Giáo phận Qui Nhơnhttps://gpquinhon.org/uploads/banertrongsuot.png
Thứ sáu - 23/05/2025 22:04
LỄ AN TÁNG CHA ANRÊ HOÀNG MINH TÂM
Ngày 23.5.2025 tại nhà thờ Chính tòa Qui Nhơn
Cha Anrê Hoàng Minh Tâm, thuộc hàng giáo sĩ Giáo phận Qui Nhơn vừa được Chúa gọi về lúc 17g40 chiều thứ Ba, ngày 20 tháng 5 năm 2025, và giờ đây chúng ta cùng nhau dâng thánh lễ cầu nguyện cho cha sớm được về hưởng nhân thánh Chúa muôn đời. Cơ duyên nào đã được Thiên Chúa an bài xếp đặt để cha trở thành linh mục của giáo phận Qui Nhơn?
Cha sinh ngày 20 tháng 8 năm 1944 tại thôn Thanh Bồ, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Sau hiệp định Genève 1954, đất nước Việt Nam bị chia đôi tại vĩ tuyến 17 với sông Bến Hải tại Quảng Trị là ranh giới giữa hai miền Nam-Bắc. Cùng với làn sóng di cư, em Tâm theo gia đình tiến vào phần đất phía Nam. Khi còn ở quê nhà, chắc hẳn em đã nghe tiếng gọi của Chúa một cách nào đó, nên khi vừa ổn định cuộc sống tại vùng dất mới em đã được một linh mục đỡ đầu và gửi đi học trung học đệ nhất cấp tại Tiểu chủng viện Chân phước Tự và trung học đệ nhị cấp tại Tiểu chủng viện Piô XII do Giáo phận Hà Nội di cư tổ chức.
Sau khi hoàn tất chương trình Tiểu chủng viện, theo định hướng của các giám mục Việt Nam, chủng sinh Anrê Hoàng Minh Tâm phải gia nhập một giáo phận nào đó tùy ý để được tiếp tục đào tạo. Cùng với một số bạn bè, chủng sinh Hoàng Minh Tâm đã chọn Giáo phận Qui Nhơn. Đó là cái duyên đầu để từ đây thầy Anrê dấn thân và cùng sống cùng chết với cộng đoàn Dân Chúa Giáo phận Qui Nhơn cho đến nay.
Năm đầu tiên, thầy được Đức Giám mục giáo phận sai đi phục vụ tại giáo xứ Lạc Điền và dạy học tại trường trung học Huỳnh Thị Lưu ở Vĩnh Thạnh niên khóa 1963-1964. Năm sau thầy được sai đi phục vụ tại giáo xứ Trà Câu và dạy học tại trường trung học Đăng Khoa niên khóa 1964-1965. Mãn hai năm giúp xứ, thầy được gửi đi tu học tại Đại chủng viện Xuân Bích Huế. Năm 1970, trong khi thầy đang học năm thần học 4, tức năm cuối cùng của chương trình đào tạo Đại chủng viện, thì một biến cố quan trong đặc biệt đã diễn ra, để lại dấu ấn sâu đậm trong Giáo Hội tại Á Châu và trong cuộc đời của thầy, đó là chuyến tông du của Thánh Giáo hoàng Phaolô VI tại Manila, Philippines. Trong chuyến tông du này có nghi thức phong chức linh mục cho một số chủng sinh Á châu. Thế là thầy Anrê được gửi sang Manila để được truyền chức linh mục do chính Đức Giáo hoàng, ngày 28 tháng 11 năm 1970.
Nhận thấy cha Anrê là một người xuất sắc, nên sau khi cha hoàn tất chương trình Đại chủng viện, Đức cha Đaminh Hoàng Văn Đoàn, Giám mục giáo phận Qui Nhơn, đã gửi cha đi học tại Đại học Công giáo Đà Lạt từ năm 1971 đến năm 1975. Tại đây, cùng với thành tích học vấn trong ngành chính trị kinh doanh, cha đã chứng tỏ là một con người có sức cuốn hút đối với các sinh viên nhờ tài hùng biện và nhiệt tình của cha. Tài hùng biện của cha được gắn liền với khả năng văn chương. Một số bài thơ được cha sáng tác dưới bút danh Hoàng Vũ Đan Thanh, Minh Tâm và Hoài Vân được đăng trên nguyệt san Trái Tim Đức Mẹ và năm 2012 cha Trăng Thập Tự đã chọn in trong bộ sưu tập “Có một vườn thơ đạo”, tập 3.
Mọi người đều nghĩ rằng sau khi tốt nghiệp và trở về giáo phận, cha sẽ được Đức Giám mục giao cho sứ mệnh điều hành và xây dựng giáo phận về mặt tài chánh, để giáo phận có thể vượt qua những khó khăn do chiến tranh để lại và đẩy mạnh chương trình phát triển giáo phận theo định hướng của công đồng Vaticanô II.
Tuy nhiên, thánh ý Chúa không giống với suy nghĩ của con người. Sau năm 1975, giáo phận Qui Nhơn rơi vào cảnh đổ vỡ tài chính và thiếu hụt linh mục trầm trọng. Các chương trình phát triển không còn có thể thực hiện được. Giờ đây ưu tiên hàng đầu của giáo phận là phục vụ các linh hồn. Vì vậy cha Anrê được Đức cha Phaolô Huỳnh Đông Các, Giám mục giáo phận, sai đi làm mục vụ giáo xứ. Nhiệm sở đầu tiên của cha là giáo xứ Hòa Ninh, bởi vì giáo xứ này phần lớn bao gồm các tín hữu cùng quê Quảng Bình với cha. Nhưng giáo xứ Hòa Ninh lúc này không còn được như trước, vì nhiều người đã bỏ giáo xứ ra đi và không trở về.
Tuy nhiên, không chán nản, cha đã vận dụng tất cả tài năng, sức lực và nhiệt huyết của một linh mục trẻ để phục vụ. Cha làm cha sở Hòa Ninh từ năm 1975 đến 1997. Trong thời gian đó, từ năm 1994 đến 1997 cha còn kiêm nhiệm cha sở Qui Hiệp. Nhờ tài lợi khẩu và khả năng văn chương, các bài giảng thánh lễ của cha có sức cuốn hút và đánh động nhiều người. Người ta say mê các bài giảng của cha, nhờ đó thánh lễ thường có đông người tham dự. Cha còn được giao nhiệm vụ giảng dạy các chủng sinh của giáo phận và được mời giảng dạy, huấn đức cho các tu sĩ các hội dòng, giảng tĩnh tâm cho các nhóm.
Nhớ lại thời còn là sinh viên và nhận thức tầm quan trọng của việc đào tạo giới trẻ trí thức công giáo, năm 1993 cha đã thành lập nhóm sinh viên Công giáo Bình minh và trở thành linh hồn của nhóm, để hướng dẫn các bạn trẻ trên con đường sống đạo, làm chứng nhân đức tin bằng khả năng tri thức của mình. Nhiều bạn trẻ trong nhóm đã được ơn gọi làm linh mục và tu sĩ tại nhiều giáo phận. Ngoài ra cha còn tố chức một nhóm thợ xây do cha đứng đầu để thiết kế và đi xây dựng các công trình nhỏ nhưng mang tính nghệ thuật của các cộng đoàn dòng tu và các giáo xứ. Nhờ đó cha kết hợp hài hòa giữa giới trí thức và giới lao động. Đây quả thật là một sáng kiến mục vụ độc đáo. Có thể nói, thời gian làm cha sở tại Hòa Ninh là giai đoạn khởi sắc nhất trong cuộc đời mục tử của cha.
Năm 1997, cha được chuyển đi làm cha sở giáo xứ Kiên Ngãi cho đến năm 2014. Với tài năng kiến trúc và kinh nghiệm xây dựng, cha đã xây dựng cho giáo xứ một ngôi thánh đường khá lớn và xinh đẹp, với tháp chuông cao vút, cùng với quần thể kiến trúc gồm nhà xứ, nhà sinh hoạt giáo lý, đài Đức Mẹ và Thánh Giuse. Năm 2014, nhận thấy sức cha đã yếu vì tuổi tác và công việc, tôi quyết định đưa cha trở lại thành phố Qui Nhơn với nhiệm vụ cha sở giáo xứ Đồng Tiến. Trong thời gian này sức khỏe của cha ngày càng yếu, nên năm 2019 tôi quyết định đưa cha về nghỉ hưu tại Làng Sông.
Trong thời gian sống tại Làng Sông, lúc đầu cha còn đi đó đi đây chút đỉnh, có lúc về Cam Ranh thăm nhà và người thân. Cha vui vẻ tiếp xúc với mọi người đến thăm, giải tội cho các nữ tu dòng Nữ tỳ Chúa Giêsu Tình Thương. Ai tới thăm, cha cũng có những lời động viên, khuyên nhủ nhẹ nhàng. Trong giờ cơm, cha có những chia sẻ mang tính trí thức và ý nhị với các cha. Lúc nào dùng cơm xong cha cũng đọc kinh lần hạt, khi thì một mình, khi thì với các nữ tu.
Tuy nhiên, qua thời gian, sức khỏe của cha yếu dần vì nhiều thứ bệnh. Mặc dù được sự giúp đỡ tận tình của cha Gioakim Nguyễn Minh Yên, giám đốc nhà hưu dưỡng Làng Sông, các thầy giúp xứ và các nữ tu dòng Nữ Tỳ Chúa Giêsu Tình Thương, bệnh tình của cha ngày càng phức tạp và trầm trọng. Những lúc cơn bệnh hoành hành, cha rất đau đớn, và xin mọi người đừng bỏ cha, thật tội nghiệp! Đặc biệt, mỗi lần cơn bệnh hoành hành khiến cha đau đớn, cha đều kêu đến Đức Mẹ. Từ năm 2021 đến nay cha nằm bệnh viện cả thảy 10 lần. Lần cuối cùng và lâu nhất kéo dài từ ngày 30 tháng 4 cho đến khi cha được đưa về Tòa giám mục và qua đời. Mặc dù đã được các y bác sĩ tại bệnh viện đa khoa Qui Nhơn tận tình giúp đỡ, nhưng cha đã không qua khỏi.
Nhìn lại cuộc đời của cha Anrê dưới ánh sáng Lời Chúa hôm nay, chúng ta thấy những đau ốm bệnh tật mà cha phải chịu trong tuổi già một phần phát sinh từ những lao tâm lao lực trong thời gian còn làm mục vụ tại các giáo xứ. Giờ đây cha nằm xuống như hạt lúa mì được chôn vùi trong lòng đất mà Chúa Giêsu đã nói đến trong đoạn Tin mừng hôm nay (x. Ga 12,23-26). Chính Chúa Giêsu đã phải trải qua nhiều vất vả trong hành trình mực tử của Người và thân xác Người đã bị nghiền nát bởi biết bao đau đớn trong cuộc khổ nạn. Nhưng chính từ cuộc khổ nạn ấy, sự sống mới đã bắt đầu xuất hiện qua cuộc Phục sinh. Các linh mục, khi thi hành nhiệm vụ mục tử cũng phải trở nên giống như Chúa trong đau khổ mới có thể nên giống như Người trong cuộc Phục sinh. Những đau đớn bệnh tật của cha Anrê giờ đây đã được đổi lại bằng sự bình an và sự sống mới trong Thiên Chúa, như Chúa Giêsu đã nói trong đoạn Tin mừng hôm nay: “Ai phụng sự Thầy hãy theo Thầy và Thầy ở đâu thì người phụng sự Thầy cũng sẽ ở đó”.
Cha Anrê đã theo Đức Kitô trong đau khổ, thì chắc chắn cũng được tham dự sự sống và hạnh phúc bất diệt của Người. Hay như lời Thánh Phaolô trong thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô: “Chúng ta biết rằng nếu căn nhà chúng ta ở trần gian là túp lều này bị phá hủy đi, thì chúng ta có một tòa nhà do Thiên Chúa thiết lập, một chỗ ở vĩnh viễn trên trời không do tay người phàm làm ra” (2Cr 5,1).
Trong bài thơ nhan đề “Suy tư tình yêu”, cha Anrê đã thốt lên:
Con tưởng mình đã đến,
Bến mơ huyền thiên thai,
Con trao lời ước hẹn,
Ngây ngất phủ trang đài.
Và ở cuối bài thơ, cha kết luận:
Thà một lần đớn đau,
Hơn ngàn năm u sầu.
Con xin về với Chúa,
Lời ru thắm tình sâu.
Giờ đây mọi “đớn đau u sầu” đã chấm dứt, “bến mơ huyền thiên thai” đang mở ra, mong sao cha có thể “ngây ngất phủ trang đài” cùng với muôn vàn thần thánh trên quê trời hạnh phúc. Xin phó thác linh hồn cha Anrê trong vòng tay yêu thương của Chúa Giêsu, vị Mục tử nhân lành!
Giáo phận Qui Nhơn xin hết lòng cảm ơn tất cả mọi người đã yêu thương, giúp đỡ cha Anrê khi còn sống, khi bệnh tật, cũng như khi đã qua đời. Xin rộng tình tha thứ tất cả những gì cha Anrê đã làm phiền lòng quý vị khi còn sống. Nguyện xin Thiên Chúa nhân lành trả công bội hậu cho tất cả và ban niềm an ủi cho những ai đang đau buồn vì sự ra đi của cha Anrê.