Trang mới   https://gpquinhon.org

Giáo Hội tái sinh

Đăng lúc: Chủ nhật - 19/06/2016 06:59
http://imagenes.catholic.net/imagenes_db/50d19a_Iuvenescit%20Ecclesia.png

Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin
Thư "Giáo Hội Tái Sinh"
Gửi Các Giám Mục của Giáo Hội Công Giáo
về mối tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và đặc sủng đối với đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội


Nhập Đề

Các hồng ân của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội đang thi hành sứ mệnh

1. Giáo Hội tái sinh nhờ sức mạnh của Tin Mừng, và Chúa Thánh Thần luôn canh tân Giáo Hội, qua việc xây dựng và hướng dẫn Giáo Hội “nhờ sự đa dạng trong các hồng ân phẩm trật và đặc sủng” (1). Nhiều lần, Công Đồng Vatican II đã nhấn mạnh tới công trình kỳ diệu của Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hóa Dân Chúa, hướng dẫn nó, trang hoàng nó bằng nhiều nhân đức và làm nó phong phú với nhiều đặc sủng để xây dựng nó. Hành động của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội mang nhiều hình thức, như các giáo phụ từng nhấn mạnh. Thánh Gioan Kim Khẩu viết rằng: “Trong tất cả các ơn phúc đang hành động để cứu rỗi ta, có phải có một ơn duy nhất không do Chúa Thánh Thần ban cho ta không? Nhờ Người, chúng ta vuợt qua cảnh nô lệ, được mời vào tự do, được vinh dự nhận làm dưỡng tử của Thiên Chúa; chúng ta được tạo nên như mới, có thể nói như thế; chúng ta trút được gánh nặng nề và đáng ghét của tộ lỗi. Chính nhờ Chúa Thánh Thần chúng ta được thấy hợp đoàn linh mục, chúng ta có được phẩm hàm tiến sĩ. Từ nguồn suối này, tuôn chẩy các mặc khải, các thuốc cứu chữa linh hồn ta; sau cùng từ đó phát sinh mọi lợi điểm vốn trang hoàng Giáo Hội của Chúa” (3). Việc hiểu biết hành động đa dạng của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội mỗi ngày mỗi tăng gia một cách tốt đẹp nhờ chính đời sống của Nhiệm Thể Chúa Kitô, nhờ rất nhiều can thiệp của Huấn Quyền và việc nghiên cứu thần học. Nhờ đó, sự hiểu biết này đã thôi thúc chúng ta đặc biệt lưu tâm tới các hồng ân đặc sủng, mà dân Chúa vốn được làm giầu bất cứ ở thời nào nhằm chu toàn sứ mệnh của mình.

Loan báo Tin Mừng một cách hữu hiệu là một trách vụ đặc biệt khẩn trương đối với thời đại ta. Trong Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng, Đức Thánh Cha đã nhắc nhở rằng “Nếu có điều gì cần phải làm chúng ta bận tâm cách thánh thiện và làm lương tâm ta quan ngại thì điều đó chính là: anh em ta phải sống mà không có sức mạnh, không có ánh sáng và niềm an ủi do tình bạn của Chúa Giêsu Kitô mang tới, không có một cộng đồng đức tin chào đón họ, không có chân trời ý nghĩa và sự sống” (3). Lời kêu gọi trở thành một Giáo Hội “ra đi” (4) cung cấp cho ta một cơ hội để đọc lại trọn bộ cuộc sống Kitô hữu theo cái nhìn sai đi. Trách vụ truyền giảng Tin Mừng liên quan tới mọi lãnh vực của Giáo Hội: mục vụ thông thường, công bố cho những ai đã từ bỏ đức tin Kitô Giáo và, cách riêng, cho những người chưa bao giờ tiếp nhận Tin Mừng của Chúa Giêsu hay cho những người luôn luôn bác bỏ nó (5). Trong sự cấp thiết của một cuộc tân phúc âm hóa này, điều cần hơn bao giờ hết là phải thừa nhận và đánh giá cao rất nhiều đặc sủng, có thể khơi dậy và nuôi dưỡng đời sống đức tin của dân Chúa.

Các hiệp hội Giáo Hội đa dạng

2. Rất nhiều hiệp hội Giáo Hội đã phát sinh trước và sau Công Đồng Vatican II; các hiệp hội này tạo nên một nguồn canh tân quan trọng cho Giáo Hội và cho “việc hoán cải có tính mục vụ và truyền giáo” (6) rất khẩn thiết đối với toàn bộ đời sống Giáo Hội. Thêm vào giá trị và sự phong phú của mọi tổ chức vốn có xưa nay, mỗi tổ chức có những mục tiêu chuyên biệt của họ, cũng như của các Viện Đời Sống Thánh Hiến và các Hội Đời Sống Tông Đồ, ta còn có những thực tại mới gần đây này mà ta có thể mô tả như các hiệp hội của tín hữu, các phong trào Giáo Hội, và các cộng đồng mới. Tài liệu này suy tư về các thực tại vừa nói. Ta không thể hiểu chúng một cách đơn giản như một hiệp hội tự nguyện gồm những người muốn theo đuổi một mục tiêu xã hội hay tôn giáo đặc thù. Đặc điểm “phong trào” phân biệt chúng trong cảnh vực Giáo Hội như những thực tại hết sức năng động. Chúng có khả năng lôi kéo người ta một cách đặc biệt vào Tin Mừng và đưa ra một đề xuất đối với lối sống Kitô Giáo; đề xuất này, với tầm nhìn có tính hoàn cầu từ trong căn bản, đụng đến mọi khía cạnh của nhân sinh. Việc tụ tập các tín hữu thành nhóm, với một cuộc sống chung chia sẻ mọi sự nhằm củng cố đời sống đức tin, đức cậy và đức mến này nói lên đầy đủ tính năng động của Giáo Hội như mầu nhiệm hiệp thông để truyền giáo, và tự biểu hiện mình như dấu chỉ sự hợp nhất của Giáo Hội trong Chúa Kitô. Theo nghĩa này, các hiệp hội Giáo Hội phát sinh từ một đặc sủng chung có khuynh hướng nhận “mục đích tông đồ rộng lớn của Giáo Hội” làm mục tiêu riêng của họ (7). Trong viễn ảnh này, các hiệp hội Giáo Hội, các phong trào Giáo Hội, và các cộng đồng mới đề xuất nhiều hình thức đổi mới đối với việc theo chân Chúa Kitô trong đó, communio cum Deo (việc hiệp thông với Thiên Chúa) và communio fidelium (việc hiệp thông của các tín hữu) đã được thâm hậu hóa. Nhờ thế, tính lôi cuốn trong cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu và vẻ đẹp của cuộc sống Kitô hữu trong tính trọn vẹn của nó được đưa vào một bối cảnh xã hội mới mẻ. Một hình thức truyền giáo và làm chứng đặc thù cũng được phát biểu trong thực tế này, nhằm khuyến khích sự lớn mạnh của cả ý thức sinh động đối với ơn gọi Kitô hữu của cá nhân lẫn những phương cách vững chắc nhằm đào luyện Kitô Giáo cũng như sống hoàn thiện theo Tin Mừng. Theo các đặc sủng đa dạng của họ, tín hữu có thể tham dự vào thực tại tụ họp này trong nhiều bậc sống khác nhau (tín hữu giáo dân, thừa tác viên thụ phong và những người thánh hiến). Nhờ cách này, họ biểu lộ sự phong phú đa dạng của hiệp thông Giáo Hội. Khả năng mạnh mẽ của một thực tại như thế nhằm tụ họp người ta lại với nhau đã tạo nên một chứng từ có ý nghĩa cho thấy Giáo Hội không lớn mạnh “nhờ việc cải đạo mà ‘nhờ lôi cuốn’” (8).

Đức Gioan Phaolô II từng nói chuyện với đại diện các phong trào cộng đồng mới. Ngài nhìn ra nơi các phong trào này một “câu trả lời đầy tính quan phòng” (9) phát sinh từ Chúa Thánh Thần đối với việc cần thiết phải thông truyền Tin Mừng cho toàn thế giới một cách thuyết phục, có xem xét tới các diễn trình thay đổi lớn lao trong hành động ở bình diện hoàn cầu, vốn chịu ảnh hưởng nặng nề của nền văn hóa duy tuc. Chất men của Thần Khí này “đã mang đến cho đời sống Giáo Hội một sự mới mẻ bất ngờ, đôi lúc thậm chí có tính phá hoại” (10). Cũng vị giáo hoàng này đã nhắc nhớ rằng thời “chín mùi của Giáo Hội” đã tới với tất cả các hiệp hội Giáo Hội này. Điều này bao hàm giá trị và việc hội nhập trọn vẹn của họ “vào các Giáo Hội địa phương và vào các giáo xứ […] luôn giữ hiệp thông với các mục tử và chăm chú nghe theo sự hướng dẫn của các ngài” (11). Các thực tại mới mẻ này làm trái tim Giáo Hội tràn đầy niềm vui và biết ơn, và họ được mời gọi liên hệ một cách tích cực với mọi hồng ân khác đang hiện diện trong đời sống Giáo Hội.

Mục đích của tài liệu này

3. Với tài liệu này, và dưới ánh sáng mối tương quan giữa các “hồng ân phẩm trật và đặc sủng”, Bộ Giáo Lý Đức Tin có ý định làm nổi bật các yếu tố thần học và Giáo Hội học mà việc thấu hiểu chúng sẽ khích lệ một sự tham dự hữu hiệu và có trật tự của các hiệp hội mới vào sự hiệp thông và vào sứ mệnh của Giáo Hội. Vì mục đích này, trước nhất, một số yếu tố chủ chốt thuộc cả tín lý đặc sủng tìm thấy trong Tân Ước lẫn suy tư của Huấn Quyền về các thực tại này sẽ được trình bầy. Lần lượt, dựa vào một số nguyên tắc của thần học hệ thống, việc nhận diện các yếu tố của cả hồng ân phẩm trật lẫn hồng ân đặc sủng sẽ được trình bầy song song với một số tiêu chuẩn để biện phân các hiệp hội Giáo Hội mới này.

I. Các đặc sủng theo Tân Ước

Ơn sủng và đặc sủng

4. “Đặc sủng” là lấy nguyên văn từ chữ Hy Lạp chárisma, một chữ thường thấy trong các thư của Thánh Phaolô, nhưng cũng xuất hiện trong thư thứ nhất của Thánh Phêrô. Chữ này đại cương có nghĩa “ơn sủng đại lượng” và trong Tân Ước, chỉ được dùng nói tới các ơn sủng của Thiên Chúa. Trong một số đoạn văn, bối cảnh cung cấp cho ta một ý nghĩa chính xác hơn (xem Rm 12:6; 1Cr 12: 4-31; 1Pr 4:10), mà nét căn bản là phân phối các ơn sủng cách dị biệt hóa (12). Trong các ngôn ngữ hiện đại, đây cũng là ý nghĩa trổi vượt của các từ lấy từ tiếng Hy Lạp. Không như các ơn sủng nền tảng như ơn thánh hóa hay các ơn tin, cậy và mến, vốn cần thiết cho mọi Kitô hữu, một đặc sủng cá thể không cần phải là một ơn ban cho mọi người (xem 1 Cr 12:30). Các đặc sủng là những ơn đặc thù được Chúa Thánh Thần ban phát “tùy ý Người” (1Cr 12:11). Để đưa ra một giải thích đối với sự hiện diện cần thiết của các đặc sủng khác nhau trong Giáo Hội, hai bản văn minh nhiên nhất, Rm 12:4-8 và 1Cr 12:12-30, đã sử dụng một so sánh với thân thể con người: “Vì cũng như trong một thân thể, ta có nhiều bộ phận, và mọi bộ phận không có cùng một chức năng như nhau thế nào, thì ta cũng vậy, dù là nhiều người, nhưng chúng ta chỉ là một thân thể trong Chúa Kitô và xét từng cá thể đều là các bộ phận của nhau. Vì ta có những hồng ân khác nhau tùy theo ơn sủng được ban cho ta, ta hãy sử dụng chúng” (Rm 12:4-6). Giữa các chi thể của thân thể, tính đa dạng này không tạo ra một sự dị thường cần phải tránh, trái lại, nó vừa cần thiết vừa sinh ích. Nó làm khả hữu việc chu toàn các chức năng khác nhau đem lại sự sống. “Giả như tất cả chỉ là một thứ bộ phận, thì làm sao mà thành thân thể được? Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một” (1Cr 12:19-20). Một tương quan mật thiết giữa các đặc sủng đặc thù (charísmata) và ơn sủng (cháris) của Thiên Chúa đã được quả quyết bởi Thánh Phaolô trong Rm 12:6 và bởi Thánh Phêrô trong thư 1Pr 4:10 (13). Các đặc sủng được nhìn nhận như là biểu hiện của “ơn sủng đa dạng của Thiên Chúa” (1Pr 4:10). Do đó, chúng không phải chỉ là các khả năng nhân bản. Nguồn gốc thần thiêng của nó đã được phát biểu nhiều cách khác nhau: theo một số bản văn, chúng phát xuất từ Thiên Chúa (xem Rm 12:3; 1Cr 12:28; 2Tm 1:6; 1Pr 4:10); theo Ep 4:7, chúng phát xuất từ Chúa Kitô; theo 1Cr 12:4-11, chúng phát xuất từ Chúa Thánh Thần. Vì đoạn văn cuối cùng vừa rồi là đoạn văn nhấn mạnh hơn cả (nó nhắc tới Chúa Thánh Thần đến 7 lần), các đặc sủng thường được trình bầy như là “các biểu hiện của Chúa Thánh Thần” (1Cr 12:7). Tuy nhiên, điều rõ ràng là sự qui kết này không có tính cách độc chiếm và không mâu thuẫn với hai qui kết trước đó. Các hồng ân của Thiên Chúa luôn bao hàm trọn bộ chân trời Ba Ngôi, như thần học vốn quả quyết ngay từ buổi đầu, cả ở Tây Phương lẫn ở Đông Phương (14).

Các hồng ân ban cho “để gây ích cho mọi người” và ưu vị của đức ái

5. Trong 1 Cr 12:7, Thánh Phaolô tuyên bố rằng “Đối với từng cá nhân, biểu hiện của Thánh Thần đươc ban bố vì một lợi ích nào đó”. Nhiều bản dịch thêm “vì ích lợi mọi người” (*) vì đa số các đặc sủng được Thánh Tông Đồ nhắc đến, dù không phải tất cả, đã trực tiếp nhằm gây ích lợi cho mọi người. Khuynh hướng nhằm xây dựng mọi người này đã được những người như Thánh Basilêô Cả, chẳng hạn, thấu hiểu, khi ngài viết: "Các hồng ân này được mỗi người tiếp nhận vì người khác hơn vì chính họ […] Trong cuộc sống chung, điều cần thiết là sức mạnh của Chúa Thánh Thần, ban cho một người, phải được thông truyền cho mọi người. Người chỉ biết sống cho bản thân mình, có thể nhận được đặc sủng, nhưng nó mãi vô ích, cứ nằm chết dí ở đấy bất động, vì mãi mãi an táng trong cái tôi của họ” (15). Tuy nhiên, Thánh Phaolô không bác bỏ điều này: một đặc sủng có thể chỉ hữu ích đối với người tiếp nhận nó mà thôi. Đây là trường hợp nói tiếng lạ, một đặc sủng khác với hồng ân nói tiên tri (16). Các đặc sủng có ích lợi chung, bất kể là đặc sủng lời nói (ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn nói tiên tri, ơn khuyên bảo) hay đặc sủng hành động (ơn sức mạnh, ơn thừa tác, ơn cai quản) cũng đều có ích lợi cho bản thân, vì việc chúng phục vụ ích chung vẫn giúp làm lớn mạnh đức ái nơi những người nắm được chúng.Về phương diện này, Thánh Phaolô nhận định rằng nếu người ta thiếu đức ái, thì ngay các đặc sủng cao nhất cũng chẳng ích lợi chi cho người tiếp nhận chúng (xem 1Cr 13:1-3). Một đoạn văn nghiêm khắc trong Tin Mừng Mátthêu (Mt 7:22-23) cũng nói lên cùng một sự thực: việc thi hành các đặc sủng hữu hình hơn (nói tiên tri, trừ qủy, làm phép lạ), bất hạnh thay, vẫn cùng hiện diện với việc thiếu mối tương quan chân chính với Đấng Cứu Thế. Thành thử, Thánh Phêrô cũng như Thánh Phaolô đều nhấn mạnh tới sự cần thiết phải qui hướng mọi đặc sủng về đức ái. Thánh Phêrô đề xuất qui luật tổng quát này: Vì mỗi người nhận được một hồng ân, nên hãy dùng hồng ân này để phục vụ lẫn nhau như những người quản lý ơn sủng đa dạng của Thiên Chúa” (1Pr 4:10). Thánh Phaolô thì quan tâm cách riêng tới việc sử dụng các đặc sủng trong các cuộc tụ họp của cộng đồng Kitô hữu, và nói rằng “Phải làm mọi sự để xây dựng” (1Cr 14:26).

Sự đa dạng của các đặc sủng

6. Trong một số bản văn, ta tìm thấy bảng liệt kê các đặc sủng, có khi được tóm tắt (xem 1Pr 4:10), có khi với nhiều chi tiết hơn (xem 1Cr 12:8-10, 28-30; Rm 12:6-8). Trong số các đặc sủng liệt kê, có những ơn sủng ngoại thường (chữa bệnh, làm những việc đồ xộ, nói nhiều tiếng lạ) và các ơn sủng thông thường (dạy dỗ, phục vụ, làm phúc), các thừa tác vụ hướng dẫn cộng đồng (xem Ep 4:11) và những hồng ân được ban qua việc đặt tay (xem 1Tm 4:14; 2Tm 1:6). Theo nghĩa hẹp của từ ngữ, việc các hồng ân này có phải là các “đặc sủng” hay không là điều không luôn luôn rõ ràng. Các hồng ân ngoại thường được nhắc đi nhắc lại trong 1Cr 12-14 bỗng biến mất trong các bản văn sau đó: bảng liệt kê của 1Rm 12:6-8 chỉ trình bầy các đặc sủng ít trông thấy hơn, nhưng có ích lợi liên tiếp đối với đời sống của cộng đồng Kitô hữu. Không bản liệt kê nào trên đây tự cho mình là rốt ráo (exhaustive). Ở nơi khác, chẳng hạn, Thánh Phaolô gợi ý: chọn sống độc thân vì tình yêu đối với Chúa Kitô nên được coi như hoa trái của một đặc sủng, cũng như đặc sủng hôn nhân vậy (xem 1 Cr 7:7 trong ngữ cảnh toàn chương). Các thí dụ ngài đưa ra tùy thuộc trình độ phát triển đạt được nơi các Giáo Hội của thời ấy và do đó, lệ thuộc các thêm bớt về sau. Thực vậy, với thời gian, Giáo Hội luôn lớn mạnh nhờ hành động ban sinh khí của Chúa Thánh Thần.

Việc thi hành thích đáng các đặc sủng trong cộng đồng Giáo Hội

7. Từ các nhận xét trên đây, ta thấy các bản văn Thánh Kinh không trình bầy bất cứ sự chống chọi nào giữa các đặc sủng đa dạng; đúng hơn, các bản văn này cho thấy một nối kết hòa hợp và một sự bổ túc giữa chúng với nhau. Phản đề giữa một Giáo Hội định chế theo kiểu Do Thái Kitô Giáo và một Giáo Hội đặc sủng theo kiểu Thánh Phaolô, mà một số lối giải thích theo kiểu giản lược về Giáo Hội quả quyết, trên thực tế thiếu hẳn nền tảng trong các bản văn Tân Ước. Không hề đặt các đặc sủng về một phía và thực tại định chế về phía khác, nhằm đối chọi một Giáo Hội “của đức ái” và một Giáo Hội “của định chế”, Thánh Phaolô gom vào một bản liệt kê cả các đặc sủng uy quyền và giảng dậy, vốn là các đặc sủng hữu ích cho đời sống bình thường của một cộng đồng, lẫn các đặc sủng đáng kể khác (17). Thánh Phaolô mô tả chính thừa tác vụ Tông Đồ của ngài như một thừa tác vụ “của Chúa Thánh Thần” (2Cr 3:8). Ngài cảm thấy như được mặc lấy một thẩm quyền (exousía), do Chúa ban cho ngài (xem 2Cr 10:8; 13:10), một thẩm quyền cũng được mở rộng cho các người được ơn đoàn sủng (charismatics). Cả ngài lẫn Thánh Phêrô đều cho các người lãnh ơn đoàn sủng nhiều lời huấn giáo về cung cách thi hành các đặc sủng của họ. Trên hết, thái độ của họ là thái độ chào đón thuận lợi; họ phải xác tín được nguồn cội thần thiêng của các đặc sủng; tuy nhiên, họ không được coi những hồng ân này như cho phép họ khỏi vâng lời đối với phẩm trật Giáo Hội, hay ban cho họ quyền được thừa tác độc lập. Thánh Phaolô tự chứng tỏ ngài hiểu rõ các trở ngại mà việc thi hành các đặc sủng cách bất trật tự có thể gây ra cho cộng đồng Kitô hữu (18). Cho nên, Thánh Tông Đồ đã dùng quyền của mình can thiệp vào việc thiết lập ra các qui luật chính xác để thi hành các đặc sủng “trong Giáo Hội” (1Cr 14:19-28), tức là, trong các cuộc tụ họp của cộng đồng (xem 1Cr 14:23-26). Thí dụ, ngài giới hạn việc thi hành ơn ngôn ngữ (glossolalia) (19). Các qui luật tương tự cũng đã được đưa ra cho ơn nói tiên tri (xem 1Cr 14:29-31) (20).

Các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng

8. Tóm tắt, từ việc khảo sát các bản văn Kinh Thánh liên quan tới các đặc sủng, ta thấy Tân Ước, dù không đưa ra một giáo huấn có tính hệ thống đầy đủ, nhưng đã trình bầy nhiều quả quyết có tầm rất quan trọng có khả năng hướng dẫn các suy nghĩ và thực hành của Giáo Hội. Ta cũng phải nhìn nhận rằng ta không tìm được một sự sử dụng nhất trí nào đối với hạn từ “đặc sủng”; đúng hơn, là cả một loạt ý nghĩa khác nhau đã được nhận thấy; các ý nghĩa này đang được suy tư thần học cũng như Huấn Quyền giúp ta hiểu thấu trong bối cảnh cái nhìn toàn diện về mầu nhiệm Giáo Hội. Trong tài liệu này, sự chú ý được đặt vào nhị thức (binomial) đã được nhấn mạnh trong đoạn 4 của Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, là đoạn nói tới “các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng”. Mối tương qan giữa chúng rõ ràng rất mật thiết và đã được trình bầy đầy đủ. Chúng có cùng một nguồn gốc và một mục đích như nhau. Chúng là ác hồng ân của Thiên Chúa, của Chúa Thánh Thần, của Chúa Kitô, ban cho ta để ta góp phần cách này hay cách khác vào việc xây dựng Giáo Hội. Ai nhận lãnh hồng ân lãnh đạo trong Giáo Hội cũng có trách nhiệm trông coi việc thi hành đúng đắn các đặc sủng khác, cách nào đó để tất cả đều góp phần vào ích lợi của Giáo Hội và sứ mệnh truyền giảng Tin Mừng của Giáo Hội, vì biết rõ rằng Chúa Thánh Thần đã phân phối các hồng ân đặc sủng cho bất cứ ai Người muốn (xem 1Cr 12:11). Cũng một Chúa Thánh Thần đã ban cho phẩm trật Giáo Hội khả năng biện phân tính chân chính của các đặc sủng, chào đón chúng một cách hân hoan và biết ơn, cổ vũ chúng một cách quảng đại, và đồng hành với chúng bằng một tình phụ tử đầy quan tâm. Chính lịch sử đã làm chứng cho hành động đa dạng của Chúa Thánh Thần, nhờ đó, Giáo Hội, “được xây trên nền tảng các Tông Đồ và tiên tri, với Chúa Giêsu Kitô như hòn đá chốt” (Ep 2:20), sống được sứ mệnh của mình trong lòng thế giới.


II. Mối tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và đặc sủng trong Huấn Quyền gần đây

Công Đồng Vatican II

9. Dù chưa bao giờ có sự thiếu vắng các đặc sủng đa dạng trong suốt dòng thời gian của lịch sử Giáo Hội, tuy nhiên, chỉ trong các thời gần đây, mới có những suy nghĩ có hệ thống được khai triển về chúng. Và dù học lý về đặc sủng từng chiếm một khoảng không gian quan trọng trong Huấn Quyền của Đức Piô XII như đã được phát biểu trong Mystici Corporis (21), nhưng bước dứt khoát tiến tới chỗ hiểu biết thỏa đáng mối tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và đặc sủng chỉ được thực hiện với giáo huấn của Công Đồng Vatican II. Các đoạn liên hệ bàn đến thể tài này (22) cho thấy: trong đời sống Giáo Hội, cộng với Lời Thiên Chúa, được viết ra và lưu truyền, song song với các bí tích, và với thừa tác vụ phẩm trật thụ phong, còn có các hồng ân, các hồng ân đặc biệt hay đặc sủng, do Chúa Thánh Thần ban phát nơi các tín hữu thuộc mọi điều kiện. Đoạn văn điển hình nhất về phương diện này tìm thấy trong Lumen Gentium, số 4:
“Giáo Hội, mà Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong mọi đường chân lý (xem Ga 16:13) và Người hợp nhất trong hiệp thông và các công trình thừa tác, Người vừa trang bị vừa dẫn dắt bằng các hồng ân phẩm trật và đặc sủng và trang điểm bằng hoa quả của Người (xem Ep 4:11-12,; 1Cr 12:4; Gl 5:22)” (23). Như thế, Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, khi trình bầy các hồng ân được ban phát qua Chúa Thánh Thần, bằng cách phân biệt giữa các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng, đã làm nổi bật sự dị biệt trong hợp nhất của chúng. Các xác quyết trong Lumen Gentium số 12 liên quan tới các hiện tượng đặc sủng xem ra cũng có ý nghĩa trong bối cảnh Dân Chúa tham dự vào chức vụ tiên tri của Chúa Kitô. Ta nhận ra: Chúa Thánh Thần không tự giới hạn Người vào việc này mà thôi vì “không phải chỉ qua các bí tích và các thừa tác vụ của Giáo Hội mà Chúa Thánh Thần thánh hóa và dẫn dắt Dân Chúa và phong phú hóa Dân này bằng các nhân đức”, nhưng “Người còn phân phát các hồng ân đặc biệt nơi các tín hữu mọi bậc. Nhờ các hồng ân này, Người làm cho họ xứng đáng và sẵn sàng đảm nhiệm các trách vụ và chức vụ đa dạng góp phần vào việc canh tân và xây đắp Giáo Hội”.

Cuối cùng, tính đa dạng và quan phòng của chúng được diễn tả như sau: “Các đặc sủng này, bất chấp trổi vượt hơn hay đơn giản hơn và ban phát rộng rãi hơn, đều cần được lãnh nhận với lòng biết ơn và cảm thấy được an ủi vì chúng hoàn toàn thích hợp và hữu ích cho nhu cầu của Giáo Hội” (24). Các suy tư tương tự cũng được tìm thấy trong Sắc Lệnh của Công Đồng về Tông Đồ Giáo Dân (25). Văn kiện này quả quyết rằng “từ việc chấp nhận các đặc sủng này, gồm cả các đặc sủng có tính sơ đẳng hơn, mỗi tín hữu đều có quyền và bổn phận phải dùng chúng trong Giáo Hội và trong thế giới để gây ích cho con người và xây dựng Giáo Hội, trong tự do của Chúa Thánh Thần” (26). Do đó, các đặc sủng chân chính đã được coi như các hồng ân có tầm quan trọng tuyệt đối cần thiết đối với đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội. Sau cùng, giáo huấn của Công Đồng không ngừng thừa nhận vai trò chủ yếu của các mục tử trong việc biện phân các đặc sủng và việc thi hành chúng cách trật tự trong hiệp thông Giáo Hội (27).

Huấn Quyền sau Công Đồng

10. Trong thời kỳ sau Công Đồng Vatican II, các can thiệp của Huấn Quyền về chủ đề này đã được nhân bội (28). Sinh khí mỗi ngày mỗi gia tăng nơi các phong trào mới, các hiệp hội giáo dân, và các cộng đồng Giáo Hội, cùng với như cầu chuyên biệt hóa vị trí của Đời Sống Thánh Hiến bên trong Giáo Hội đã góp phần vào việc nhân bội này (29). Đức Gioan Phaolô II, trong Huấn Quyền của ngài, đã nhấn mạnh cách riêng đến nguyên tắc đồng yếu tính (coessentiality) của các hồng ân này: “tôi thường có dịp nhấn mạnh rằng trong Giáo Hội, không hề có tranh chấp hay chống chọi giữa chiều kích định chế và chiều kích đặc sủng, mà các phong trào là một biểu thức quan trọng. Cả hai chiều kích này đều cùng một yếu tính với kết cấu thần linh của Giáo Hội do Chúa Giêsu thiết lập, vì cả hai cùng giúp làm cho mầu nhiệm Chúa Kitô và công trình cứu rỗi của Người hiện diện trên thế giới” (30). Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI, ngoài việc xác nhận tính đồng yếu tính của các hồng ân ra, còn thâm hậu hóa lời xác quyết của vị tiền nhiệm, khi nhắc nhớ rằng “trong Giáo Hội, các định chế có tính yếu tính cũng đều có tính đặc sủng và quả thực, các đặc sủng, cách này hay cách khác, đều phải được định chế hóa để có được sự gắn bó và liên tục. Do đó, cả hai chiều kích đều bắt nguồn từ cùng một Chúa Thánh Thần vì cùng một Nhiệm Thể Chúa Kitô, và cùng đồng tình làm cho mầu nhiệm và công trình cứu rỗi của Chúa Kitô hiện diện trên thế giới” (31). Như thế, các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng có liên hệ hỗ tương ngay từ nguồn gốc. Sau cùng, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc ta nhớ tới “sự hòa hợp” mà Chúa Thánh Thần đã tạo ra giữa các hồng ân đa dạng và đã kêu gọi các hiệp hội đặc sủng cởi mở đối với việc truyền giáo, vâng lời cần thiết đối với các mục tử, và duy trì sự hiệp thông trong Giáo Hội (32), vì “chính trong cộng đồng, các hồng ân mà Chúa Cha dư tràn ban cho chúng ta mới nở rộ và phát triển; và chính giữa lòng cộng đồng, người ta học được cách nhận ra chúng như dấu chỉ tình yêu của Người dành cho mọi con cái của Người” (33). Do đó, để tóm tắt, ta có thể nhận ra sự đồng thuận trong Huấn Quyền gần đây đối với tính đồng yếu tính giữa các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng. Sự chống đối giữa chúng, và cả việc đặt chúng bên cạnh nhau là triệu chứng của một sai lầm hay của việc hiểu không đủ về hành động của Chúa Thánh Thần trong đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội.

III. Nền tảng thần học của mối tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và đặc sủng

Các chân trời Ba Ngôi và Kitô học của các hồng ân Chúa Thánh Thần

11. Muốn nắm được các lý do sâu xa của mối tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng, ta nên nhớ tới nền tảng thần học của chúng. Thực vậy, việc cần thiết phải vượt qua kiểu đặt các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng ở thế chống chọi nhau vô ích hay bên cạnh nhau nhưng ngoại tại nhau là một đòi hỏi của chính nhiệm cục cứu rỗi, một nhiệm cục luôn bao hàm mối tương quan nội tại giữa các sứ mệnh của Ngôi Lời và các sứ mệnh của Chúa Thánh Thần. Thực thế, mọi hồng ân của Chúa Cha đều hàm nghĩa phải quy chiếu vào các hành động hỗn hợp và dị biệt hóa của sứ mệnh Thiên Chúa: mọi hồng ân đều phát xuất từ Chúa Cha, qua Chúa Con, trong Chúa Thánh Thần. Hồng ân Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội có liên quan chặt chẽ với sứ mệnh của Chúa Con, được dứt khoát chu toàn trong Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người. Chính Chúa Giêsu đã nối kết việc Người chu toàn sứ mệnh của Người với việc sai Chúa Thánh Thần xuống cộng đồng tín hữu (34). Qua việc sai xuống này, Chúa Thánh Thần không thể khai diễn một nhiệm cục nào khác hơn nhiệm cục Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, chịu đónh đinh và sống lại (35). Quả thực, toàn bộ nhiệm cục bí tích của Giáo Hội đều là sự thể hiện thần khí của Nhập Thể: bởi thế, Chúa Thánh Thần đã được Thánh Truyền coi là linh hồn của Giáo Hội, Nhiệm Thể Chúa Kitô. Hành động của Thiên Chúa trong lịch sử luôn bao hàm mối tương quan giữa Chúa Con và Chúa Thánh Thần, những Đấng vốn được gọi là “hai bàn tay của Chúa Cha” theo kiểu nói khêu gợi của Thánh Irênê thành Lyon (36). Theo nghĩa này, mọi hồng ân của Chúa Thánh Thần không thể không ở trong mối tương quan với Ngôi Lời thành xác phàm (37).

Dây nối kết từ nguồn gốc giữa các hồng ân phẩm trật, được ban bố bằng ơn bí tích truyền chức, và các hồng ân đặc sủng, được Chúa Thánh Thần ban phát tự do, do đó, có các gốc rễ hết sức sâu xa trong mối tương quan giữa Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể và Chúa Thánh Thần, Đấng luôn là Thần Khí của Chúa Cha và của Chúa Con. Chính vì để tránh các viễn kiến thần học mập mờ vốn chủ trương một “Giáo Hội của Thần Khí”, phân biệt và tách biệt hẳn với Giáo Hội phẩm trật-định chế, ta cần phải nhắc lại điều này: hai sứ mệnh thần thánh bao hàm lẫn nhau trong mọi hồng ân được ban cho Giáo Hội cách tự do. Thực thế, sứ mệnh của Chúa Giêsu Kitô vốn bao hàm hành động của Chúa Thánh Thần ngay trong chính nó. Trong thông điệp của ngài về Chúa Thánh Thần, Dominum et Vivificantem, Đức Gioan Phaolô II đã cho thấy tầm quan trọng dứt khoát của hành động Chúa Thánh Thần trong sứ mệnh Chúa Con (38). Đức Bênêđíctô XVI thâm hậu hóa tầm nhìn thông xuốt này trong Tông Huấn Sacramentum Caritatis của ngài; ngài nhắc nhở rằng Đấng Phù Trợ, Đấng “vốn làm việc ngay trong Sáng Thế (xem St 1:2), đã hiện diện suốt trong đời sống của Ngôi Lời nhập thể”. Chúa Giêsu Kitô “được Trinh Nữ Maria thụ thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần (xem Mt 1:18; Lc 1:35); ở bờ sông Gióc Đăng, ngay từ ngày khởi đầu sứ mệnh công khai của Người, Chúa Giêsu đã thấy Chúa Thánh Thần hiện xuống trên Người dưới hình chim bồ câu (xem Mt 3:16 và những câu song hành); Người hành động, nói năng và hân hoan trong Chúa Thánh Thần (xem Lc 10:21), và Người có thể hiến dâng mình trong Chúa Thánh Thần (xem Dt 9:14). Trong điều gọi là “diễn văn từ biệt” được Thánh Gioan tường thuật, Chúa Giêsu đã rõ ràng liên kết việc hiến mạng sống Người trong Mầu Nhiệm Vượt Qua với hồng ân Chúa Thánh Thần ban cho những kẻ thuộc về Người (xem Ga 16:7). Khi đã sống lại, còn mang trên da thịt các dấu tích của cuộc thống khổ, Người đã có thể tuôn ban Chúa Thánh Thần trên họ (xem Ga 20:22), biến họ thành những người tham dự vào chính sứ mệnh riêng của Người (xem Ga 20:21). Rồi, Chúa Thánh Thần dạy các môn đệ mọi điều và giúp họ nhớ lại mọi điều Chúa Kitô đã nói (xem Ga 14:26), vì cũng như Thần Khí sự thật (xem Ga 15:26), Người có nhiệm vụ dẫn đưa các tông đồ vào mọi sự thật (xem Ga 16:13). Trong trình thuật Công Vụ, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ đang tụ họp để cầu nguyện với Đức Maria vào Ngày Lễ Ngũ Tuần (xem 2:1-4) và thúc đẩy họ đảm nhận sứ mệnh công bố Tin Mừng cho mọi dân tộc (39).

Hành động của Chúa Thánh Thần trong các hồng ân phẩm trật và đặc sủng

12. Nhấn mạnh tới chân trời Ba Ngôi và Kitô học của các hồng ân Thiên Chúa cũng soi sáng mối tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng. Thực vậy, mối tương quan đối với các hành động cứu độ của Chúa Kitô, như việc thiết lập Phép Thánh Thể (xem Lc 22:19 tt; 1Cr 11:25), quyền tha tội (xem Ga 20:22tt), lệnh truyền cho các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng và làm phép rửa (Mc 16:15tt; Mt 28:18-20), đã xuất hiện đầu tiên trong các hồng ân phẩm trật vì chúng vốn thuộc bí tích Truyền Chức Thánh. Cũng hiển nhiên không kém là không một bí tích nào có thể được thông ban mà lại không có hành động của Chúa Thánh Thần (40). Mặt khác, các hồng ân đặc sủng, do Chúa Thánh Thần tự do ban phát, “Đấng muốn thổi đâu tùy ý Người” (Ga 3:8) và phân phát các hồng ân của Người “theo cách Người muốn” (1Cr 12:11), về phương diện khách quan đều có tương quan với sự sống mới trong Chúa Kitô, vì các Kitô hữu “về phần mình” (1Cr 12:27) đều là các chi thể của Nhiệm Thể Người. Do đó, việc thấu hiểu thích đáng các hồng ân đặc sủng chỉ có thể có nếu biết qui chiếu vào sự hiện diện của Chúa Kitô và việc phục vụ Người; như Đức Gioan Phaolô II từng quả quyết, “các đặc sủng đích thực không thể không hướng tới cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô trong các bí tích” (41). Do đó, các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng rõ ràng hợp nhất khi qui chiếu vào mối tương quan nội tại giữa Chúa Giêsu Kitô và Chúa Thánh Thần. Đấng Phù Trợ vừa là Đấng, qua các bí tích, phân phát một cách hữu hiệu ơn cứu rỗi do Chúa Kitô, Đấng đã chết và đã sống lại, đem tới, vừa là Đấng ban phát các đặc sủng.

Trong các phụng vụ Phục Sinh của Kitô Giáo, nhất là trong truyền thống Syria, vai trò của Chúa Thánh Thần, được mô tả bằng hình ảnh lưỡi lửa, góp phần làm cho kinh nghiệm này trở thành hiển nhiên tỏ tường. Thực thế, Thánh Ephrem, người Syria, nhà thần học và là thi sĩ vĩ đại, từng nói rằng “Lửa cảm thương hiện xuống / và mang lấy hình thức bánh ăn” (42), cho thấy không những hành động của Chúa Thánh Thần có liên hệ với việc biến đổi các hồng ân mà còn liên hệ với các tín hữu ăn bánh Thánh Thể nữa. Quan điểm Đông Phương, với sự hữu hiệu của ảnh tượng, giúp ta hiểu Chúa Kitô đã ban Chúa Thánh Thần cho ta cách nào khi lôi kéo ta tới gần Thánh Thể. Như thế, cũng một Chúa Thánh Thần, bằng các hành động của Người nơi các tín hữu, đã nuôi dưỡng họ bằng chính sự sống của Chúa Kitô, dẫn họ một lần nữa tới đời sống bí tích sâu sắc hơn, nhất là trong Phép Thánh Thể. Với cung cách này, hành động tự do của Chúa Thánh Thần trong lịch sử vươn tới các tín hữu bằng hồng ân cứu rỗi và cùng một lúc sinh động hóa họ để họ biết đáp ứng một cách tự do và trọn vẹn bằng việc cam kết đời họ.


IV Mối tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng trong đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội

Trong Giáo Hội như mầu nhiệm hiệp thông

13. Giáo Hội tự trình bầy mình như “một dân được làm nên một với sự hợp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (43), trong đó, mối tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng xuất hiện như được điều hướng vào việc tham dự trọn vẹn của tín hữu vào sự hiệp thông và sứ mệnh rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội. Ta được tiền định cách nhưng không để hưởng sự sống mới này nơi Chúa Kitô (Rm 8:29-31; Ep 1:4-5). Chúa Thánh Thần “tạo nên sự hiệp thông kỳ diệu này nơi các tín hữu. Người đem họ vào sự kết hợp thân mật với Chúa Kitô, đến nỗi Người là nguyên lý của sự hợp nhất trong Giáo Hội (44). Bên trong Giáo Hội, người ta được kêu gọi cùng nhau trở thành các chi thể của Chúa Kitô và bên trong sự hiệp thông của Giáo Hội, họ được hợp nhất với Chúa Kitô, như các chi thể của nhau. Hiệp thông luôn “là một sự tham dự kép rất quan yếu: tháp nhập các Kitô hữu vào đời sống Chúa Kitô, và toả lan đức ái giữa toàn thể các tín hữu ở đời này và đời sau. Hợp nhất với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô; và hợp nhất giữa các Kitô hữu trong Giáo Hội” (46). Trong chiều hướng này, mầu nhiệm Giáo Hội sáng lên “trong Chúa Kitô như một bí tích hay như một dấu chỉ và là dụng cụ của cả sự kết hợp hết sức mật thiết với Thiên Chúa và sự hợp nhất của toàn thể nhân loại” (47). Từ đó, ta có thể thấy: Giáo Hội, như một mầu nhiệm hiệp thông, có nguồn gốc bí tích: “Từ trong nền tảng, điều này có nghĩa là hiệp thông với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô, trong Chúa Thánh Thần. Sự hiệp thông này được thực hiện trong Lời Chúa và trong các bí tích. “Phép Rửa, kết hợp mật thiết với Phép Thêm Sức, là cửa ngõ bước vào và là nền tảng của hiệp thông trong Giáo Hội. Phép Thánh Thể là nguồn suối và là đỉnh cao của trọn bộ đời sống Kitô hữu” (48). Các bí tích khai tâm này tạo ra đời sống Kitô hữu và các hồng ân phẩm trật cũng như các hồng ân đặc sủng đều dựa vào chúng. Đời sống hiệp thông trong Giáo Hội, vốn được sắp đặt từ bên trong như thế, được sống trong một việc liên tục cung kính lắng nghe Lời Chúa và được nuôi dưỡng bằng các bí tích. Lời Chúa tự trình bầy với ta như được nối kết sâu xa với các bí tích, nhất là Phép Thánh Thể (49), trong chân trời Mạc Khải duy nhất có tính bí tích. Truyền thống Đông Phương nhìn lên Giáo Hội, nhiệm thể Chúa Kitô “được sinh động hóa” bởi Chúa Thánh Thần và thấy nơi Giáo Hội một sự hợp nhất có trật tự, một sự hợp nhất tự tỏ bầy cả trong bình diện các hồng ân của mình. Sự hiện diện hữu hiệu của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn các tín hữu (xem Rm 5:5) là nguyên nhân cội rễ của sự hợp nhất này ngay trong các biểu hiện đặc sủng (50). Các hồng ân đặc sủng ban cho các cá nhân thực sự thuộc về chính Giáo Hội và được sắp đặt cho một đời sống Giáo Hội thâm hậu hơn. Quan điểm này cũng có mặt trong các trước tác của Chân Phúc John Henry Newman: “Như thế, trái tim mọi Kitô hữu phải đại diện cho Giáo Hội Công Giáo thu nhỏ, vì Thánh Thần duy nhất đã biến cả toàn thể Giáo Hội và mọi chi thể của nó thành đền thờ của Người” (51). Do đó, tính sai lạc của bất cứ mâu thuẫn nào hay đặt cạnh nhau nào giữa các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng lại càng hiển nhiên hơn.

Tóm lại, mối tương quan giữa các hồng ân đặc sủng và cơ cấu bí tích của Giáo Hội xác nhận tính đồng yếu tính giữa các hồng ân phẩm trật (trong bản chất bền vững, thường hằng và bất khả thu hồi của chúng) và các hồng ân đặc sủng. Cho dù các hình thức lịch sử của những hồng ân đặc sủng không có chi bảo đảm là cứ y như nhau mọi thời (52), tuy nhiên, chiều kích đặc sủng thì sẽ không bao giờ thiếu trong đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội.

Bản sắc của các hồng ân phẩm trật

14. Để thánh hóa mọi thành viên của Dân Chúa và vì sứ mệnh của Giáo Hội trên thế giới, trong số các hồng ân đa dạng, phải dành “vị trí đặc biệt cho ơn làm Tông Đồ mà chính Chúa Thánh Thần đã buộc cả những người được ban đặc sủng cũng phải lệ thuộc thẩm quyền của các ngài” (53). Chính Chúa Giêsu Kitô cũng muốn phải có các hồng ân phẩm trật để bảo đảm sự hiện diện liên tục việc Người làm trung gian cứu rỗi duy nhất: “Các Tông Đồ được Chúa Kitô phong phú hóa bằng việc tuôn đổ cách đặc biệt Chúa Thánh Thần trên các ngài (xem Cv 1:8; 2:4; Ga 20:22-23), và các ngài chuyển giao hồng ân Chúa Thánh Thần này cho các người phụ tá các ngài bằng cách đặt tay (xem 1Tm 4:14; 2Tm 1:6-7)” (54). Do đó, việc trao ban các hồng ân phẩm trật có nguồn gốc trước nhất nơi tính viên mãn của bí tích Truyền Chức Thánh, được ban phát lúc truyền chức giám mục. Việc truyền chức này “cùng với chức vụ thánh hóa, cũng trao ban chức vụ giảng dậy và cai quản, một chức vụ, tuy thế, do chính bản chất của nó, chỉ có thể thi hành trong tình hiệp thông có tính phẩm trật với đầu và các thành viên của hợp đoàn” (55). Vì lý do này: “nơi các giám mục, do đó, tức các vị mà các linh mục vốn là trợ tá, Chúa Giêsu Kitô của chúng ta […] hiện diện giữa những người tin […] qua thừa tác vụ tuyệt diệu của các ngài, Người rao giảng Lời Chúa cho mọi dân tộc và không ngừng ban các bí tích đức tin cho những người tin, qua hành động đầy tình cha con của các ngài (xem 1Cr 4:15). Người tháp nhập các chi thể mới vào Nhiệm Thể Người qua việc tái sinh thiên giới, và sau cùng qua sự khôn ngoan và cẩn trọng của các ngài, Người điều hướng và hướng dẫn Dân Tân Ước trong cuộc hành trình của họ về hạnh phúc đời đời” (56). Truyền thống Kitô Giáo Đông Phương, vốn có nhiều nối kết quan yếu với các giáo phụ, đọc tất cả những điều này qua ý niệm taxis hết sức đặc trưng.Theo Thánh Basilêô Cả, việc xếp đặt Giáo Hội cho có trật tự hiển nhiên là công trình của Chúa Thánh Thần. Trật tự (taxis) này, một trật tự được Thánh Phaolô dùng để liệt kê các đặc sủng (xem 1Cr 12:28), là trật tự “phù hợp với sự phân phát các hồng ân của Chúa Thánh Thần” (57) và theo trật tự này, hồng ân Tông Đồ đứng hàng đầu. Khởi đi từ việc truyền chức giám mục, người ta cũng có thể hiểu các hồng ân phẩm trật trong tương quan với các thứ bậc khác của bí tích truyền chức thánh; trên hết, trong tương quan với các linh mục, những vị “được thánh hiến để rao giảng Tin Mừng và chăn dắt các tín hữu cũng như cử hành việc thờ phượng Thiên Chúa”, và là những vị “thánh hóa và cai quản thành phần trong đoàn chiên của Chúa được trao phó cho các vị”, dưới thẩm quyền của vị giám mục. Về phần các vị, các vị phải trở nên “một khuôn mẫu cho đoàn chiên”, để các vị có thể “dẫn dắt và phục vụ cộng đồng địa phương của các vị”(58). Trong bí tích truyền chức thánh, các giám mục và linh mục, nhờ việc xức dầu linh mục, “nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô Linh Mục một cách khiến các vị có thể hành động nhân danh Chúa Kitô là Đầu” (59). Người ta phải thêm vào các hồng ân này các hồng ân ban cho các phó tế “trên họ có việc đặt tay ‘không phải để làm linh mục, nhưng để đảm nhiệm thừa tác phục vụ’” và là những người “nhờ được tăng cường bởi ơn sủng bí tích, và trong sự hiệp thông với giám mục và đoàn linh mục của ngài, họ phục vụ trong chức phó tế lo phụng vụ, lời Chúa, và đức ái đối với Dân Chúa” (60). Tóm lại, các hồng ân phẩm trật dành riêng cho bí tích truyền chức thánh, trong các thứ bậc khác nhau, đã được trao ban để Giáo Hội như một hiệp thông không bao giờ không cung hiến cho mỗi thành viên trong đoàn tín hữu một quà phúc ơn sủng khách quan trong các bí tích, và nhờ thế, đem lại cho họ cả việc công bố Tin Mừng lẫn việc chăm sóc mục vụ hợp qui định.

Bản sắc các hồng ân đặc sủng

15. Trong việc thi hành các hồng ân phẩm trật, nếu việc cung hiến ơn sủng của Chúa Kitô cho toàn thể Dân Chúa suốt trong lịch sử được đảm bảo, thì mỗi cá nhân tín hữu vẫn được kêu gọi phải đích thân tiếp nhận và đáp lại ơn sủng này trong các hoàn cảnh cụ thể của đời sống họ. Do đó, các hồng ân đặc sủng được Chúa Thánh Thần ban phát tự do để ơn sủng bí tích có thể sinh hoa trái trong đời sống Kitô hữu nhiều cách khác nhau và ở mọi bình diện.

Vì các hồng ân này “hoàn toàn thích hợp và hữu ích cho nhu cầu Giáo Hội” (61), nhờ sự phong phú đa dạng của chúng, Dân Chúa có đủ khả năng sống sứ mệnh Tin Mừng của họ, biết biện phân các dấu chỉ của thời đại và biết giải thích chúng dưới ánh sáng Tin Mừng (62). Thực vậy, các hồng ân đặc sủng giúp các tín hữu khả năng đáp lại hồng ân cứu rỗi một cách hoàn toàn tự do và hoàn toàn thích ứng với thời đại. Nhờ cách này, chính họ trở nên hồng phúc yêu thương cho người khác và các chứng tá chân chính của Tin Mừng trước mặt toàn thể nhân loại.

Chia sẻ các hồng ân đặc sủng

16. Trong bối cảnh này, điều quan trọng là phải nhớ rằng các hồng ân đặc sủng hết sức đa dạng ngay trong chính chúng, không những vì đặc điểm chuyên biệt của chúng mà còn vì sự phân phát chúng trong cộng đồng Giáo Hội. Các hồng ân đặc sủng “được ban cho những con người cá thể, nhưng chúng cũng được những người khác chia sẻ, đến nỗi qua dòng thời gian, các đặc sủng ấy tồn tại như một di sản sống động và quý giá, tạo nên một liên hệ thiêng liêng đặc biệt giữa các cá nhân” (63). Mối tương quan giữa đặc tính cá nhân của đặc sủng và khả thể chia sẻ nó nói lên một yếu tố có tính quyết định trong tính năng động của nó, vì nó đụng tới một mối tương quan mà trong hiệp thông Giáo Hội vốn luôn liên kết cá nhân với cộng đồng (64). Khi được đem ra thi hành, các hồng ân đặc sủng có thể phát sinh ra sợi dây đồng cảm, gần gũi, và các tương quan thiêng liêng. Qua chúng, gia tài đặc sủng, phát sinh nơi con người của vị sáng lập, được chia sẻ và thâm hậu hóa, nhờ thế, đem lại sức sống cho các gia đình thiêng liêng đích thực. Các hiệp hội Giáo Hội mới này, trong các hình thức đa dạng của chúng, tự trình bầy mình như những hồng ân đặc sủng được chia sẻ. Các phong trào Giáo Hội và các cộng đồng mới cho thấy một đặc sủng sáng lập nhất định nào đó đã có thể tụ tập các tín hữu lại với nhau ra sao và giúp họ sống trọn ơn gọi Kitô hữu và bậc sống thích hợp của họ như thế nào trong việc phục vụ sứ mệnh Giáo Hội. Các hình thức lịch sử cụ thể của việc chia sẻ này có thể đa dạng; chính vì lý do này, như lịch sử linh đạo đã chứng minh, nhiều cơ sở khác nhau đã phát sinh từ một đặc sủng gốc duy nhất.

Được thẩm quyền Giáo Hội thừa nhận

17. Trong số các hồng ân đặc sủng do Chúa Thánh Thần ban phát tự do, nhiều hồng ân được tiếp nhận và sống bởi những người trong cộng đồng Kitô Giáo không cần bất cứ qui luật đặc thù nào. Tuy nhiên, khi một hồng ân tự trình bầy mình như là “đặc sủng sáng lập” hay “đặc sủng nguyên khởi”, thì nó cần được thừa nhận cách chuyên biệt để sự phong phú của nó được minh tả trong hiệp thông Giáo Hội và được lưu truyền một cách trung thành với thời gian. Ở đây, ta thấy phát sinh trách nhiệm có tính quyết định phải biện phân, một trách vụ vốn thuộc các thẩm quyền Giáo Hội (65). Thừa nhận tính chân chính của một đặc sủng không luôn luôn là một trách vụ dễ dàng, tuy nhiên, đây là một phục vụ mang tính bổn phận mà các mục tử buộc phải chu toàn. Các tín hữu có “quyền đòi các mục tử thông tri về tính chính đáng của các đặc sủng và tính đáng tin cậy của những người tự cho mình đã lãnh nhận các đặc sủng này” (66). Để đạt mục tiêu này, các thẩm quyền Giáo Hội nên lưu ý tới bản chất khó có thể đoán trước của các đặc sủng được Chúa Thánh Thần linh hứng và đánh giá các đặc sủng này theo qui luật đức tin với ý hướng xây dựng Giáo Hội (67). Diễn trình này đòi hỏi nhiều thời gian. Nó đòi phải qua một thời kỳ thích đáng mới có thể chứng thực được một đặc sủng, vốn phải được đệ trình cho một cuộc biện phân nghiêm túc cho tới khi được thừa nhận là chân chính. Thực tại của nhóm phát sinh từ đặc sủng phải có thời gian thích đáng để lớn lên và trưởng thành. Thời gian này phải vượt quá thời kỳ hứng khởi lúc ban đầu cho tới khi một cấu hình ổn định xuất hiện.Trong suốt diễn trình chứng thực này, thẩm quyền của Giáo Hội phải đồng hành một cách nhân từ với nhóm mới mẻ này. Việc đồng hành của vị mục tử không bao giờ được giảm thiểu vì, tình yêu săn đón của Đấng Chăn Chiên Lành luôn đồng hành với đoàn chiên như thế nào, thì tình phụ tử của các vị trong Giáo Hội vốn được kêu gọi làm đại diện cho Đấng Chăn Chiên Lành cũng không bao giờ được suy tàn như thế.

Các tiêu chuẩn để biện phân các hồng ân đặc sủng

18. Trong bối cảnh đó, điều hữu ích là ghi nhớ một số tiêu chuẩn, như đã được Huấn Quyền của Giáo Hội đưa ra trong mấy năm gần đây, để biện phân các hồng ân đặc sủng nơi các hiệp hội Giáo Hội. Các tiêu chuẩn này nhằm mục đích giúp việc thừa nhận bản chất Giáo Hội chân chính của các đặc sủng.

a) Tính ưu vị của lời mời gọi mọi Kitô hữu nên thánh. Mọi thực thể phát sinh từ việc cùng chia sẻ một đặc sủng chân chính luôn luôn phải phục vụ việc nên thánh trong Giáo Hội và, do đó, việc gia tăng đức ái và thực sự tiến tới sự hoàn thiện của yêu thương (68).

b) Cam kết loan truyền Tin Mừng. Các đặc sủng chân chính “là các hồng ân của Chúa Thánh Thần được tháp nhập vào thân thể Giáo Hội, được lôi cuốn vào tâm điểm là chính Chúa Kitô và sau đó, được tuôn vào lực đẩy rao giảng Tin Mừng” (69). Theo cách này, chúng phải có đặc điểm “phù hợp với và tham dự vào các mục tiêu tông đồ của Giáo Hội” và biểu lộ “một lòng nhiệt thành truyền giáo làm gia tăng tính hữu hiệu của chúng như các yếu tố tham dự vào việc tái phúc âm hóa” (70).

c) Tuyên xưng đức tin Công Giáo. Mọi thực thể đặc sủng phải là nơi để giáo dục đức tin trong tính viên mãn của nó bằng cách “tuân theo và tuyên xưng sự thật về Chúa Kitô, về Giáo Hội và nhân loại, trong sự vâng lời Huấn Quyền Giáo Hội, như Giáo Hội giải thích nó” (71); vì lý do này, họ phải tránh việc phiêu lưu “vượt quá (proagon) tín lý và cộng đồng Giáo Hội”. Thực vậy, nếu “người ta không ở trong những điều này, họ không hợp nhất với Thiên Chúa và với Chúa Giêsu Kitô” (xem 2Ga 9) (72).

d) Làm chứng cho việc hiệp thông thực sự với toàn thể Giáo Hội. Điều này đòi một “tương quan con thảo với Đức Giáo Hoàng, hoàn toàn gắn bó với niềm tin rằng ngài là tâm điểm hợp nhất vĩnh cửu và hữu hình của Giáo Hội hoàn vũ, và với giám mục địa phương, ngài là ‘nguyên tắc và nền tảng hữu hình của hợp nhất’ trong các Giáo Hội đặc thù” (73). Điều này hàm nghĩa một lòng “sẵn sàng trung thành tuân theo các giáo huấn tín lý và các sáng kiến mục vụ” (74), cũng như “một lòng sẵn sàng tham dự vào chương trình và hoạt động của Giáo Hội trên các bình diện địa phương, quốc gia và quốc tế; một cam kết đối với việc giảng dạy giáo lý và một khả năng dạy dỗ và đào tạo các Kitô hữu” (75).

e) Nhìn nhận và trân qúi tính bổ túc hỗ tương của các thành phần đặc sủng khác trong Giáo Hội. Từ tiêu chuẩn này, phát sinh lòng sẵn sàng hợp tác hỗ tương (76). Thực vậy, “một dấu chỉ chắc chắn của tính chân chính nơi một đặc sủng là đặc tính Giáo Hội của nó, khả năng của nó trong việc được tháp nhập một cách hài hòa vào đời sống của dân thánh thiện và trung thành của Thiên Chúa vì ích lợi của mọi người. Điều gì thực sự mới mẻ do Chúa Thánh Thần đem đến cũng không cần phải che phủ các hồng ân và các nền linh đạo khác được người ta cảm nhận” (77).

f) Chấp nhận các giây phút bị thử thách trong lúc biện phân các đặc sủng. Vì một hồng ân đặc sủng có thể bao hàm “một yếu tố có tính độc đáo thưc sự và có tính sáng kiến đặc biệt nào đó đối với đời sống thiêng liêng của Giáo Hội” và ở chung quanh nó, “sự việc có thể có phần rắc rối”, thành thử một trong các tiêu chuẩn xác nhận tính chân chính là “lòng khiêm nhường chịu đựng nghịch cảnh” sao cho “mối tương quan thực sự giữa một đặc sủng chân chính, với viễn tượng mới mẻ của nó, và sự đau khổ nội tâm, mang theo được một lịch sử không thay đổi của sợi dây nối kết giữa đặc sủng và thập giá” (78). Bất cứ sự căng thẳng nào có thể phát sinh cũng đều là một lời kêu gọi phải thực hành lòng bác ái lớn hơn, nhằm hướng tới một hiệp thông và hợp nhất Giáo Hội sâu sắc hơn là hiện có.

g) Phải có các hoa trái thiêng liêng như đức ái, niềm vui, hòa bình và trưởng thành nào đó về nhân bản (Xem Gl 5:22); ước ao được “sống đời sống của Giáo Hội cách mãnh liệt hơn “ (79), ước ao được “lắng nghe và suy niệm lời Chúa” nhiều hơn (80); “đánh giá cao một cách đổi mới việc cầu nguyện, việc chiêm niệm, sinh hoạt phụng vụ và bí tích, đánh thức ơn gọi hôn nhân Kitô Giáo, chức linh mục thừa tác và đời sống thánh hiến” (81).

h) Chiều kích xã hội của việc rao giảng Tin Mừng. Điều cũng cần thiết là thừa nhận rằng, nhờ sự thúc đẩy của đức ái, “giáo huấn sơ truyền (kerygma) vốn có một nội dung xã hội rõ ràng: đời sống cộng đồng và việc nối kết với người khác nằm ngay ở tâm điểm của Tin Mừng” (82). Tiêu chuẩn biện phân này, một tiêu chuẩn không chỉ giới hạn vào các thực thể giáo dân trong Giáo Hội, vốn nhấn mạnh tới sự nhất thiết phải là “các cửa ngõ phong phú cho việc tham gia và tình liên đới trong việc tạo ra các điều kiện sống công bình và yêu thương hơn trong xã hội” (83). Về phương diện này, “lòng ước ao được hiện diện như Kitô hữu trong các khung cảnh khác nhau của dời sống xã hội và việc tạo ra cũng như đánh thức các công trình bác ái, văn hóa và thiêng liêng; tinh thần không dính bén và đức khó nghèo thiêng liêng dẫn tới một lòng quảng đại lớn hơn trong tình bác ái với mọi người” thẩy đều quan trọng (84). Qui chiếu vào Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội cũng là một nhân tố có tính quyết định (85). Cách riêng, “đức tin của chúng ta vào Chúa Kitô, Đấng đã trở nên nghèo, và luôn gần gũi người nghèo và người bị xua đuổi, là căn bản đối với quan tâm của chúng ta đối với việc phát triển toàn diện các thành viên bị lãng quên nhất của xã hội” (86). Điều này không thể thiếu nơi một thực thể có tính Giáo Hội chân chính.

 
V. Thực hành trong Giáo Hội liên hệ tới mối tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng

19. Sau cùng, điều cần thiết là phải nói tới một số yếu tố trong việc Giáo Hội thực hành cụ thể mối tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng đã được định hình như các nhóm đặc sủng trong hiệp thông Giáo Hội.

Tính hỗ tương

20. Trước nhất, việc thiết lập các mối tương quan tốt đẹp giữa các hồng ân đa dạng trong Giáo Hội đòi phải thực sự tháp nhập thực thể đặc sủng vào đời sống mục vụ của Giáo Hội đặc thù. Điều này buộc các nhóm đa dạng phải thừa nhận thẩm quyền của các mục tử trong Giáo Hội như là một thực tại trong chính đời sống Kitô Giáo, và khi thành thực ước muốn được thừa nhận, được tiếp đón và sau cùng được thanh luyện, họ phải tự đặt mình vào thế sẵn sàng phục vụ sứ mệnh của Giáo Hội. Mặt khác, những vị được ủy thác các hồng ân phẩm trật, khi thi hành việc biện phân và đồng hành với các đặc sủng, cần phải thân ái tiếp nhận những gì mà Chúa Thánh Thần đã linh hứng trong hiệp thông Giáo Hội, do đó, lưu ý tới các hoạt động mục vụ và trân qúi sự đóng góp của họ như là một nguồn chân chính gây ích lợi cho mọi người.

Các hồng ân đặc sủng trong Giáo Hội hoàn vũ và đặc thù

21. Liên hệ tới việc phân tán và tính đặc thù của các thực thể đặc sủng, ta cũng phải xét tới mối tương quan có tính cơ cấu và yếu tính giữa Giáo Hội hoàn vũ và các Giáo Hội đặc thù. Vì lý do này, cần phải minh xác rằng: như ta đã tuyên xưng trong Kinh Tin Kính Các Thánh Tông Đồ, Giáo Hội của Chúa Kitô “là Giáo Hội phổ quát, nghĩa là, một cộng đồng khắp thế giới của các môn đệ Chúa, một cộng đồng hiện diện và hoạt động giữa những đặc điểm đặc thù và tính đa dạng về người, về nhóm, về thời gian và nơi chốn” (87). Do đó, chiều kích đặc thù là chiều kích nội tại đối với chiều kích phổ quát và ngược lại; có một “nội tại tính hỗ tương” (88) giữa các Giáo Hội đặc thù và Giáo Hội hoàn vũ. Trong bối cảnh này, các hồng ân phẩm trật riêng của Vị Thừa Nhiệm Thánh Phêrô được thi hành để bảo đảm và làm dễ nội tại tính của Giáo Hội hoàn vũ bên trong các Giáo Hội địa phương; cũng thế, Chức Vụ Tông Đồ của các giám mục cá thể không bị giới hạn bên trong các giáo phận của các ngài nhưng được kêu gọi tuôn trào ra toàn thể Giáo Hội, nhờ cả tình âu yếm thích đáng đối với tính hợp đoàn và các hiệu quả của tính này, và nhất là nhờ tình hiệp thông với centrum unitatis Ecclesiae (tâm điểm sự hợp nhất Giáo Hội) là chính Giám Mục Rôma. “Là người kế nhiệm Thánh Phêrô, ngài là nguyên lý và nền tảng trường cửu và hữu hình của sự hợp nhất cả các giám mục lẫn tín hữu giáo dân. Tuy nhiên, các giám mục cá thể là nguyên lý và nền tảng hữu hình của sự hợp nhất trong các Giáo Hội đặc thù của các ngài, được lên khuôn theo mẫu mực Giáo Hội hoàn vũ; chính trong và từ các Giáo Hội này, mà có Giáo Hội Công Giáo duy nhất” (89). Điều này hàm nghĩa: trong mọi Giáo Hội đặc thù, “Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, Công Giáo và tông truyền của Chúa Kitô thực sự hiện diện và hoạt động” (90). Do đó, việc qui chiếu tới thẩm quyền của Vị Kế Nhiệm Thánh Phêrô, tức việc hiệp thông cum Petro et sub Petro (với Phêrô và dưới Phêrô) là có tính cấu tạo đối với mọi Giáo Hội địa phương (91).

Nhờ cách này, nền tảng của mối tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và đặc sủng đã được đặt trong mối tương quan giữa Giáo Hội phổ quát và các Giáo Hội đặc thù. Một đàng, các hồng ân đặc sủng được ban cho toàn thể Giáo Hội; đàng khác, tính năng động của các hồng ân này phải tự thể hiện trong việc phục vụ một giáo phận cụ thể, vốn “là một phần của Dân Chúa đã được ủy thác cho một giám mục để được ngài chăn dắt với sự hợp tác của linh mục đoàn” (92). Vì mục đích này, điều hữu ích là nhớ tới trường hợp Đời Sống Thánh Hiến; đây không phải là một thực tại nằm ở ngoài và độc lập đối với đời sống của Giáo Hội địa phương; đúng hơn, nó tạo ra một cách thế để hiện diện giữa Giáo Hội địa phương, một cách hiện diện được đánh dấu bởi tính triệt để của Tin Mừng và sở đắc các hồng ân chuyên biệt của mình. Đặc ân “miễn trừ” (exemption) mà truyền thống vốn ban cho nhiều Viện Sống Đời Thánh Hiến (93) không ngụ hàm một thứ siêu tòng thổ không nhập tịch (disincarnated dislocation) hay một thứ độc lập bị hiểu sai lầm, mà đúng hơn là một sự tương tác sâu sắc hơn giữa chiều kích phổ quát và chiều kích đặc thù của Giáo Hội (94). Tương tự như thế, các thực thể đặc sủng mới, khi sở hữu đặc tính siêu giáo phận (supra-diocesan), không nên tự coi mình như hoàn toàn độc lập đối với Giáo Hội đặc thù; đúng hơn, họ nên phong phú hóa và phục vụ Giáo Hội này bằng chính tính đặc thù ấy, một tính đặc thù vốn được chia sẻ bên kia biên giới của một giáo phận.

Các hồng ân đặc sủng và các bậc sống của Kitô hữu

22. Các hồng ân đặc sủng do Chúa Thánh Thần ban phát có thể có liên hệ với toàn bộ trật tự hiệp thông của Giáo Hội về cả phương diện bí tích lẫn Lời Thiên Chúa. Tùy theo các nét đa dạng của chúng, các hồng ân này có thể mang nhiều hoa trái trong việc chu toàn các bổn phận vốn phát sinh từ phép rửa tội, phép thêm sức, phép hôn phối và phép truyền chức thánh. Chúng cũng giúp ta khả năng hiểu rõ hơn Truyền Thống Tông Đồ về phương diện thiêng liêng; ngoài việc nghiên cứu thần học và việc giảng dậy của những vị được ủy thác charisma veritatis certum (đặc sủng chân lý chắc chắn) (95), truyền thống này còn có thể được thâm hậu hóa nhờ những vị nắm được “một sự hiểu biết sâu sắc các thực tại thiêng liêng do cảm nghiệm bản thân” (96). Trong bối cảnh này, điều hữu ích là liệt kê các câu hỏi nền tảng liên hệ tới mối tương quan giữa các hồng ân đặc sủng và các bậc sống khác nhau, lưu ý đặc biệt tới chức linh mục chung của Dân Chúa và chức linh mục thừa tác và phẩm trật, hai chức linh mục “dù khác nhau trong yếu tính chứ không phải chỉ trong mức độ […] nhưng có liên hệ qua lại với nhau: mỗi chức, theo cách riêng của nó, đều là một tham dự vào chức linh mục duy nhất của Chúa Kitô” (97). Thực vậy, chúng tạo ra “hai cách tham dự vào chức linh mục duy nhất của Chúa Kitô, là chức bao gồm hai chiều kích nhưng kết hợp làm một trong hành vi hy sinh tối thượng trên thập giá” (98).

a) Thứ nhất, ta cần nhìn nhận sự tốt lành của các đặc sủng khác nhau đã khai sinh ra nhiều hiệp hội có tính Giáo Hội giữa mọi tín hữu, được kêu gọi làm cho ơn sủng bí tích sinh nhiều hoa trái, dưới sự lãnh đạo của các mục tử hợp pháp của họ. Chúng đem lại một dịp may chân chính để người ta sống và phát triển ơn gọi làm Kitô hữu cách thích đáng của họ (99). Các hồng ân đặc sủng này giúp các tín hữu có thể sống chức linh mục chung của Dân Chúa như là một phần trong cuộc sống hằng ngày của họ: là “các môn đệ của Chúa Kitô, chuyên chăm cầu nguyện và ca ngợi Thiên Chúa, (xem Cv 2:42-47), [họ] nên tự trình bầy mình như của lễ hy sinh sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa (xem Rm 12:1). Ở khắp nơi trên trái đất, họ phải làm chứng cho Chúa Kitô và trả lời cho những ai muốn có lời giải thích về niềm hy vọng được sống đời đời của họ (xem 1Pr 3:15)” (100). Thuộc loại này còn có những hiệp hội rất có ý nghĩa đối với đời sống hôn nhân Kitô Giáo; những hiệp hội này “nên cố gắng dùng các chương trình huấn giáo và các hành động của họ để củng cố giới trẻ và chính các cặp vợ chồng, nhất là những cặp vợ chồng mới cưới, và huấn luyện để họ đảm nhiệm cuộc sống gia đình, xã hội và tông đồ” (101).

b) Nhờ việc tham dự của họ vào một thực thể đặc sủng, các thừa tác viên thụ phong cũng có thể được nhắc nhở về ý nghĩa phép rửa của chính họ, nhờ đó họ trở nên con cái Thiên Chúa, cũng như sứ mệnh và ơn gọi chuyên biệt của riêng mình. Nơi một hiệp hội Giáo Hội nhất định, thành viên thụ phong của đoàn tín hữu có khả năng tìm được một trợ giúp nào đó để họ sống cách sâu sắc hơn các thách đố trong thừa tác vụ chuyên biệt của họ trong tương quan với toàn thể Dân Chúa, nhất là bộ phận được ủy thác cho họ, và trong tương quan với việc thành thực vâng lời Đấng Bản Quyền (102). Tương tự như thế, ta cũng có thể nói cùng một điều vừa nói với các ứng viên chịu chức linh mục thuộc một hiệp hội Giáo Hội đặc thù, như Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Pastores Dabo Vobis (103) đã quả quyết; một tương quan như thế cần được bầy tỏ một cách trung thành tích cực đối với chính việc đào tạo chuyên biệt của họ, làm giầu việc đào tạo này bằng đặc sủng liên hệ. Cuối cùng, tùy theo đặc tính riêng của từng hiệp hội, sự trợ giúp mục vụ mà vị linh mục có khả năng cung ứng cho hiệp hội phải luôn phù hợp với regimen (tông hiến?) đã được dự trù cho việc hiệp thông trong Giáo Hội, nhất là phần dành cho các Chức Thánh, liên quan tới việc nhập tịch (incardination) (104) và vâng lời đối với đấng bản quyền (105).

c) Sự đóng góp của hồng ân đặc sủng vào chức linh mục do phép rửa và vào chức linh mục do thừa tác đã được minh tả bằng Đời Sống Thánh Hiến; đời sống này, tự nó, vốn được định vị trong chiều kích đặc sủng của Giáo Hội (106). Một đặc sủng như thế, một đặc sủng nói lên “sự đồng hình đồng dạng đặc biệt với Chúa Kitô, Đấng khiết tịnh, nghèo khó và vâng lời” (107) như một hình thức sống bền đỗ (108) do lời khấn giữ các lời khuyên của Tin Mừng, đã được ban giúp người ta “có khả năng hái lượm được nhiều hoa trái dư thừa hơn từ […]ơn sủng của phép rửa” (109). Đối với cả tín hữu giáo dân lẫn các linh mục, linh đạo của Các Viện Đời Sống Thánh Hiến có thể trở thành nguồn tài nguyên quan trọng giúp họ sống ơn gọi riêng của họ. Hơn nữa, các thành viên của các Viện Đời Sống Thánh Hiến, với sự đồng thuận cần thiết của các bề trên của họ (110), thường có thể tìm thấy nơi các hiệp hội mới một sự trợ giúp quan trọng để sống ơn gọi của mình, và ngược lại, có thể cung ứng một “chứng tá trung tín, hân hoan và có tính đặc sủng đối với đời sống thánh hiến” (111), nhờ thế, tạo nên một sự phong phú hóa hỗ tương.

d) Sau cùng, điều có ý nghĩa là tinh thần các lời khuyên của Tin Mừng cũng đã được Huấn Quyền đề nghị cho mọi thừa tác viên thụ phong (112). Ngay bậc sống độc thân, một điều bắt buộc đối với các linh mục trong truyền thống Latinh đáng kính (113) cũng đã rõ ràng có cùng một đường hướng với các hồng ân đặc sủng; bậc sống này không chủ yếu có tính chức năng; đúng hơn, nó “thực sự làm người ta đặc biệt trở nên đồng hình đồng dạng với chính lối sống riêng của Chúa Kitô” (114), trong đó, việc hoàn toàn hiến mình cho sứ mệnh mà bí tích truyền chức thánh trao ban đã được thể hiện (115).

Các hình thức thừa nhận của Giáo Hội

23. Tài liệu này có ý định minh giải vị trí thần học và Giáo Hội học của các hiệp hội mới trong Giáo Hội dưới ánh sáng mối tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và đặc sủng. Hy vọng rằng tài liệu này sẽ đóng góp vào việc nhận diện được một cách cụ thể các phương thế thoả đáng nhất để Giáo Hội thừa nhận chúng. Bộ Giáo Luật hiện hành cung cấp các phương thế pháp lý khác nhau để thừa nhận các thực thể mới trong Giáo Hội, vốn do các hồng ân đặc sủng mà có. Các phương thế này cần phải được xem xét một cách thận trọng (116), tránh các tiền lệ không biết xem xét thoả đáng cả các nguyên tắc luật lệ nền tảng lẫn bản chất và tính đặc thù của các thực thể đặc sủng đa dạng.
Nhìn từ mối tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và đặc sủng, điều cần là phải xem xét hai tiêu chuẩn căn bản không thể tách biệt nhau: a) tôn trọng tính đặc thù của các nhóm đặc sủng cá thể, tránh những trói buộc pháp lý bóp nghẹt tính mới mẻ vốn phát sinh từ kinh nghiệm chuyên biệt. Nhờ cách này, người ta tránh được nguy cơ các đặc sủng đa dạng bị coi như các nguồn tài nguyên tầm thường trong Giáo Hội; b) tôn trọng các regimen (hiến chế?) nền tảng trong Giáo Hội, nhờ cách này, ta làm dễ việc tháp nhập hữu hiệu các hồng ân đặc sủng vào đời sống của cả Giáo Hội đặc thù lẫn Giáo Hội hoàn vũ. Nhờ thế, tránh được bất cứ nguy cơ nào khiến các thực thể đặc sủng bị coi như hoạt động song song với đời sống Giáo Hội hay không được sắp xếp trong tương quan với các hồng ân phẩm trật.

Kết luận

24. Khi chờ để được tuôn đổ Chúa Thánh Thần, các môn đệ đầu tiên đã rất chuyên chăm và hợp nhất trong lời cầu nguyện cùng với Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu (xem Cv 1:14). Ngài đã hoàn toàn chấp nhận mọi ơn sủng và làm cho chúng sinh hoa trái, nhờ thế, ngài đã được Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh phong phú hóa một cách siêu dư tràn: quan trọng nhất là ơn được làm Mẹ Thiên Chúa. Mọi con cái của Giáo Hội có thể chiêm ngưỡng sự ngoan ngoãn hoàn toàn của ngài đối với hành động của Chúa Thánh Thần: một sự ngoan ngoãn không tì vết trong đức tin và trong sự khiêm nhường trong sáng. Do đó, Đức Mẹ đã chứng tỏ một cách trọn vẹn việc ngoan ngoãn và trung thành lãnh nhận mọi hồng ân của Chúa Thánh Thần. Hơn nữa, như Công Đồng Vatican dạy, Đức Trinh Nữ Maria, bằng đức ái mẫu thân của ngài, “chăm sóc anh em của Con mình, những đứa con vẫn còn đang lữ thứ trên trần gian giữa vòng vây của nguy hiểm và thử thách, cho tới lúc chúng được đưa vào cõi hạnh phúc tại quê hương đích thực của chúng” (117). Vì ngài “tự để mình được Chúa Thánh Thần dẫn dắt trên con đường đức tin hướng về đích phục vụ và sinh hoa trái, nên hôm nay, ta nhìn lên ngài và xin ngài giúp chúng ta công bố sứ điệp cứu rỗi cho mọi người và giúp các môn đệ mới, đến lượt họ, trở thành các người rao giảng Tin Mừng” (118). Vì lý do này, Đức Maria được nhìn nhận là Mẹ Giáo Hội và chúng ta, đầy lòng tin tưởng, cùng chạy đến với ngài, để, nhờ sự giúp đỡ đắc lực và sự cầu bầu mạnh thế của ngài, các đặc sủng, được Chúa Thánh Thần ban phát cho các tín hữu, được lãnh nhận một cách ngoan ngoãn và sinh hoa trái cho đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội và cho thiện ích của thế giới.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô, trong buổi yết kiến dành cho Đức Hồng Y Bộ Trưởng ngày 14 tháng Ba, 2016, đã chấp thuận Thư này, từng được Phiên Họp Toàn Thể của Thánh Bộ này thông qua, và truyền cho công bố.


Rôma, từ Văn Phòng Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, ngày 15 tháng Năm, 2016, Ngày Lễ Hiện Xuống.

Hồng Y Gerhard Müller, Bộ Trưởng
Luis F. Ladaria, S.I., Tổng Giám Mục hiệu tòa Thibica, Thư Ký
 

------------------------------------------------------------------

(*) Nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh: “Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung”. Bản dịch của Cha Nguyễn Thế Thuấn cũng tương tự như thế.



[1] Hiến chế tín lý Lumen Gentium, số 4.
[2] Thánh Gioan Chrysostom, Homilia de Pentecoste, II, 1: PG 50, 464.
[3] Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium (24 tah1ng 11, 2013), 49: AAS 105 (2013), 1040.
[4] Xem đã dẫn, 20-24: AAS 105 (2013), 1028-1029.
[5] Xem đã dẫn, 14: AAS 105 (2013), 1025.
[6] Đã dẫn, 25: AAS 105 (2013), 1030.
[7] Sắc lệnh Apostolicam Actuositatem, 19.
[8] Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, 14: AAS 105 (2013), 1026; Xem Đức Bênêđíctô XVI, Bài giảng trong Thánh Lễ khai mạc hội nghị toàn thể lần thứ năm hàng giám mục Mỹ Châu Latinh và vùng Caribbean tại “La Aparecida” (13 tháng 5 2007): AAS 99 (2007), 43.
[9] Đức Gioan Phaolô II, Diễn văn cho những người thuộc Các Phong Trào Giáo Hội và Các Cộng Đồng mới ngày vọng Lễ Hiện Xuống (30 tháng 5, 1998), 7: Insegnamenti 21/1 (1998), 1123.
[10] Đã dẫn, 6: Insegnamenti 21/1 (1998), 1122.
[11] Đã dẫn., 8: Insegnamenti 21/1 (1998), 1124.
[12] “Có những loại đặc sủng đặc thù (charismata) khác nhau” (Rm 12:6); “mỗi người chúng ta đều có đặc sủng riêng do Chúa ban, người thì đặc sủng này, người thì đặc sủng kia” (1 Cr 7:7).
[13] Trong tiếng Hy Lạp, hai từ (chárisma and cháris) có chung một gốc.
[14] Xem. Origen, De principiis, I, 3, 7: PG 11, 153: “điều được gọi là hồng ân Chúa Thánh Thần đã được chuyển giao qua công trình Chúa Con và được tạo ra bời công trình Chúa Cha”
[15] Thánh Basilêô thành Caesarea, Regulae fusius Tractae, 7, 2: PG 31, 933-934.
[16] “Ai nói tiếng lạ tự xây dựng chính mình, nhưng ai nói tiên tri thì xây dựng Giáo Hội” (1 Cr 14:4). Thánh Tông Đồ không bác bỏ ơn nói tiếng lạ (glossolalia), một đặc sủng cầu nguyện hữu ích cho mối tương quan bản thân với Thiên Chúa, và ngài thừa nhận nó là một đặc sủng chân chính, dù không trực tiếp có ích lợi cộng đồng: “tôi cảm tạ Thiên Chúa vì tôi đã nói tiếng lạ hơn bất cứ ai trong anh em, nhưng trong Giáo Hội, tôi chẳng thà nói năm chữ bằng đầu óc mình, để có thể huấn giáo cả người khác nữa, hơn là nói mười ngàn chữ tiếng lạ” (1 Cor 14:18-19).
[17] Xem 1 Cor 12:28: “Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác, để quản trị, để nói các thứ tiếng lạ”
[18] Trong các tụ họp cộng đồng, việc có quá dư các biểu hiện đặc sủng có thể tạo ra khó khăn, tạo ra bầu khí tranh chấp, mất trật tự và hỗn độn. Những Kitô hữu ít hồng ân hơn có nguy cơ rơi vào mặc cảm tự ti (xem 1Cr 12:15-16); trong khi ấy, những người có nhiều đặc sủng dễ bị cám dỗ có những dáng bộ tự cao tự đại (xem 1 Cr 12:21).
[19] Nếu trong cộng đoàn, không tìm thấy ai có khả năng giải thích các từ ngữ lạ lùng của người nói tiếng lạ, thì Thánh Phaolô dạy những người nói tiếng lạ nên giữ im lặng. Nếu có người biết giải thích, Thánh Phaolô cho phép hai, hay nhiều nhất ba người nói tiếng lạ (xem 1Cr 14:27-28).
[20] Thánh Phaolô không chấp nhận ý niệm linh hứng tiên tri không kiềm chế; thay vào đó, ngài quả quyết rằng “Ngôn sứ thì làm chủ những cảm hứng tiên tri của mình, bởi vì Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa gây hỗn loạn, nhưng là Thiên Chúa tạo bình an” (1 Cr 14:32-33). Ngài quả quyết rằng “Nếu ai tưởng mình là ngôn sứ hoặc được Thần Khí linh hứng, thì hãy nhìn nhận rằng các điều tôi viết đây là mệnh lệnh của Chúa. Ai không nhận biết điều ấy, thì cũng không được Chúa biết đến” (1Cr 14:37-39). Tuy nhiên, ngài kết luận một cách tích cực khi mời gọi họ hãy khao khát ơn nói tiên tri và đừng ngăn cấm nói các tiếng lạ (xem 1 Cr 14:39).
[21] Đức Piô XII, Thông Điệp Mystici Corporis (29 tháng 6, 1943): AAS 35 (1943), 206-230.
[22] Xem Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, 4, 7, 11, 12, 25, 30, 50; Hiến Chế Tín Lý Dei Verbum, 8; Sắc Lệnh Apostolicam Actuositatem, 3, 4, 30; Sắc Lệnh Presbyterorum Ordinis 4, 9.
[23] Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, 4.
[24] Đã dẫn, 12.
[25] Xem Sắc Lệnh Apostolicam Actuositatem, 3: “Ðể thể hiện việc tông đồ này, Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hóa dân Chúa qua tác vụ và các bí tích, cũng ban cho các tín hữu những ơn đặc biệt (xem 1Cr 12:7), ‘phân phát những ơn đó cho mọi người tùy ý Ngài’ (1Cr 12:11) để mỗi người tùy theo ơn đã nhận mà giúp đỡ nhau và chính họ trở nên như ‘những người quản lý trung tín giữ mọi thứ ơn của Thiên Chúa’ (1Pr 4:10) hầu xây dựng toàn thân trong đức ái (xem Ep 4:16)”
[26] Đã dẫn.
[27] Xem Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, 12: “Những vị thủ lãnh trong Giáo Hội có thẩm quyền phán quyết về tính cách chân chính và sự sử dụng hợp lý các ơn lạ ấy; các ngài có nhiệm vụ đặc biệt phải khảo sát tất cả, không phải để dập tắt Thánh Thần, nhưng để giữ lại những điều thiện hảo (x. 1Th 5,12 và 19-21)”. Dù câu này nói cận kề tới việc biện phân các hồng ân ngoại thường, nhưng do loại suy, điều nói ở đây cũng áp dụng chung cho mọi đặc sủng.
[28] Thí dụ xem Đức Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii nuntiandi (8 tháng 12, 1975), 58: AAS 68 (1976), 46-49; Thánh Bộ Các Viện Tu Dòng và Tu Triều – Thánh Bộ Giám Mục, Chỉ Thị Mutuae relationis (14 tháng 5, 1978), AAS 70 (1978), 473-506; Đức Gioan Phaolô II, Tông Huấn Christifideles Laici (30 tháng 12, 1988): AAS 81 (1989), 393-521; Tông Huấn Vita Consecrata (25 tháng 3, 1996): AAS 88 (1996), 377-486.
[29] Lời quả quyết của văn kiện liên bộ nói trên tức Mutuae relationes khá điển hình. Trong đoạn 34, văn kiện này nhấn mạnh: “Sẽ là một sai lầm nghiêm trọng khi biến hai thực tại: đời sống tu dòng và cơ cấu Giáo Hội, độc lập với nhau, hay đặt chúng đối nghịch nhau như thể chúng hiện tồn như hao thực thể xa lạ, một có tính đặc sủng, một có tính định chế. Cả hai yêu tố, tức các hồng ân thiêng liêng và cơ cấu Giáo Hội tạo nên một thực tại duy nhất, dcho dù phức tạp”.
[30] Đức Gioan Phaolô II, Sứ điệp gửi các tham dự viên Hội Nghị Thế Giới các Phong Trào Giáo Hội được Hội Đồng Giáo Hoàng về Giáo Dân cổ vũ (27 tháng 5, 1998), 5: Insegnamenti 21/1 (1998), 1065; Cũng nên xem Đã Dẫn, Các Phong Trào Giáo Hội tụ họp dự hội nghị chuyên đề quốc tế (2 tháng 3, 1987): Insegnamenti 10/1 (1987), 476-479.
[31] Đức Bênêđíctô XVI, Diễn văn trước các tham dự viên về hành hương được huynh đoàn Hiệp Thông và Giải Phóng cổ vũ (24 tháng 3, 2007): Insegnamenti 3/1 (2007), 558.
[32] “Hành trình với nhau trong Giáo Hội, dưới sự hướng dẫn của các mục tử Giáo Hội có đặc sủng và thừa tác vụ đặc biệt, là dấu chỉ hành động của Chúa Thánh Thần. Có một cảm thức về Giáo Hội là một điều nền tảng đối với mọi Kitô hữu, mọi cộng đồng và mọi phong trào”: Đức Phanxicô, Bài giảng trong Lễ Trọng Hiện Xuống (19 tháng 5, 2013): Insegnamenti 1 (2013), 208.
[33] Đức Phanxicô, Bài Giao Lý (1 tháng 10, 2014): L’Osservatore Romano (2 tháng 10, 2014), 8.
[34] Xem Ga 7:39; 14:26; 15:26; 20:22.
[35] Xem Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Tuyên Bố Dominus Iesus (6 tháng 8, 2000), 9-12: AAS 92 (2000), 749-754.
[36] Thánh Irênê thành Lyon, Adversus haereses, IV, 7, 4: PG 7, 992-993; V, 1, 3: PG 7, 1123; V, 6, 1: PG 7, 1137; V, 28, 4: PG 7, 1200.
[37] Xem Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Tuyên Bố Dominus Iesus, 12: AAS 92 (2000), 752-754.
[38] Xem Đức Gioan Phaolô II, Thông Điệp Dominum et Vivificantem (18 tháng 5, 1986), 50: AAS 78 (1986), 896-870; Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo 727-730
[39] Đức Bênêđíctô XVI, Tông Huấn Sacramentum Caritatis (22 tháng 2, 2007), 12: AAS 99 (2007), 114.
[40] Xem Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, 1104-1107.
[41] Đức Gioan Phaolô II, Diễn Văn với những người thuộc các phong trào Giáo Hội và các cộng đồng mới ngày Vọng Lễ Hiện Xuống (30 tháng 5, 1998), 7: Insegnamenti 21/1 (1998) 1123.
[42] Thánh Ephrem người Syria, Các Thánh Ca về đức tin, 10, 12: CSCO 154, 50.
[43] Thánh Cyprianô thành Carthage, De oratione dominica, 23: PL 4, 553; xem Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, 4.
[44] Công Đồng Vatican II, Sắc lệnh Unitatis Redintegratio, 2.
[45] Xem Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Tuyên Bố Dominus Iesus, 16: AAS 92 (2000), 757: “Sự viên mãn của mầu nhiệm cứu rỗi của Chúa Kitô cũng thuộc về Giáo Hội, vốn kết hợp bất khả phân với Chúa của mình”.
[46] Đức Phaolô VI, Bài Giáo Lý (8 tháng 6, 1966): Insegnamenti 4 (1966), 794.
[47] Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, 1.
[48] Kỳ Họp Toàn Thể Đặc Biệt Lần Thứ Hai Thượng Hội Đồng Giám Mục, Ecclesia sub Verbo mysteria Christi celebrans pro salute mundi (Giáo Hội dưới Ngôi Lời, mầu nhiệm Chúa Kitô cử hành để cứu rỗi thế gian). Phúc trình sau cùng (7 tháng 12, 1985), II, C, 1: Enchiridion Vaticanum, 9, 1800; Xem Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Thư Communionis Notio (28 tháng 5, 1992), 4-5: AAS 85 (1993), 839-841.
[49] Xem Đức Bênêđíctô XVI, Tông Huấn Verbum Domini (30 tháng 9, 2010), 54: AAS 102 (2010), 733-734; Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, 174: AAS 105 (2013), 1092-1093.
[50] Xem Thánh Basilêô thành Cesarea, De Spiritu Sancto, 26: PG 32, 181.
[51] J.H. Newman, Sermons Bearing on Subjects of the Day, London 1869, 132.
[52] Lời khẳng định điển hình về vấn đề này liên quan tới Đời Sống Thánh Hiến có thể tìm thấy trong Đức Gioan Phaolô II, Bài Giáo Lý (28 tháng 9, 1994), 5: Insegnamenti 17/2 (1994), 404-405.
[53] Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, 7.
[54] Đã dẫn., 21.
[55] Đã dẫn.
[56] Đã dẫn.
[57] Thánh Basilêô thành Cesarea, De Spiritu Sancto, 16, 38: PG 32, 137.
[58] Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, 28.
[59] Đã dẫn, Sắc Lệnh Presybyterium Ordinis, 2.
[60] Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, 29.
[61] Đã dẫn, 12.
[62] Xem Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et Spes, 4, 11.
[63] Đức Gioan Phaolô II, Tông Huấn Christifideles Laici, 24: AAS 81 (1989), 434.
[64] Xem Đã dẫn, 29: AAS 81 (1989), 443-446.
[65] Xem Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium,, 12.
[66] Đức Gioan Phaolô II, Bài Giáo Lý (9 tháng 3, 1994), 6: Insegnamenti 17/1 (1994), 641.
[67] Xem Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo, 799 tt; Thánh Bộ Các Viện Đời Sống Thánh Hiến và Các Hội Đời Sống Tông Đồ, Chỉ Thị Mutuae Relationes, 51: AAS 70 (1978), 499-500; Đức Gioan Phaolô II, Tông Huấn Vita Consecrata, 48: AAS 88 (1996), 421-422; Đã dẫn, Bài Giáo Lý (24 tháng 6, 1992), 6: Insegnamenti 15/1 (1992), 1935-1936.
[68] Xem Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, 39-42; Đức Gioan Phaolô II, Tông Huấn Christifideles Laici, 30: AAS 81 (1989), 446.
[69] Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, 130: AAS 105 (2013), 1074.
[70] Đức Gioan Phaolô II, Tông Huấn Christifideles Laici, 30: AAS 81 (1989), 447; Xem Đức Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, 58: AAS 68 (1976), 49.
[71] Đức Gioan Phaolô II, Tông Huấn Christifideles Laici, 30: AAS 81 (1989), 446-447.
[72] Đức Phanxicô, Bài Giảng Lễ Hiện Xuống (19 tháng 5, 2013), Insegnamenti 1 (2013), 208.
[73] Đức Gioan Phaolô II, Tông Huấn Christifideles Laici, 30: AAS 81 (1989), 447; Xem Đức Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, 58: AAS 68 (1976), 48.
[74] Đức Gioan Phaolô II, Tông Huấn Christifideles Laici, 30: AAS 81 (1989), 447.
[75] Đã dẫn: AAS 81 (1989), 448.
[76] Xem Đã dẫn: AAS 81 (1989), 447.
[77] Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, 130: AAS 105 (2013), 1074-1075.
[78] Thánh Bộ Các Viện Đời Sống Thánh Hiến và Các Hội Đời Sống Tông Đồ, Chỉ Thị Mutuae Relationes, 12: AAS 70 (1978), 480-481; Xem Đức Gioan Phaolô II, Diễn Văn Dịp gặp Các Phong Trào Giáo Hội và Cộng Đồng Mới ngày Vọng Lễ Hiện Xuống (30 tháng 5, 1998), 6: Insegnamenti 21/1 (1998), 1122.
[79] Đức Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, 58: AAS 68 (1976), 48.
[80] Đã dẫn; Xem Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, 174-175: AAS 105 (2013), 1092-1093.
[81] Đức Gioan Phaolô II, Tông Huấn Christifideles Laici, 30: AAS 81 (1989), 448.
[82] Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, 177: AAS 105 (2013), 1094.
[83] Đức Gioan Phaolô II, Tông Huấn Christifideles Laici, 30: AAS 81 (1989), 448.
[84] Đã dẫn.
[85] Xem Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, 184, 221: AAS 105 (2013), 1097, 1110-1111.
[86] Đã dẫn, 186: AAS 105 (2013), 1098.
 [87] Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Thư Communionis Notio, 7: AAS 85 (1993), 842.
[88] Đã dẫn, 9: AAS 85 (1993), 843.
[89] Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, 23.
[90] Đã dẫn, Sắc Lệnh Christus Dominus, 11.
[91] Xem Đã dẫn, 2; Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Thư Communionis Notio, 13-14, 16: AAS 85 (1993), 846-848.
[92] Công Đồng Vatican II, Sắc Lệnh Christus Dominus, 11.
[93] Xem Đã dẫn, 35; Bộ Giáo Luật, điều 591; Bộ Giáo Luật Đông Phương, điều 412, §2: Thánh Bộ Các Viện Đời Sống Thánh Hiến và Các Hội Đời Sống Tông Đồ, Chỉ Thị Mutuae Relationes, 22: AAS 70 (1978), 487.
[94] Xem Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Thư Communionis Notio, 15: AAS 85 (1993), 847.
[95] Xem Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Dei Verbum, 8; Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo, 888-892.
[96] Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Dei Verbum, 8.
[97] Đã dẫn, Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, 10.
[98] Đức Gioan Phaolô II, Tông Huấn Pastores Gregis (16 tháng 10, 2003), 10: AAS 96 (2004), 838.
[99] Xem Đã dẫn, Tông Huấn Christifideles Laici, 29: AAS 81 (1989), 443-446.
[100] Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, 10.
[101] Đã dẫn, Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et Spes, 52; Xem Đức Gioan Phaolô II, Tông Huấn Familiaris Consortio (22 tháng 11, 1981), 72: AAS 74 (1982), 169-170.
[102] Xem Đức Gioan Phaolô II, Tông Huấn Pastores Dabo Vobis (25 tháng 3, 1992), 68: AAS 84 (1992), 777.
[103] Xem Đã dẫn, 31, 68: AAS 84 (1992), 708-709, 775-777.
[104] Xem Bộ Giáo Luật, điều 265; Bộ Giáo Luật Đông Phương, điều 357, §1.
[105] Xem Bộ Giáo Luật, điều 273; Bộ Giáo Luật Đông Phương, điều 370.
[106] Thánh Bộ Các Viện Đời Sống Thánh Hiến và Các Hội Đời Sống Tông Đồ, Chỉ Thị Mutuae Relationes, 19, 34: AAS 70 (1978), 485-486, 493.
[107] Đức Gioan Phaolô II, Tông Huấn Vita Consecrata, 31: AAS 88 (1996), 404-405.
[108] Xem Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, 43.
[109] Đã dẫn 44; Xem Sắc Lệnh Perfectae Caritatis, 5; Đức Gioan Phaolô II, Tông Huấn Vita Consecrata, 14, 30: AAS 88 (1996), 387-388, 403-404.
[110] Xem Bộ Giáo Luật, điều 307, §3; Bộ Giáo Luật Đông Phương, điều 578, §3.
[111] Thánh Bộ Các Viện Đời Sống Thánh Hiến và Các Hội Đời Sống Tông Đồ, Chỉ Thị Ripartire Da Cristo (19 tháng 5, 2002), 30: Enchiridion Vaticanum, 21, 472.
[112] Xem Đức Gioan Phaolô II, Tông Huấn Pastores Dabo Vobis, 27-30: AAS 84 (1992), 700-707.
[113] Xem Đức Phaolô VI, Thông Điệp Sacerdotalis Caelibatus (24 tháng 6, 1967): AAS 59 (1967), 657-697.
[114] Đức Bênêđíctô XVI, Tông Huấn Sacramentum Caritatis, 24: AAS 99 (2007), 124.
[115] Xem Đức Gioan Phaolô II, Tông Huấn Pastores Dabo Vobis, 29: AAS 84 (1992), 703-705; Công Đồng Vatican II, Sắc Lệnh Presbyterorum Ordinis, 16.
[116] Hình thức pháp lý đơn giản nhất để thừa nhận các thực thể Giáo Hội có bản chất đặc sủng hiện nay dường như là hình thức hiệp hội tư của các tín hữu Kitô (Xem Bộ Giáo Luật, điều 321-326; Bộ Giáo Luật Đông Phương, điều 573, §2-583). Tuy nhiên, cũng nên xem xét các hình thức pháp lý khác với các đặc điểm chuyên biệt, như các hiệp hội công của các tín hữu Kitô (xem Bộ Giáo Luật, điều 573-730; Bộ Giáo Luật Đông Phương, điều 573, §1-583), các hiệp hội giáo sĩ của tín hữu Kitô (Xem Bộ Giáo Luật, điều 302), các viện đời sống thánh hiến (Xem Bộ Giáo Luật, điều 573-730; Bộ Giáo Luật Đông Phương, điều 410-571), các Hội Đời Sống Tông Đồ (Xem Bộ Giáo Luật, điều 731-746; Bộ Giáo Luật Đông Phương, điều 572) và các giám hạt tòng nhân (Xem Bộ Giáo Luật, điều 294-297).
[117] Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, 62.
[118] Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, 287: AAS 105 (2013), 1136.
Tác giả bài viết: Vũ Văn An chuyển ngữ
Nguồn tin: Vietcatholic.org
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

 

   

LƯỢT XEM TRANG

  • Đang truy cập: 9
  • Hôm nay: 2357
  • Tháng hiện tại: 158164
  • Tổng lượt truy cập: 12134951