X. Thiện Cẩm,
Vài nhận xét về nghị định số 26/1999 của Chính phủ về các hoạt động tôn giáo, trong
Nguyệt san Công Giáo và Dân tộc số 57 tháng 9/1999, tr. 86-91;
Vài nhận định về Thông tư của Ban Tôn Giáo Chính Phủ, trong
Nguyệt san công Giáo và Dân tộc số 57 tháng 9/1999, tr. 97-103;
Thư Ngỏ của linh mục Thiện Cẩm gởi ông Nguyễn Xuân Diện, trong
Nguyệt san công Giáo và Dân tộc số 58 tháng 10/1999, 85-91; Nguyễn Xuân Diện,
Bức thư ngỏ kính gởi linh mục Thiện Cẩm, trong
Nguyệt san Công Giáo và Dân tộc số 57 tháng 9/1999, tr. 104-108.
[16] Xem Luigi Chiappetta,
Il codice di diritto canonico, commento giuridico-pastorale, II Librri III-IV-V-VI, 2 Ed, Accresciuta e aggiornata, Edizioni Dehoniane Roma 1996, 586. (
Bộ giáo luật, chú giải pháp lý và mục vụ, tập II, Quyển III-IV,V-VI, in lần 2, có cập nhật và bổ sung).
[17] Xem Phan Tấn Thành,
Tài sản, chế tài và tố tụng trong Giáo Hội. Chú giải quyển 5-6-7 giáo luật, tr. 105-108; đặc biệt có thể có thể tham khảo bài khảo cứu về bản chất và tinh thần của hình luật Giáo Hội, Velasio De Paolis, Davide Cito,
Le sanzioni nella Chiesa, commento al codice di diritto canonico librro VI, Urbaniana University press, Roma 2001. 56-83. (
Chế tài trong Giáo Hội, chú giải bộ giáo luật quyển VI).
[19] Để tìm hiểu sâu xa về bản chất và tinh thần của hình luật giáo luật, có thể tham khảo (
Exercus circa la natura e lo spirito del diritto penale canonico), trong Velasio De Paolis, Davide Cito,
Le sanzioni nella Chiesa, commento al codice di diritto canonico librro VI, Urbaniana University press, Roma 2001, 56-83. (
Chế tài trong Giáo Hội, chú giải bộ giáo luật quyển VI).
[20] Giáo phận Qui Nhơn có những biện pháp cụ thể đối với một số trường hợp, xem trong
Bản Thông Tin giáo phận Qui Nhơn, số 114 tháng 10 năm 2007, tr. 539-553; và trong tài liệu Tòa Giám Mục Qui Nhơn,
Mục vụ giáo xứ, khóa thường huấn linh mục giáo phận Qui Nhơn, 03/06 - 060/6/2008, tr. 156-245.
[21] Pio Ngô Phúc HẬu,
Nhật ký truyền giáo, Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội 2010, tr. 141.
[22] Evangelii Gaudium, số 49.
[23] Evangelii Gaudium, số 47.
[24] Evangelii Gaudium, số 44.
[25] Evangelii Gaudium, số 43.
[26] Động từ “
accompagner” trong tiếng Pháp (trong tiếng Anh cũng tương tự) có nhiều nghĩa: 1- Đi, đi theo, tùy tùng, tiễn đưa, hộ tống, hộ vệ. 2- Thích hợp; 3- Thêm vào, phụ thêm; 4- Hòa nhạc, hòa tấu., trong Đào Duy Anh, Pháp -Việt tự điển,
Dictionnaire Francais - Vietnamien, NXB Trường Thi, 1957.
[27] Chỉ cần vào công cụ google.com tìm kiếm chữ đồng hành bằng tiếng việt hay bằng tiếng anh, pháp, Ý… là chúng ta được kết quả khổng lồ trong tictac.
[28] Ví dụ, trong các giáo xứ, đặc biệt cộng đoàn tu trì - chủng viện thường dùng hạn từ nầy. Một số văn kiện của Giáo Hội gần đây dùng chữ “đồng hành” khá nhiều. Chẳng hạn xem Gioan Phaolô II, Tông huấn về gia đình,
Familiaris Consortio (22.11.1981), số 34, 65 [=
Familiaris Consortio]; Bênêđictô xvi, Tông huấn
Sacramentum caritatis, Bí tích tình yêu (22.2.2007), các số 28, 29, 96, 97 [=
Sacramentum caritatis]; BỘ Giáo Sĩ,
The priest, minister of divine mercy-
Linh mục, thừa tác viên của lòng Chúa thương xót, tài liệu hỗ trợ các cha giải tội và linh hướng (9.3.2011), các số 64, 66, 67, 138 (bản dịch việt ngữ của linh mục Đặng Xuân Thành [=
Linh mục, thừa tác viên của lòng Chúa thương xót]; BỘ Giáo Sĩ,
Directoire pour le ministère et la vie des prêtres,
Kim chỉ nam về tác vụ và đời sống linh mục (11.2.2013), các số 41, 73, 93, 111…(bản dịch việt ngữ của Đại Chủng Viện Huế, NXB Tôn Giáo 2014)[=
Kim chỉ nam về tác vụ và đời sống linh mục 2013]; HỘi ĐỒng Giám MỤc ViỆt Nam,
Thư chung 1980, số 9; Matthêô NguyỄn Văn Khôi,
Thư định hướng mục vụ năm 2014, các số 19, 20, 21, 22; trong
Bản Thông Tin Giáo phận Qui Nhơn, số 191 tháng 3.2014, tr. 165-167.
[29]BỘ Giáo Sĩ,
Linh mục, thừa tác viên của lòng Chúa thương xót, số 64.
[30] Trong thế giới
internet,
Avatar có thể hiểu nôm na đó là hình ảnh tượng trưng cho người sử dụng khi
chat hay
online trong không gian ảo (
online image that represents a user in chat rooms or in a virtual "space").
[31] Nhà xuất bản đại học
Oxford cho biết họ đã chọn từ “
Selfie” (
Tự sướng hay
Ảnh tự sướng) là “từ của năm” trong từ điển
Oxford 2013. Theo ban biên tập từ điển
Oxford, lượng sử dụng từ “
Selfie” đã tăng 17.000% so với cùng thời điểm năm 2012. Theo đó “
Selfie” là một tấm hình một người tự chụp chính mình, đặc biệt là khi sử dụng
smartphone hoặc
webcam, rồi
post lên mạng xã hội. “
Selfie” hay chụp hình “tự sướng” hiện nay rất phổ biến, chỉ cần lướt qua
Facebook hay các diễn đàn thì người ta có thể gặp khá nhiều những hình ảnh
Selfie (xem http://www.theverge.com/2013/11/18/5120390/selfie-is-the-2013-oxford-dictionaries-word-of-the-year).
[32] Evangelii Gaudium, số 169.
[33] Evangelii Gaudium, số 169.
[34] Vaticanô ii, Sắc lệnh
Presbyterorum Ordinis, số 6.
[35] Presbyterorum Ordinis, số 6.
[36] Evangelii Gaudium, số 170.
[37] Evangelii Gaudium, số 170.
[38] Evangelii Gaudium, số 24.
[39] Evangelii Gaudium, số 24.
[40] Evangelii Gaudium, số 44.
[41] Evangelii Gaudium, số 169.
[42] Evangelii Gaudium, số 169.
[43] Evangelii Gaudium, số 171.
[44] Evangelii Gaudium, số 172.
[45] Evangelii Gaudium, số 172.
[46] Bênêđictô xvi, Thông điệp
Caritas in Veritate (29.06.2009), số 77.
[47] BỘ Giáo Sĩ,
Linh mục, thừa tác viên của lòng Chúa thương xót, số 130.
[48] Xem
Evangelii Gaudium, số 172.
[49] Evangelii Gaudium, số 91.
[50] Xem
Evangelii Gaudium, số 24.
[51] Xem
Evangelii Gaudium, số 172.
[52] Evangelii Gaudium, số 171.
[53] Chủ đề đối thoại, được Đức Thánh Cha nói đến rất nhiều trong tông huấn
Evangelii Gaudium: đối thoại giữa Thiên Chúa và Dân Người, đối thoại mục vụ, đối thoại với dân chúng, đối thoại cá nhân, đối thoại trong gia đình, đối thoại xã hội, đối thoại với Nhà nước, đối thoại với các nền văn hóa, đối thoại giữa đức tin và lý trí khoa học, đối thoại liên tôn… x.
Evangelii Gaudium, số 69, 71,74, 128, 133, 140, đặc biệt từ số 242 đến 258.
[54] Evangelii Gaudium, số 269.
[55] Evangelii Gaudium, số 171.
[56] Evangelii Gaudium, số 199.
[57] Evangelii Gaudium, số 68.
[58] Evangelii Gaudium, số 84.
[59] Evangelii Gaudium, số 119. Riêng về “
sensus fidei” trong bản văn
Evangelii Gaudium được dịch ở đây là “bản năng đức tin”. Tuy nhiên hạn từ nầy được dịch là “cảm thức đức tin” theo bản văn của Ủy ban Thần học Quốc tế với chủ đề “
Sensus fidei in the life of the Church” (2014). Trong đó ở số 49 có nói về
“The sensus fidei as an instinct of faith -cảm thức đức tin như một bản năng của đức tin”, đó là một loại bản năng thiêng liêng giúp tín hữu phán đoán một cách tự phát, liệu một giáo huấn hay một thực hành đặc thù nào đó có phù hợp với Tin Mừng và với đức tin tông truyền hay không. Có thể đọc tài liệu nầy nguyên văn bằng anh ngữ tại:
http://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/cti_documents/rc_cti_20140610_sensus-fidei_en.html; hoặc đọc bài phân tích và dịch thuật ra việt ngữ bản của Vũ Văn An trên http://www.vietcatholic.org và tại:
http://gpquinhon.org/qn/news/van-kien/Cam-Thuc-Duc-Tin-Trong-Doi-Song-Giao-Hoi-2587/.
[60] Evangelii Gaudium, số 173.
[61] Evangelii Gaudium, số 173.
[62] Timothy Radcliffe, OP,
Sing a new song: the christian vocation, Dominican Publications, Norwich 1999, Bản dịch của Nguyễn Văn Chữ &AE, OP -
Hát lên bài ca mới, ơn gọi Kitô hữu, NXB Tôn Giáo 2013, tr. 31.
[63] Evangelii Gaudium, số 160.
[64] Evangelii Gaudium, số 265.
[65] Evangelii Gaudium, số 266.
[66] Evangelii Gaudium, số 269.
[67] Evangelii Gaudium, số 285.
[68] Evangelii Gaudium, số 286
Ý kiến bạn đọc