Trang mới   https://gpquinhon.org

Giải Viết Văn Đường Trường 2017 - Bản tin 08

Đăng lúc: Thứ hai - 03/04/2017 16:19
 

 
 
GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2017
BẢN TIN 08
 
Thưa quí độc giả và quí tác giả,
Mở đầu bản tin, chúng tôi xin có một thông báo ngăn về cuộc thi sang năm, 2018. Để kết thúc giải Viết Văn Đường Trường, trong cuộc thi lần cuối, ngoài những giải thưởng dành riêng cho từng truyện như các năm trước, sẽ có những giải thưởng dành cho các tuyển tập truyện ngắn, tức là những chùm truyện từ 10 truyện trở lên (kể cả những truyện đã từng gửi dự thi nhưng không đạt giải nay chỉnh sửa lại). Chúng tôi thông báo sớm để các tác giả có thể chuẩn bị ngay từ bây giờ. Các chi tiết liên quan sẽ được nêu rõ trong bản thể lệ sẽ công bố vào dịp trao giải 22-9-2017.
Trở lại chủ đề cuộc thi năm nay, trong một tập giáo lý căn bản của Chương trình Giáo lý Phổ thông, các em nhỏ được học:
Cả Công giáo lẫn Tin lành,
Đều là con Chúa, là anh em nhà.
Thế nhưng khi đã có chuyện sứt mẻ từ nửa ngàn năm qua, việc tìm lại hiệp nhất không dễ. Với sức người, dường như không thể nào được, nhưng với ơn Chúa, đường về hiệp nhất chỉ có hoặc xa hoặc gần, sớm muộn thế nào cũng tới đích. Một giải pháp thực tế đã đạt được ở đầu thế kỷ XXI này dành cho những cộng đồng Anh giáo quay về hiệp nhất với Giáo hội Rôma là những giáo phận tòng nhân. Có thể nói là tương tự như một hội dòng giáo hoàng. Các thành viên một dòng giáo hoàng có thể phục vụ tại nhiều giáo phận khác nhau, tuy nhiên về mặt pháp lý giáo hội, họ trực thuộc Bề trên thượng cấp của Dòng chứ không trực thuộc Giám mục địa phương. Sắp tới đây, những Kitô hữu thuộc về Huynh đoàn Thánh Piô X, được hội nhập lại vào Hội thánh Rôma cũng sẽ theo quy chế ấy. Nhiều nhóm khác nhau với lễ nghi riêng và sinh hoạt riêng nhưng vẫn hiểu nhau và hiệp thông với nhau sâu xa trong cùng một ngôn ngữ của đức tin và tình yêu. Chúa Thánh Thần đã thực hiện điều ấy trong dịp lễ Ngũ Tuần sau ngày Chúa Kitô Phục sinh. Những bước tiến của một trăm năm qua và đặc biệt là năm mươi năm qua, từ Công đồng Vaticanô II trở lại đây, cho ta thấy tràn trề hy vọng.
Những gợi ý ấy có thể phần nào trấn an nỗi băn khoăn trong lá thư của một tác giả gửi kèm với bài dự thi:
“Con xin gửi Ban Tổ chức và Quý Cha truyện ngắn thứ ba dự thi VVĐT năm 2017. Tuy đây là bản ghép của những câu chuyện có thật song nó khá điển hình và bản thân con vẫn thấy khổ tâm khi viết ra, một số vấn đề “khá nghiêm trọng”, con chỉ dám “nói bóng nói gió” trong truyện thôi. Vậy nên nếu truyện không phù hợp với tiêu chí của cuộc thi, kính xin Cha cứ loại sớm ạ.
Con xin phép được kể với Cha về hành trình con đi sang giao lưu với người Tin lành, hơi dài dòng một chút, con hy vọng Cha dành chút thời gian nghe tâm sự của con, những trải nghiệm và một vài cuộc khảo sát của con.
Con đã theo hướng của Đức Thánh cha Phanxicô trong Tông huấn “Niềm vui của Tin Mừng” để đi ra. Thế nhưng về tông huấn này, con thấy chỉ có các vị dự tu (có ý định đi Xơ, đi Thầy) biết đại ý, còn hầu hết giáo dân chưa từng nghe!
Còn về vấn đề “Đại kết”. Nơi những người Công giáo con khảo sát, hầu như họ không hề biết đến “Đại kết”, bao gồm cả giáo dân, giáo lý viên, thậm chí cả các vị dự tu! Khi con gợi đến “Đại kết”, người ta thậm chí còn cười chê con “ăn cơm tấm nói chuyện Quốc gia, lo mà giữ đạo đi”! Về phía người Tin lành, họ có biết về “Đại kết”, song suy nghĩ của họ là “Cùng tin một Chúa, vậy là hiệp nhất rồi, chẳng cần bày vẽ hình thức; hơn nữa, người Công giáo bảo thủ lắm, không thể nói chuyện được!”. Còn các Đấng, các Bậc tức là các Linh mục và Mục sư con xin gặp thì lại có điểm chung. Cả hai bên đều bảo con: “Đại kết là chuyện vĩ mô, là việc của thượng tầng, còn giáo dân, tín hữu nên tập trung cầu nguyện, học giáo lý đức tin và sống đạo thì hơn”. Theo thiển nghĩ của con, những hệ phái có người đứng đầu như Chính Thống và Anh Giáo, may ra có thể bàn về chuyện hợp nhất, còn Tin lành thì e là quá khó, vì họ không có người đứng đầu!
(Xin đính chính ngay: Bạn đừng quên tất cả mọi Kitô hữu đều có một người đứng đầu là chinh Chúa Kitô. Chỉ cần nhớ sự thật ấy, mọi chuyện sẽ hoàn toàn khác.)
Chỉ “giới trẻ ham chơi” là có quan tâm đến vấn đề “Đại kết”. Con đã giúp nối kết hai nhóm giới trẻ hai bên (khoảng dăm chục người) giao lưu thông qua các buổi sinh hoạt chung. Song tuy con đã dặn dò từ trước, việc giao lưu không được suôn sẻ lắm. Một số bạn trẻ Công giáo không đồng ý việc các bạn trẻ Tin lành chỉ đứng im mà không hát bài “Xin vâng”, cho rằng như vậy là họ không có tinh thần hiệp nhất, vì bài hát kính Đức Mẹ ấy nào có đụng chạm gì tới giáo lý Tin lành đâu! Việc ấy dẫn tới chỗ bất đồng khi trao đổi về “hôn nhân khác đạo”. Cả hai bên đều sợ lấy người ngoài Kitô giáo, vì khác đạo sẽ dễ mất đức tin. Các bạn trẻ Tin lành cho rằng lấy được người Tin lành (là tốt nhất), nếu không thì lấy được người Công giáo cũng tốt tương đương vì nếu lấy người Công giáo thì chẳng phải là “hôn nhân khác đạo”. Đang khi đó các bạn trẻ Công giáo cho rằng “lấy người Tin lành để rồi suốt ngày cãi nhau Đức Mẹ có đồng trinh trọn đời hay không ấy à, lấy người Tin lành để mà bỏ Đức Mẹ thì lấy làm gì, thà lấy người ngoại còn hơn”! Cuối cùng, chị trưởng nhóm Emanuel bên Tin lành phải dàn hòa: “tìm điểm chung thì nối kết, tìm điểm khác sẽ chia xa”, lúc ấy xung đột mới giảm nhiệt, song vẫn âm ỉ mãi…
Vậy nên, con bạo gan nghĩ là, trừ phi Chúa làm một cuộc bão giông thì Cây Mẹ và các Cây Con mới chịu liên kết với nhau thành một khối. Bằng không Đại kết mãi mãi chỉ là một phong trào”.
Quả thực, đó là những thực tế vẫn xảy ra hàng 500 năm nay. Khi tiếp xúc với anh chị em các hệ phái khác, hầu hết chúng ta đều thấy đó là việc quá khó. Thế nhưng chúng ta vững tin vào ơn Chúa, chỉ biết nỗ lực hết sức, rồi việc còn lại Chúa sẽ làm.
Hiệp thông với nỗi khắc khoải của tác giả lá thư, chúng tôi xin mời quý vị và các bạn dừng lại phút giây và cùng nhau cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin hãy ban cho các tín hữu Công giáo những ơn mà Chúa đã ban cho anh em Tin lành và xin cũng ban cho anh em Tin lành những ơn mà Chúa đã ban cho các tín hữu Công giáo.”
Xin hãy tiếp tục tinh thần cầu nguyện ấy, đang khi đọc 7 truyện mới của lần này, vừa được chọn vào vòng sơ khảo.
Qui Nhơn, ngày 02-4-2017
 
BÀI DỰ THI
Mã số: 17-069

VỀ VỚI MẸ

 
- Bố thương con mà!
Mắt Lam bật lên ánh nhìn lấp lánh, gợn một chút hi vọng và bình an khi nhìn thấy anh, cho dù phần bình an đó được giấu kín trong hàng vạn lớp đớn đau mà Lam phải chịu. Câu nói của anh như liều thuốc bổ chất lừ xoa dịu tâm hồn Lam sau một khoảng thời gian dài u uất. Bất chợt, Lam rơi nước mắt, những giọt nước mắt của sự hạnh phúc dâng trào từ đáy lòng khao khát ước mong.
Phía ngoài xa, trăng rơi đầy mặt biển. Lam ngậm ngùi nhìn biển rồi nhìn anh, cô cảm nhận Mẹ đang ở thật gần và nhẹ nhàng an ủi cô.
*
*   *
Lam dân vùng biển, nơi khúc ruột miền Trung. Cả làng cô sống bằng nghề chài lưới. Đêm về, nhà nhà lại chong đèn giữa biển khơi vì vậy ai cũng mặn mùi biển, da thịt rin rít sạm đen. Dẫu cho người dân đầu tắt mặt tối ngoài khơi, cuộc sống trong làng vẫn cứ bấp bênh, bữa đói bữa no, khó khăn lắm mới có được của dư của để. Năm nào biển động nhiều, bão đua nhau vào làng thì vất vả hơn. Mùa bão về, trên bến đầy ắp tàu thuyền neo đậu, chúng nằm yên đấy nghe tiếng biển thét gào vang vọng khắp nơi.
Cuộc sống của Lam được ướp bằng vị mặn của muối, của những mắt lưới bắt cá, vừa gỡ vừa chờ cha, chờ chồng về từ những chuyến khơi xa. Cũng nhờ ngóng trông vậy, Lam mới quen biết và cưới anh. Từng ngày anh ngoài khơi dài đăng đẳng như đợi ngày được bước vào nhà thờ để làm đám cưới lúc thuở còn yêu. Anh đi vậy, Lam chẳng chút yên lòng.
Lam vẫn còn nhớ như in mọi thứ. Năm đó cô còn nhỏ lắm, biển động, gió giật mạnh nên không ai đi biển được. Nghe tin bão tan, mọi người liền hồ hởi ra biển, hy vọng kiếm được nhiều cá bù lại cho những ngày sóng lớn đã qua. Ba và anh hai Lam cũng đi. Thiên nhiên mà, rộng lớn bao la, con người lại nhỏ bé giữa trùng khơi. Ai ngờ được, bão còn, gió cuồn cuộn thổi mạnh hơn lần trước. Mẹ, Lam và hai đứa em ngồi co ro trong nước mắt, chỉ biết lần chuỗi và đọc kinh. Gió giật từng cơn như muốn cuốn phắt đi mái nhà ủ dột trên đầu Lam. Gió như xé nát cõi lòng sợ hãi trong đêm tối. Trong tiếng thét của biển, Lam nghe tiếng bước chân dồn dập rồi tiếng gõ cửa, tiếng hét của anh hai. Những lời anh hai nói hôm đó vẫn ám ảnh Lam mãi đến bây giờ: “Sóng đập lật thuyền, cha mất tích rồi”. Ngay lúc đó, Lam mới cảm nhận được rõ, nhà Lam đã thực sự mất đi tấm mái duy nhất để chở che. Đóng sầm cảnh thê lương ấy là tiếng khóc than của gia đình Lam, lẫn với tiếng gió cuộn tiếng sóng đầy bi ai trong một đêm dông bão.
Nhưng bây giờ, cảm giác không yên lòng như ngày trước đã vụt mất. Cách đây mấy tháng, cả làng Lam náo loạn. Cá, tôm nỗi bồng bềnh trên biển rồi dạt vào bờ, dạt vào làng Lam. Khung cảnh tang thương lạ lẫm chưa ai thấy bao giờ. Người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ, nhưng không phải khóc cho người thân, cho con người mà là khóc cho những sinh linh nhỏ bé đang nằm lênh đênh trên mặt nước, nằm bất động trên bờ. Vài ngày sau, gió đưa những mùi ươn tanh hôi thối vào làng, mùi sộc vào mũi khiến mọi người khó chịu. Có người đã ôm con và gia đình bỏ đi nơi khác, người thì dự trữ thức ăn trong nhà rồi đóng cửa suốt ngày. Chợ búa vắng teo, bến cá cũng thôi hoạt động. Chẳng còn ai đi biển. Cá không bán được, muối, mắm thương lái chẳng thu mua. Đã vậy những thực phẩm khác lại tăng vọt chóng mặt. Biển không bão nhưng bến cảng vẫn lắm thuyền neo yên.
Dịp đó, báo đài dậy sóng, đưa tin rầm rộ mấy tháng liền, nhưng một vài sự thật vẫn bị che đậy. Nghe đâu, do cái nhà máy sau hòn đảo trước mặt làng Lam gây nên. Những độc tố sinh học hay kim loại nặng cứ ồ ạt xả xuống biển. Một thời gian dài đã ngấm vào mọi thứ dưới nước và gây nên hậu quả như bây giờ.
Được một thời gian, mọi thứ trong làng cũng trở lại ổn định hơn chút. Mọi người không bám được biển, chính sách đền bù lại không thỏa đáng nên phải tìm cách khác để mưu sinh. Nhưng ngược lại, một số gia đình trong làng lại khác đi, lâu nay êm ấm giờ thì điêu đứng, dễ đỗ vỡ trong cuộc sống gia đình. Gia đình Lam không phải là ngoại lệ. Cha xứ đang tìm mọi cách để níu kéo và gìn giữ hạnh phúc cho các tổ ấm của đoàn chiên mình. 
  “Con nghe nói, con Tư Thảo ôm con đi khỏi xứ rồi cha ạ! Chồng nó giờ cứ số đề miết thôi. Thằng Ba Xuân nghe đâu cũng nợ nần chồng chất!”- Ông biện xóm Thánh Tâm vừa rót trà vừa báo cáo tình hình của khu giáo mình cho cha xứ.
Cha Thiện lắc đầu, gương mặt hằn nét suy tư. Không phải cha muốn buông xuôi nhưng cha cảm nhận được gánh nặng đang đè lên đôi vai mục tử của cha ngày càng nhiều. Người dân làng chài này vốn hiền lành và bình dị lắm nhưng sao bây giờ lại khác đi, cách xa Chúa như vậy. Cha đưa mắt nhìn về phía biển như muốn nói điều gì. Như tự nhủ phải vững vàng để giữ lấy những điều tốt còn sót lại và tìm hướng giải quyết cho bà con nơi đây.
*
*   *
Xế chiều, trời vẫn còn một vài chùm nắng héo, chồng Lam lại say:
- Dương! Mi mô rồi! Mua cho tau hai chai nữa coi.
- Hắn đi nhà thờ rồi nỏ ai mua mô. Uống chừng nớ là đủ rồi! – Lam buông tiếng thở dài, trả lời chồng.
- Lại nhà thờ, lại Chúa, lại Mẹ. Chúa Mẹ nặng tai lắm, kêu xin nỏ chịu nghe… tới mần chi nữa – Anh lải nhải trong hơi men như trách móc – Chúa ơi! Chúa trả cá, trả biển lại đây đi.
Lam bỏ dở mớ rau đang làm, chạy đến bịt chặt miệng chồng:
 - Phạm thánh đấy nghe chưa, người ta nghe được là chết bố anh đó?
Anh kéo tay Lam ra khỏi miệng:
- Tau cứ nói đó... Tau nỏ sợ ai hết!
Lam nhìn anh lắc đầu ngao ngán rồi mím môi thở dài. Cô trở về bên mớ rau đang làm mặc cho tiếng chửi đổng vẫn dội ngược vào tai. Đây chỉ là một phân đoạn trong những chuỗi ngày say khướt sớm chiều mà Lam phải gánh chịu. Trong tâm thức, Lam hiểu vì sao anh thay đổi như vậy. Hoàn cảnh đưa đẩy, số phận run rủi dù muốn thoát ra nhưng không dễ. Cũng như bao người dân làng chài, anh bị sốc trước thảm cảnh quê hương bởi con thuyền lớn anh vừa mua được sau bao năm tích góp giờ chỉ neo yên nơi bến. Những lần Lam và con đưa tiễn anh trước chuyến đi lâu ngày, những đầu sóng ngọn gió ngoài khơi xa đối với anh giờ sao quá xa vời. Anh nhớ cái tấp nập của bến cảng mỗi khi tàu thuyền trở về, những lần chở Lam ra tận xã bên để bán những con cá được giá. Những hình ảnh đó vụt tắt quá nhanh khiến lòng anh trống vắng. Anh cần một cái gì đó để giải khuây. Nhưng anh đã sai khi tìm đến rượu.
Chiều qua, Lam nghe đứa con gái lớn nói mấy câu mà lòng bứt rứt. Đêm về, cô chỉ biết nằm nghiêng quay lưng vào con. Lam không muốn con thấy cô buồn, mắt cô sưng húp vì khóc, vì thương. “Mẹ cho con nghỉ học đi! Con vô thành phố làm việc kiếm tiền để nhà mình đỡ khổ hơn”. “Không! Cả đời mẹ bám biển để nuôi con, giờ người ta trở mặt với biển, con phải học để cứu biển, cứu cả nhà mình”. Nói xong, Lam quay lưng đi vào nhà. Lam sợ ánh mắt thất vọng của con, sợ giọt nước mắt đã ứa ra nơi khóe mắt của cô bé.
Sau những lúc như vậy, Lam chọn bóng tối làm chỗ ẩn nấp lý tưởng để rơi nước mắt! Trong tấm màn đen lớn ấy, cô như lẩn trốn mọi thứ, chỉ lần chuỗi và khấn xin Đức Mẹ. Lam để mặc cho những giọt nước mắt cứ tuôn vì chẳng ai nhìn thấy. Cô muốn chịu đựng một mình, không muốn ai hiểu quá rõ về cảm xúc của bản thân! Đúng là Lam buồn vì chồng hời hợt thiếu trách nhiệm, dửng dưng với gia đình. Nhưng ai thấu được ngay lúc đó, trái tim cô cũng đau da diết vì cảm thấy bất lực khi không thể thay đổi được gì cho cuộc sống hiện tại. Đâu phải lúc nào cô cũng mạnh mẽ? Chẳng qua là chưa tới lúc để gục ngã.
*  *  *
  Xứ đạo của Lam chuẩn bị mừng Lễ bồn mạng Đức Mẹ Fatima.
- Tôi biết bà con đang phải đối mặt với những khó khăn rất lớn nhưng tôi sẽ cố gắng giúp mọi người có một ngày lễ bổn mạng giáo xứ ấm cúng. Hy vọng năm sau, kỉ niệm một trăm năm Đức Mẹ hiện ra ở Fatima, xứ mình sẽ làm lễ to hơn.
Cha Thiện vừa động viên vừa phát động chương trình để chào đón đại lễ của giáo xứ. Cha muốn các hoạt động ấy có thể an ủi bà con trong xứ phần nào. Nhiều chương trình diễn ra cùng lúc cho mọi người tham dự và sẽ kết thúc bằng một Thánh Lễ trọng thể để tổng kết. Cha cũng hứa sẽ cố gắng giúp cho xứ đạo một điều rất đặc biệt trong ngày hôm đó.
  Ngày hôm sau, ông trùm Nhiệm dán một thông báo lớn trước bản tin nhà thờ. Thông báo gồm nhiều mục: sinh hoạt, từ thiện và đạo đức thiêng liêng cho bà con. Như mọi năm, Quỹ “Mẹ biển cả tình thương” cho các gia đình khó khăn sẽ được thực hiện. Đặc biệt hơn năm nay có thêm cuộc thi viết cho các em thiếu nhi với chủ đề “Về với Mẹ” để khuyến khích tinh thần hiếu học vốn có của các em trong giáo xứ.
Những phong bì hình chiếc thuyền như giấc mơ được sớm căng buồm ra khơi vừa được mấy người trong ban hành giáo khẩn trương thiết kế và in ấn xong. Các ông biện liền chuyển đến từng gia đình trong khu giáo. Vốn dĩ, cha Thiện biết quỹ phát động năm nay sẽ ít hơn mọi năm nhưng cha vẫn phải tổ chức. Cha hiểu được sự quan tâm chia sẻ là rất quan trọng trong những lúc như thế này. Dù ít ỏi nhưng đủ để giúp bà con sống luật yêu thương giữa bộn bề của cuộc sống, giúp họ biết đồng lòng để vượt qua khó khăn.
Những ngày cận kề đại Lễ, dù vẫn còn buồn biển, buồn cuộc sống nhưng cả xóm đạo cứ rôm rã, nhộn nhịp như ngày Tết. Đức tin của bà con khiến họ quên đi những vất vả đeo bám họ lâu nay. Mỗi người một công việc, ai nấy đều chạy nước rút trong những khâu cuối cùng. Số ve chai thu gom đã được bán để đưa vào qũy quyên góp. Những phần quà được xếp gọn gàng trong hội trường của giáo xứ chỉ chờ ngày trao tay. Các bà trong hội Hiền Mẫu loay hoay quét dọn khuôn viên giáo xứ. Mấy ông trong ban hành giáo chăm chút từng chậu hoa, treo lên những dây cờ rực rỡ khắp nhà thờ để chuẩn bị cho Thánh Lễ.
***
Ngày bổn mạng Đức Mẹ Fatima cũng đến. Giờ chầu kết thúc Tuần Cửu Nhật dâng lên Mẹ hiệp ý cầu nguyện cho giáo xứ vừa xong. Cha Thiện đi dọc hành lang nhà thờ, tay cầm tràng hạt Mân côi. Ông Khánh trưởng ban giáo lý giáo xứ chạy vào tìm gặp cha.
- Mấy bữa trước cha nói sẽ tới nhà mấy em đạt giải cao của cuộc thi viết, mời phụ huynh tham dự lễ trao giải, con tới chở cha đi.
Cha Thiện gật đầu như hiểu ý rồi bảo ông Khánh đợi tí. Cha quay vào nhà xứ khoác vào bộ đồ lịch sự có gắn cổ côn rồi lên xe ông Khánh. Làng chài một thời tấp nập, ồn ào trước mắt cha bây giờ có vẻ yên ắng hơn. Thoảng trong nắng chiều là tiếng gió khẻ rít qua những hàng dương đang chao nghiêng nhìn biển.
Chuyện gia đình Lam, cha Thiện cũng nghe phong phanh từ lâu. Những lần hai vợ chồng lời ra tiếng vào, mọi người đều bàn tán. Không ít thì nhiều nội tình cứ thế mà đến tai cha. Được dịp này, Cha muốn giải quyết cho yên chuyện. 
- Anh chị Bình Lam có ở nhà không? – Xe dừng trước cổng nhà Lam. Tiếng ông Khánh ngoài cổng gọi vọng vào.
Lam chạy nhanh từ trong nhà ra phía trước rồi khép nép cúi mình: “Dạ! Con chào cha, con mời cha vô nhà ạ!” .
Lam đưa tay pha lấy ly nước.
- Anh Bình mô rồi? Tôi muốn nói chuyện với anh – Cha nói.
Lam thảng thốt. Những ý nghĩ lo sợ toát lên trên khuôn mặt tròn, tái ngắt.
- Dạ! Chồng con ở sau nhà, để con đi kêu.
Lam chạy ngay xuống bếp. Nghe thấy giọng cha, chồng Lam đã luống cuống đứng dậy từ lúc nãy. Một gã say hung hãn thường ngày chợt biến đâu mất. Anh đưa tay giấu chai rượu đang uống dở vào sau cánh cửa khép hờ. Anh cố tỏ vẻ tĩnh táo để bước lên nhưng giọng nói vẫn lè nhè ám đầy mùi rượu:
- Con chào cha! Cha muốn tìm con ạ? – Anh đưa tay gãi đầu, gãi tai.
- Tôi không nói vòng vo với người say. Anh đọc cái ni đi rồi biết, làm cha, làm chồng mà như rứa đó?
Nhận lấy tờ giấy từ tay cha, con mắt lờ đờ do men say của anh giờ căng lên một tí, cố đọc những dòng chữ trước mặt. Lam cũng ghé mắt vào tờ giấy trên tay anh. Từng nét chữ quen thuộc được nắn nót cẩn thận:
Thư gởi Đức Mẹ của con!
Mẹ vẫn khỏe chứ? Con nghĩ Mẹ bận rộn ban phước cho mọi người lắm nhỉ?
Mẹ ơi! Bây giờ con đang buồn lắm nên con muốn viết vài dòng cho Mẹ.
Gia đình con không còn hạnh phúc như xưa nữa rồi, từ ngày cá biển chết đi, môi trường ô nhiễm, bố con không còn đi biển, bố cứ say rượu suốt ngày. Trong nhà lúc nào cũng nghe tiếng cãi vả, chửi rủa. Con thấy xấu hổ với mọi người và bạn bè của con lắm. Con không làm được gì ngoài đi Lễ và cầu nguyện với Chúa, với Đức Mẹ mà thôi.
Xin Mẹ thương gia đình con, ban phước lành để bố con thay đổi, không uống rượu để thương mẹ và chị em con. Xin Mẹ cho người ta không còn làm chết cá của làng quê con nữa.
Con xin lỗi vì không kể chuyện vui mà kể câu chuyện buồn của gia đình con cho Mẹ nghe. Con hứa với Mẹ sẽ đọc nhiều kinh Kính Mừng để Mẹ vui và thương gia đình con hơn. Xin Mẹ nhậm lời con.
Con của Mẹ
Dương.”
Lam buông thỏng người quay sang nhìn anh. Cha tiếp lời:
- Con của anh viết đó, tôi tới đây để mời hai vợ chồng tối ni đi coi con bé nhận giải, tiện giải quyết chuyện ni luôn… Anh hiểu hết chưa, xứng đáng với con mình không, xem lại mình đi, chứ sống rứa… nỏ tốt đẹp chi.
Giọng cha nghiêm nghị không cáu gắt, không quá trách móc nhưng khiến lòng anh thổn thức. Anh không đáp trả, cứ ngồi im lặng để những lời của cha rót hết vào tai. Những lời Cha nói không sai, nhưng hoàn toàn lỗi không phải do anh. Anh biết, anh hiểu nhưng anh không thể bào chữa được ngay lúc này.  Những lời tâm sự của con, câu nói vô tình của cha cứ xuất hiện trong đầu như đang kéo anh trở lại thực tế mà anh không muốn đối diện. Ngồi được một hồi lâu, anh đứng dậy bỏ ra ngoài.
Lam chới với đuổi theo nhưng cha ngăn cản: “Không sao đâu, thằng Bình cần thời gian, cần ở một mình để suy nghĩ mọi thứ. Con cứ mặc kệ hắn đi”. Lam cúi gằm mặt xuống đất:
- Con xin lỗi cha, con thấy xấu hổ quá!
- Không sao cả. Mỗi nhà mỗi cảnh thôi. Cứ cầu nguyện thêm cho hắn là được. À! Còn chuyện ni nữa. Con nhắn cho thằng Bình chuẩn bị đi làm nơi xí nghiệp Lộc Phát ở tỉnh bên, công việc khuân vác thôi, sau ni mới học thêm một vài cái khác, lương cũng ổn định, chứ ở nhà miết là sinh chuyện. Làng mình có tới ba chục người đi nên cũng được rồi, coi như là quà đặc biệt cha dành tặng cho bà con.
Lam hấp háy mắt vì bất ngờ, gương mặt cô giãn ra. Từng lời của cha làm cô ấm lòng dù sự tủi buồn vì hoản cảnh gia đình vẫn còn đó.
Nói xong mọi chuyện cha tất bật đi về, cái dáng của vị chủ chăn chân chất, lam lũ nhưng thấm đẫm tình người khuất dần trong ánh chiều dần buồng. Lam chợt nhận ra đâu đấy trong căn nhà nhỏ có tiếng nước mắt đang rơi. Dương đang thút thít sau tấm phản ngăn với phòng khách.
*
*   *
 “Được rồi! Ta sẽ ban cho xóm đạo các con được bình yên, cá tôm sẽ sớm sinh sôi trở lại nơi vùng đất biển này. Nhưng các con phải sống hòa thuận và yêu thương nhau và đặc biệt phải siêng năng lần chuỗi để cầu nguyện cho hết thảy mọi người” – Đức Mẹ nói xong rồi biến mất theo làn khói mờ.
“Dạ! Chúng con xin hứa” – Ba đứa bé đồng thanh đáp.
Vỡ kịch Đức Mẹ hiện ra ở Fatima đã được sửa lại cho phù hợp với thời cuộc của giáo xứ kết thúc. Dù chỉ là đang xem nhưng Lam tin lời Đức Mẹ bởi hằng ngày cô vẫn lần hạt để cầu nguyện cho chồng con và mọi người. Lam hy vọng anh sẽ hiểu hết lời của cha đã nói lúc chiều để thay đổi, bỏ rượu, yêu thương mẹ con cô như lúc trước và cố gắng làm ăn như mọi người.
Buổi lễ tổng kết vừa xong. Mọi người cười nói cùng nhau ra về. Người ta không ngớt lời khen lấy con của Lam. Lam cũng vui nhưng chẳng phấn chấn gì nhiều. Từng bước chân nặng trĩu thả xuống đất, lòng Lam vẫn bồn chồn khó tả. Trong mớ âm thanh hỗn độn của đám đông đưa tới, Lam nghe thấy tiếng người quen thuộc gọi tên mình và con. Lam quay đầu. Anh đang đưa mắt nhìn hai mẹ con.
Dương liền chạy đến và ôm lấy anh. Đôi bàn tay nhỏ bé xiết chặt ngang hông như sợ anh sẽ rời bỏ nó:  “Đức Mẹ thương con, bố không thương con hả?”.
Anh nhìn sâu vào tận đáy mắt của Dương, ánh mắt khao khát niềm hạnh phúc bấy lâu giờ mới có được. Anh nói thật khẻ:
- Bố thương con mà!
Giọng anh nghẹn đắng nhưng lòng Lam lại rộn ràng. Những ánh mắt long lanh trao nhau như hiểu thấu tất cả mọi suy nghĩ đang chợt đến. Dương đưa cho anh món quà vừa nhận được là bức tượng Đức Mẹ nhỏ xinh rồi ép mình thủ thỉ vào tai anh: “Đức Mẹ cũng thương bố nữa đó”. Dương mỉm cười mãn nguyện.
Hình ảnh hai cha con mờ đi trong màn nước mỏng. Lam đưa đôi mắt ướt nhìn về phía biển. Ánh trăng bàng bạc đắm mình giữa mặt nước mênh mông. Biển lúc nào cũng rộng lớn, trải dài để ôm trọn mọi vật. Tình Chúa, tình Mẹ dành cho con người lại càng vĩ đại hơn. “Người yêu thương họ đến cùng” (x. Ga 13,1). Lam biết, đêm nay, Mẹ đã làm phép lạ trên gia đình cô.
 
Mã số: 17-071
 

ĐỜI CON CÓ MẸ

 
Thu ngồi ngoài bờ ruộng, nhìn xa xăm trên cánh đồng lúa sai trĩu hạt mà tâm trạng rối bời. Khung trời đang sáng, chợt mây đen từ đâu ùn ùn kéo đến che mất ánh nắng, bầu trời bỗng tối sầm như tương lai của em vậy.  Những cơn gió mạnh thổi tới tấp làm cây cối oằn cong nghiêng ngả, em nghĩ đến phận nghèo của mình mà tự hỏi, chẳng biết mình có đứng vững trước giông bão cuộc đời? Thu vẫn ngồi thừ dưới gốc cây mận, mặc cho sấm chớp nổ vang và những hạt mưa to bắt đầu rơi xuống quất vào người em rát rạt. Em ước gì sấm sét kia xẹt trúng vào mình, để em được thoát khỏi cảnh đời khổ ải này. Em vẫn ngồi đó trong cơn mưa nặng hạt, trong tiếng gió rít và ánh chớp lập lòe… Những hạt mưa rơi xuống như đồng cảm với tâm trạng của Thu trong lúc này, lòng em đang trĩu nặng bởi sự giằng co trước chọn lựa: “Đi hay ở?”.
Nhiều khi ngồi một mình, Thu hay nghĩ ngợi. Nghèo đâu phải là một cái tội, nhưng tại sao người ta lại khinh rẻ những người nghèo, mặc dầu họ vẫn cố gắng sống lương thiện bằng chính sức lao động của mình? Tại sao có những người được sinh ra trong nhung lụa, lại có kẻ sinh ra trong bần cùng. Phải chăng đó là phần số của mỗi người...? Và còn bao nhiêu câu hỏi: “Tại sao…? Tại sao…?” mà em không giải thích được. Thu nghĩ, có lẽ Diễm Trang nói đúng: “Số phận đã an bài như thế, chỉ có một cách duy nhất giúp mình thoát cảnh nghèo là kiếm cho thật nhiều tiền và thành phố là nơi dễ kiếm tiền nhất”. Bằng chứng là ba chị em nhà nó mới đi làm hơn một năm đã phất lên thấy rõ.
Vì nghèo, cha mẹ và Thu phải làm lụng vất vả, quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời để kiếm cái ăn; vậy mà gia đình em có khi ăn chẳng đủ no, mặc chẳng đủ ấm. Lại thêm một nỗi tủi nhục là chỉ có gia đình em ở giữa xóm đạo, hễ mất gì là họ nghi ngờ cho nhà em. Vì thế, em không cam tâm trước cảnh nghèo nữa mà quyết chí bằng mọi cách phải kiếm được thật nhiều tiền.
Cuối cùng, Thu quyết định trốn nhà đi theo chị em Trang. Lên đến nơi em mới vỡ lẽ về cách “dễ kiếm tiền” của họ. Mấy chị em Trang xúm vô nói:
- Trên đời này có tiền là có tất cả.
- Tuổi xuân qua mau lắm, không lo hưởng thụ sau này hết thời, tiếc nuối cũng muộn rồi.
- Đời bây giờ “lương tâm không bằng lương tháng”, đàng nào cũng chết là hết, sĩ diện làm chi cho uổng phí cuộc đời.
Thu nghe họ nói cũng có lý, em đành nhắm mắt đưa chân.
***
Quả thật, ở chốn đô thị muốn kiếm tiền không khó, chỉ cần có chút nhan sắc, ngồi uống với khách vài ly bia là có tiền rủng rỉnh trong túi. Trông dáng Thu khá bắt mắt nên bà chủ rất mực cưng chiều. Chỉ hơn nửa năm em đã hoàn toàn lột xác, trở thành một “tiếp viên” chuyên nghiệp. Tiền bo càng nhiều, em càng bị lún sâu vào hố thẳm cuộc đời, nhưng em đã bất chấp tất cả, miễn sao có tiền là được. Đã mấy lần, chị em Trang dẫn Thu đi “giải quyết vấn đề”.
Hàng tháng, Thu cố gắng dành dụm thật nhiều tiền để gửi về nhà. Em gái út của Thu viết thư lên nói: “Nhờ có tiền của Hai gửi về mà cha mẹ đỡ vất vả và hàng xóm cũng bớt khinh nhà mình. Ở nhà, mẹ vẫn cúng chùa hàng tháng để cầu Phật độ cho Hai được mạnh khỏe, may lành… Mai mốt em lớn, Hai cho em lên làm chung để kiếm tiền báo hiếu cha mẹ nha!”. Đọc đến đây Thu chợt giật mình, những giọt nước mắt tủi hờn thi nhau rơi xuống.
Có những ngày vắng khách, Thu ngồi nhìn đám lục bình trôi lững lờ giữa dòng nước mà nghĩ đến thân phận bèo bọt của mình. Bất chợt em tự hỏi: Không biết đám lục bình kia sẽ trôi về phương trời vô định nào? Rồi đêm đó, em về nhà trọ ngồi khóc một mình.
Càng có nhiều tiền Thu càng thấy cuộc đời vô nghĩa và trống vắng, chứ không như lúc trước em nghĩ. Những đồng tiền kia được trả cho em sau khi khách đã hả hê, còn thân xác em thì rã rời trong đớn đau tủi nhục.
Ở chốn đô thị này, sự phân cách giàu nghèo rất rõ. Những người nghèo thì cứ nghèo mãi không thể ngóc đầu lên được, vì luôn bị chèn ép và đối xử bất công. Còn một số người giàu thì quăng tiến vào các cuộc vui, nhằm thõa mãn những ham muốn của bản năng. Họ đâu biết rằng, chính họ đang làm tổn thương tâm hồn và chà đạp nhân phẩm của người khác.
Cũng có đôi lần Thu định tìm một việc làm lương thiện khác, dù ít tiền cũng được. Nhưng đa số các công ty đều đòi bằng cấp, chuyên môn và giấy tờ tùy thân rườm rà, mà em thì chẳng có gì ngoài giấy chứng minh thư. Em vào các tiệm ăn xin giúp dọn bàn, rửa chén; họ nhìn em từ đầu đến chân rồi thẳng thừng từ chối:
- Làm ở đây vất vả lắm, sợ cô làm không quen lại phải mất công tìm người thế.
Dẫu Thu năn nỉ hết lời, họ vẫn không chịu nhận. Em đi tìm việc cả ngày không được chỗ nào. Về đến nhà, vừa đói vừa mệt, em buông người xuống giường, úp mặt vào gối khóc tức tưởi, khóc một mình. Em ước gì được trở về quê ở bên cha mẹ và các em, dẫu nghèo mà yên vui, thanh thản…
***
Thu rất mừng và hạnh phúc khi được trở về quê sống cảnh sông nước thanh bình. Em xuống một chiếc thuyền con và bơi chầm chậm trên dòng sông êm ả, hai bên bờ là những vườn trái cây sai trĩu quả, nào là: nhãn, chôm chôm, xoài, mận… Mãi thả hồn vào cảnh vật thiên nhiên, chiếc thuyền trôi dần ra sông lớn. Vừa ra đến cửa sông, thuyền em bị cuốn vào dòng nước xoáy. Rồi bất chợt gió to nổi lên làm mặt sông dậy sóng. Tiếp theo là những đám mây đen nghịt kéo lên và cơn mưa trắng xóa từ xa trông như tấm vải khổng lồ đang trùm xuống mặt sông. Em hoảng hốt cố bơi thuyền vào bờ mà không được. Em dùng hết sức lực gào khóc kêu cứu, nhưng chung quanh không thấy bóng dáng của một chiếc thuyền nào. Nước xoáy mạnh làm chiếc thuyền cứ quay tròn. Những con sóng to cứ dồn dập xô tới, hất tung thuyền lên rồi lại ấn sâu xuống như muốn vùi lấp con thuyền bé teo. Cơn mưa dày mịt làm em không còn thấy đâu là bờ. Một con sóng to hất chiếc thuyền lật úp khiến em chới với giữa dòng. Dẫu biết bơi, nhưng vì sợ và mệt nên em nhanh đuối sức. Em thấy mình như không còn thở được nữa vì bị mưa vùi, sóng dập. Càng lúc em càng tuyệt vọng. Em đang cố dùng chút sức lực cuối cùng để ngoi lên mặt nước. Bất ngờ một chiếc thuyền to xuất hiện, người phụ nữ trên thuyền đưa tay ra nắm lấy tay em kéo lên thuyền của bà. Bà nhìn em mĩm cười đôn hậu, trông bà đẹp tuyệt trần. Mưa gió liền dứt ngay, bầu trời quang đãng, sáng trong trở lại với ánh nắng dịu ấm áp. Người phụ nữ mỉm cười với em lần nữa và nói:
- Con đừng sợ! Ta sẽ luôn ở bên che chở cho con.
Thu chợt giật mình thức giấc, mồ hôi ướt đẫm cả người, toàn thân mệt nhừ, đói lã. Nhưng có một niềm vui và sự bình an sâu thẳm trong lòng em. Thu có cảm giác lâng lâng hạnh phúc, khi em nhớ đến nụ cười của người phụ nữ trong mơ. Em không hiểu sao mình lại có giấc mơ kỳ lạ như thế và người phụ nữ em thấy trong mơ là ai?
***
Mấy tuần sau đó Thu vẫn tiếp tục đi làm. Và rồi, em phát hiện mình lại có thai. Lần này em định âm thầm đi “giải quyết” một mình.
Vừa đến chỗ lần trước, Thu định vào làm thủ tục thì có một người xuất hiện, chị xưng tên là Hạnh trong nhóm “Bảo Vệ Sự Sống”. Chị trao đổi với em vài câu ngắn gọn và cầm tay em dẫn đi. Không hiểu sao em cứ riu ríu làm theo yêu cầu của chị mà không chút phản ứng hay nghĩ ngợi gì, giống như đang bị thôi miên vậy. Chị ghé qua nhà trọ cho em lấy ít đồ cá nhân, rồi đưa lên tận Hố Nai. Em ngồi trên xe mấy chục cây số mà cảm giác lâng lâng như trong giấc mơ hôm trước. Chị gửi em cho người mà chị gọi là dì Nhiên. Dì sống một mình trong căn nhà nhỏ, chung quanh có vườn rau và một số cây ăn trái.
Tối hôm đó là thứ bảy đầu tháng, dì Nhiên dẫn Thu ra lần chuỗi ở đài Đức Mẹ trong xóm. Vì em không có đạo nên không biết đọc kinh, em chỉ ngồi ngắm Đức Mẹ thôi. Khi về đến nhà, em kể cho dì nghe giấc mơ hôm trước và người phụ nữ em thấy trong mơ có khuôn mặt giống y chang Đức Mẹ ngoài đài. Nghe em kể xong, dì Nhiên rơm rớm nước mắt đến bên, cầm tay em và nói:
- Ôi, con ơi! Chính Đức Mẹ đã hiện ra cứu con đó. Dì tạ ơn Chúa và cám ơn Đức Mẹ với con. Hôm nay con chịu đến đây ở với dì cũng là ơn của Đức Mẹ đó con ạ. Rồi đây, Đức Mẹ sẽ phù trợ cho con được mẹ tròn con vuông và làm lại cuộc đời.
- Con cám ơn lòng tốt của dì.
- Con cứ ở đây với dì cho vui. Mặc dù dì không khá giả chi, nhưng hai dì cháu mình cứ tin tưởng vào Chúa, rồi Chúa sẽ lo cho.
Kể từ đó, Thu sống hủ hỉ với dì Nhiên. Sáng nào em cũng theo dì đi lễ, sau đó về nhà nhổ rau và hái trái cây mang ra chợ bán. Buổi chiều, em cùng dì chăm sóc mấy luống rau sau vườn. Tối đến, hai dì cháu đi ra đài Đức Mẹ lần chuỗi với mọi người. Tuy cuộc sống đạm bạc nhưng em cảm thấy rất vui và bình an, em có cảm giác như đây là nhà của mình vậy. Dì Nhiên coi em như con của dì, đối lại em thảo kính với dì như mẹ ruột.
Mối thân tình giữa Thu với dì Nhiên càng khắng khít bao nhiêu, thì em cũng nhiễm tính cách của dì bấy nhiêu. Dì sống đạo cách rất bình dân, dì nhận ra tình thương và quyền năng Chúa trong mọi tạo vật. Một hôm trong bữa cơm, dì chỉ đĩa trái cây trên bàn tấm tắc:
- Con xem, Thiên Chúa quả là quyền năng, Ngài dựng nên trái chuối xanh thì chát còn trái xoài sống thì chua. Vậy mà khi chín, chúng đều ngọt cả, mà mình đâu có bỏ đường xuống gốc cây hay ngâm trái vào nước đường lúc mới hái xuống.
Thấy Thu thích thú lắng nghe, dì nói tiếp:
- Còn mấy cây dừa trong vườn mình mới ngộ, lúc còn non thì nước nhạt và có vị chua, vậy mà đến khi dừa nạo nước ngọt vô cùng. Đó, con thấy Chúa có giỏi không? Đâu có ai leo lên bỏ đường vào từng trái dừa mà sao nước nó ngọt ơi là ngọt. Còn nếu nói nó hút chất ngọt từ đất, thì tại sao cây khế trồng giữa hai cây dừa mà trái nó lại chua? Thế mới biết Chúa quyền năng đến mức nào.
Thu nghe dì Nhiên nói rất có lý nên thầm thán phục dì và ngày càng vững tin vào Thiên Chúa. Trong lớp Giáo Lý Dự Tòng em luôn được cha xứ khen là có đức tin mạnh mẽ. Còn em thì biết mình được như thế là nhờ dì Nhiên truyền tải kinh nghiệm cho. Càng ngày em càng cảm nghiệm được tình thương của một Thiên Chúa vừa cao cả quyền năng, vừa ân cần quan tâm chăm sóc con người…
Một buổi sáng trong làn gió nhẹ, Thu bước ra vườn trong lòng thấy rộn vui khi nghe tiếng chim họa mi hót líu lo. Phía kia mấy chú chim sâu đang vui vẻ, ríu rít chuyền cành. Dì Nhiên đi tới nói:
 - Dì thích ra vườn lúc này để nghe tiếng chim hót, có lẽ chúng đang cất lời ca tụng Chúa buổi sáng.
Nhìn những luống rau xanh mướt dưới chân và hàng cây sai trĩu quả, Thu thấy trong lòng thật bình an, thanh thản. Tâm hồn em như muốn hòa vào cảnh vật chung quanh để ca tụng kỳ công của Chúa. Chợt những hình ảnh lúc trước ùa về như áng mây đen làm cảm xúc em dần tắt lịm, chỉ còn lại mặc cảm tội lỗi ngự trị. Trong cuộc sống, có những chuyện được xóa nhòa theo năm tháng, nhưng đôi khi ký ức bị khơi lại từ đống tro tàn làm tâm tư xao động. Em rất hối hận về những lỗi lầm lúc trước. Mỗi lần như thế, em đều thầm thĩ xin Đức Mẹ cầu Chúa tha tội cho mình.
Thu chở rau ra chợ trong tâm trạng buồn thiu. Bất ngờ, một chiếc xe trong hẻm phóng ra tông thẳng vào xe rau làm em ngã xuống bất tỉnh, máu me lênh láng trên mặt đường. Dì Nhiên thấy em hôn mê một ngày không tỉnh thì mời cha vào bệnh viện ban Bí Tích Rửa Tội cho em. Dì đeo tràng chuỗi vào cổ em và khấn Đức Mẹ cho em qua khỏi cơn nguy kịch này. Ngày hôm sau em bắt đầu tỉnh lại, dì Nhiên vui mừng khôn xiết, luôn miệng tạ ơn Chúa và cám ơn Đức Mẹ đã thương cứu em.
 Khi biết mình bị hư thai, em đã khóc thật nhiều. Em cầu xin Chúa đón nhận linh hồn bé bỏng ấy vào Nước Trời. Trong nước mắt, em hoang mang hỏi:
- Dì ơi, có phải Chúa phạt con vì những lỗi lầm lúc trước không?
 Dì Nhiên nắm tay Thu an ủi:
- Không đâu con ạ. Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Người không chấp khi ta biết hối lỗi. Với lại, Người mãi yêu thương và luôn làm điều tốt nhất cho ta. Thôi, con đừng buồn nữa. Con tỉnh lại là do Chúa và Đức Mẹ thương cứu rồi. Biết đâu, đó cũng là sự an bài của Chúa và Đức Mẹ để tốt hơn cho con.
Thu vâng lời dì Nhiên, thôi không khóc nữa. Ngày nào bà Lập và con trai cũng đến thăm, mang cơm cho hai dì cháu của Thu. Họ vào năn nỉ Thu đừng làm khó dễ và hứa sẽ lo bồi thường cho em. Người gây ra tai nạn là Phương, con của ông bà Lập, một chủ tiệm trang trí nội thất lớn trong vùng. Sáng đó, anh ôm gà sang nhà bạn để chọi thử, nào ngờ vừa ra đến đường đã gặp sự cố. Phương là con nhà giàu nên từ khi lên cấp ba, anh chỉ thích đua đòi, lêu lỏng và thôi đến nhà thờ. Bố mẹ anh mải lo làm ăn chẳng quan tâm gì đến chuyện đạo hạnh cho con; kể cả ông bà cũng lơ là với Chúa.
Tới lui chăm sóc thăm hỏi một thời gian, Phương đã phải lòng cô nạn nhân dễ mến. Nơi Thu, anh nhận ra nhiều nét đẹp tâm hồn mà anh ít thấy nơi những cô gái đã từng quen lúc trước. Tuy ít học nhưng em khá nền nã, hồn hậu và dịu dàng. Thêm nữa là sắc vóc của Thu cũng khá mặn mà, đầy đặn, lại rất duyên khi cười. Thu không như bao cô gái khác, em không nhận những món quà đắt tiền của Phương, cũng không vòi vĩnh gì và nhất là không thích ra ngoài hẹn hò. Em càng đơn thành bao nhiêu, Phương càng si mê bấy nhiêu. Phương chỉ được đi chung với em đến ba địa điểm: Nhà thờ, đài Đức Mẹ và sạp rau ngoài chợ.
Để được ở bên Thu, Phương bắt đầu đi lễ trở lại. Dần dần mỗi sáng, anh đều đến chở dì Nhiên và em đi lễ; mỗi chiều, anh cùng hai dì cháu đi lần chuỗi ngoài đài. Ông bà Lập thấy con trai đột nhiên thay đổi tính nết, lo chí thú làm ăn và siêng năng đi đạo, hai người cũng chạnh lòng lo chuyện lễ lạc trở lại. Hàng xóm thấy gia đình ông Lập đi lễ thì kháo nhau:
- Gia đình ông ấy bị “nhiễm Virut đạo đức” của dì cháu bà Nhiên đấy.
***
Quen nhau được hơn một năm, Phương thưa với ba mẹ cho hai người tiến tới hôn nhân. Nhưng khi ông bà Lập nghe nói gia đình Thu nghèo, lại thuộc tôn giáo khác thì phản đối. Thu biết thân phận mình nên nói với Phương:
- Gia cảnh cũng như bản thân em không xứng với tình yêu của anh.
Rồi Thu kể cho Phương nghe quá khứ của mình. Anh rất bất ngờ và không thể tin được, bởi từ trước tới giờ anh cứ ngỡ Thu là con nhà gia giáo. Bẵng đi mấy ngày anh không đến nhà dì Nhiên; sau khi đã suy nghĩ kỹ, anh sẵn sàng chấp nhận Thu và bỏ qua tất cả. Phương vội vàng chạy vô gặp thì em đã về quê mất rồi. Anh năn nỉ dì Nhiên xin địa chỉ để đi tìm Thu, dì bảo:
- Thu nhờ dì nhắn lại với anh là đừng tìm nó nữa!
Phương nhớ Thu quay quắt mà không biết tìm ở đâu, đành mượn rượu giải sầu. Suốt cả tuần, ngày nào anh cũng về nhà lúc nửa đêm trong tình trạng say khước, miệng luôn gọi tên Thu. Vì Phương là con một nên bà Lập rất xót xa khi thấy con như vậy.
Rồi chuyện gì đã đến cũng phải đến, Phương bị tai nạn gãy cả hai chân. Khi tỉnh lại, anh nổi loạn giật hết bông băng trên người, đập đổ hết những gì trong tầm với và luôn miệng đòi chết, đến nỗi bác sĩ phải tiêm thuốc an thần anh mới chịu nằm yên. Vừa phải xa Thu và thân mình bị tàn phế, anh hoàn toàn suy sụp. Bà Lập năn nỉ anh hết lời và khóc hết nước mắt mà chẳng được. Cuối cùng bà đành cậy dì Nhiên đi đón Thu lên.
Dì Nhiên mủi lòng trước cảnh nhà bà Lập nên nhận lời. Hôm Thu bị tai nạn vừa khỏe, dì có đưa em về quê, nhưng lần đó có em dẫn đường, bây giờ đi một mình cũng thấy lo lo. Dì đang cầu xin Đức Mẹ dẫn đường thì có một cô gái đi kế bên hỏi:
- Dì về đâu ạ?
- Tôi định đi Vĩnh Long.
- Con cũng về đó, mà dì xuống chỗ nào?
Dì Nhiên đưa địa chỉ của Thu cho cô gái, vừa đọc xong cô reo lên:
-Con biết nhà này, nhưng cách nhà con hơn cây số. Ông này thỉnh thoảng có đến làm mướn cho nhà con.
Nhờ cô gái chỉ đường, dì Nhiên tìm được nhà Thu dễ dàng. Dì cám ơn Đức Mẹ đã dẫn đường cho dì đến nơi. Khi biết Phương đã vì mình mà bị tai nạn, Thu liền xin cha mẹ cho lên thăm anh. Cha mẹ Thu rất cảm kích trước lòng tốt của dì Nhiên nên đã đồng ý.
***
Phương rất ngạc nhiên khi thấy Thu xuất hiện, nhưng bất chợt anh gào lên:
- Cô đi đi! Tôi bây giờ là một kẻ tàn phế, tôi không cần cô thương hại đâu…hu…hu…
Thu nghe nhói trong tim, nước mắt tuôn tràn trước thảm cảnh này. Mới xa nhau gần hai tuần mà trông Phương gầy xọp, bơ phờ, rũ rượi…phần do buồn tình, phần vì ba ngày qua anh không chịu ăn uống gì. Thu bước đến nắm bàn tay của Phương đang bị cột vào thanh giường mà khóc. Phương gồng mình, nhăn mặt, đôi mắt nhắm nghiền, hai giọt nước mắt trào ra. Một lúc sau, anh nói trong tiếng nấc nghẹn ngào:
- Em… đừng đi Thu ơi!… Anh… anh không thể sống thiếu em mà...
- Em không đi đâu. Anh đừng làm hai bác lo lắng nhé!
Mọi người xung quanh ai cũng rơi nước mắt. Thu ở lại phụ bà Lập chăm sóc cho Phương. Anh vui vẻ, phấn chấn hẳn lên làm ông bà Lập cũng thấy nhẹ lo.
Sau khi Phương hồi phục và đi lại kha khá thì ông bà Lập tổ chức hôn lễ cho hai trẻ. Lúc trước ông bà phản đối, nhưng khi về sống chung lại rất hài lòng vì có con dâu đạo đức, hiếu kính, nết hạnh, hòa nhã. Tuy nhiên, những tính tốt đó không thay thế được bổn phận “lưu truyền nòi giống”. Cưới nhau đã ba năm mà Thu chưa có con, bà Lập sốt ruột hối thúc nhưng mãi chẳng thấy gì, bà bắt đầu tiếng nặng tiếng nhẹ với nàng dâu khi không có con trai ở nhà. Đôi lúc Phương thấy vợ ngồi khóc trước bàn thờ Đức Mẹ trong phòng, anh gặng hỏi mãi mới biết lý do. Anh an ủi Thu:
- Em đừng lo, chúng ta cùng khấn Đức Mẹ rồi kiên nhẫn chờ đợi, khi nào Chúa và Đức Mẹ muốn thì các ngài sẽ ban cho chúng ta.
Có lần Thu lén đi khám thì được biết: “Do ảnh hưởng của mấy lần phá thai lúc trước, nên có nguy cơ là em không thể có con được nữa”; nghe vậy em lo lắng vô cùng. Mỗi sáng sau lễ, hai vợ chồng em đều đến trước đài Đức Mẹ khẩn nài tha thiết. Cuối cùng, sau năm năm chờ đợi với bao nước mắt và lời cầu xin, em đã có thai và sinh được một bé trai bụ bẩm, kháu khỉnh. Em xin cha mẹ chồng đặt tên cho bé là: Hoàng Ân Thiên Đức, nghĩa là Ân ban của Thiên Chúa và Đức Mẹ.
Hôm Rửa Tội cho bé Thiên Đức, lúc các bà mẹ bế con đến trước đài Đức Mẹ hát kinh, nước mắt Thu tuôn tràn nhỏ lên mặt con. Em thầm thĩ trong lòng:
- Lạy Chúa, con xin đội ơn Chúa. Mẹ ơi, con xin cám ơn Mẹ. Con xin dâng con của con cho Mẹ, xin Mẹ thương chúc lành và phù hộ cháu.  Từ nay con không còn lo sợ gì nữa, vì đời con có Mẹ.
 
 
Mã số: 17-072
 

NƯỚC MẮT CỦA NIỀM VUI

 
Thành phố những ngày cuối năm nhộn nhịp những chuyến tàu xe rời bến đưa những người con xa xứ trở về quê đón Tết với gia đình sau một năm xa nhà làm ăn, học tập. Khuôn mặt ai cũng mang những vẻ nôn nao, háo hức. Nhìn những khuôn mặt ấy, bà chợt thấy chạnh lòng, nhưng dường như số phận bà đã được Thiên Chúa an bài, nên bà hoàn toàn chấp nhận.
Bà không nhớ mình đã ngồi ở đây, nơi bến xe này, với dăm gói bông tai, vài chai nước ngọt, vài phong kẹo sing-gum lang thang ở bến xe buôn bán mưu sinh bao lâu rồi. Từ ngày rời quê vào thành phố, đã khá lâu rồi bà không trở về, không phải bà không muốn về, mà vì bà không muốn bỏ lỡ một phút giây nào để tìm chút hy vọng nhỏ nhoi về đứa con trai đã thất lạc suốt bao năm trời.
Lại một ngày nữa trôi qua. Chuyến xe cuối cùng về miền Trung cũng đã rời bến. Bà cùn cũi trở về khu nhà trọ với tâm trạng bồn chồn. Đã bao năm rồi bà vẫn kiếm tìm nhưng càng cố tìm thì càng thất vọng.
Bà vừa về đến cổng nhà trọ, đã thấy lão ngồi đó tự lúc nào, trên tay đang cầm điếu thuốc Jet phì phèo nhả khói. Thấy bà, lão dập vội điếu thuốc rồi buông lời hỏi thăm.
- Sao nay bà về muộn quá? Có tin tức gì không?
Bà nhìn lão lắc đầu, rồi lủi thủi về phòng. Bỏ mặc lão với ánh nhìn bà đầy thương hại kèm theo những tiếng thở dài hắt ra, hòa tan cùng những luồng gió ngùn ngụt bỡn cợt trên tán cây trứng cá phủ rộng hươ, bao bọc lấy khu nhà trọ lụp xụp, điêu tàn.
Bà mở cửa phòng, cất gọn đống đồ đạc vào một góc rồi bật chiếc bếp ga mini đun nước nấu mì tôm. Chiều nay mải chạy theo những chuyến xe khiến chân tay bà mỏi rã rời. Bụng dạ nhiều khi chẳng nghe theo lòng người, có khi cả ngày ăn ổ bánh mì nhưng cũng ngang bụng. Mãi khi đêm về, cái lạnh hươ hoác bao phủ mới khiến bà nhớ đến cái bụng đói meo mà bà đã bỏ quên đâu đó sau những nôn nao kiếm tìm.
Người xóm trọ không ai biết bà tên gì. Người ta chỉ biết bà vào khu xóm trọ này từ lâu lắm. Bà đi từ sáng sớm, trở về nhà vào giữa đêm. Có người sống ở khu trọ cả năm nhưng cũng chưa bao giờ nói chuyện với bà. Múi giờ của bà khác của họ, mục đích đến thành phố của họ cũng chẳng giống bà. Họ đến vì tiền, vì muốn thay đổi cuộc sống. Còn bà, bà chỉ mong muốn tìm lại máu mủ của bà, để chuộc lại lỗi lầm của một người mẹ suốt bao năm bà canh cánh trong lòng.
Đêm buông xuống hững hờ, bà lại ngồi trước bàn thờ Chúa, lấy tràng hạt bà đeo trong mình ra cầu nguyện như một thói quen không thể thiếu mỗi ngày. Vì với người Công giáo nói chung, với bà nói riêng luôn tin vào lời Chúa phán rằng: "Bay hãy xin thì bay sẽ được...". Với ai, họ xin gì bà không biết, nhưng bà tin, điều bà xin có gì là to tát lắm đâu mà Chúa lại không nhận lời. Chỉ có điều Thiên Chúa đang thử thách lòng kiên nhẫn và Đức tin của bà nên chưa cho bà gặp được mà thôi. Bà luôn nhủ mình như vậy.
Sáng nay lão dậy sớm, ngồi đợi bà trước cửa phòng. Nhác thấy bóng bà, lão hồ hởi.
- Nay tui tranh thủ ra ga tàu chở khách sớm, tiện đường nên đợi bà đi chung. Bà lên xe đi tui chở bà ra bến.
Bà định bụng không lên, nhưng nghĩ đến chặng đường từ nhà ra bến xe hơi xa nên bà đồng ý ngồi lên cho lão chở. Lão cũng ngạc nhiên lắm vì đó giờ bà có chịu ngồi xe lão đâu.
Lão ở trọ cùng khu với bà. Lão không có vợ con, lão sống một mình, kinh qua đủ thứ nghề nhưng rồi lão chọn nghề xe ôm cho những năm tháng già yếu còn lại. Lão hiền lành, nhưng rồi sau mối tình thời trai trẻ mặn mà, bị chính người con gái mình thương phụ bạc, lão đâm ra chán nản, khép mình lại, không còn dành tình cảm cho ai. Lão và bà chẳng thù oán gì, nhưng cũng không thân thiết. Hàng xóm láng giềng nên quen biết chào hỏi xã giao. Lão hình như có tình cảm với bà từ những ngày đầu bà chuyển về sống trong khu trọ này nhưng bà luôn lảng tráng. Vì từ lâu bà đã không còn tình cảm dành cho đàn ông, kể từ ngày bà phát hiện ra chồng bà ngoại tình, rồi bỏ bà cùng đứa con trai lay lắt sống với bữa rau bữa cháo qua ngày.
Nhưng trách sao được khi đó là lựa chọn của bà, cũng chỉ tại ngày ấy bà không nghe lời cha mẹ, đi yêu người đàn ông ngoại đạo, để rồi tự mình chuốc lấy khổ đau. Bà ôm con trong tay, ngằn ngặt cười khóc. Nhưng rồi sau tất cả, bà tự vực mình đứng lên, sống mạnh mẽ hơn. Mà nếu ngày ấy không nhờ có cha xứ khuyên răn, chắc bà đã tìm đến cái chết để giải thoát đời mình.
Bà bế con ra chợ mưu sinh, khi thì mớ cá bà mua lại từ những người trong xóm đi lưới, lúc con gà, chục trứng, mớ rau... cuộc sống sẽ cứ thế yên bình trôi qua nếu như không có biến cố ấy.
Đứa con trai bà biến mất, năm ấy chắc nó cũng lên bốn, lên năm. Vì một phút bất cẩn thôi mà thành ra cớ sự. Bà khóc lóc trong đau khổ, vật vã kiếm tìm nhưng không được. Biết bao đêm bà không thể nào chợp mắt, vì mỗi lần nhắm mắt thì hình ảnh thằng bé lại ùa về, xâu xé tâm can. Nếu chẳng phải do bà bất cẩn thì đâu ra nông nỗi này.
Bà cứ dằn vặt mình sau biến cố ấy. Tự trách mình, gầy rạc đi vì những tháng ngày ròng rã tìm kiếm. Cho đến khi bà gục xuống, nằm cấp cứu trong bệnh viện. Ai nghe được câu chuyện cũng thương xót cho bà. Họ tin rằng rồi bà cũng tìm thấy đứa con ấy, vì mọi chuyện với Thiên Chúa không gì là không thể đó sao.
***
Thằng nhỏ nó có vết bớt ngay cổ tay, nhìn qua giống hình vuông, nhưng nhìn kĩ thì giống hình ngôi sao năm cánh. Bà nhớ rõ mồn một về thằng nhỏ như thế, nhắm mắt bà cũng không thể quên được, tưởng như chỉ sờ bằng tay bà cũng nhận ra. Nhưng hỡi ôi, biết bao nhiêu người đến mua hàng từ giỏ xách nho nhỏ của bà, bà đều chú ý tới cổ tay nhưng vẫn hoàn toàn vô vọng. Có nhiều khi thành phố đổ mưa khiến bà đổ bệnh nhưng khi nghĩ đến con, bà không cho phép mình ngơi nghỉ. Biết đâu được, trong một đêm nằm ngủ, Chúa gọi bà đi, ăn năn tội chẳng kịp. Ngày ấy chắc chắn sẽ đến, nhưng bà vẫn mong mỏi được gặp lại thằng nhỏ, giờ bà chỉ mong gặp được thôi, để biết thằng nhỏ còn sống và hạnh phúc, với bà như thế là mãn nguyện rồi.
Chẳng biết tự lúc nào lão xem việc đi tìm người có vết bớt hình ngôi sao ở cổ tay như nhiệm vụ của mình. Lão xót xa khi thỉnh thoảng chở khách ngang qua bến xe, thấy bà đội nắng để tìm kiếm chút hy vọng. Nhất là khi mỗi đêm thấy bà thất thểu trở về, lắc đầu mà lão chỉ trực muốn khóc. Lão thương bà quá, muốn khuyên bà gì đó nhưng biết chắc bà không nghe lời nên thành ra lão đành lao mình vào vòng luẩn quẩn tìm kiếm, như việc tìm kim dưới đáy biển vậy, nhưng biết đâu sẽ gặp, ở đâu đó trong thành phố rộng lớn này.
- Có khi nào thằng nhỏ nó không sống ở thành phố này không bà?
- Tui chắc chắn mà. Tui tin Thiên Chúa của tui không chỉ sai đường.
- Thiên Chúa nhiều khi cũng sai chứ bộ. Như Phật của tui cũng vậy thôi.
- Ông nói tào lao nghen. Từ đầu tui đâu có mượn ông đi tìm.
- Không có, ý tui không phải vậy. Tại tui lo cho bà... - Lão như biết mình nói hố, nên vội vàng chữa cháy. Ánh mắt bà lia thẳng về phía lão, sắc lẹm. Nhưng rồi thấy khuôn mặt tồi tội ấy của lão, bà như dịu đi, chẳng hiểu lão từ hành tinh nào tới mà dở hơi không đỡ được. Lo chuyện mình chưa xong, lại ôm đồm thêm việc của người khác.
Những khi rảnh rỗi bà hay ngồi kể lể lão nghe, về cuộc sống trước kia của mình, nhưng hơn hết vẫn là đứa con trai bà. Nếu như Chúa thương để nó còn sống, hoặc được nhà nào nuôi nấng tử tế chắc năm nay thằng nhỏ chừng ba mấy, bốn mươi tuổi. Không biết vết bớt nó có bự hơn hay nhòe đi không? Không biết thằng nhỏ nó có hận bà không nữa, những câu hỏi đại loại như vậy luôn đau đáu trong bà, từng ngày, từng đêm không ngớt.
***
Tiếng xe cấp cứu inh ỏi cả khoảnh sân của bệnh viện. Ngày cũng lụi dần sau những tán cây rộng lớn còn sót lại không nhiều ở thành phố này. Trong khi lão đang chở khách trên đường thì điện thoại đổ chuông. Thành phố vào giờ tan tầm, xe cộ chẳng biết từ đâu ập ra kín bưng khắp các ngả đường, còi xe inh ỏi. Nhờ có vị khách ngồi sau nhắc lão mới biết mình có điện thoại. Lão tấp xe vào lề đường, bắt máy, đầu bên dây kia là một giọng nam.
- Alô, phải số điện thoại của chú Tám không ạ?
- Phải, tui Tám đây. Mà xin hỏi anh là ai?
- Dạ con gọi từ bệnh viện Y., chú vui lòng tới bệnh viện ngay, người nhà chú bị tai nạn, đang nằm khoa cấp cứu ạ.
- Vậy sao? Vâng, cám ơn, tui tới liền.
Điện thoại vừa dứt, những thắc mắc ùa về trong đầu lão. Ở thành phố này lão làm gì có ai là người thân thích. Có khi nào bệnh viện nhầm số? Nhưng họ gọi đúng tên lão mà. Lão cứ thắc mắc, bối rối mà quên mất vị khách đang nôn nóng ngồi sau xe chờ đợi nãy giờ. Mãi tới khi vị khách gọi, lão mới quay trở về thực tại mà vội vàng chở khách tới nơi rồi chạy nhanh vào bệnh viện.
Lão bước vào cửa buồng cấp cứu, thấy bà nằm đó trong tình trạng hôn mê sâu, máy móc bấu chặt vào cơ thể. Lão vẫn không thể tin đó là bà. Sao có thể như vậy được. Lão định bước vào cạnh giường bà nằm những bác sĩ ngăn lại.
Mọi thắc mắc chỉ được giải đáp sau khi gã tài xế ấy xuất hiện, kể tường tận cho lão nghe. Lão nghe xong, lặng người, không ngờ chỉ vì đi tìm kiếm chút hy vọng mỏng manh hơn sợi chỉ suốt bao năm mà bà phải đánh đổi nhiều thứ quá, giờ thì cả mạng sống của mình cũng không ai đảm bảo. Chợt lão nghĩ đến lời bà nói mà tự nhủ, không biết Thiên Chúa của bà có biết được điều này hay không?
Từng ngày trôi qua với lão trong vô vọng, bà vẫn chẳng tiến triển gì, vẫn nằm đó hôn mê, lão đứng nhìn bà mỗi ngày, không nỡ rời đi, sợ khi bà tỉnh lại không có ai cạnh bên. Bác sĩ, điều dưỡng thấy lão đứng ngồi không yên nên cũng an ủi.
- Bác nhà không sao đâu, chắc do tai nạn bất ngờ, cộng tuổi già sức yếu nên lâu hồi phục, bác đừng lo lắng quá, chúng tôi sẽ cố gắng hết mình.
Lão nghe xong cũng an tâm phần nào. Tất cả chỉ biết trông chờ vào số trời. Mà ông quên mất rằng đã có lần bà nói với ông, sinh mệnh của bà phụ thuộc vào Thiên Chúa của bà hay sao.
Khoảng chục hôm thì bà tỉnh, nhưng người có vẻ đau đớn và yếu ớt. Bà thấy lão, muốn nở nụ cười nhưng không tài nào nhấc mép nổi. Nụ cười bà muốn dành cho lão từ lâu lắm nhưng lúc còn khỏe bà lại không thể trao cho lão, bản tính nghi ngờ từ hồi còn trẻ vẫn đeo bám bà. Giờ muốn cười thì không thể, khắp cơ thể như chống đối lại bà. Lão như hiểu được bà muốn nói gì nên ghé sát tai lại. Bà mấp máy hồi lâu, khó khăn lắm lão mới hiểu được điều bà muốn nói.
***
Vị linh mục đứng cạnh giường bà xức dầu sau khi có sự đồng ý của bác sĩ. Đó là tâm niệm, mong muốn của bà. Có vẻ như linh cảm của bà mách cho bà biết trước được điều gì đó. Lão đứng cạnh bên, chú ý từng động tác của vị linh mục. Cho tới khi vị linh mục ra về lão mới nhận ra có điều gì đó thân thuộc biết bao nhưng ngay lúc ấy lão không tài nào nhớ ra được.
***
Bà được ra viện trong sự háo hức đợi chờ. Lão đưa bà về nhà trọ nghỉ ngơi, không cho bà lang thang đi bán đồ ở bến xe nguy hiểm nữa.
Suốt quãng đường về bà vịn tay chặt vào hông lão, miệng không ngừng rối rít cảm ơn. Lão nghe không lọt tai, vì chưa bao giờ bà dành cho lão những lời lẽ nhẹ nhàng như vậy.
Lão định bụng sẽ để bà khỏe hẳn rồi sẽ nói chuyện quan trọng này cho bà nhưng lão không đợi được. Bà nghe lão nói cũng háo hức lắng nghe.
- Tôi có chuyện quan trọng, định để bà khỏe hẳn rồi sẽ nói bà nghe nhưng tôi không đợi được.
- Có chuyện gì ông cứ nói ra đi. Ấp úng gì nữa.
- Tui nghĩ từ mai bà không phải đi lang thang bán đồ tìm con bà nữa đâu.
- Ủa sao vậy ông? Ông có tin tức gì về con trai tui sao.
- Không, tui không có. Nhưng tui tìm được người có vết bớt cánh sao ở cổ tay rồi. Còn phải con bà hay không, chắc chỉ có bà mới biết.
- Nhưng người đó ở đâu, ông mau nói đi. Ông làm tui đau tim quá.
- Người ấy..., chính là vị linh mục mà bà đã nhờ tui đến gặp để tới bệnh viện cầu nguyện cho bà.
- Chúa ơi, không thể nào chứ.
- Tui nói thiệt tình, giỡn bà chi.
- Vậy ông mau chở tui tới gặp Người đi... Mà thôi không được, chắc gì Người phải là con tui. Mà nếu phải, chắc gì Người chấp nhận tui ông nhỉ. - Mạch cảm xúc của bà biến đổi nhanh quá, đối lập nhau khiến lão cũng không tài nào hiểu nổi.
Lão không biết trả lời bà thế nào, nhưng nhìn vào trong mắt bà, lão thấy ánh lên niềm vui đó giờ bà chưa từng có được.
***
Lão chở bà đến ngôi giáo đường ấy như mong muốn của bà. Tới nơi, đang là giờ Thánh lễ, bà kéo tay lão vào ngồi ở hàng ghế cuối cùng. Bà đưa đôi mắt lên nhìn vị linh mục trong chiếc áo trắng đang giảng lễ trên gian thánh, mắt bà lung linh, niềm vui đượm nhuần trên gương mặt nhăn nhúm bởi mưa gió và thời gian.
Tan lễ, lão chở bà về, suốt quãng đường đi bà không nói gì, lão cố bắt chuyện để bà vui hơn nhưng đáp lại chỉ là im lặng. Bất giác lão thấy áo mình ướt nhẹm từ lúc bà kêu mệt nên ngả đầu vào lưng mình. Trời có nổi mưa đâu mà sau lưng lão ướt, đâu hay nước mắt bà tuôn, vì bà đang vui, suốt bao năm, niềm vui có được từ nước mắt.
 
Mã số: 17-073
 

HẠT CHUỖI NỞ HOA

 
Trời xanh mát dịu, những ánh nắng nhẹ đan trên những rặng cây. Bà Ánh đang ngồi lần chuỗi, thì thầm với Đức Mẹ bên hiên nhà. Tượng đài Đức mẹ nằm trước sân, ánh mắt mẹ vẫn trìu mến nhìn vào ngôi nhà nhỏ bé này.
- Mẹ, đưa cho con ít tiền, mau mau con đi gấp! - Nam giục mẹ vẻ vội vội vàng vàng.
Bà mẹ vẫn lặng yên, tay vẫn lần những hạt chuỗi nhỏ. Bỗng Nam cáu giận, chạy tới giật tràng chuỗi từ tay mẹ; những hạt chuỗi đứt ra tung tóe bắn xuống đất, Nam vùng vằng:
- Suốt ngày kinh với tụng, lần hạt, đọc kinh có ra tiền không?
Những hạt chuỗi đá lăn trên sân, gặp ánh nắng mặt trời, nó tỏa ra những tia sáng thật kì lạ. Bà Ánh lững thững bước vào trong nhà, đi ra cầm một nắm tiền đưa cho con trai, vẻ mặt tủi sầu không quên dặn:
- Con ơi, con định làm khổ thân mẹ đến bao giờ nữa đây? Ba con ra đi như vậy rồi mà con vẫn không thay đổi sao! Về nhà sống yên đi con.
Đây không phải là lần đầu bà rơi nước mắt vì thằng con trai yêu dấu của mình. Đã biết bao lần Nam làm mẹ khóc, mẹ đau. Bạn bè trang lứa cùng Nam đi nghĩa vụ quân sự, ai về cũng ngoan ngoãn hiền lành. Riêng Nam thì mang về cho gia đình một cái gánh, gánh mà cả đời này chắc bà Ánh không thể quên được. Nam hoàn thành nghĩa vụ quân sự, ra về và mang theo giấy nợ 30 triệu đồng từ các tay cho vay gần nơi khu căn cứ. Như tiếng sét đánh ngang tai, bà Ánh như không tin vào mắt mình; còn ông Hùng thì đã bị đột quỵ ngay sau đó vài hôm vì vốn đã có sẵn bệnh về tim. Giấy nợ mang về, ông Hùng ra đi… Bà Ánh như không còn đủ sinh lực để sống trên cõi trần này nữa. Bà khóc đến kiệt kuệ, khóc đến không còn giọt nước mắt. Điều gì đã khiến Nam nợ nần nhiều như vậy trong khi đang thi hành nghĩa vụ quân sự? Lô đề, nhậu nhẹt và tính sĩ diện của mình, ngày này qua tháng nọ; thời gian rảnh là Nam có mặt ở mấy quán xung quanh đó ra sức đầu tư cho những con lô, những số đề và rủ cả bạn bè nhậu nhẹt. Hai năm kết thúc nghĩa vụ quân sự, bù qua số lãi và thâm thua, Nam kết lại với số nợ từng đó. Vậy là một mình bà Ánh phải hứng chịu những gì ập tới gia đình. Bà lấy tiền tiết kiệm và vay bà con làng xóm để trả cho Nam. Nào Nam có thay đổi, vẫn tụ tập, vẫn chơi bời…
- Đi đây, tối con về. - Nam cầm số tiền mẹ đưa, nói xong rồi đi thẳng.
Căn nhà vốn đã vắng vẻ nay lại trở nên u sầu hơn. Bà cũng không thể tưởng tượng được cậu bé ngày nào còn vui tươi giúp lễ nhà thờ nay lại thành kẻ tan hoang phá phách. Chẳng lẽ đây chính là thánh giá mà Chúa muốn gửi gắm nơi bà? Nam càng chơi bời, càng phá phách bao nhiêu thì bà lại càng tỏ ra kính mến Chúa và trông cậy Đức Mẹ bấy nhiêu. Bà phó thác mọi sự và hằng ngày vẫn luôn nài nỉ thầm thĩ lần chuỗi với Mẹ mong một ngày nào đó Nam thay đổi, ăn năn. Đã xế chiều, Bà lủi thủi nấu cơm và mong đứa con về ăn. Vẫn biết rằng ăn xong là nó cùng đám bạn lượn đi ngay nhưng tình mẫu tử cháy bỏng trong bà thì cho dù là dăm ba phút thấy sự hiện diện của con ở nhà là bà cũng mừng rồi. Nam dẫn một nhóm người tóc xanh tóc đỏ về, nói năng vài ba câu sau đó ăn bát cơm rồi kéo nhau lăn ra ngủ. Cảnh tượng này đã kéo dài vài tháng nay rồi. Đến ngày bà Ánh không còn đâu tiền để Nam chìa tay xin, Nam quyết định ra đi cùng nhóm bạn. Mấy tháng trời… nửa năm, rồi đến ngày 28, 29. Hôm nay đã là 30 Tết, vẫn không thấy bóng dáng Nam về. Bà Ánh tủi thân, khuôn mặt hằn lên những nếp nhăn thật tội nghiệp. Một mình một vẻ trong căn nhà hiu quạnh, hàng xóm láng giềng ghé qua thăm nom bà rồi lại về sửa soạn cho gia đình. Chắc chỉ có Đức Mẹ trước sân mới hiểu thấu được nỗi khổ của bà, vì Mẹ đã quan sát, lắng nghe và cảm nhận những lời tâm sự hằng ngày của bà. Bỗng có một chiếc ô tô màu đen dừng trước cổng nhà bà, một nhóm người lạ mặt bước xuống xe tiến vào sân:
- Bà già, đây có phải nhà thằng Nam con ông Hùng không?
- Các anh là ai vậy? Nam nhà tôi đi làm không có nhà.
- Làm cái gì mà làm, có tiền thì trả cho thằng oắt con ấy đi, 20 triệu. Nợ tụi này hơi lâu rồi đấy.
Bà hơi choáng vì cảnh tượng này lại một lần nữa hiện ra, nợ nần, tiền bạc... sao nó cứ đeo bám mãi gia đình của bà như vậy? Bà ngồi thụp xuống ghế thở dài.
- Tiền… Nhà già này làm gì còn tiền nữa mà trả với nợ.
Biết không làm ăn gì được với bà già này, đám người bước đi không quên ngoái lại sau đe dọa:
- Về nhắn với thằng con trai quý tử của bà lo mà thanh toán trước khi ngôi nhà này bị ra đi.
Làng Lý Nhân yên bình như vậy, có ai biết đâu rằng trong căn nhà nhỏ này có biết bao nhiêu là khổ cực, nỗi khồ mà chỉ có một mình người mẹ phải chịu. Hết nước mắt, bà không thể khóc được nữa. Cái Tết đó thật là buồn và hiu hắt, bóng một người lủi thủi đi ra rồi lại đi vào như đang mong ngóng ai đi xa về.
Tết đó Nam không về.
Nam ngao du cùng bạn bè suốt mấy tháng trời; khi tiền tiêu xài đã hết, nhóm người cũng tan rã, ai đi đường nấy. Nam không có tiền về nhà, làm thuê thì không ai mướn vì Nam đâu biết làm việc gì. Một tuần, hai tuần rồi gần cả tháng, Nam lang thang trong các bãi đậu xe để xin phụ xe nhưng ai cũng ngán ngẩm lắc đầu. Buổi tối không chốn nương thân, Nam tìm vào các gầm của những chiếc xe ô tô tải để tránh sương và ngủ qua đêm. Bãi đậu xe rộng lớn, loáng thoáng vài người cũng trong hoàn cảnh như Nam, cũng ngủ vất vưởng nay đây mai đó. Tối nọ, vừa ngả lưng xuống chợp mắt thì Nam nghe có tiếng lạ và một dáng người mặc đồ trắng xóa vụt qua người Nam. Nam giật thót tim và hét lên:
- Ôi! Mẹ ơi, ma… ma…!
Nam tái xanh mặt, sợ run lên và không thể nào ngủ lại được. Anh ngồi tưởng tượng có thể đó là những oan hồn bị chết oan trong các vụ tai nạn của những chiếc xe tải này gây ra sao? Và rồi bao nhiêu những thứ khác hiện lên trong đầu Nam.
- “Con sợ gì trên đời này nhất”? - Lời cô giáo lý viên hỏi khi Nam còn nhỏ.
- Dạ, con sợ ma nhất ạ.
- Vậy khi con cảm thấy sợ, con hãy làm dấu thánh giá, Chúa sẽ ở bên và che chở cho con.
Những lời nói ngày nào vọng lại trong tâm trí Nam. Nam bất thần đưa tay lên làm dấu. Bao lâu rồi Nam quên mất làm động tác này, cái động tác của một người con cái Chúa. Nam thức cho đến tận sáng ngày hôm sau và quyết tâm xin cho được một công việc nào đó làm nuôi thân để khỏi gặp lại cảnh như ngày hôm qua. Bưng bê, rủa chén, bốc vác…thứ gì Nam cũng làm thử nhưng chỉ được và hôm là lại bỏ rồi lang thang khắp đường phố. Ma xui quỷ khiến thế nào mà nhóm xã hội đen lần mò ra được tung tích của Nam. Chúng đuổi theo, bao vây và định bắt giữ Nam để thanh toán. Nam hoảng quá chạy vào những chỗ đông người, len lỏi mong sao trốn thoát được bọn quỷ dữ này. Chạy mãi, chạy mãi đến lúc gần như kiệt sức không còn một tí hơi, Nam bất chợt thấy một ngôi thánh đường thế là rẽ luôn vào đó. Đúng lúc đang trong giờ lễ, Nam chạy vào làm xôn xao một chòm giáo dân. Đám người kia cũng vừa kịp chạy tới nhưng đã bị mấy ông trùm quản đuổi ra vì ngoại hình và cách ăn mặc lạ lẫm, hung tợn. Nam lặng đờ người ngồi trong ngôi thánh đường, tâm trí đang rất hoảng loạn vì tí nữa thì bị nhừ đòn. Lấy tiền đâu ra trả cho chúng đây, không trả thì chúng sẽ giết sống mình?... Tiền… Tiền kiếm ở đâu đây?... Những câu hỏi cứ lần lượt hiện lên làm Nam rối bời. Nghe tiếng cha giảng, tiếng giáo dân đọc kinh… Nam vẫn chưa thể tập trung được vì mấy năm rồi Nam không bước chân đến cửa nhà nguyện.
 Được mấy người hỏi han và giúp đỡ, Nam được giới thiệu tới làm cho một lò mì gần đó. Làm chưa đầy hai tháng, Nam lừa chủ và ôm gọn số tiền ra đi theo những con lô  con đề với ước mơ gỡ nợ. Không những không còn tiền mà Nam còn bị thâm nặng và phải vay thêm một số chủ mới. Nợ nần chồng chất, một chủ rồi lại hai, ba chủ… Các nhóm cho vay nặng lãi biết bị lừa nên quyết săn lùng Nam cho bằng được để dằn mặt cho nếm vị đời. Lần này thì không thể thoát nổi, Nam đã bị mấy nhóm người bao vây trong khi đang dùng cơm trưa tại một tiệm ăn. Chúng đánh đập đòi trả tiền, những cú đấm đá thụi mạnh vào mặt, vào bụng và sườn Nam.Vừa lúc đó có một người đàn ông chạy tới:
- Các anh sao lại đánh người như thế này, có chuyện gì thì từ từ giải quyết?
- Nó nợ tiền bọn tôi, định trốn nợ đây. Để xem có trốn được không, hôm nay xử cho nó không lết được thì thôi. Định chơi khăm bọn này hả.
Người đàn ông vội lấy ra ít tiền nói là trả trước ít lãi và hứa sẽ trả hết từ từ. Một lúc sau bọn chúng mới đồng ý và bỏ đi.  Đau đớn vô cùng, Nam ngẩng mặt nhìn lên xem vị cứu tinh của mình là ai thì hết sức ngạc nhiên, vì đó chính là ông chủ của lò mì mà Nam đã từng làm và từng phản bội. Vừa đau vừa tủi hổ, Nam giàn giụa nước mắt nói lời xin lỗi và cám ơn vị ân nhân vô cùng tốt lành. Được đi làm lại tại lò mì, Nam vô cùng sung sướng; có chỗ ăn chỗ ở an toàn là cảm thấy quá hạnh phúc rồi. Chiều chiều, gia đình ông ra nhà thờ để lần chuỗi đọc kinh cùng các giáo dân trong giáo họ. Lúc đầu Nam ngại ngùng không ra nhưng vài lần được thúc giục, Nam mới miễn cưỡng ra nhà thờ lẫn chuỗi mỗi khi làm mì xong. Ngồi trước Thánh thể, trước tượng Mẹ, Nam cảm thấy lòng mình sao thanh thản và bình yên đến lạ vậy, chưa có bao giờ Nam có được cảm giác như thế này. Suốt ngày tiền  bạc, lô đề và nợ nần cứ xoay quanh đầu Nam, làm sao Nam có thể yên ổn được. Dần dần, Nam cảm thấy thật hạnh phúc khi cùng mọi người ngồi đọc kinh lần chuỗi trong nhà nguyện, một cái cảm giác an bình đến lạ lùng và khó hiểu.
Một ngày nọ, Nam được giao nhiệm vụ đi rao mì cho mấy nhà trong một xóm nhỏ.
- Chú ơi, chú gì ra nhận mì này.
- Vào đây cho tôi, mang vào giùm tôi đi. - Tiếng khàn khàn của một người đàn ông trung tuổi cất lên.
Nam ái ngại bước vào vì căn nhà quá lụp xụp, đập vào trước mắt là một người đàn ông đang xúc từng miếng cháo đơm cho bà vợ nằm liệt giường. Không khí trong nhà hơi ảm đạm kèm theo mùi hơi khó chịu, Nam cố gượng hỏi vài câu để đưa mì rồi đi ra mau mau. Người phụ nữ đã liệt nửa người hơn 20 năm nay, ông một tay phải  nom vợ và chăm sóc thêm hai đứa con. Hình ảnh ấn tượng đặc biệt với Nam là tay người phụ nữ cứ mân mê tràng chuỗi suốt,tuy liệt nửa người đó nhưng không ngày nào là bà không lần chuỗi. Bà nói với Nam, đó là liều thuốc cho bà sống và là hương vị nêm cho gia đình bà luôn được đầm ấm cho đến hôm nay. Nam xin phép ra về, lòng cứ bồi hồi xao xuyến vì cái thứ thuốc thần kì đó. Mải nghĩ ngợi lung tung, Nam tông xe vào một em bé đang đi bộ trên đường.
- Mày đi kiểu gì thế hả, mắt để lên trán à? - Nam hét toáng lên.
Em bé hoảng quá khóc thét, chắc nó khoảng lớp 3, lớp 4. Nam nhìn xuống nắm đồng tiền lẻ từ tay em bé rơi bay ra phất phơ dười lòng đường.
- Mấy cái đồng bạc lẻ, khóc gì mà khóc.
- Đây là số tiền cháu dành dụm để mua thuốc cho bà cháu. Hu..hu…- Em bé nức nở phân trần.
Nam lặng người đi, “tiền mua thuốc cho bà”, “tiền dành dụm”…Đã bao giờ mình mua thuốc cho mẹ chưa, một năm, gần hai năm nay rồi chưa một lần ghé về. Ngày hôm đó hình ảnh người phụ nữ liệt giường và em bé cứ hiện lên trong Nam. Nam cảm thấy tội lỗi và bất hiếu vô cùng, Nam ra quán uống rượu để giải sầu rồi lững thững bước vào nhà thờ. Mắt Nam như nhòe đi, sống mũi cứ cay cay. Nam nhìn tượng Đức Mẹ đang bồng Chúa Giêsu, nước mắt mẹ chảy ra lăn dài trên má. Nam dụi dụi mắt cứ ngỡ mình đang nhìn lầm, dụi đến đau mắt nhưng hình ảnh đó vẫn  hiện lên rõ rành rành. Nam tự đưa tay tát mình một hai cái thật đau để tỉnh mơ nhưng sự thực vẫn đó. Nam không tin vào chính mắt mình nữa.  Nam khóc, khóc vì thân phận lầm lỗi của mình, khóc vì mình mà làm cho biết bao nhiêu người đau khổ. Khóc vì mình quá tệ bạc, tệ bạc  đến nỗi làm cho Mẹ rơi nước mắt. Nam đấm ngực ăn năn cho thân phận bọt bèo của mình. Càng nhìn lên tượng Mẹ, Nam lại càng thấy tâm hồn  đau hơn.
- Mẹ khóc vì lỗi tội của con phải không? Mẹ khóc vì lâu nay con không đến nhà thờ, không đọc kinh, không hiếu với gia đình phải không? Con là cái thằng đáng chết mà, một kẻ chẳng ra gì.
Nam ngồi lâu, thật lâu trong nhà nguyện. Tối hôm đó, Nam viết lên dòng thời gian trên trang mạng xã hội: “Các bạn biết không, chuỗi Mân Côi là một mầu nhiệm thật tuyệt vời, Mẹ Maria đã cho tôi thầy điều đó. Nhiều người nghĩ chắc tôi say xỉn nên nói lung tung. Thực sự là tối nay tôi có uống chút ruợu, nhưng khi viết những dòng tâm sự này, tôi hoàn toàn tỉnh và không hề say. Kí tên: Nam lầm lỗi”. Dòng tâm sự đã làm xôn xao nhiều bạn bè của Nam, một số người bán tín bán nghi về những gì Nam nói, một số khác cũng bị đánh động bởi “chuỗi mân côi” của một kẻ tội lỗi từ bạc tiền. Ngay ngày hôm sau, Nam xin ông chủ về quê.
- Ai đấy, ai kéo cảnh cửa đó, vào đi. Có phải cô Hoa sang lấy thuốc cho tôi phải không? - Tiếng người mẹ già phát ra từ trong căn nhà nhỏ, sau khi nghe thấy có tiếng động từ cánh cửa.
Nam đứng im, ngập ngừng không dám bước vào. Năm phút, mười phút…mười lăm phút Nam vẫn cứ đứng yên ngoài hiên nhà. Đến khi tiếng ho khụ khụ của mẹ trong nhà phát ra, Nam chạy òa vào trong bên giường mẹ.
- Mẹ bị ốm phải không mẹ?
- Ai đấy? Ai vào nhà tôi đấy?
- Mẹ ơi, con đây, Nam đây mẹ. Con xin lỗi mẹ, ngàn lần xin lỗi mẹ, con không ra gì, con có lỗi với mẹ.
Bà mẹ không tin vào đôi tai của mình, bà cố gượng dậy, ôm cổ đứa con trai của bà. Nó đã trở về, trở về thật sao.
- Con….con về nhà đấy ư? Con có đi lại nữa không con… con?
- Mẹ ơi, con không đi đâu nữa mẹ, con…con…- Nam nức nở nói trong nước mắt.
Mẹ đã già đi nhiều từ ngày Nam bỏ đi, tóc mẹ đã nhuốm màu mây bạc. Nam đau thắt từng khúc ruột, người mẹ cưu mang mình, nuôi dưỡng mình đã vì mình mà chịu bao khổ cực, đã vì mình mà cạn đắng những giọt nước mắt.
- Mẹ ơi, con là đứa con bất hiếu, bất hiếu với bố, với mẹ. Con không xin mẹ tha thứ cho con nhưng con chỉ xin mẹ đừng buồn vì con nữa. Con hứa con sẽ sống tốt hơn, con xin thề con sẽ không nhúng đến các tệ nạn nữa. Con thấy được những đau đớn của các tệ nạn ấy rồi. Chỉ có gia đình, những lời kinh mới làm cho con cảm thấy an bình thôi ạ.
- Con…con…!
- Sao con lại…con...?
Mẹ Nam khóc không lên tiếng, muốn nói điều gì đó nhưng không sao nói được. Chắc có lẽ vì bà quá xúc động, không thể kiềm chế được.. Bà không thể tưởng tượng được có ngày hôm nay, ngày mà thằng con trai của bà quay về nói lời xin lỗi, quay về với lòng ăn năn hối cải. Bà quơ tay, xoa đầu con, bà muốn nói lắm nhưng không thể cất tiếng được, tim bà đang rất bất bình thường vì những cảm xúc loạn xạ. Từ từ, từ từ bà lịm dần, lịm dần đi; đôi tay bà buông thõng xuống giường rồi nghiêng qua một bên. Hai hàng nước mắt chảy chầm chậm xuống từ hai khỏe mi, miệng bà mỉm cười, khuôn mặt bà nhìn rạng rỡ hơn bao giờ hết.
- Mẹ …..Mẹ ơi….Mẹ!!!
 
***
Nam nhớ lại như in ngày Nam vùng vằng đứt tràng chuỗi từ tay mẹ mình, những hạt chuỗi đã bắn đi tung tóe khắp nơi. Nam thẫn thờ lần theo xung quanh tượng đài Đức Mẹ trước sân mình mong tìm được những hạt chuỗi vô cùng quý giá ấy. Liệu có thể tìm được sao? May thay, Nam bá tay lên kệ thấy một cái lọ thủy tinh nhỏ, trong đó ánh lên những hạt chuỗi lấp lánh, Nam mừng rỡ vội mở ra. Những hạt chuỗi vẫn sáng lóng lánh như ngày nào, kèm thêm một mẩu giấy nhỏ đã phai nhòe màu mực: “Xin Mẹ thương và cứu vớt con trai con, dâng Mẹ”. Nam bồi hồi xao xuyến, chẳng lẽ mẹ đã viết giấy này, đã liên lỉ cầu nguyện cho mình và mong mỏi mình trở về.
- Một, hai, ba…tám, chín. Sao lại có mỗi chín hạt thế này, chuỗi mười hạt cơ mà. Mình phải tìm cho ra hạt cuối cùng đó, chuỗi sao lại thiếu được.
Nam đi quanh, đi quanh để tìm cho ra hạt chuỗi cuối cùng đó nhưng vô ích, chẳng có kết quả gì. Đã gần hai năm rồi từ ngày những hạt chuỗi đó bắn tung ra và cũng đã gần một tháng rồi từ ngày mẹ xa cách. Nam quỳ xuống bên tượng Mẹ, ăn năn về những việc mình làm. Đấm ngực than khóc vì  mình là nguyên nhân gây ra bực bội cho bố và sự ra đi của ông; là mũi dao nhọn đã đâm thâu tâm hồn người mẹ yêu dấu. Suốt đời này biết làm sao để đền bù những tội lỗi gây ra đó.
- Mẹ Maria ơi, con đáng chết phải không, đáng đọa đày vì tội bất hiếu? Bố mẹ thân yêu đã ra đi ngày con phạm những lỗi lầm và cũng lại ra đi ngày con nhận ra lỗi và hoán cải trở về.  Con phải làm sao đây, làm sao để rửa sạch vết nhơ tâm hồn con đây? Muôn đời con thật đáng tội lỗi.
…..
- Hạt chuỗi thứ mười có phải…có phải là chính nơi bản thân con, phải vun đắp đền bù để hạt chuỗi đó luôn được tỏa sáng, để đủ cho dây chuỗi cuộc đời kia? Hạt chuỗi này cần con xây dựng từng ngày, đi tìm từng ngày trong cuộc sống con. Mẹ ơi Mẹ….xin dạy con!
*  *  *
Những tiếng nói tiếng cười được tìm lại nơi ngôi nhà nhỏ bé; tiếng đọc kinh, lần hạt vào các giờ tối, tiếng trẻ con ríu rít đọc theo từng từ bố mẹ dạy. Một lò mì được sinh ra trong xóm nhỏ để phục vụ và giúp đỡ những người nghèo khổ, vết lầm cũ đã được xóa xong. Anh đã kết hôn cùng cô con gái của ông chủ lò mì, một sự nghiệp mới, một cuộc sống mới đã được sang trang. Mẹ Maria vẫn luôn tươi cười che chở dìu dắt cho những bông hoa bé nhỏ của cuộc trần.
- Này anh, nhà anh lần chuỗi suốt thế, lần hạt đọc kinh có ra tiền không, có nhiều tiền bằng bán mì không?
- Ô… cái anh này! Mỗi ngày nếu lần 100 hạt là chúng tôi có ngay 100 đôla gửi cho các linh hồn, gửi để cầu nguyện cho chúng tôi và cho cha mẹ chúng tôi rồi đấy.
 
 
Mã số: 17-080
 

TIN LÀNH CỦA MẸ

 
Trời trở gió…
Ông Thuấn quỳ sụp trước lèn Đức Mẹ nức nở: “Lạy Mẹ, con đã làm gì sai, xin Mẹ hãy chỉ cho con, vì sao như vậy, tại sao lại như vậy…”. Gió rít lên từng hồi như muốn đánh tan lời ông. Mọi khi ông vẫn thường đứng cầu nguyện, lúc mệt mỏi thì ngồi xuống ghế đá, đây là lần đầu tiên ông quỳ dưới chân Mẹ, ông không thể đứng nổi hay đang ân hận về những việc mình đã làm, ông cũng không biết nữa. Đầu óc ông quay cuồng như chiếc lá rụng vào gió xoáy. Tháng tháng ngày ngày như thước phim quay chậm đang giày vò tâm trí ông…
***
Ông Thuấn vốn là thầy thuốc cứu người. Ấy thế nhưng “dao sắc chẳng gọt được chuôi”. Bao năm chữa vô sinh cho người ta, vậy mà gần năm mươi tuổi đầu ông chưa có được mụn con. Phần vì ráng tìm vợ người Công giáo, phần vì ông hơi “nghệ sĩ”, muốn tìm người có “tâm hồn đồng điệu” nên bị “quá lứa lỡ thì”. Cũng may ngoài bốn mươi thì gặp bà Thuấn - cô giáo làng bên, lúc bấy giờ là “con bệnh” của ông, bệnh viện đã trả về, nghe tiếng ông sang cắt thuốc cầu may. Đến khám gặp lúc ông đang châm cứu cho người ta, cô giở một cuốn tiểu thuyết dày cộp ra đọc và lập tức thu hút ánh nhìn của ông. Để làm quen, ông đề nghị “đổi sách lấy thuốc” nhưng cô không chịu, chỉ cho mượn thôi. Lâu dần hai người “dính với nhau như sam” thành vợ chồng, ai cũng cười: “Cái anh Thuấn này may, tự dưng lấy được vợ trẻ lại có học”, chỉ ông biết bệnh thận của bà Thuấn không dễ chữa, việc có con lại càng khó.
Không biết cuộc sống “đều đều” của ông Thuấn sẽ trôi về đâu nếu không có phong trào “xây lèn Đức Mẹ” nổi lên khắp giáo phận. Giáo xứ của ông chẳng giàu có gì nhưng cũng cố gắng gom góp tiền để xây, “vay nợ cũng phải xây cho xong”, Cha Xứ bảo vậy. Ông Thuấn dù không dư giả cũng đóng góp tiền công khám chữa bệnh một tháng. Ai ngờ lèn Đức Mẹ lại thiêng đến thế, bao người đến xin đều được thành thử tiếng vang khắp huyện, khắp tỉnh, người ta về cầu Mẹ, đã tài trợ cho xứ rất nhiều tiền, dư để trả nợ, còn xây khuôn viên vườn hoa và đặt cả hàng ghế đá cầu nguyện nữa. Phải biết là những năm đầu thập niên chín mươi thế kỷ trước, ghế đá là một mặt hàng “xa xỉ” nhé. Vậy mà trước lèn Đức Mẹ xứ ông có hẳn hai hàng ghế đá, mỗi bên năm chiếc, đúng chẵn chục cũng đủ biết công đức người ta đóng góp nhiều đến thế nào. Nhưng cũng rất kỳ lạ là sau khi công trình xây xong đẹp đẽ thì, nói hỗn phép, Mẹ “mất thiêng”, người ta xin không có được nữa. Lèn Đức Mẹ vì thế vắng vẻ hẳn, chỉ còn giáo dân trong xứ vẫn cầu nguyện với Mẹ hàng ngày thôi. Người trong xứ nửa đùa nửa thật: “Mẹ cho thế là đủ rồi, xây xong hết thì Mẹ còn sang giúp các nơi khác nữa chứ, Mẹ ở Fatima có mấy ngày mà ở xứ mình hơn nửa năm rồi còn đòi gì nữa”. Ông Thuấn không nghĩ thế, Mẹ thương thì Mẹ còn quay lại, “cứ xin thì sẽ được” (*). Và cứ thế, dù trời ráo hay mưa, dù đêm giông hay gió, ông đều dâng Mẹ “năm chục” mỗi ngày…
Thế rồi năm năm sau ngày cưới, hai năm kể từ ngày xây xong lèn Đức Mẹ thì bà Thuấn bất ngờ có thai, cái thai lại rất khỏe, sinh bé gái bụ bẫm xong bệnh tình bà còn thuyên giảm nữa mới hay. Ông bà đặt tên con bé là Maria Hảo, cho dù ba đời nhà bà Thuấn đều đặt tên thánh con gái là Têrêsa - vị Thánh nữ thành Avila nổi tiếng. Con bé Hảo lớn lên khỏe mạnh thông minh nhưng cũng rất nghịch ngợm tinh quái làm ông khá vất vả vì mẹ nó yếu không trông nổi, dạy nó học càng khó, “phu bất phụ giáo” mà. Đến năm nó mười tám tuổi thi đỗ đại học danh tiếng ở Hà Nội, ông tự hào lắm song cũng vô cùng lo sợ nó ở thủ đô một thân một mình dễ hư thân mất nết. Nhưng mọi lo lắng của ông chỉ là thừa, đúng như cái tên của nó, con bé thậm chí còn mang về tấm “bằng đỏ” làm hai lỗ mũi của ông phỗng ra, chắc hai chiếc xe tăng cũng chui lọt. Hôm nó “vinh quy bái tổ”, ông sung sướng “nhâm nhi” hết nửa chai rượu thuốc lâu năm, tay vân vê chòm râu, vừa cười vừa hỏi:
- Con gái rượu có tính đi làm chỗ ông Q. không, hay là có chỗ ở “Hà Lội” rồi. Thôi cứ về công ty ông Q. cho gần nhà. Bố nói với ông Q. rồi đấy, làm giỏi thì gả luôn cho thằng Tân, hề hề… Xem xem bạn bè bố có cháu chắt cả rồi đấy! Bố cũng muốn có cháu bế rồi! Nhanh nhanh đi, bạn bè con lấy chồng hết cả rồi còn gì, đừng làm ông bố già này phải mang tiếng nuôi “gái ế” trong nhà, hề hề…
Không ngờ con bé Hảo không cười, nó nghiêm mặt lại, giọng lí nhí:
- Con không… Dạ… con không…
- Không cái gì mà không, mày không cái gì?
- Dạ con không, con không…
- Lắp bắp cái gì, nói nhanh lên nào!
- Dạ, con không lấy chồng ạ, con tính đi Xơ (Soeur)
- Hả…
Ông giật bắn mình đứng dậy, chén rượu tuột khỏi tay vỡ tan. Bà Thuấn vội vội vàng vàng đi nhặt mảnh chén, sợ ông giẫm phải. Nhưng có lẽ là không cần thiết bởi ông gần như chết đứng tại chỗ, mặt đỏ gay đỏ gắt, đuôi mắt giật giật, miệng mấp máy không thành lời, một lúc sau mới bật thành tiếng, nửa tức giận nửa thất vọng:
- Tao…tao…tao nuôi mày chừng này tuổi rồi để mày không nghe lời tao hả?
Thấy ông giơ tay lên, con bé đã nhanh nhẹn lùi lại né, nhưng nó vẫn nghiêm nghị:
- Bố, bố đã bao giờ bảo con phải lấy chồng đâu? Bố bảo con phải ngoan, phải học giỏi, phải sống theo gương thánh Quan Thầy. Giờ con mà đi Xơ được thì cũng đồng trinh theo gương Đức Mẹ, sao bảo con không nghe lời ạ?!
- Mày, mày…
Khuôn mặt ông trở nên méo xệch, dù cố gắng hết sức để thể hiện cái uy quyền của người cha nhưng ông đã không thể đứng vững, lồng ngực như vỡ tung, bầu trởi chao đảo trước mắt, chỉ lờ mờ nghe mấy tiếng la thất thanh “ông ơi, ông ơi”, “bố, bố, con sai rồi…” trước khi khuỵu xuống…
- Lúc bố ngất đi con hoảng quá nên mới nói “con sai rồi” chứ không phải đâu, con vẫn muốn đi Xơ, muốn đem Tin Mừng đi khắp muôn nơi…
- Mày ra ngay cho tao, ra ngay khỏi phòng cho tao…
Phòng bệnh nhốn nháo bởi tiếng gầm của ông, tay ôm ngực, ông lại gục xuống lần nữa. Mọi người kéo Hảo ra ngoài trước sự bực dọc của mấy vị bác sỹ, y tá: “Đã bảo không được để ổng xúc động rồi mà”.
Ông xuất viện, con bé Hảo không đến đón, mọi người bảo nó quay lại Hà Nội đi làm, nó tránh mặt vì sợ ông lại “tăng xông” nhưng ông thừa biết nó tự bắt xe vào Tu Viện rồi, mọi người “thì thầm” gì mà to đến cả làng còn nghe thấy, ông đâu có điếc. Người ta đâu hiểu nỗi lòng của người cha già có đứa con độc nhất đâu, đó là chưa kể việc đã nhỡ hứa gả nó làm con dâu ông bạn đồng niên rồi. Họ xầm xì bàn tán, nào là “cái ông Thuấn này kỳ quá, người ta mơ có con đi tu còn không được, đằng này con nó quyết chí đi tu, nó lại vừa ngoan vừa giỏi vầy thì sẽ đạt, lúc đó làm ông Cụ, bà Cố chả vinh hiển à”, nào là “con giai còn bảo nối dõi tông đường gì gì đó chớ con gái thì đi tu chả tốt à, mấy đứa con gái nhà tôi mà muốn đi tu là tôi cho đi tất… làm ông thêm phần bực bội, lòng ngổn ngang trăm mối, tự vấn quẩn quanh không biết mình đúng hay sai. Ông chỉ xuôi xuôi khi bà Thuấn nhỏ nhẹ: “Thôi thì nó là con của Đức Mẹ, giờ nó đi tu là coi như nó về với Mẹ rồi ông”. “Nhưng lúc tôi xin Mẹ, tôi xin được con cháu đầy đàn như sao trên trời, khi nó lớn ngày nào tôi cũng xin có thật nhiều cháu ngoại mà…”, ông cố vớt vát, nửa như oán trách Mẹ vậy.
***
Năm đầu nghe nói con bé Hảo đi giúp xứ lên tận Tây Nguyên xa xôi, ông lo lắm. Nhưng trộm nghĩ Hà Nội đầy bụi bặm cám dỗ còn chẳng làm hư được nó huống là Tây Nguyên trong lành, con người chân chất. Con bé Hảo chỉ dám gọi điện cho mẹ. Biết vậy, ông nửa kín nửa hở nhắn gửi là ông đã chấp thuận việc nó đi tu rồi và đang cầu nguyện cho nó bền đỗ. Vậy mà qua gần một năm nó mới dám nói chuyện với ông, nhưng cuộc nói chuyện đầu tiên sau chừng ấy thời gian lại bắt đầu bằng cuộc tranh luận mới.
- Thì người Tin lành cũng tốt mà bố. Con lên đây gặp nhiều người theo đạo Tin lành lắm. Con cũng được biết đến các Mục sư, họ giảng dạy rất là hay, rất là thuyết phục. Người theo đạo Tin lành cũng thường xuyên làm thiện nguyện. Vậy nên ở trên này người ta theo đạo Tin lành chẳng kém đạo Công giáo đâu bố. Con thấy phải học hỏi cách truyền giáo của người ta nhiều, bố ạ.
- Bố bảo không là không. Con có nghe bố không, đừng có qua lại với dân Tin lành ấy. Họ không tin Đức Mẹ đồng trinh, không tin các phép Bí tích, tiếp xúc với họ nhiều là lạc giáo đó, nghe chưa…
- Dạ, có lẽ bố nhầm một chút rồi ạ, Tin lành cũng có nhiều hệ phái mà bố. Ví như phái Lutheran cũng tin một Chúa Ba Ngôi, tin Ngôi Lời nhập thể, tin có sự sống đời sau, tin xác loài người sống lại trong ngày sau hết như mình. Đây cũng là phái có rất nhiều nét tương đồng với Công giáo và khả năng Hiệp nhất hàng đầu đó bố. Sự chia tách năm xưa chỉ là tai nạn thôi ạ. Cũng là do hoàn cảnh lịch sử, thời đại nữa. Với cả những người theo đạo Tin lành ở đây cũng giúp đỡ con nhiều. Qua lại với họ có gì không tốt đâu ạ.
- Tao lại chả là bố mày à. Mày còn trẻ người non dạ lắm con ơi, khéo mà mày bị người Tin lành dụ dỗ rồi. Tao nói lần cuối nhé, không qua lại với người Tin lành, không đọc sách về cái ông Luther lạc giáo ấy nghe chưa!
- Nhưng bố ơi - Giọng con bé Hảo yếu ớt - Sr bề trên bảo con có năng khiếu viết văn, lên trên này nhớ tìm hiểu và viết bài luận về đạo Tin lành đó bố…
Tắt máy, ông Thuấn ngồi thừ ra. Bé đến giờ ông mới nghe chuyện người Công giáo đi tìm hiểu đạo Tin lành. Nghĩ sao Sr bề trên lại giao nhiệm vụ khó khăn đó cho con bé chứ. Cho dù nó đã hai mươi ba tuổi, đã tốt nghiệp đại học thì nó cũng chỉ mới dự tu năm nhất mà thôi. Hồi bằng tuổi nó ông còn bị cấm đọc sách về cái ông Luther lầm lạc ấy (mặc dù lúc đó làm gì có mà đọc). Trong tâm thức của ông, lời các Mục sư Tin lành mật ngọt lắm, nghe mấy ông Mục sư nói là bị thuyết phục hết, rồi lầm lạc đi theo Tin lành hết. Không được. Ba bốn đêm ông nằm vật ngược vật xuôi không chợp mắt. Bà Thuấn thấy vậy rỉ tai ông:
- Tôi biết ông lo lắm. Vậy ông cứ vào Tu Viện xin nó về xuôi đi. Nói thế chứ tôi cũng không yên tâm…
- Bà không yên tâm là sao?
- Tôi nghe con bé kể chuyện trên đó mà phát hoảng. Nó kể, nó tìm gặp người theo đạo Tin lành để có vốn viết bài luận. Họ đón tiếp nó nồng hậu lắm. Ban đầu tưởng nó là người Ngoại nên họ chỉ dẫn nó đủ thứ, còn tặng luôn sách kinh, sách bổn, sách thánh ca, đĩa CD… Sau nghe nó nói là người Công giáo, họ không hề lạnh nhạt hay kỳ thị, thậm chí tỏ vẻ vui mừng hơn, bảo “Cũng là con một Cha trên trời thôi hà”. Khi biết nó đi thiện nguyện, họ ủng hộ nhiệt tình, còn nhờ nó chỉ thêm các nơi đang gặp khó khăn để đến giúp. Nó có vẻ khâm phục lối truyền giáo của người Tin lành lắm. Nó cũng mến phục phương thức cầu nguyện rất sốt sắng nữa, chỉ cần hai ba người đồng đạo là họ cầu nguyện theo nhóm ngay, lời cầu nguyện rất tha thiết, là lời khóc lóc kêu van thật lòng ấy. Vậy nên các Hội đoàn Tin lành có thể hoạt động và mở rộng ở những nơi xa xôi hẻo lánh dù không có nhà thờ, không người chủ sự. Người Tin lành cũng rất chịu khó tìm tòi, giáo lý của họ vững lắm nhé. Hôm trước nó có tranh luận với một người bên Tin lành. Nó cho rằng việc “cách tân” để người tu hành như Mục sư được phép lấy vợ là sai trái, làm mất tính thiêng liêng của Chức Thánh, khiến cho người truyền giáo không giữ đức khiết tịnh, khó lòng chuyên tâm, thế là họ phản biện ngay: “Chả phải nhiều vị trong Nhóm Mười Hai cũng có vợ con đó sao, sau khi Chúa về Trời, các Tông đồ cũng về sinh sống với gia đình song hành với việc truyền giáo đó thôi, chưa kể là ở bên Công giáo thì Linh mục dòng khấn trọn đời, còn Linh mục triều có khấn đâu, hà cớ gì buộc người ta không được lấy vợ, sinh con để mở rộng Nước Chúa là sao”. Nó đuối lý đành phải thoái thác “để con xem lại vấn đề này rồi tranh luận sau”…
- Đó bà thấy chưa, tôi đã bảo rồi, họ giỏi “dụ” lắm!
- Ông còn nhớ hôm trước Cha Xứ có giảng về sự gia tăng mạnh mẽ của đạo Công giáo ở Hàn Quốc là điều chúng ta cần học hỏi không? Mấy hôm nay tôi xem thêm trên mạng Internet mới biết, tuy đạo Công giáo gia tăng mạnh tại Hàn Quốc nhiều năm qua nhưng số lượng giáo dân chỉ bằng phân nửa Tin lành thôi, ở bên đó Tin lành phổ biến hơn và cũng có giai đoạn gia tăng thần kỳ không kém. Vậy ắt là Tin lành phải có sức hấp dẫn lớn lắm chứ ông. Đồng ý là đâu đó có một số cách thức trái luật “dụ” người ta, một vài nơi bài xích phong tục tập quán và truyền thống của địa phương, nhưng những điều con bé kể thì có phản giáo gì đâu. Với cả xét cho cùng, “ta” với “họ” cũng “cùng một Đức Tin, một Phép Rửa, một Thiên Chúa là Cha”. Tin lành hay Chính thống đều là một phần chưa hoàn hảo của Chân Lý mà thôi…
- Hừ, bà cũng đọc cả mấy tin đó hả, chết thật, coi chừng bà lạc giáo trước nó ấy…
Ông Thuấn lom lom nhìn bà từ phía trên kính.
- Ông đừng có nói bậy, tôi thấy thế tôi mới càng lo, ông còn không mau mau thu xếp vào Tu Viện đi.
- Bà đang ốm thế này…
- Tôi bảo con bé T. nó sang ngủ cùng, lo gì.
- Con bé liệt đó hả, bà còn chưa phải chăm nó nữa là nó chăm bà.
- Ôi dào, nó đi xe lăn tự lo được, với cả còn cái này nữa - Bà Thuấn vừa nói vừa đập đập tay vào chiếc điện thoại di động - ông cứ yên tâm đi đi, nhanh còn kịp.
Nghe vậy ông Thuấn vội khăn đùm khăn gói định vào Tu Viện thì được tin con bé Hảo đã về xuôi, kết thúc việc đi xứ ở Tây Nguyên. May quá, vậy là yên tâm rồi.
***
Gần tết, ông nhận được một món quà nửa thích nửa không: bằng khen “Giải Nhì cuộc thi tìm hiểu về đạo Tin lành toàn Giáo Tỉnh” của con bé Hảo, là giải thưởng chính cái bài luận đó. Nó lấy địa chỉ nhà, được giải không có điều kiện đến nhận nên Ban tổ chức người ta gởi về theo địa chỉ đăng ký dự thi. Mặc dù không thích cuộc thi này nhưng khi bà Thuấn treo cái bằng khen lên giữa phòng khám ai ai cũng tấm tắc khen, ông đi ngoài đường có bao người níu lại hỏi thăm với giọng đầy cảm phục, ngưỡng mộ làm hai lỗ mũi của ông lại phỗng to như năm ngoái. Phần tiền thưởng thì ông kính Đức Mẹ hết, nó là con của Đức Mẹ mà, với cả giờ vô nhà dòng rồi cũng chẳng cần tiền làm gì…
Tin vui nối tiếp tin vui: con bé Hảo được về thăm nhà. Ông ra tận bến xe đón thì ngỡ ngàng khi nó dẫn theo một anh thanh niên có dáng vẻ thâm trầm khó đoán. Thấy ông “soi” thật kỹ anh chàng như muốn hỏi “ai đây”. Con bé vội giới thiệu: “Đây là bạn con ở Chủng viện, ảnh nghe tiếng Lèn Đức Mẹ xứ mình nên về hành hương bố ạ”.
“À, ra là đi nhà thầy, vậy cũng tốt”. Ông mỉm cười đầy thân thiện, kính trọng, càng yêu mến, cảm phục cách nói chuyện có vẻ nghiêm nghị kiểu thầy tu, sự hiểu biết về Đạo Chúa rất sâu sắc của chàng trai. Ông vui lắm. Nhưng không hiểu sao ông vẫn dự cảm có điều gì đó chẳng lành. Ông cứ ngờ ngợ, hình như đã gặp người này đâu đó, cái phong cách này quen quen hay giống ai đó mà ông đã từng được nghe kể. Nhất là khi ông phản đối gay gắt về việc con bé Hảo tỏ vẻ bênh vực đạo Tin lành, “thầy” thủng thẳng dàn hòa chỉ bằng một câu nói lấp lửng nhưng đủ làm ông không thể phán kháng: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương,…” (**).
“Thầy” ở chơi hai ngày rồi cùng Hảo trở vào Nam. Lúc đó bà Thuấn mới cho ông hay “thầy” thực ra là Mục sư mà Hảo gặp lúc đi giúp xứ và ít nữa “hai đứa” sẽ cùng nhau quay lại Tây Nguyên tiếp tục truyền giáo, biết ông không bao giờ chấp thuận nên “chúng nó” chỉ dám báo với bà trước thôi, lúc đó ông mới ngớ người ra. Vậy là không dưới một lần con bé Hảo đâm thâu trái tim ông, nhưng lần này thực sự là “đòn chí mạng” làm ông á khẩu luôn. Không thể tin một con bé có ăn có học đàng hoàng, tuổi tác cũng không còn nhỏ, giáo lý “thuộc cả bìa”, đã bước nửa bước chân vào Nhà Dòng lại có thể từ bỏ Giáo Hội, bỏ cả cha mẹ như vậy. Đã thế còn được mẹ nó bao che, cổ xúy nữa chứ!? Phản! Phản hết cả rồi! Ông nhăn nhó, chỉ tay vào mặt bà, khóe miệng giật giật rồi gục xuống…
***
Đêm dần về khuya, gió dịu lại, ông Thuấn mệt mỏi thiếp đi, bỗng một cánh tay mềm mại đặt lên vai ông, “Tất cả những điều ông mong muốn đều trở thành hiện thực, ông còn đòi hỏi trách cứ gì nữa?”. Ông giật mình quay lại. Một luồng sáng chói lòa khiến ông hoa mắt chóng mặt ngã sấp xuống, thoảng trong gió có tiếng nói dịu dàng:“Cảm ơn ông đã nhớ đến ta mỗi ngày bằng Chuỗi Mân Côi, cầu nguyện cho nhân loại biết hoán cải, trở về với Chúa. Nhưng ông biết đấy, Người Kitô hữu không chỉ là Vương đế và Tư tế, còn phải là Ngôn sứ nữa! Ông đã hướng con bé sống chức vụ Vương đế và Tư tế, còn chức vụ Ngôn sứ, hãy để nó thực thi theo cách riêng của mình…”
Trong ánh sáng mờ dần rồi tắt hẳn, ông Thuấn ngây người ra khi thấy cảnh Núi rừng rộng lớn và hàng ngàn tín hữu đa sắc tộc Tây Nguyên đang được ôm trọn trong vòng tay bé Hảo, con gái ông…
---------------------------------------------------------------------------------------
(*) Trích Kinh Thánh Tân Ước.
(**) Trích Ca dao.
 
Mã số: 17-082
 

PHẢI CHĂNG CON LÀ CÁI “CỚ”?

 
Có nhiều lúc tôi  tự đặt câu hỏi phải chăng tôi sinh ra là cái cớ cho bố mẹ tôi?
Thân thể của người phụ nữ đạo Công giáo và thân thể của người đàn ông đạo Tin Lành đã hòa quyện với nhau để tạo nên tôi. Đó là cái cớ đầu tiên, tại sao tôi cho nó là một cái cớ các bạn biết không?  Hôn nhân của ba mẹ tôi vốn dĩ là một cuộc chiến đấu và đó là cả một sự mạo hiểm. Ngày trước gia đình cả  hai bên không đồng ý cho ba mẹ lấy nhau vì không cùng chung một tôn giáo. Ông bà tìm đủ mọi cách để chia rẽ bố mẹ mặc dù biết rằng bố mẹ tôi rất yêu nhau. Mẹ đã nói với ngoại: “Nếu mẹ không cho con lấy anh, con sẽ chết”. Vậy mà ngoại không một chút mảy may thay đổi, ngoại đáp: “Có giỏi thì mày làm đi!”. Không phải ngoại không thương mẹ mà thực ra ngoại sợ rằng khi lấy chồng không cùng đạo mẹ sẽ khổ. Tìm đủ mọi cách, mọi lời thuyết phục nhưng đều vô hiệu hóa, mẹ và bố quyết định làm một việc  mà đáng lý ra người Công giáo như mẹ không được làm nhưng vì yêu mẹ chấp nhận. Và thế là chỉ một tháng sau hai bên nội ngoại phải đồng ý cho bố mẹ tới với nhau vì một sinh linh đã được tạo nên và, bạn biết, sinh linh đó chính là tôi. Tôi không biết cái duyên cớ này tôi nên vui hay nên buồn, thực sự tôi không có đáp án cho câu hỏi này.
Từ khi con bé như tôi “oe… oe…” cất tiềng khóc chào đời thì cả hai con người cùng tin vào Thiên Chúa ấy lại bắt đầu giáo dục và dạy dỗ tôi theo tập tục tôn giáo họ. Năm tháng cứ thế trôi qua tôi trở thành một cô bé xinh đẹp, ngay cả chính bản thân tôi không phải tự kiêu nhưng tôi cũng phải thừa nhận điều đó. Trong xóm đạo nhỏ gần ven sông, người ta cho rằng tôi là một thiếu nữ mang dáng dấp của một con người, con người đó là chính là Đức Maria - Mẹ Thiên Chúa, người phụ nữ mà người theo đạo Tin lành như bố không hề tin và có lúc bố còn cười nhạo. Thực ra mà nói, mang trong mình hai luồng tư tưởng khác nhau nên có nhiều lúc tôi cũng chẳng tin vào Đức Mẹ. Suy cho cùng tôi là người ở giữa nên tôi gắng dung hòa. Phải chăng tôi như là hiện thân của Maria nên mẹ lấy đó làm hãnh diện và muốn rằng sau này tôi phải trở thành một nữ tu. Khi nghe được thông báo từ chính miệng mẹ là muốn tôi trở thành một nữ tu, bố gạt phăng:
- Không bao giờ có điều đó xảy ra, tôi cấm, tôi muốn nó yêu và kết hôn với một mục sư để làm chứng cho đạo Tin lành.
Thế là một cuộc cãi vã lại xảy ra, không hẹn mà gặp cả hai cùng bật người quay qua hỏi tôi:
- Con theo ai?
- Con… Con…
Chúa ơi, con biết theo ai bây giờ? Sao Ngài lại đặt con vào giữa cuộc đời với cảnh sống này chứ? Ngài muốn gì nơi con? Tôi đặt ra hàng loat câu hỏi như vậy mà không hề nhận được một câu trả lời.
Cuộc sống hằng ngày của tôi như được bố mẹ lập trình sẵn, có lúc tôi phát chán với cuộc sống này. Ban ngày dưới sự điều quân của bố, giờ nào rảnh là tôi phải đứng ngay trước cửa các nhà thờ để phát tờ rơi loan báo về đạo Tin Lành. Tối đến tôi lại phải phục tùng mẫu hậu bằng việc tới nhà thờ  tham dự Thánh Lễ và lần chuỗi Mân côi. Những việc làm này không phải tôi không muốn nhưng vì mỗi lần theo ai là tôi lại phải nghe đối phương hét lên: “Để con bé ở nhà!”. Và thế là lại có những lời qua tiếng lại trước lúc dẫn tôi đi.
Thời gian cứ thế trôi qua, tôi nhận ra rằng tôi quá quan trọng trong cuộc đời của bố mẹ tôi để rồi hai bên sợ hãi tôi sẽ theo ai, tôi bỏ rơi ai cho tới độ cả hai luôn tìm cách để kéo tôi về một trong hai. Tôi không ngờ họ yêu tôi tới mức đưa ra quyết định ly hôn để chiếm trọn tôi. Tại sao chứ? Tại sao ba mẹ cùng tin vào Chúa, cùng một đối tượng để tôn thờ mà lại có thể đưa ra những quyết định như vậy.
Phải chăng, điều ngoại lo khi xưa giờ đây đã thành hiện thực… Một tuần nay bố mẹ đâu nhìn mặt nhau, cứ chung là đụng, gia đình đâu có bữa ăn nào cơm ngon canh ngọt. Đêm đêm lại nghe tiếng mẹ rên xiết trong phòng: “Chúa ơi, sao con khổ như vậy, biết thế lúc trước con nghe lời mẹ không lấy anh”. Bố lại vọng qua: “Bà nghĩ tôi hạnh phúc khi lấy bà chắc!”. Tôi thiết nghĩ, chẳng nhẽ những gì bố mẹ kể cho tôi về chuyện tình của hai người trước đây không đủ để giữ họ hay sao? Tại sao con người lại đối xử với nhau như vậy?
Áp ngày lễ Giáng Sinh mà gia đình tôi như có đại tang vậy. Tôi không muốn ở nhà một giây phút nào hết. Tối 24 tôi quyết định ngao du một mình, lang thang trên con đường đầy hoa và ánh chớp, rộn ràng tiếng người cười nói, nhưng lòng tôi lai đau như cắt. Tôi đi một cách bất định và tôi bước mà không biết mình bước tới đâu. Đang thẫn thờ, tôi nghe văng vẳng đâu đó tiếng một đứa bé: “Mẹ ơi, mình vào cầu nguyện với Đức Mẹ đi, lúc nào Mẹ cũng bên mình hết”. Tôi biết Mẹ Maria chứ, tôi còn biết rõ nữa là khác nhưng hình như chưa một lần tôi cầu nguyện với Đức Mẹ. Nghe con bé thủ thỉ với mẹ nó tôi cũng thấy chạnh lòng và rồi duyên cớ sao tôi cũng đi vào và ngồi nhìn Mẹ. Chỉ là nhìn thôi, sao nước mắt tôi lại rơi, tôi cứ nhìn và sao tôi thấy Mẹ đẹp thế, phải chăng sự nín nhịn quá lâu nay gặp được một ánh mắt nhân từ tôi bung ra hết. Tôi lại khóc và tôi kể lể cho Mẹ nghe mọi điều: “Mẹ ơi, tại sao gia đình con lại như vậy, bố mẹ con sùng đạo tới mù quáng phải không? Con khổ lắm mẹ có biết không?... Tôi buột miệng, buột ra hết và tôi buột luôn: “Con đi tu Mẹ nhé!”. Giữa cái tiết trời mùa đông lạnh giá của đêm Giáng sinh, từng cơn gió rít lên, khiến tôi tê buốt nhưng lòng tôi ấm lại. Trời đã về khuya, định thần bước chân ra về, bỗng nhiên tôi nghe như ai đang gọi tên tôi, nhưng quay lại thì không phải, di chuyển bước chân thì tôi lại nghe rõ hơn, quay người nhìn lại tôi bắt gặp ánh mắt nhân từ của Mẹ Maria một lần nữa và tôi nghe: “Nhiên ơi, Mẹ sẽ đồng hành cùng con”. Bất giác tôi đáp nhẹ: “Thưa Mẹ, con biết, con xin vâng”. Tôi nở một nụ cười và sải chân về nhà.
Lại nữa rồi, đặt chân tới cổng tôi đã nghe tiếng bố mẹ cãi nhau:
- Bà thấy chưa, bà dạy nó kiểu gì mà tới giờ này chưa thấy về.
- Nó là con của một mình tôi chắc, ông là bố nó mà.
Xô ngay cánh cửa, tôi chạy rầm vào nhà:
- Đủ rồi thưa bố mẹ, con là con của bố mẹ sao bố mẹ cứ phải giành giật nhau, Chúa dạy bố mẹ như thế sao? Bố mẹ luôn miệng nói yêu con, tình yêu bố mẹ dành cho con là như thế sao? Hôm nay, con sẽ nói quyết định của con cho bố mẹ nghe.
Cả hai nín thở nhìn về phía tôi.
- Con sẽ đi tu.
- Không!- Bố hét lên một tiếng thật khủng khiếp.
Lúc này đây mẹ tôi cười như một kẻ đắc thắng, còn bố, bố hiện lên với một gương mặt dữ tợn và đầy hận thù. Mẹ chạy lại ôm chầm lấy tôi, nhưng tôi đẩy mẹ ra:
- Thưa bố mẹ, con đưa ra quyết định này không phải vì con không tin bố, càng không phải vì con nghe theo mẹ, nhưng là chính Mẹ Maria đã dẫn đưa con. Bố, con biết bố sẽ thất vọng về con nhưng bố, từ sâu thẳm con rất yêu bố, yêu Chúa của bố và yêu Mẹ của Chúa nữa, con mong bố hiểu… Mẹ, con cũng rất yêu mẹ nhưng không phải vì thế mà con đưa ra quyết định này, con xin mẹ đừng cười một cách đắc thắng như vậy. Con xin phép bố mẹ ngày mai con đi.
Sáng sớm hôm sau, trời mưa tầm tã như khóc cho chính tôi vậy. Tôi nghĩ vậy và tôi hạnh phúc. Ngoài trời mưa, trong nhà mẹ khóc vì sắp phải xa tôi. Riêng cửa phòng bố vẫn đóng kín mịt, tôi biết bố đang giận tôi. Đã tới giờ, tôi chào mẹ và ghé sát cửa phòng bố: “Chào bố, con đi”. Mọi thứ im lặng không một chút động đậy, và thế là tôi đi.
Đặt chân tới cánh cổng tu viện với biết bao bỡ ngỡ, mọi thứ thay đổi, cuộc sống khác, con người khác, bước đầu làm tôi thấy bất an. Nhưng có một điều tôi thích là tượng Đức Mẹ  ngay trước cổng, ngày nào tôi cũng ra đó cầu nguyện với Mẹ. Sau một tuần, cuộc sống nơi tu viện dần quen, tôi cảm thấy yêu nơi này và lại yêu Mẹ Maria hơn. Mặc dù cuộc sống chung có nhiều chuyện nhưng so với những gì tôi chịu trước đây thì nó đâu là gì. Mọi vui buồn tôi đều có Mẹ đồng hành.
Cho tới một hôm, tôi đang ngồi cầu nguyện với Mẹ cho gia đình thì có người tới báo, con sắp xếp về quê đi, mẹ con vừa mới qua đời. Tôi như không tin vào tai mình, tâm thần tôi bấn loạn… Tôi chạy vào phòng vơ đại những gì tôi có và chạy. Trong lúc chạy tôi lại nghe: “Mẹ sẽ đồng hành cùng con”, tôi khóc và đáp: “Vâng, thưa Mẹ!”.
  Thì ra, mẹ tôi đã bị ung thư từ lâu, nhưng vì sợ tôi lo nên không dám nói. Giờ đây đứng trước linh cữu mẹ, tôi thầm cảm ơn mẹ đã dạy đức tin cho tôi, đã một lòng trung thành với đức tin Công giáo tới cùng. Tôi về, bố không hề nói với tôi một câu, phải chăng bố còn giận? Tiễn biệt mẹ xong, cũng tới ngày tôi phải lên lại nhà dòng. Nỗi buồn, nỗi đau tôi ôm một mình tâm sự với Đức Mẹ. Tôi lại cất bước ra đi, cửa phòng bố lại đóng kín không một lời chào biệt, tôi tủi và nước mắt lăn trên khóe mi. Gạt nước mắt tới cửa phòng bố: “Chào bố, con đi!”.
Thấm thoát đã 10 năm trôi qua kể từ ngày tôi đi tu và rồi cũng tới cái ngày tôi chính thức trở thành hiền thê của Chúa. Trải qua bao nhiêu thử thách, buồn vui sướng khổ giờ đây tôi được nên một với Ngài. Tôi hạnh phúc, tôi thầm cảm ơn tất cả mọi người và đặc biệt là Mẹ Maria. “Nhưng bố con thì sao, chẳng nhẽ tới bây giờ bố còn… Mẹ Maria ơi, con nhớ bố con lắm!”.
- Nhiên, lại đây mẹ gặp!- Bất ngờ, mẹ Bề trên gọi tôi.
- Sao con có vẻ suy tư vậy, phải vui lên, ngày mai là ngày thành hôn của con rồi, còn gì bận tâm hay sao?
- Dạ, không… dạ, là vì con nhớ bố con quá mẹ ạ!
- Con à, con cứ bình an đi! Mọi chuyện Chúa lo, Chúa đâu thua lòng quảng đại của chúng ta đâu con… Con phải dọn tâm hồn bình an để đón Chúa và mẹ báo cho con biết ngày mai trong Thánh Lễ con sẽ nhận được một món quà rất lớn. Con hãy chờ nhé.
Đêm trước ngày khấn dòng, tôi không muốn ngủ, mắt tôi nhắm nhưng lòng trí tôi cứ mở, tôi thì thầm với Chúa Mẹ và cảm ơn các Ngài, và rồi tôi lại nhớ bố: “Bố ơi, trong góc khuất của tâm hồn con nhớ bố vô cùng, bố biết không?”.
Giây phút tân lang rước tân nương đã tới, tôi bước lên cung thánh với lời hứa trọn vẹn thủy chung với đấng Tình quân tôi tôn thờ. Dứt lời hứa, tôi trở về bàn quỳ, bỗng nhiên tôi nghe tên mình được xướng: “Sr Maria Nguyễn An Nhiên, trong Thánh Lễ hôm nay sẽ có một phần riêng dành cho con, con hãy nhìn về phía cuối nguyện đường!”.
- Bố!
Không tin vào mắt mình, tôi không tin người đang tiến về phía tôi là bố, tôi càng không ngờ bố lại xuất hiện trong Thánh Đường này, nơi mà tôi nghĩ bố không bao giờ đặt chân tới. Tiến lên cung thánh cầm lấy cái micro, bố nói trong nước mắt: “Nhiên bé nhỏ của bố, bố xin lỗi con rất nhiều, bố xin lỗi vì ép con phải theo truyến thống của bố mặc dù con không muốn. Bố xin lỗi con vì tất cả. Suốt những ngày tháng qua bố đã vô cùng ân hận vì gây cho con và mẹ con quá nhiều đau khổ, bố nhớ mẹ lắm. Giờ đây bố muốn nói cho con biết rằng bố đã hiểu đức tin Công Giáo, bố tin Chúa và yêu mến Mẹ Maria nữa. Thực sự, cái đêm con quyết định đi tu bố giận nhưng đêm đó hình ảnh của Đức Mẹ đã quấn lấy và chiếm trọn trái tim bố. Bố không biết tại sao như vậy. Cả hai lần con đi bố muốn chạy ra ôm chầm lấy con nhưng bố không đủ can đảm. Con biết không? Mẹ Maria đã cứu sống bố trong một lần bố bị đột quỵ. Bố tưởng mình đã chết, nhưng trong lúc hấp hối đó bố lại thấy Đức Mẹ xuất hiên. Mẹ mỉm cười trao tràng chuỗi cho bố. Bố thốt lên: “Mẹ ơi, con xin lỗi, xin Mẹ cứu con”. Không ai ngờ rằng bố lại sống. Ai cũng cho đó là một phép lạ. Và bố tin. Con biết không, bố thường nghe văng vẳng bên tai: “Mẹ sẽ đồng hành cùng con!”. Bố biết đó chính là Đức Mẹ. Con gái yêu, bố tạ ơn Thiên Chúa vì cho bố làm bố của con, bố biết, để bố đạt đến sự hoán cải này tất cả là nhờ con. Bố biết bố không có tư cách, không có quyền đòi hỏi con điều gì nhưng bố xin con hãy trung thành trong ơn gọi và bố con mình hãy cùng hiệp nhất và chung một niềm tin con nhé. Bố con mình hãy cùng “chữa lành ký ức và làm chứng cho Đức Kitô”…
Cả thánh đường im lặng. Tôi chết lặng người trong niềm hân hoan vui sướng. Một cú hích làm tôi tỉnh, tôi tiến lại ôm trọn thân xác còm cõi của bố và thủ thỉ: “Phải chăng con là cái ‘cớ’!
 
 
Mã số: 17-083
 

MIỀN ĐẤT HỨA

 
Nắng chiều hè oi bức, hậm hực trút cơn lửa giận lên toàn cõi nhân gian. Phía đằng Tây ráng chiều đỏ rọi, mặt trời như quả cà chua chín nẫu, lửng lơ chưa chịu rụng. Tường đứng trên sảnh tầng cao nhất của sân bay ngắm hoàng hôn qua lớp kính trong suốt. Năm năm rồi Tường mới lại được ngắm nhìn bầu trời quê hương. Cái bầu trời với những dải mây u ám, xám xịt, lặc lè gánh gồng xô đẩy nhau cảm giác như thể đưa tay ra là chạm đến da trời ram ráp, xù xì như bàn tay nứt nẻ, thô kệch của mẹ Tường mỗi khi trời trở gió. Đôi bàn tay mà mỗi lần áp lên má mình, đôi mắt Tường lập tức nhắm tịt lại chỉ để ngăn không cho dòng nước mắt nóng hổi chực trào ra. Đôi bàn tay đã khiến Tường quyết tâm rời bỏ nơi chôn rau cắt rốn để sang đất nước Nhật Bản xa xôi mang theo khát khao sẽ tìm thấy “Miền Đất Hứa”. Nơi Tường nghĩ sẽ có những dòng sông trong vắt uốn lượn, những chú chim bồ câu chẳng nhát người và những chiếc bánh mì trắng phau từ trên trời rơi xuống không bao giờ cạn như niêu cơm Thạch Sanh. Miền Đất Hứa của Moise, Tường đã mặc định nó chính là bầu trời Tokyo xanh trong, mềm mại. Dưới bầu trời ấy Tường mơ mình nằm gối đầu lên đùi mẹ bên gốc cây thông già cao lớn xòe ra những tán lá xanh rì, bàn tay mẹ nhẹ vuốt tóc cậu, làn gió dìu dịu thổi qua tai cậu những bản nhạc không lời du dương, dòng sông nước chảy êm đềm như những mạch máu muôn đời dưỡng nuôi thân xác nhân gian. Và cậu sẽ trở lại là chú mục đồng ngày ngày ngồi vắt vẻo trên lưng trâu thả diều, thổi sáo, hát những bài Thánh ca hân hoan: “Trong trái tim Chúa như nôi hồng con xin được như bé ngủ mơ, một giấc mơ, nghìn giấc mơ những giấc mơ ấm êm tuổi thơ…”. Cậu cứ hát, hát mãi, hát mãi cho đến khi giấc mơ dịu lại.
Nắng chiều dần tắt, từng đàn chim nối đuôi nhau tìm đường về tổ, Tường xốc lại balo kéo vali rời khỏi sân bay, lòng thầm nhủ: “Về nhà thôi”.
Người lái xe taxi trạc ngoại ngũ tuần, làn da cháy nắng, mái tóc lưa thưa lốm đốm bạc, gương mặt nhăn nheo trông rất khắc khổ. Cái khắc khổ lây lan sang cả từng đồ vật, từng bộ phận trong chiếc xe có phần cũ kĩ này. Nhưng chính thế lại khiến Tường có cảm giác gần gũi, thân thuộc.
Ngồi trên xe Tường chăm chú nhìn cảnh vật hai bên đường. Qua một lần cửa kính, tất cả dường như được phủ một lớp sương mờ ảo. Đường từ sân bay về nhà Tường là đường ven đô, bởi vậy hai bên là cánh đồng lúa với những vệt vàng vệt xanh chạy đến tận chân trời. Trên cánh đồng ấy bầu trời đột nhiên như cao hơn, xanh trong hơn và vạn vật đều trở nên yên bình hơn, những dải lúa uốn lượn nhè nhẹ cho cậu biết có ngọn gió nào vừa thổi qua. Người nông dân vẫn hăng say làm việc. Thảng mới thấy bóng một con bò vàng lững thững bước nhẹ trên con đường dẫn về thôn làng lấp ló đằng xa. Mỗi lần như thế Tường lại áp mặt vào cửa kính, căng mắt ra nhìn như tìm kiếm một điều gì đó. Mãi cho đến khi bóng dáng con vật khuất dạng, cậu mới quay mặt lại nở một nụ cười vu vơ. Không ai biết cậu đã khám phá ra bí mật gì trong cái cảnh bình thường tẻ ngắt của nhân gian kia. Ông lái xe già nhìn cậu thích thú nhưng vẫn bảo toàn thái độ im lặng từ đầu đến cuối. Có lẽ ông nghĩ đối với một thế giới nội tâm ngây thơ, yên bình như thế thì chỉ cần buông một tiếng nói nhỏ thôi cũng là một sự xúc phạm ghê gớm. Trên chiếc xe này ông đã từng đón đưa biết bao đứa con xa quê trở về nhà. Nhưng một tâm hồn muốn ôm trọn đất mẹ như thế này lần đầu tiên ông được chứng kiến. Ông đoán hẳn cậu ta phải được sinh ra trong một gia đình tử tế lắm, được yêu thương che chở nhiều lắm mới có được một trái tim đáng quý đến vậy.
Chiếc xe rời đường quốc lộ đi vào đường đê. Hai bên đường nhà cửa san sát. Bầu trời lúc này như chiếc mũ màu ghi phủ lên mặt đất một màu nhờ nhợ. Âm thanh trong trời chiều lộn xộn: tiếng ếch kêu, tiếng quạ khóc, tiếng chó sủa, tiếng gà gáy, tiếng người huyên náo… Tất cả như một bản Thánh ca của sự sống. Tường căng tai lắng nghe thứ âm thanh nguyên thủy nhất, thanh bình nhất, hạnh phúc nhất. Nó làm dậy lên trong tâm hồn Tường những xúc động trong trẻo kì lạ.
Và kia, cây bàng cô đơn gắn liền với tuổi thơ êm đềm, tươi đẹp của Tường đã hiện ra trước tầm mắt. Người dân làng cậu vẫn nói rằng mỗi khi đi xa trở về chỉ cần nhìn thấy cái dáng đứng thẳng, cô độc vươn đôi cánh tay dài ngoẵng lên bầu trời ngàn năm không đổi kia là biết rằng mình đã về tới mảnh đất quê hương yêu dấu. Tường nhớ ngày xưa đám trẻ chăn trâu làng Tường và đám làng bên vẫn thường phân bua nhau xem cây bàng ấy thuộc về làng nào. Phân bua gì mà đến sứt đầu mẻ trán. Kết quả là cây bàng ấy chẳng thuộc về làng nào cả. Nó nằm chính giữa con đường ngăn cách cánh đồng hai thôn. Ấy thế mà lũ trẻ làng Tường lúc đó còn không cam chịu đến nỗi có đứa tức giận cầm cuốc băm vào gốc cây. Từ vết chém mủ ứa ra ròng ròng trắng đục như dòng sữa mẹ. Thằng bé cầm cuốc lúc đó tên Tâm không biết vì lý do gì vừa nhìn thấy thế mặt nó liền tái đi, lập tức vứt cuốc bỏ chạy. Cả đám thấy thế cũng bỏ chạy theo.
Sau này lúc ngồi trong nhà thờ chờ vào xưng tội thằng Tâm ngồi bên cạnh Tường, thậm thụt hỏi: “Tội cuốc vào gốc cây thì bị phạt thế nào hở mày?”. Tường bối rối không biết trả lời bạn ra sao vì cậu chưa nghe thấy nói có tội này bao giờ. Lúc đó cậu chỉ biết có tội đánh người, chém người… chứ không hề biết chém cây cũng là tội. Tâm nhìn vẻ mặt ngơ ngác của Tường xong mặt nó cũng xị ra, nói: “Chắc phải lần hạt năm chục mỗi ngày trong vòng một tháng như chú tao mất thôi”.
Rồi nó bắt đầu kể bằng cái giọng rầu rĩ, thật thà rất trẻ con: “Hồi trước thằng Trâu (Thằng Tâm lúc nào cũng coi đám trâu bò lợn gà như người) nhà tao dứt sẹo chạy sang ăn vụng đống rơm nhà chú Hai tao. Chắc tại nó đói quá. Mấy ngày liền tao ốm, bố mẹ tao thì đi làm từ sáng tới tối không có thời gian đi cắt cỏ cho thằng Trâu nên nhìn thấy đống rơm nhà chú Hai thằng Trâu không nhịn nổi mới kéo đứt cả cọc nhảy sang ăn trộm.  Chú tao đánh đuổi thế nào nó cũng không về. Chú tao tức quá vớ luôn cây cuốc chém một phát cụt nửa chân thằng Trâu. Thằng Trâu rống lên bỏ chạy nhưng không có chân nó ngã đổ uỳnh ra đất máu chảy đỏ lòm. Nó cứ nằm thế mà rống lên, chắc nó đau lắm. Tao nhìn thấy nó thế tao cũng khóc rống lên. Chú tao quát: “Im mồm, khóc cái gì mà khóc, tao còn chưa đánh cả nhà mày là may”. Tao sợ chú tao lắm, bố tao còn sợ nữa là. Tối bố mẹ tao về nhìn thấy thằng Trâu thế bố mẹ tao cũng khóc. Chú tao gọi người vào bán thằng Trâu. Đêm đó người ta vào làm thịt thằng Trâu ngay giữa nhà chú tao. Người ta đưa tiền cho bố tao rồi mang thịt thằng Trâu đi. Bố tao vừa cầm tiền vừa lẩm bẩm: “Sắp đến vụ rồi lấy gì mà cày”. Chú tao cười, tao thấy con trâu nhà chú tao cũng cười. Hôm sau chú tao đi xưng tội. Vừa ra khỏi cổng nhà thờ ông bảo với bố tao: “Cha bắt tôi lần hạt năm chục mỗi ngày trong vòng một tháng liền, phúc cho con trâu nhà anh”.
“Lúc tao chém vào gốc cây bàng nhìn thấy nhựa chảy ra tao tưởng tượng giống như lúc con trâu nhà tao chảy máu. Chắc là cây bàng cũng đau lắm, tao sợ quá mới bỏ chạy. Mấy thằng nghe tao hỏi đều bảo tao ngốc, cây thì làm gì biết đau. Mày nói xem có phải tao ngốc lắm không?”.
Cho đến tận bây giờ Tường cũng không làm sao quên được ánh mắt ngây thơ chờ đợi của thằng Tâm nhìn thẳng vào mắt Tường lúc đó. Và cũng cho đến tận bây giờ cậu vẫn không thể trả lời được câu hỏi rốt cuộc thằng Tâm có ngốc hay không. Tường chỉ biết khi thằng Tâm thất vọng vì không nhận được câu trả lời của Tường, nó cúi đầu thấp xuống tận ngực mãi lâu sau cũng không ngẩng lên. Cậu bé Tường lúc đó không đủ nhạy cảm để nhận ra rằng thằng Tâm đang nghĩ đến bố nó.
Bố thằng Tâm bị thiểu năng. Mùa vụ ông kéo cày đi theo đít con trâu, hết vụ ông theo vợ đi phụ hồ, đóng gạch, đánh giấy giáp… việc gì ông cũng làm và làm rất siêng năng. Cả làng gọi ông là chú Ngốc. Chú Ngốc thật thà chẳng bao giờ biết tính toán hơn thua được mất. Đi cày chú cày sâu bừa kĩ hơn người. Mọi người thích chú, ai cũng muốn mượn chú cày. Em trai chú Ngốc thì ngược lại. Dân làng hay bảo có bao nhiêu cái khôn nó dồn hết cho thằng Hai. Mẹ chú Ngốc thì nói: “Làm người khôn mới khổ chứ ngu ngu đần đần biết khổ là gì”. Ấy thế nên có cái gì ngon ngọt bà vun vén hết cho chú Hai. Mỗi khi có ai nói bà ăn ở bất công bà lại phân trần: “Lạy Chúa, đúng là mồm miệng quân ác quỷ, nào tôi lại nỡ lòng ăn ở bất công với con với cháu. Cái thằng đần thối kia nó sung sướng hết phần người khác. Bao nhiêu chuyện lớn chuyện bé trong nhà này thằng Hai nó phải gánh hết”. Và cũng bởi thế nên ngày nào người ta cũng nghe ông Hai đấm ngực kêu gào thảm thiết: “Lạy Chúa, tôi khổ quá”. Chỉ là “chuyện nhỏ nhặt như cơm bữa hàng ngày”. Chẳng hạn như đi cày, đáng lẽ phải đi ba mươi đường thì ông chỉ đi hai mươi sáu đường thôi vì sức trâu có hạn. Vợ ông đi bán chè khô, ông dạy vợ lúc pha thử cho khách thì phải pha loại hảo hạng, nước xanh, thơm, ngọt còn lúc khách gật đầu mua rồi thì lấy “hàng thật giá thật” cho khách. Khách pha lên thấy nước đỏ quạch như nước chè hâm lại. Vợ chú cười ý nhị: “Tiền nào của nấy”. Từ đó mỗi khi bà nội thằng Tâm kêu: “Thằng Hai nó khổ lắm”, mọi người cũng liền gật gù đồng tính: “Có thế thật, ngày nào nó cũng phải lo lắng suy tính làm sao ăn gian nói dối. Ngày nào cũng phải nghe người ta chửi bới, sao mà không khổ cho được. Cứ ngu ngu đần đần như thằng Ngốc lại sướng”.
Tường bảo bác tài cho dừng xe cạnh cây đa đầu làng. Cậu trả tiền xe, tặng bác tài gói kẹo Matcha trà xanh, xuống xe, lấy hành lý, chào bác rồi bước đi theo hướng ra ngoài đồng. Trời đã tối mịt. Trăng lơ lửng lên cao. Gió thổi lồng lộng. Khói đốt rơm bốc lên nghi ngút, khét lẹt. Tường lặng lẽ bước đi. Dưới ánh trăng bóng cậu đổ dài, mỏng manh như chiếc lá rơi nghiêng trên mặt đất. Bác tài khó hiểu định lên tiếng hỏi cậu đi đâu mà giờ này còn không về nhà nhưng rồi lại thôi. Có gì đó vô hình ngăn trở bác không dám lại gần thế giới của cậu trai trẻ này. Có thể do hai người vốn là hai thế giới xa lạ. Hoặc cũng có thể cái xa lạ thực ra là do vẻ ngây thơ, hồn hậu ánh lên trong mắt cậu thanh niên ấy khác hoàn toàn cái thế giới mà hàng ngày bác vẫn bon chen, dẫm đạp lên để kiếm bát cơm manh áo. Bác tài đứng đó nhìn mãi cho đến khi bóng đêm nuốt chửng lấy Tường.
Vườn Thánh chìm trong đêm tối tĩnh lặng âm u. Con đường ngoài kia, xe máy ô tô vẫn đi lại tấp nập nhưng chẳng một tia sáng nào có thể rọi được tới nơi này. Cái chốn thẳm cùng của nhân gian ai là người không muốn lãng quên.
Tường mò mẫm tìm đến mộ của bố. Cái vị trí ấy nhắm mắt cậu cũng có thể tìm được. Trong bóng đêm thầm lặng Tường ngồi xuống bên ngôi mộ nhớ lại những tháng ngày ấu thơ yên bình, hạnh phúc. Thế nhưng hạnh phúc ấy chỉ vỏn vẹn mười năm, và cũng chính từ ngày này của mười năm trước cái yên bình đó đã theo bố cậu ra đi.
Cậu nhớ cái ngày đưa tang bố cậu, đêm ấy hai mẹ con cậu ngồi tựa cửa nghe các chú các bác liệt kê tiền đám ma. Khoản nợ nhà cậu như cái cây mỗi ngày lớn thêm một chút.
Cậu nhớ cái ngày người ta đến xiết nợ, con lợn nái sắp đến ngày sinh người ta thương tình dắt đi cho. Đêm ấy mẹ cậu ngồi kể chuyện chị Dậu. Con chó cái mới sinh đã thành chuyện con lợn nái.
Cậu nhớ ngày cậu cãi nhau với đứa em nhà chú. Nó chửi cậu ngu. Cậu bảo nó “mất dạy”. Nó cười: “Bố tao chưa chết tao chưa mất dạy”. Năm ấy em họ cậu chín tuổi.
Cậu nhớ ngày giỗ hết bố cậu, mẹ cậu đi sang từng nhà chú nhà bác cậu mở lời muốn làm giỗ cho bố cậu, “để các cháu nhớ mà thêm lời đọc kinh cầu nguyện cho bác nó”, mẹ cậu nói như van lơn. Chú cậu đội vội cái mũ cối lên đầu, trả lời trống không: “Vội lắm, không có thời gian, chết trẻ sung sướng gì mà cỗ với bàn. Xin lễ thôi là được. Ngày nào tôi chẳng nhắc nhở các cháu đọc kinh cho ông bà cho bác chúng nó”. Mẹ cậu lủi thủi về nhà làm mâm cơm cụ. Trước thánh lễ quẩy lên nhà Cha. Đợi Cha, các thầy, các dì ăn xong lại quẩy về. Mâm cỗ gần như còn nguyên mà chẳng ai muốn động đũa. Mẹ cậu ngước nhìn bàn thờ nghi ngút khói hương. Khói làm cay mắt mẹ, và làm cay cả mắt cậu. Thánh lễ ngày hôm đó ngoài mẹ con cậu ra chỉ có cô và hai chú của Tường. Các thím và các em còn bận ở nhà trông cửa hàng.
Tường nhớ bao nhiêu là chuyện. Những câu chuyện cứ bốc lên nghi ngút như sương khói bủa vây lấy Tường, làm mắt cậu cay xè. Ở đâu đó vọng lại tiếng cuốc kêu nghe sầu thảm. Ngọn gió thổi qua làm bùng lên những ánh lửa lập lòe trên những đống rơm rải rác khắp cánh đồng. Chỉ có nơi này từng giây từng khắc đều là lạnh lẽo.
Tiếng chuông nhà thờ đột nhiên vang lên xé toạc cả không gian, Tường có cảm giác như âm thanh ấy đập tan lớp đất đá, thấm xuống từng ngôi mộ đánh thức những con người đang say giấc ngàn năm phải thức dậy. Không biết là do sương đêm lạnh, hay là do nỗi bàng hoàng đang chế ngự tâm hồn cậu khiến Tường khẽ rùng mình ớn lạnh. Ánh trăng bỗng chốc sáng hơn. Hàng vạn những ngôi sao cũng tỏa ánh sáng lấp lánh. Tường nhìn lên bầu trời rồi lại nhìn xuống mặt đất. Không gian trời đất gần đến như hòa làm một. Ánh sáng và bóng tối hòa làm một. Sự sống và cái chết dường như cũng hòa làm một. Chỉ có tiếng chuông nhà thờ vẫn miệt mài vang lên, vang mãi, vang đến từng mạch máu đường gân thớ thịt từng tế bào trong thân thể cậu. Nó dụ dỗ cậu, lôi kéo cậu khiến cậu vô lực, u mê bước về phía nó.
Khung cảnh nhà thờ vẫn không khác gì mấy so với năm năm trước. Có chăng chỉ là người đi lễ bây giờ thưa thớt như sao trên trời những ngày u ám.
Tan lễ, mấy ông bà vẫn có thói quen đứng tụm năm tụm ba ở sân nhà thờ trò chuyện, những câu chuyện vô thưởng vô phạt.
- Trời dạo này nóng dữ, nóng chết mất thôi.- Một ông cụ tầm thước, chừng bảy mươi tuổi, có bộ râu dài đến ngực cất lời than thở. Lúc ông nói, bộ râu của ông đung đưa theo miệng ông.
- Mặt đất nóng lên do ô nhiễm môi trường làm thủng tầng ô dôn.- Người đàn ông trung niên khoảng bốn mươi tuổi đeo cặp kính gọng sắt - không biết là kính cận, kính lão hay loại kính thời trang bán đầy ở những sạp hàng la liệt trên đường quốc lộ, phân tích.
- Là Chúa phạt.- Người phụ nữ đứng cạnh, bàn tay cầm cỗ tràng hạt to tròn, lấp lánh như những hạt ngọc, vừa nói vừa đưa tượng Thánh Giá lên miệng hôn, có lẽ cô vừa đọc xong một câu kinh hoặc một lời cầu nguyện.
- Trời cứ nóng thế này thì lão đây đến về với Chúa mất thôi.- Cụ già nói.
- Sao cụ lại nói thế. Cụ phải sống đến trăm tuổi, phải làm tấm gương con chiên ngoan đạo cho con cháu học theo chứ. Lớp trẻ bây giờ mất nết quá, chúng nó đến bỏ đạo bỏ Chúa mất thôi.- Người đàn ông trung niên nói.
Đúng đó.- Người phụ nữ chen vào- Cái lũ trẻ ranh càng ngày càng lười đi nhà thờ, đọc kinh cầu nguyện. Giờ chúng nó thích đú đởn, nhí nhảnh, chưa nứt mắt ra đã ình cái bụng. Bố mẹ chúng chết chúng cũng không thèm đọc cho một câu kinh.
- Ừ, đấy cô nói tôi mới để ý- Cụ già vừa nói vừa đủng đỉnh vuốt râu- Như Thánh lễ hôm nay không biết là lễ giỗ linh hồn Phê-rô nào mà con cháu chẳng thấy mặt mũi đâu.
- Thật là lũ khốn nạn, cái dòng giống khốn nạn! Cầu Chúa đày lũ khốn nạn ấy xuống hỏa ngục hết đi.- Người phụ nữ rít qua kẽ răng. Rồi cô lại đưa Thánh giá lên môi lại bắt đầu lần hạt, đọc kinh cầu nguyện.
- Thật là cả cái giáo xứ này có mấy dòng họ được ngoan đạo như dòng họ Nguyễn nhà mình, chị nhỉ?- Người đàn ông trung niên quay sang nói với chị gái.
- Chú nói đúng quá.- Cụ già hùa theo, lại vuốt râu.
- À không, ý cháu là dòng họ Vũ cũng nhiều người ngoan đạo lắm.- Người đàn ông trung niên nhận thấy mình nói hớ, ngượng nghịu chữa lại.
- Làm gì có, làm gì có!- Ông cụ xua tay lắc lắc đầu, bộ râu ve vẩy theo cái đầu của ông.
- Dạ, ý cháu là họ Vũ có được tấm gương ngoan đạo như ông là được tiếng cho cả dòng họ rồi ạ. Mà cháu cũng đang thắc mắc không biết hôm nay giỗ ai nhỉ? Nhà ai xin lễ giỗ cho ông bà tổ tiên mà con cháu chết hết đâu rồi, đúng là tuyệt tự tuyệt tôn, ô uế cả gia phả, cụ thấy có phải không ạ?
Đúng lúc ấy có một ông cụ tầm trên bảy mươi tuổi từ trong nhà thờ đi ra. Cái lưng còng khiến cụ vừa đi vừa phải nghển cổ lên nhìn.
Người đàn ông trung niên vừa nhìn thấy cụ lập tức lên tiếng:
- Chào cụ, may quá gặp cụ ở đây, cụ cho con hỏi hôm nay giỗ linh hồn Phê-rô nào vậy cụ?
Cụ ngẩng đầu lên nhìn một cái rồi lại cúi xuống, đáp giọng dửng dưng:
- Chú Tốt đấy à, lâu lắm mới lại được gặp chú. Cả cụ Hòa cô Hiền nữa, đông đủ quá nhỉ. Thật là một ngày tốt lành. Mà sao chú lại hỏi thế? Không phải hôm nay lễ giỗ anh trai chú nên người bận rộn như chú mới bớt công bớt việc về dự thánh lễ sao? Chú lúc nào cũng vậy, cái tật biết rồi còn giả vờ giễu cợt người khác sao mãi mà không bỏ được?
- Cụ nói gì cơ, lễ giỗ anh trai cháu ấy ạ?
- Chẳng lẽ tôi lại già đến mức lẩm cẩm rồi? Hôm nay chẳng phải giỗ anh Phúc chồng chị Hạnh, anh trai của cô chú, cháu ngoại của ông trưởng họ Vũ đây hay sao.- Cụ vừa nói vừa chỉ vào ông cụ có bộ râu dài.- Chị Hạnh chị ấy xin lễ cho chồng từ cả tháng trước rồi. Nhanh thật thế mà đã mười năm. Kia kìa, chị dâu chú đang dạy lớp Kinh Thánh đó.
Dãy nhà giáo lý phía sau rặng nhãn tỏa ra thứ ánh sáng âm ấm của bóng đèn sợi tóc, một người phụ nữ nhỏ nhắn chừng hơn bốn mươi tuổi đang say sưa đọc Kinh Thánh cùng bọn trẻ. Từ lớp học vẳng lại tiếng lũ trẻ đồng thanh đọc: “Khốn cho các ngươi, hỡi những người kinh sư và người Pha-ri-siêu giả hình! Các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ. Hỡi người Pha-ri-siêu mù quáng kia, hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch”.
Càng về đêm, bầu trời càng cao, mặt trăng càng tỏ. Nhà thờ không ánh điện, không bóng người chẳng khác nào một ngôi mộ khổng lồ bị lãng quên trong vĩnh hằng tĩnh lặng. Ngồi trong bóng đêm suốt ba tiếng đồng hồ Tường đã quen với nó, rồi bỗng cậu cảm thấy như nghiện cái bóng đêm này, nghiện cái âm u, tịch mịch này, nó khiến cậu bình tâm, khiến cậu quên đi hết thảy giận giữ, oán hờn, khiến trái tim cậu mở rộng hoan hỉ. Giá có ai đó ở đây bây giờ cậu sẵn sàng giang tay ra và ôm hôn họ… sẵn sàng giang tay ra và ôm hôn họ… Cậu cứ nghĩ như vậy rồi dần dần thiếp đi lúc nào không hay.
 
 
 
 
 
Description: Description: D:\TU LIEU 2011\BTVHQN\GIAI VIET VAN DUONG TRUONG 2015\LOGO\Viet van DT.png
 
BẢN THỂ LỆ GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG
Cập nhật cho cuộc thi lần thứ năm - 2017
 
GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG được Ban mục vụ Văn hóa & Giáo dục Giáo phận Qui Nhơn thực hiện trong khuôn khổ dọn mừng kỷ niệm 400 năm Tin Mừng của Chúa đến với giáo phận Qui Nhơn (1618-2018), nhằm đào tạo cho Hội Thánh Việt Nam nhiều cây bút văn xuôi. Thể lệ, chủ đề và cơ cấu tưởng thưởng của cuộc thi được ấn định như sau.
I. THỂ LỆ
1. Cuộc thi kéo dài sáu năm, năm năm đầu (2013-2017) mỗi năm trao giải một lần.
1b. Riêng lần thứ sáu (2018) sẽ có việc tổng kết các bài đạt giải 5 năm trước về tài năng (Tác giả có nhiều bài đạt giải cao), về nhiệt tình (Tác giả gởi nhiều bài dự thi và đạt giải liên tục nhiều năm), về triển vọng (Tác giả trẻ tuổi nhất đạt giải nhiều lần nhất), về phong trào vv… Ngoài ra sẽ vẫn đón nhận bài dự thi bình thường như các năm trước và vẫn có khung giải thưởng từng năm như các năm trước. Sẽ không hạn chế số lượng bài dự thi của cùng một tác giả. Những tác giả có từ 5 bài trở lên được vào chung khảo sẽ nhận được những phần thưởng đặc biệt, đồng thời sẽ khuyến khích tập hợp thêm những truyện khác của mình để in thành những tuyển tập riêng trong Tủ sách Nước Mặn.
2. Cuộc thi dành cho các bạn trẻ Công giáo, trong cũng như ngoài giáo phận Qui Nhơn, dưới 40 tuổi (năm dự thi – năm sinh theo sổ rửa tội ≤ 40). Người đã đạt giải một lần, các năm sau có thể dự thi tiếp, dù đã hơn 40 tuổi. Các bạn trẻ dự tòng cần có chứng từ đang theo học giáo lý dự tòng.
3. Thể loại: Truyện ngắn, mỗi truyện không dài quá 4000 từ. Không nhận truyện phóng tác. Phải là sáng tác mới, chưa đăng báo, website hay blogs và chưa gửi dự thi ở bất cứ đâu.
4. Truyện lấy ý từ một tác phẩm khác, xin ghi rõ xuất xứ tác phẩm gốc. Nếu bị phát hiện sao chép của người khác hoặc dựng lại theo ý tác phẩm khác mà không ghi xuất xứ, sẽ bị loại và cấm thi các năm tiếp theo.
5. Đề tài:
Năm 2017, Hội thánh Công giáo có hai kỷ niệm lớn, Giải Viết Văn Đường Trường xin được chọn làm chủ đề cho cuộc thi lần thứ V:
– 100 năm Đức Mẹ Fatima và việc thực hiện lời mời gọi hoán cải của Mẹ trong đời sống người tín hữu từ ấy đến nay.
– 500 năm Hội thánh Công giáo và Hội thánh Tin lành cùng nhìn lại cuộc cải cách của Lm Martin Luther. Người Công giáo cần học hỏi những gì nơi anh chị em Tin lành và có những gì cần giới thiệu với họ? Đã có những nỗ lực nào cho tình hiệp nhất và còn phải làm gì thêm nữa?
Ngoài ra, quý tác giả cũng có thể tham gia với những tác phẩm về các chủ đề khác của Kitô giáo.
6. Mỗi năm, mỗi tác giả có thể tham gia tối đa 05 bài dự thi (riêng năm thứ sáu 2018 không giới hạn số bài), có thể gửi chung một lần hoặc nhiều lần.
7. Chỉ nhận bài dự thi qua điện thư email, gửi attach file với định dạng .doc hoặc .docx, không nhận bài gửi qua đường bưu điện.
8. Đầu bài dự thi phải ghi rõ: tên thánh, họ và tên, bút danh, năm sinh, rửa tội tại đâu, năm nào, địa chỉ nhà, giáo xứ, giáo phận, số điện thoại liên lạc, địa chỉ email. Dù đã gửi nhiều email dự thi, đầu mỗi bài đều cần ghi như thế. Những bài thiếu các chi tiết này sẽ không được nhập hồ sơ dự thi.
9. Mỗi bài dự thi sẽ được nhập hồ sơ theo lần gửi đầu tiên, mọi chỉnh sửa về sau đều không được chấp nhận.
10. Địa chỉ nhận bài, xin gửi cùng lúc về 2 điện chỉ email: tinmunggiesu@gmail.comgopnhattho@yahoo.com.
11. Thời gian nhận bài: trước ngày 01-3 mỗi năm. Những bài gửi về muộn hơn sẽ được đưa vào hồ sơ dự thi năm sau.
12. Tưởng thưởng: Mỗi năm sẽ có 06 giải thưởng chính thức và 15 giải triển vọng, theo cơ cấu và sinh hoạt như sẽ nói dưới đây.
13. Kết quả cuộc thi hằng năm sẽ được công bố ngày 15-8 mỗi năm
14. Lễ trao giải vào ngày 21-9 mỗi năm.
15. Những tác giả được vào chung khảo mà không đạt giải sẽ được hỗ trợ một phần tiền xe về dự ngày họp mặt trao giải.
16. Các thông tin về cuộc thi sẽ được đăng trên Facebook Văn thơ Công giáo https://www.facebook.com/groups/vanthoconggiao/, trên trang mạng giáo phận Qui Nhơn http://www.gpquinhon.org và những trang mạng ủng hộ chương trình này.
17. Các tác phẩm đạt giải sẽ được in thành tuyển tập do Ban Tổ Chức giữ bản quyền.
II. TƯỞNG THƯỞNG
Cơ cấu giải thưởng
Mỗi năm, có 6 giải thưởng chính thức và 15 giải triển vọng.:
- một giải nhất:                                                20.000.000 $VN
- hai giải nhì, mỗi giải                                      12.000.000 $VN
- ba giải ba, mỗi giải                                8.000.000 $VN
- 15 giải triển vọng, mỗi giải                              3.000.000 $VN
 
Tuyển tập truyện ngắn riêng
Ngoài phần thưởng bằng tiền mặt, những tác giả đạt giải, nếu có nhiều truyện khác có giá trị, sẽ được Tủ Sách Nước Mặn hỗ trợ xuất bản một tuyển tập riêng dưới 200 trang với những truyện ngắn mang nội dung Kitô giáo.
Những tác giả không đến dự lễ trao giải sẽ chỉ được nhận 50% tiền giải thưởng và không được hỗ trợ in tuyển tập riêng. Những tác giả chỉ dự lễ trao giải 21-9 mà không tham gia hành hương 22-9 chỉ được nhận 75% tiền giải thưởng, nhưng vẫn được hỗ trợ in tuyển tập riêng.
III. TƯỞNG THƯỞNG DÀNH CHO ĐỘC GIẢ
1. Bình chọn
Các truyện dự thi đã qua vòng sơ tuyển sẽ lần lượt được đưa lên Facebook Văn thơ Công giáo của Giải VVĐT tại
https://www.facebook.com/groups/vanthoconggiao/
Mời độc giả tham gia bình chọn theo thể lệ trên FB.
2. Giúp phát hiện trường hợp sao chép
Những độc giả giúp phát hiện đầu tiên những bài dự thi sao chép của người khác (xin ghi rõ xuất xứ bài gốc) sẽ được tặng quà lưu niệm đồng thời được hỗ trợ tiền xe về dự họp mặt trao giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
Ban Tổ Chức chân thành biết ơn sự giúp đỡ của các ân nhân. Các hỗ trợ tiền bạc hoặc hiện vật cho cuộc thi xin gửi về: Linh mục Võ Tá Khánh, 116 Trần Hưng Đạo, TP Qui Nhơn – Email: gopnhattho@yahoo.com – Điện thoại: 0935-424-449.
 
Qui Nhơn, ngày 15-8-2016
(Cập nhật ngày 15-10-2016)
TRƯỞNG BAN TỔ CHỨC
Description: chu ky cha khanh
Lm Gioan Phêrô Võ Tá Khánh (Trăng Thập Tự)
Trưởng Ban MV Văn hóa & Giáo dục Giáo phận Qui Nhơn
 
 
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

 

   

LƯỢT XEM TRANG

  • Đang truy cập: 30
  • Hôm nay: 5096
  • Tháng hiện tại: 84359
  • Tổng lượt truy cập: 12061146