Thông điệp Fratelli Tutti (Việt ngữ)

Thứ tư - 02/12/2020 17:31
9788868944582

Thông Điệp Fratelli Tutti
Của Đức Thánh Cha Phanxicô
Về Tình Huynh Đệ Và Tình Thân Hữu Xã Hội

(Lm. Lê Công Đức, PSS, dịch từ bản tiếng Anh)

 
  1. Fratelli tutti”. (1) Với những từ này, Thánh Phanxicô Assisi đã nói với các anh chị em mình và đã gợi cho họ một lối sống mang bản sắc Tin Mừng. Trong số những lời khuyên của Thánh Phanxicô, tôi muốn chọn lời khuyên trong đó ngài kêu gọi một tình yêu vượt quá những rào cản địa dư và khoảng cách, và ngài tuyên bố phúc cho tất cả những ai yêu mến người anh em mình, “khi người ấy ở xa cũng như khi ở gần”. (2) Một cách đơn sơ và trực tiếp, Thánh Phanxicô đã diễn tả yếu tính của một sự cởi mở huynh đệ cho phép chúng ta nhận ra, trân trọng, và yêu thương mỗi con người, bất kể sự dị đồng thể lý, bất kể người ấy sinh ra hay sống ở đâu.
  2. Chính vị thánh của tình huynh đệ, của nét đơn giản và niềm vui này đã truyền cảm hứng cho tôi viết Thông điệp Laudato Si’, lại một lần nữa ngài thôi thúc tôi dành Thông điệp mới này cho tình huynh đệ và tình thân hữu xã hội. Thánh Phanxicô cảm nhận ngài là người anh em của mặt trời, của biển và của gió, song ngài cũng biết rằng ngài thậm chí gần gũi hơn với con người cùng một cốt nhục. Đi đâu ngài cũng gieo rắc hạt giống hòa bình và sóng bước với người nghèo, những kẻ bị bỏ rơi, những người đau yếu, những người bị loại trừ, những anh em chị em bé nhỏ nhất của ngài.
KHÔNG BIÊN GIỚI
  1. Có một đoạn đời của Thánh Phanxicô cho thấy rõ con tim rộng mở của ngài, con tim không biết đến giới hạn và vượt quá những dị biệt về nguồn gốc, quốc tịch, màu da hay tôn giáo. Đó là chuyến đi của ngài đến thăm Sultan Malik-el-Kamil ở Ai Cập, một chuyến đi đầy gian khổ bởi vì ngài rất nghèo khó, bởi tình cảnh thiếu thốn, bởi những quãng đường xa phải đi, và bởi sự khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo. Hành trình ấy – được thực hiện vào thời Thập tự chinh – càng cho thấy tình yêu rộng mở và lớn lao của ngài, một tình yêu tìm cách ôm lấy hết mọi người. Lòng trung tín của Phanxicô với Chúa tương ứng với tình yêu của ngài dành cho anh chị em mình. Không sờn lòng trước những khổ cực và hiểm nguy, Phanxicô đi gặp vị Sultan với chính thái độ mà ngài thôi thúc các môn đệ: Nếu họ thấy mình “ở giữa những người Hồi giáo và những người vô tín khác”, thì trong khi không chối bỏ căn tính của mình, họ cũng không được “vướng vào những tranh luận hay cãi vã, song phải chấp nhận mọi người khác vì Chúa”. (3) Trong bối cảnh thời ấy, đây là một khuyến cáo phi thường. Chúng ta thật ấn tượng khi thấy cách đây ngót tám trăm năm Thánh Phanxicô đã khẩn thiết kêu gọi rằng cần phải tránh mọi hình thức thù địch hay xung đột, và cần phải bày tỏ một thái độ “nhận chịu” trong tinh thần khiêm tốn và huynh đệ đối với những ai không cùng niềm tin với mình.
  2. Thánh Phanxicô không dấy lên sự cãi vã nhằm áp đặt các giáo thuyết; ngài chỉ đơn giản làm lan tỏa tình yêu. Ngài hiểu rằng “Thiên Chúa là tình yêu và ai sống trong tình yêu là sống trong Thiên Chúa” (1Ga 4,16). Bằng cách này, ngài đã trở thành một người cha của mọi người và khơi gợi tầm nhìn về một xã hội huynh đệ. Thật vậy, “chỉ những ai đến với người khác, không phải để lôi kéo họ vào trong đời sống mình, nhưng để giúp họ trở thành chính họ trọn vẹn hơn, thì mới có thể được gọi là một người cha đích thực”. (4) Trong thế giới vào thời đó, tua tủa những tháp canh và những tường thành phòng thủ, các thành phố là bãi chiến trường khốc liệt giữa những gia tộc quyền lực, trong khi sự khốn khó tràn lan khắp các miền quê. Nhưng Phanxicô đã có thể chào đón sự bình an đích thực trong tâm hồn mình và giải thoát mình khỏi tham vọng áp chế người khác. Ngài trở thành một người nghèo và tìm kiếm cách sống hòa hợp với mọi người. Chính Thánh Phanxicô đã khơi cảm hứng cho Thông điệp này.
  3. Tình huynh đệ giữa con người và tình thân hữu xã hội vẫn luôn là một mối quan tâm của tôi. Trong những năm gần đây, tôi đã nói về các vấn đề này cách thường xuyên và trong những khung cảnh khác nhau. Trong Thông điệp này, tôi tìm cách phối kết lại nhiều phát biểu ấy và đặt chúng vào một bối cảnh suy tư rộng lớn hơn. Khi chuẩn bị cho Laudato Si’, tôi nhận được một nguồn cảm hứng từ Thượng phụ Chính Thống Bartholomew, người anh em của tôi, và là người đã lên tiếng rất mạnh mẽ rằng chúng ta cần phải chăm sóc công trình tạo dựng. Còn ở đây, tôi cảm thấy được khích lệ cách riêng bởi Đại giáo trưởng Ahmad Al-Tayyeb, người mà tôi đã gặp ở Abu Dhabi, và tại đó chúng tôi đã tuyên bố rằng “Thượng đế đã dựng nên mọi người bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ và phẩm giá, và đã kêu gọi họ sống với nhau như anh chị em”. (5) Đây không phải một cử chỉ ngoại giao thuần túy, mà là một phản hồi từ cuộc đối thoại và sự cam kết chung. Thông điệp này đề cập và khai triển một số chủ đề lớn được nêu lên trong Văn kiện mà cả hai chúng tôi đã ký. Bên cạnh những suy tưởng của mình, tôi cũng thu nạp vào đây nhiều thư từ, tài liệu và nhận định mà tôi nhận được từ nhiều cá nhân và nhiều nhóm trên khắp thế giới.
  4. Những trang sau đây không tham vọng cung ứng một giáo huấn hoàn chỉnh về tình yêu huynh đệ, nhưng đúng hơn muốn xem xét tầm phổ quát của nó, sự khai mở nó cho mọi người nam cũng như nữ. Tôi trao gửi Thông điệp xã hội này như một đóng góp khiêm tốn vào công cuộc suy tư còn tiếp tục, trong hy vọng rằng khi đứng trước những mưu toan ngày nay nhằm loại bỏ hay thờ ơ tha nhân, chúng ta có thể chứng minh rằng mình có khả năng đáp trả với một tầm nhìn mới về tình huynh đệ và tình thân hữu xã hội không chỉ dừng lại ở những lời lẽ suông. Mặc dù tôi viết Thông điệp này từ những xác tín Kitô giáo là nguồn cảm hứng và nâng đỡ mình, tôi vẫn muốn làm cho những suy tư này trở thành một lời mời gọi đối thoại giữa mọi người thiện chí.
  5. Khi tôi viết Thông điệp này, cơn đại dịch Covid-19 bất ngờ bùng phát, làm lộ rõ những sự an toàn giả tạo của chúng ta. Bên cạnh những phương thức khác nhau mà nhiều quốc gia dùng để đối phó với cơn khủng hoảng, thì sự bất lực của các quốc gia trong việc cộng tác với nhau cũng được thấy rõ ràng. Bất chấp mọi nối kết của chúng ta, chúng ta chứng kiến một sự phân hóa làm cho việc giải quyết các vấn đề ảnh hưởng đến tất cả chúng ta trở nên khó khăn hơn. Bất cứ ai nghĩ rằng bài học duy nhất để học là cần phải làm tốt hơn những gì mình vẫn đang làm, hay cần phải thanh lọc các hệ thống và các qui tắc hiện hành, thì đó là những người đang phủ nhận thực tại.
  6. Trong thời đại này của chúng ta, tôi ao ước rằng bằng cách nhìn nhận phẩm giá của mọi con người, chúng ta có thể góp phần phục sinh một cảm hứng phổ quát về tình huynh đệ. Tình huynh đệ giữa mọi người, nam cũng như nữ. “Ở đây chúng ta có một bí quyết tuyệt diệu giúp chúng ta biết cách ước mơ và biến đời sống mình thành một cuộc phiêu lưu kỳ thú. Không ai có thể một mình đối mặt với đời sống… Chúng ta cần một cộng đoàn nâng đỡ và trợ giúp mình, trong đó chúng ta có thể giúp nhau hướng nhìn về phía trước. Thật quan trọng biết bao việc biết cùng mơ ước với nhau… Tự sức mình, chúng ta có nguy cơ nhìn thấy những ảo ảnh, là những cái không có ở đó. Mặt khác, các giấc mơ được kiến tạo cùng với nhau”. (6) Vì thế, chúng ta hãy mơ, trong tư cách là một gia đình nhân loại duy nhất, như những bạn đồng hành chia sẻ cùng một cốt nhục, như những đứa con của cùng mẹ trái đất là ngôi nhà chung của mình, mỗi người chúng ta đóng góp bằng sự phong phú của những niềm tin tưởng và xác tín của mình, mỗi chúng ta với tiếng nói của mình, tất cả đều là anh chị em.
CHƯƠNG I
MÂY ĐEN PHỦ TRÙM MỘT THẾ GIỚI ĐÓNG KÍN
  1. Không tham vọng làm một phân tích toàn triệt hay nghiên cứu mọi khía cạnh trong kinh nghiệm hiện thời của chúng ta, tôi chỉ muốn xem xét một số xu hướng trong thế giới hiện nay đang làm bế tắc sự phát triển của tình huynh đệ đại đồng.
NHỮNG GIẤC MƠ VỠ VỤN
  1. Trong nhiều thập kỷ, dường như thế giới đã học được bài học từ nhiều cuộc chiến tranh và tai ương của mình, và đã dần dần đi tới hội nhập trong những hình thức khác nhau. Chẳng hạn, đã có giấc mơ về một Châu Âu hợp nhất, có thể nhìn nhận những gốc rễ chung của nó và cảm thụ tính đa dạng phong phú của nó. Chúng ta nghĩ về “niềm xác tín vững chắc của các nhà sáng lập Cộng đồng Châu Âu, họ đã hình dung một tương lai dựa trên khả năng làm việc với nhau để nối kết những sự phân hóa, thúc đẩy hòa bình và hữu nghị giữa mọi dân tộc trên lục địa này”. (7) Cũng đã có một khát vọng ngày càng hơn về sự hội nhập ở Châu Mỹ La tinh, và một số bước đã được thực hiện trong chiều hướng này. Tại một số quốc gia và khu vực, những cố gắng hòa giải và hữu nghị đã tỏ ra có hiệu quả, trong khi những nơi khác thì được thấy có nhiều triển vọng.
  2. Tuy nhiên, tình hình hiện tại của chúng ta dường như đang cho thấy những dấu hiệu của một sự giật lùi nào đó. Những xung đột cũ tưởng là đã chôn vùi từ lâu thì nay đang bùng phát lại, trong khi những biểu hiện của một chủ nghĩa dân tộc thù hận và hung hăng, cực đoan và thiển cận đang leo thang. Tại một số quốc gia, một quan điểm nào đó về sự thống nhất đất nước và dân tộc bị ảnh hưởng bởi nhiều ý thức hệ khác nhau đang tạo ra những hình thức ích kỷ mới và sự đánh mất cảm thức xã hội được ngụy trang bởi việc bảo vệ các quyền lợi quốc gia. Một lần nữa chúng ta được nhắc nhớ rằng “mỗi thế hệ mới phải phấn đấu và đạt được những hiểu biết của các thế hệ đi trước, trong khi xác lập những tầm nhìn cao hơn thế. Đó là nẻo đường. Sự thiện, cùng với tình yêu, công lý và tình liên đới, không đạt được một lần thay cho tất cả; chúng phải được thể hiện mỗi ngày. Không thể tự hài lòng với những gì đã đạt được trong quá khứ và hưởng dụng nó cách mãn nguyện, như thể chúng ta cách nào đó có thể phớt lơ thực tế rằng nhiều anh chị em mình vẫn đang chịu đựng những hoàn cảnh thống thiết kêu gọi sự chú ý của chúng ta”. (8)
  3. “Mở ra với thế giới” là một thành ngữ đã được tuyển chọn bởi lãnh vực kinh tế và tài chánh, và nay được dùng cách chuyên biệt để chỉ sự mở ra cho các lợi ích của nước ngoài, hay cho sự tự do của các cường quốc kinh tế trong việc đầu tư mà không bị những cản trở hay những rắc rối tại mọi quốc gia. Những xung đột địa phương và sự bất chấp lợi ích chung được nền kinh tế toàn cầu khai thác để áp đặt một mẫu văn hóa duy nhất. Thứ văn hóa này hợp nhất thế giới, nhưng phân rẽ các cá nhân và các dân tộc, vì “khi xã hội trở nên toàn cầu hóa hơn, nó làm cho chúng ta trở thành những người hàng xóm, nhưng không làm cho chúng ta thành anh em”. (9) Chúng ta trở nên cô đơn hơn bao giờ hết trong một thế giới ngày càng đồng nhất đại trà cổ võ những ích lợi cá nhân và làm suy yếu chiều kích đời sống cộng đồng. Thật vậy, có những thị trường mà ở đó các cá nhân trở thành những khách tiêu thụ thuần túy hay những kẻ bàng quan. Như một qui luật, sự tăng triển của loại toàn cầu hóa này càng củng cố căn tính của những người mạnh hơn, những người có thể bảo vệ chính mình, nhưng nó có chiều hướng làm suy giảm căn tính của những khu vực yếu và nghèo hơn, làm cho người ta càng chênh vênh và lệ thuộc nhiều hơn. Theo cách này, đời sống chính trị trở nên ngày càng mong manh đứng trước những thế lực kinh tế xuyên quốc gia vốn vận hành theo nguyên tắc “chia để trị”.
Sự kết thúc của ý thức lịch sử
  1. Điều xảy ra là cảm thức lịch sử ngày càng biến mất, dẫn tới tình trạng càng đổ vỡ thêm. Một xu hướng “phá vỡ kết cấu”, cho rằng sự tự do của con người có thể tạo lập mọi sự bắt đầu từ zê-rô, đang lấn lướt trong nền văn hóa hôm nay. Một hệ lụy của nó, đó là xung năng tiêu thụ vô giới hạn và những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân trống rỗng. Mối ưu tư về điều này thúc đẩy tôi đưa ra cho các bạn trẻ một lời khuyên. “Nếu có kẻ nào xúi các bạn trẻ đừng quan tâm đến lịch sử của mình, tẩy chay những kinh nghiệm của các bậc lão thành, xem thường quá khứ và hướng tới một tương lai mà kẻ ấy mời mọc, thì đấy không phải là để dễ dẫn dụ các bạn trẻ đến chỗ họ chỉ làm những gì kẻ ấy bảo họ làm đó sao? Kẻ ấy muốn các bạn trẻ nông cạn hời hợt, mất gốc và mất lòng tin, để các bạn trẻ chỉ tin vào những lời hứa của y và hành động theo các kế hoạch của y mà thôi. Đó là cách mà nhiều ý thức hệ khác nhau vận hành: chúng hủy diệt (hay làm phân rã) mọi sự khác biệt, để chúng có thể thống trị mà không bị phản đối. Nhưng để làm như thế, chúng cần những người trẻ xem thường lịch sử, những người vứt bỏ các kho tàng nhân bản và tâm linh thừa hưởng từ các thế hệ đi trước, và là những người không ý thức gì về mọi sự đã xảy ra trước mình”. (10)
  2. Đấy là những hình thức mới của thực dân văn hóa. Chúng ta đừng quên rằng “các dân tộc rũ bỏ truyền thống của mình, và hoặc bởi a dua muốn bắt chước người khác hay muốn kích động bạo lực, hoặc bởi thái độ lãnh đạm hay vô tâm không thể tha thứ được, các dân tộc ấy để cho kẻ khác tước mất chính linh hồn mình, rốt cục đánh mất luôn không chỉ căn tính tâm linh mà cả tính nhất quán đạo đức, và cuối cùng mất luôn sự độc lập về chính trị, kinh tế và tri thức của mình”. (11) Một cách hữu hiệu để làm suy yếu ý thức lịch sử, khả năng suy nghĩ có phê bình, việc tranh đấu cho công lý và những tiến trình hội nhập, đó là làm cho những từ ngữ quan trọng trở thành trống rỗng ý nghĩa hoặc bóp méo chúng. Ngày nay, một số từ như dân chủtự docông lýhay hiệp nhất thực sự có ý nghĩa gì? Chúng đã bị uốn ép để phục vụ như những công cụ thống trị, những nhãn hiệu vô nghĩa có thể được dùng để biện minh cho bất kỳ hành động nào.
THIẾU MỘT KẾ HOẠCH CHO MỌI NGƯỜI
  1. Cách hay nhất để khống chế và kiểm soát người ta là làm lan tràn nỗi thất vọng chán chường, ngay cả dưới danh nghĩa bảo vệ những giá trị nào đó. Ngày nay tại nhiều nước, sự cường điệu, quá khích và phân cực đã trở thành những công cụ chính trị. Bằng nhiều cách thức sử dụng sách lược chế nhạo, nghi ngờ và chỉ trích dai dẳng, người ta phủ nhận quyền hiện hữu hay quyền có quan điểm riêng của người khác. Sự thật và các giá trị nơi người khác bị bác bỏ, và kết quả là đời sống xã hội trở nên nghèo nàn và phải chịu đựng sự ngạo mạn của kẻ có quyền lực. Đời sống chính trị không còn liên quan tới những cuộc tranh luận lành mạnh về các kế hoạch dài hạn để cải thiện đời sống con người và thăng tiến thiện ích chung, mà chỉ liên quan tới những kỹ thuật tuyên truyền tinh vi chủ yếu nhằm làm mất uy tín những kẻ khác. Trong cuộc rình rập đấu đá qua lại này, sự tranh luận suy thoái thành một tình trạng thường xuyên bất hòa và xung đột.
  2. Ở giữa những cọ xát do xung đột lợi ích, trong đó chiến thắng hệ tại việc loại trừ các đối thủ của mình, làm sao ta có thể nâng tầm nhìn lên để nhận ra những người thân cận của mình, hay giúp đỡ những người gục ngã trên đường? Một kế hoạch xác lập các mục tiêu lớn lao nhằm phát triển toàn thể gia đình nhân loại ngày nay xem chừng nghe có vẻ là điên rồ. Chúng ta đang trở nên ngày càng xa cách nhau, trong khi những bước đi chậm chạp và khó khăn hướng về một thế giới công bằng và hiệp nhất hơn thì đang bị một cú dội ngược mới và thảm hại.
  3. Chăm sóc thế giới mà ta sống trong đó có nghĩa là chúng ta chăm sóc chính mình. Nhưng chúng ta cần nghĩ nhiều hơn nữa về chính chúng ta như một gia đình duy nhất sống trong một mái nhà chung. Sự chăm sóc như thế không phải là mối quan tâm của những thế lực kinh tế muốn đòi những món lợi nhanh chóng. Những tiếng nói cất lên bảo vệ môi trường thường bị dập tắt hay chế nhạo, trong đó người ta dùng những lập luận nghe có vẻ hợp lý song đó chỉ là một cách che đậy các đặc quyền đặc lợi. Trong nền văn hóa nông cạn và thiển cận mà chúng ta đã tạo ra, thiếu một tầm nhìn chung, “thì có thể đoán trước rằng đến khi một số tài nguyên nào đó cạn kiệt, những cuộc chiến tranh mới sẽ nổ ra, dù che đậy bằng những danh nghĩa cao quí nào đó”. (12)
Một thế giới “vứt bỏ”
  1. Dường như một số thành phần trong gia đình nhân loại của chúng ta có thể bị hy sinh bất cứ lúc nào vì ích lợi của những người khác vốn được xem là có quyền sống một cách vô tư. Cuối cùng, “nhân vị không còn được xem là một giá trị cao nhất phải được quan tâm và kính trọng, nhất là khi người ta nghèo khổ và tàn tật, ‘chưa có ích’ – như các thai nhi, hay ‘không còn cần đến nữa’ – như những người già. Chúng ta ngày càng thản nhiên với mọi thứ hoang phí, trước hết là sự hoang phí thực phẩm, điều hết sức tồi tệ”. (13)
  2. Sự suy giảm trong tỉ lệ sinh sản, dẫn tới tình trạng dân số già nua, cùng với sự hất hủi người già khiến họ sống cô độc và buồn thảm, đó là một cách khéo léo để tuyên bố rằng chỉ chúng ta mới quan trọng, rằng những bận tâm cá nhân của chúng ta mới là điều duy nhất đáng kể. Theo cách này, “cái bị vứt bỏ không chỉ là thực phẩm và những đồ vật dư thừa, mà thường là chính những con người nữa”. (14) Chúng ta đã thấy những gì xảy ra với các cụ già tại một số nơi trên thế giới do hậu quả của vi-rút corona. Họ đã không phải chết cách đó. Nhưng một cái gì đó tương tự đã xảy ra từ lâu rồi trong những đợt nóng bức và trong những tình cảnh khác nữa: các cụ già thấy mình bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn. Chúng ta không nhận ra rằng khi cô lập người già và bỏ mặc họ cho sự săn sóc của những người dưng, không có sự thân thiết và quan tâm của người thân trong gia đình, thì đó là chúng ta đang làm méo mó và làm nghèo nàn chính gia đình. Chúng ta cũng đang tước mất của những người trẻ một sự nối kết cần thiết với các gốc rễ của họ, và tước mất một sự khôn ngoan mà người trẻ không thể tự mình đạt được.
  3. Cách loại bỏ người khác cũng có nhiều dạng, như khi người ta mải mê tìm cách giảm chi phí lao động, mà không quan tâm đến những hậu quả nghiêm trọng của điều đó, vì nạn thất nghiệp mà nó trực tiếp gây ra sẽ dẫn tới tình trạng nghèo túng tràn lan. (15) Ngoài ra, một sự sẵn sàng loại bỏ người khác được thể hiện nơi những thái độ độc ác mà chúng ta nghĩ rằng đã trôi qua lâu rồi, như chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, nhưng thật sự vẫn ngầm ẩn đâu đó chỉ để tiếp tục bùng lên. Những trường hợp phân biệt chủng tộc tiếp tục làm chúng ta xấu hổ, vì chúng cho thấy rằng cái gọi là sự tiến bộ xã hội của chúng ta thì không có thực hay không rõ ràng như chúng ta nghĩ.
  4. Một số qui luật kinh tế đã tỏ ra rất hữu hiệu cho sự phát triển, nhưng không phải cho sự phát triển con người toàn diện. (16) Của cải gia tăng, nhưng sự bất bình đẳng cũng gia tăng, dẫn đến “những hình thức mới của nghèo khổ”. (17) Quan điểm rằng thế giới hiện đại đã làm giảm đi cái nghèo là quan điểm dựa trên việc đo lường cái nghèo theo các tiêu chuẩn trong quá khứ, không còn tương ứng với các thực tế ngày nay nữa. Chẳng hạn, vào các thời trước, tình trạng không có điện năng không được xem là một dấu hiệu của cái nghèo, tình trạng ấy cũng không phải là một nguồn của sự khổ cực. Cái nghèo luôn luôn phải được hiểu và lượng định trong bối cảnh của những cơ hội thực tế có sẵn tại mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
Các quyền của con người không đủ phổ quát
  1. Trong thực tiễn, thường ta thấy rõ là các quyền con người không bình đẳng cho tất cả. Việc tôn trọng các quyền ấy “là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Khi phẩm giá của nhân vị được tôn trọng, và các quyền của người ta được bảo đảm, thì tính sáng tạo và tính phụ thuộc lẫn nhau sẽ triển nở, và khả năng sáng tạo của nhân cách con người sẽ phát tiết xuyên qua những hành động thúc đẩy thêm thiện ích chung”. (18) Thế nhưng, “khi nhìn kỹ các xã hội hiện thời của chúng ta, chúng ta thấy vô số những mâu thuẫn khiến ta tự hỏi phải chăng phẩm giá bình đẳng của mọi con người, vốn được long trọng tuyên bố cách đây bảy mươi năm, thực sự được nhìn nhận, được tôn trọng, bảo vệ và cổ võ trong mọi hoàn cảnh. Trong thế giới ngày nay, nhiều hình thức bất công vẫn còn dai dẳng, được nuôi dưỡng bởi những quan điểm nhân học phiến diện và bởi một mô hình kinh tế dựa trên lợi nhuận, do đó không ngần ngại bóc lột, vứt bỏ và ngay cả giết hại những con người. Trong khi một phần của nhân loại sống dư thừa xa xỉ, thì một phần khác thấy phẩm giá của mình bị phủ nhận, khinh rẻ hay chà đạp, và các quyền căn bản của mình bị vứt bỏ hay xâm phạm”. (19) Điều này nói gì với chúng ta về sự bình đẳng của các quyền cắm rễ sâu trong phẩm giá con người?
  2. Tương tự, việc tổ chức các xã hội trên khắp thế giới vẫn còn chưa phản ảnh bao nhiêu rằng phụ nữ có cùng phẩm giá và các quyền giống như nam giới. Chúng ta nói một đàng, nhưng các quyết định và thực tế của chúng ta lại đi một nẻo khác. Thật vậy, “có những người nghèo hai lần, đó là những phụ nữ phải chịu những hoàn cảnh bị loại trừ, bị ngược đãi và bạo hành, vì họ thường ít có khả năng bảo vệ các quyền của họ”. (20)
  3. Chúng ta cũng nên nhận ra rằng “ngay cả dù cộng đồng quốc tế đã có nhiều hiệp ước nhằm chấm dứt chế độ nô lệ trong mọi hình thức của nó, và đã đưa ra nhiều chiến lược khác nhau để đấu tranh với hiện tượng này, thì hàng triệu con người hôm nay – trẻ em, phụ nữ, nam giới, ở mọi lứa tuổi – vẫn đang bị tước mất tự do và bị cưỡng chế phải sống trong những điều kiện giống như nô lệ… Ngày nay, giống như trong quá khứ, chế độ nô lệ cắm rễ trong một quan niệm về nhân vị con người trong đó con người bị đối xử như một đồ vật… Bằng sự khống chế hay bằng lừa gạt, bằng sự đe dọa tâm lý hay thể lý, những nhân vị con người được sinh ra theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Ngài bị tước mất tự do, bị bán và bị coi như là tài sản của kẻ khác. Họ bị đối xử như phương tiện để phục vụ cho mục đích… [Các mạng lưới tội phạm] rất tinh quái trong việc sử dụng các phương tiện truyền thông như một cách dụ dỗ các chàng trai và các cô gái trẻ ở mọi miền trên thế giới”. (21) Một sự đồi bại vượt mọi giới hạn khi nó cưỡng bức phụ nữ và rồi buộc họ phá thai. Một sự ghê tởm đến mức bắt cóc người ta để bán nội tạng của họ. Nạn buôn người và những hình thức chiếm hữu nô lệ khác hiện nay là một vấn đề trên toàn thế giới cần phải được toàn thể nhân loại nghiêm túc lưu tâm: “vì các tổ chức tội phạm dùng những mạng lưới toàn cầu để đạt được các mục tiêu của chúng, các nỗ lực loại trừ hiện tượng này cũng đòi hỏi một cố gắng chung và thực sự có tính toàn cầu từ phía các bộ phận khác nhau của xã hội”. (22)
Xung đột và sợ hãi
  1. Chiến tranh, những cuộc tấn công khủng bố, sự bách hại tôn giáo và chủng tộc, và nhiều sự sỉ nhục khác đối với phẩm giá con người được đánh giá một cách khác nhau, tùy nó tỏ ra thuận lợi thế nào cho một số lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế. Điều được coi là đúng miễn là nó thuận lợi cho ai đó nắm quyền lực sẽ không còn đúng một khi nó trở nên bất lợi. Thật buồn để nói rằng những cảnh bạo lực này “đã trở thành quá phổ biến đến nỗi thực sự tạo nên một ‘thế chiến thứ ba’ từng phần”. (23)
  2. Điều nói trên không đáng ngạc nhiên, nếu chúng ta nhận ra rằng không còn những chân trời chung hợp nhất chúng ta nữa; thật vậy, nạn nhân thứ nhất của mọi cuộc chiến tranh là “tiếng gọi từ bên trong hướng đến tình huynh đệ của gia đình nhân loại”. Hậu quả là “mọi hoàn cảnh đe dọa sẽ gây mất sự tin tưởng và thúc đẩy người ta rút vào vùng an toàn của riêng mình”. (24) Thế giới chúng ta bị kẹt trong một mâu thuẫn kỳ lạ: chúng ta tin rằng mình có thể “bảo đảm ổn định và hòa bình xuyên qua một cảm thức an toàn giả tạo được nâng đỡ bởi một tâm thức sợ hãi và nghi ngờ”. (25)
  3. Thật nghịch lý, chúng ta có một số nỗi sợ truyền kiếp mà sự phát triển công nghệ đã không loại trừ được chúng; quả thật, những nỗi sợ ấy có thể ẩn nấp và lan tràn đằng sau các công nghệ mới. Ngày nay cũng vậy, bên ngoài những bức tường thành cổ là vực sâu, vùng đất bí ẩn, cảnh hoang vu. Bất cứ gì đến từ đó thì không thể tin tưởng được, vì nó bí ẩn, không quen, không phải là một phần của làng xã. Đó là vùng đất của “mọi rợ”, chúng ta phải chiến đấu chống lại họ để tự vệ bằng mọi giá. Thế là những bức tường mới được xây dựng lên để bảo vệ chính mình, thế giới bên ngoài ngừng tồn tại và chỉ còn thế giới “của tôi”, tới mức những người khác không còn được xem là những con người có phẩm giá bất khả nhượng, trở thành “chúng nó” mà thôi. Một lần nữa, chúng ta gặp “cơn cám dỗ xây dựng một nền văn hóa của những bức tường, xây tường lên khắp nơi, những bức tường trong trái tim, những bức tường trên mặt đất, để tránh gặp gỡ những nền văn hóa khác, những người khác. Và những người xây tường sẽ rốt cục trở thành nô lệ bên trong chính những bức tường mà họ đã xây lên. Họ trở thành những người không có chân trời, vì họ thiếu giao tiếp với người khác”. (26)
  4. Nỗi cô đơn, sợ hãi và bất an, được kinh nghiệm nơi những người cảm thấy mình bị bỏ rơi bởi hệ thống, sẽ tạo ra một mảnh đất màu mỡ cho đủ các loại “mafia”. Những thứ này sinh sôi bởi vì chúng tự coi là người bảo vệ cho những ai bị quên lãng, thường bằng cách cung cấp các hình thức hỗ trợ khác nhau, ngay cả trong khi chúng theo đuổi những lợi ích có tính tội phạm của mình. Cũng có tồn tại một khoa sư phạm đặc trưng “mafia”; bằng cách nại đến một thần bí cộng đồng giả tạo, nó tạo ra những mối ràng buộc lệ thuộc và trung thành mà người ta rất khó thoát ra.
TOÀN CẦU HÓA VÀ TIẾN BỘ MÀ KHÔNG CÓ MỘT HƯỚNG ĐI CHUNG
  1. Cùng với Đại giáo trưởng Ahmad Al-Tayyeb, chúng tôi không bỏ qua những bước tiến tích cực được thực hiện trong các lãnh vực khoa học, công nghệ, y tế, công nghiệp và phúc lợi, nhất là tại các quốc gia phát triển. Tuy nhiên, “chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng cùng với những tiến bộ ấn tượng này, thật là to lớn và có giá trị, vẫn có tồn tại một sự suy thoái đạo đức ảnh hưởng đến tương tác quốc tế, và một tình trạng suy yếu các giá trị tâm linh và trách nhiệm. Điều này góp phần gây ra một cảm giác chán nản, cô độc và thất vọng”. Chúng tôi nhận thấy “những bộc phát căng thẳng và tình trạng tăng cường vũ khí và đạn dược trong một bối cảnh toàn cầu bị thống trị bởi những bất trắc, vỡ mộng, nỗi sợ hãi tương lai, và bị kiểm soát bởi những lợi ích kinh tế hẹp hòi”. Chúng tôi cũng có thể chỉ ra “những khủng hoảng lớn về chính trị, những tình trạng bất công và sự thiếu quân bình trong phân phối các nguồn tài nguyên thiên nhiên… Đứng trước những khủng hoảng như thế – gây ra cái chết của hàng triệu trẻ em, bị suy dinh dưỡng do nghèo đói – có một sự thinh lặng không thể chấp nhận được trên bình diện quốc tế”. (27) Bức tranh toàn cảnh này, dù với những tiến bộ không thể chối cãi của nó, có vẻ không dẫn tới một tương lai nhân đạo hơn.
  2. Trong thế giới ngày nay, cảm thức thuộc về một gia đình nhân loại duy nhất đang mờ nhạt dần, và giấc mơ cùng làm việc với nhau mưu cầu công lý và hòa bình dường như là một lý tưởng đã lỗi thời. Thay vào đó, cái đang thống trị là một sự thờ ơ vô tâm lạnh lùng được toàn cầu hóa, phát sinh từ sự vỡ mộng sâu xa ẩn đằng sau một ảo tưởng có tính đánh lừa: ý nghĩ rằng chúng ta toàn năng, trong khi không nhận ra rằng tất cả chúng ta đều ở trên cùng một con thuyền. Ảo tưởng này, không chút ý thức về các giá trị lớn lao của tình huynh đệ, dẫn tới “một loại chủ trương yếm thế. Bởi đó là cám dỗ chúng ta sẽ gặp nếu đi theo con đường vỡ mộng và thất vọng… Tình trạng cô lập và sự rút vào trong những lợi ích riêng mình không bao giờ là con đường phục hồi niềm hy vọng và đem lại sự đổi mới. Đúng hơn, phải là sự gần gũi; phải là nền văn hóa gặp gỡ. Hãy nói ‘không’ với cô lập, và nói ‘vâng’ với gần gũi! Hãy nói ‘không’ với văn hóa đối đầu, và hãy nói ‘vâng’ với văn hóa gặp gỡ”. (28)
  3. Trong thế giới đang lao gấp về phía trước này, nhưng lại thiếu một định hướng chung, chúng ta ngày càng cảm thấy rằng “khoảng cách giữa mối bận tâm về sự sung túc riêng mình và sự sung túc của gia đình nhân loại rộng lớn hơn dường như là một khoảng cách đang giãn ra tới mức phân hóa hoàn toàn giữa các cá nhân và cộng đồng nhân loại… Việc cảm thấy buộc lòng phải sống với nhau là một chuyện, nhưng việc trân trọng sự phong phú và vẻ đẹp nơi những hạt giống của đời sống chung cần được tìm kiếm và chăm sóc, thì đó lại là một chuyện hoàn toàn khác”. (29) Công nghệ thì thường xuyên tiến bộ, nhưng “sẽ tuyệt vời biết bao nếu sự phát triển của việc đổi mới khoa học và công nghệ có thể song hành với việc có sự bình đẳng và sự bao gồm xã hội nhiều hơn. Tuyệt vời biết bao, nếu trong khi chúng ta khám phá những hành tinh rất xa xăm, thì chúng ta cũng khám phá lại các nhu cầu của những người anh em chị em đang đi xung quanh mình”. (30)
NHỮNG ĐẠI DỊCH VÀ NHỮNG TAI ƯƠNG KHÁC TRONG LỊCH SỬ
  1. Quả là một bi kịch toàn thế giới như cơn đại dịch Covid-19 đã tức thời khơi lại cảm thức rằng chúng ta là một cộng đồng toàn cầu, tất cả ở trên cùng một con thuyền, trong đó những vấn đề của một người là những vấn đề của tất cả. Một lần nữa, chúng ta nhận ra rằng không ai được cứu một mình; chúng ta chỉ có thể được cứu cùng với nhau. Như tôi đã nói trong những ngày đó: “Cơn bão đã phơi bày sự mong manh của chúng ta, và cho thấy những sự an ổn hời hợt và giả tạo mà chúng ta đã dựa vào đó để thiết lập thời biểu hằng ngày của mình, thiết lập những kế hoạch, những thói quen và những mối ưu tiên của mình… Ở giữa cơn bão này, bộ mặt của những khuôn mẫu mà chúng ta dùng để che đậy cái tôi của mình – bởi ta luôn lo lắng về những dáng vẻ bên ngoài – bộ mặt ấy đã rơi đi, và một lần nữa cho thấy cái ý thức hiển nhiên và chân thực rằng chúng ta là một phần của nhau, chúng ta là anh em chị em của nhau”. (31)
  2. Thế giới đã ngang nhiên tiến tới một nền kinh tế tìm cách giảm “các chi phí con người”, nhờ vào những tiến bộ công nghệ; có những người muốn thuyết phục chúng ta tin rằng sự tự do của thị trường là đủ để giữ mọi sự được yên ổn. Nhưng cú tát dữ dội bất ngờ của cơn đại dịch bất kham này đã buộc chúng ta phải phục hồi lại mối quan tâm dành cho con người, cho mọi người, thay vì cho lợi ích của một ít người. Ngày nay chúng ta có thể nhận ra rằng “chúng ta đã nuôi mình bằng những giấc mơ huy hoàng vĩ đại, để kết cuộc là hứng lấy sự phiền trí, sự đóng kín và cô độc. Chúng ta mải mê tạo các mối quan hệ, và đánh mất cảm giác về tình huynh đệ. Chúng ta tìm kiếm những kết quả nhanh chóng và chắc chắn, chỉ để tìm thấy chính mình ngập chìm trong sự nóng nảy và lo âu. Là những tù nhân của một thực tế ảo, chúng ta đánh mất hương vị của những gì thực sự là hiện thực”. (32) Cơn đại dịch đem lại nỗi đau đớn, bất an và sợ hãi, và giúp ta nhận ra những giới hạn của chính mình, điều này càng cho thấy ta phải khẩn thiết suy nghĩ lại về lối sống của mình, về các mối tương quan của chúng ta, về sự tổ chức các xã hội của chúng ta, và nhất là về ý nghĩa cuộc sống của chúng ta.
  3. Nếu mọi sự nối kết nhau, thì thật khó tưởng tượng rằng tai họa toàn cầu này không dính dáng gì đến cách chúng ta tiếp cận thực tại, cũng như việc ta tự coi mình là chủ nhân tuyệt đối của cuộc sống mình và của tất cả những gì hiện hữu. Tôi không muốn nói về sự trừng phạt của Thiên Chúa, cũng sẽ bất cập nếu nói rằng việc chúng ta phá hại thiên nhiên thì tự nó là hình phạt cho những xúc phạm của chúng ta. Chính thế giới đang kêu gào phản loạn. Chúng ta được nhắc nhớ câu thơ nổi tiếng của Virgil về “nước mắt của mọi vật”, về những mối họa của đời sống và của lịch sử. (33)
  4. Tuy nhiên, thật nhanh chóng, chúng ta quên những bài học của lịch sử là “vị thầy dạy sống”. (34) Một khi cơn khủng hoảng lành mạnh này trôi qua, câu trả lời tệ nhất của chúng ta sẽ là cắm đầu sâu hơn nữa vào thói hăm hở tiêu thụ và những hình thức mới của bản năng tự tồn nhuốm màu ích kỷ. Hy vọng rằng sau tất cả những điều này, chúng ta sẽ không còn nghĩ về “họ” hay “chúng nó”, nhưng chỉ nghĩ về “chúng ta”. Ước gì đây không chỉ là thêm một bi kịch nữa trong lịch sử mà chúng ta không rút ra được bài học gì từ nó. Ước gì chúng ta không quên tất cả những cụ già đã phải chết do thiếu máy trợ thở, phần nào đó là hậu quả của sự phân rã các hệ thống y tế từ năm này qua năm khác. Ước gì nỗi buồn đau này không trở thành vô ích, nhưng có thể giúp chúng ta bước tới một phong cách sống mới. Ước gì chúng ta có thể khám phá lại một cách rõ ràng dứt khoát rằng chúng ta cần nhau, và rằng bằng cách này gia đình nhân loại của chúng ta có thể kinh nghiệm một cuộc tái sinh, với tất cả các khuôn mặt của nó, với tất cả những bàn tay và những tiếng nói của nó, bên kia những bức tường mà chúng ta đã dựng lên.
  5. Nếu chúng ta không phục hồi niềm say mê cùng nhau kiến tạo một cộng đồng với cảm thức thuộc về và liên đới với nhau, xứng đáng với thời gian, năng lực và các nguồn tài nguyên của mình, thì cái ảo tưởng toàn cầu từng dẫn chúng ta đi lạc sẽ sụp đổ và đặt nhiều người vào gọng kìm của khổ sở và trống rỗng. Chúng ta cũng sẽ không ngây thơ phủ nhận sự thật rằng “việc đắm chìm trong một lối sống hưởng thụ, nhất là khi chỉ một ít người có khả năng đạt được nó, chỉ có thể dẫn tới bạo lực và sự hủy diệt lẫn nhau”. (35) Quan niệm “phần ai nấy lo” sẽ nhanh chóng dẫn tới một tình trạng hỗn loạn còn tệ hại hơn bất cứ cơn đại dịch nào.
KHÔNG THẤY NHÂN PHẨM Ở CÁC VÙNG BIÊN GIỚI
  1. Một số chế độ chính trị dân túy, cũng như một số đường lối kinh tế tự do, chủ trương rằng bằng mọi giá phải ngăn chặn tình trạng tràn ngập di dân. Người ta cũng đưa ra các luận điểm biện minh cho việc giới hạn sự trợ giúp các nước nghèo, rằng để các nước ấy rơi xuống tận đáy và nhận ra rằng họ phải thắt lưng buộc bụng. Người ta không nhận thức được rằng đằng sau những tuyên bố như thế, vốn rất trừu tượng và khó chấp nhận, có vô số mảnh đời đang lâm nguy. Nhiều di dân đã chạy trốn tránh chiến tranh, bách hại, và thiên tai. Những người khác, quả thật, “đang tìm kiếm các cơ hội cho bản thân và gia đình mình. Họ mơ ước một tương lai tốt đẹp hơn và họ muốn tạo ra các điều kiện để đạt được tương lai ấy”. (36)
  2. Buồn thay, một số người “bị lôi cuốn bởi nền văn hóa phương Tây, đôi khi với các kỳ vọng không thực tế để rồi phải hứng thất vọng ê chề. Những kẻ buôn lậu bất lương thường liên kết với các tập đoàn ma túy hay vũ khí để khai thác điểm yếu của những người di dân, là những người thường kinh nghiệm bạo lực, việc buôn bán phi pháp, sự lạm dụng tâm lý và thể lý, và vô vàn nỗi khổ trên hành trình của họ”. (37) Những người ra đi thì “kinh nghiệm sự tách rời khỏi nguyên quán của mình, cũng như thường kinh nghiệm một sự bật rễ về tôn giáo và văn hóa. Tình trạng phân rã cũng được cảm nhận bởi những cộng đồng mà họ bỏ lại sau lưng – những cộng đồng ấy đánh mất các phần tử năng động và trổi trang nhất của mình – cũng như được cảm nhận bởi các gia đình, nhất là khi một hay cả hai cha mẹ di cư, để con cái lại ở quê nhà”. (38) Vì thế, “cũng cần phải khẳng định lại quyền không di cư, nghĩa là người ta có quyền ở lại quê hương của họ”. (39)
  3. Thêm nữa, “tại một số nước chủ nhà, hiện tượng di dân gây ra sự sợ hãi và cảnh giác, thường được kích động và khai thác để phục vụ những mục tiêu chính trị. Điều này có thể dẫn tới một não trạng bài ngoại, trong đó người ta đóng kín nơi chính mình, cần phải giải quyết dứt khoát não trạng như thế”. (40) Những người di dân không được xem là có quyền tham gia vào đời sống xã hội như những người khác, và người ta quên rằng người di dân có cùng phẩm giá thâm sâu như bất cứ ai. Vì thế họ phải là “những tác nhân trong công cuộc cứu chuộc của chính mình”. (41) Không ai dám công khai bảo rằng họ không phải là những con người, nhưng trong thực tế, qua những quyết định và cách thức chúng ta đối xử với họ, chúng ta có thể cho thấy rằng chúng ta xem họ như ít có giá trị, ít quan trọng, ít là người hơn. Đối với các Kitô hữu, lối suy nghĩ và hành động này không thể chấp nhận được, vì nó đặt một số quan tâm chính trị lên trên những xác tín sâu xa của đức tin chúng ta: phẩm giá bất khả nhượng của mỗi nhân vị bất kể nguồn gốc, chủng tộc hay tôn giáo, cùng với luật tối thượng là tình yêu huynh đệ.
  4. “Hiện tượng di dân, hơn bất cứ thời nào trước đây, sẽ đóng một vai trò then chốt trong tương lai của thế giới chúng ta”. (42) Tuy nhiên, hiện nay việc di dân bị ảnh hưởng bởi “tình trạng mất cảm thức trách nhiệm đối với anh chị em mình, cảm thức mà mọi xã hội dân sự đặt nền trên đó”. (43) Âu Châu, chẳng hạn, đang có nhiều nguy cơ trôi theo nẻo đường này. Dù sao, “được trợ giúp bởi di sản tôn giáo và văn hóa lớn lao của mình, lục địa này có phương tiện để bảo vệ tính trung tâm của nhân vị và để tìm ra sự cân bằng đúng đắn giữa trách nhiệm luân lý lưỡng diện của mình, đó là vừa bảo vệ quyền lợi của các công dân vừa bảo đảm sự trợ giúp và đón nhận những người nhập cư”. (44)
  5. Tôi nhận thấy một số người lưỡng lự và lo sợ trước những người nhập cư. Tôi xem đây là một phần của bản năng tự vệ tự nhiên của chúng ta. Tuy nhiên, cũng hiển nhiên rằng một cá nhân và một dân tộc chỉ triển nở và phong phú khi có thể phát triển một thái độ cởi mở đầy sáng tạo đối với người khác. Tôi xin mọi người vượt qua những cách phản ứng quá sơ khai nói trên, vì “sẽ là vấn đề khi những nghi ngờ và sợ hãi dẫn dắt cách nghĩ và cách hành động của chúng ta, tới mức làm cho chúng ta trở thành bất bao dung, đóng kín và có lẽ ngay cả kỳ thị chủng tộc mà không hề ý thức. Theo cách này, sự sợ hãi tước khỏi chúng ta khát vọng và khả năng gặp gỡ người khác”. (45)
ẢO TƯỞNG CỦA TRUYỀN THÔNG
  1. Thật kỳ quặc, trong khi những thái độ đóng kín và bất bao dung đối với người khác đang trên đà gia tăng, thì những khoảng cách đang thu lại hay biến mất, tới mức quyền riêng tư dường như không còn tồn tại. Mọi sự đã trở thành một thứ sân khấu cho người ta khảo sát và do thám, và cuộc sống con người giờ đây thường xuyên bị giám sát. Truyền thông kỹ thuật số muốn đưa tất cả ra công khai; cuộc sống của người ta bị săm soi, bị phơi trần và kháo láo, thường là một cách vô danh. Sự tôn trọng người khác bị tan vỡ, và trong khi chúng ta loại trừ, thờ ơ hay giữ khoảng cách với người khác, thì chúng ta lại có thể trơ tráo lùng sục vào mọi chi tiết trong cuộc sống của họ.
  2. Những chiến dịch trên mạng có tính thù hận và hủy diệt, về phần chúng, không phải là một hình thức tích cực của sự tương trợ – như một số người muốn làm cho chúng ta tin như thế – song đó chỉ là một khối liên kết các cá nhân để chống lại một ai đó được cho là kẻ thù chung. “Truyền thông kỹ thuật số cũng có thể đặt người ta trước nguy cơ nghiện ngập, cô lập và dần dần đánh mất sự tiếp xúc với thực tế cụ thể, chặn đứng sự phát triển các mối tương quan liên vị đích thực”. (46) Chúng không có những cử chỉ thân thể, những diễn tả trên nét mặt, những khoảnh khắc thinh lặng, ngôn ngữ thân xác và thậm chí không có mùi hương, không có cái run rẩy của đôi bàn tay, sự đỏ mặt hay toát mồ hôi, là những điều có thể nói với chúng ta và là một phần của truyền thông con người. Những mối tương quan trên mạng, vốn không đòi hỏi sự vun xới dần dần tình thân hữu, sự tương tác ổn định hay việc xây dựng một sự đồng tâm nhất trí chín muồi qua thời gian, chúng có dáng vẻ của sự hòa đồng. Nhưng chúng không thực sự làm nên cộng đồng; thay vào đó, chúng có khuynh hướng che đậy và bành trướng cái chủ nghĩa cá nhân được biểu hiện nơi sự bài ngoại và sự coi thường những người yếu đuối. Sự nối kết trên mạng không đủ để xây dựng những nhịp cầu. Nó không có khả năng hợp nhất nhân loại.
Sự hung hăng trơ trẽn
  1. Dù các cá nhân giữ tình trạng cô lập có tính hưởng thụ và thoải mái của mình, họ có thể chọn một dạng gắn kết sốt sắng và thường xuyên, trong đó họ rõ ràng cổ vũ thái độ thù địch, những lăng mạ, lạm dụng, phỉ báng, và ngôn ngữ bạo lực có sức hủy diệt người khác – và những điều này được thể hiện một cách thiếu kiềm chế, theo cách không thể tồn tại trong thế giới thực mà không xé nát vụn chúng ta. Sự gây hấn xã hội đã tìm thấy chỗ ‘tốt nhất’ của nó để lan tỏa xuyên qua các máy tính và các thiết bị di động.
  2. Hiện nay tình hình này đã thả phanh cho các ý thức hệ. Có những điều mà cho tới ít năm cách đây thôi không ai có thể nói mà không có nguy cơ đánh mất sự tôn trọng của mọi người, thì nay người ta có thể nói mà không hề hấn gì, và nói thẳng tuột, ngay cả bởi một số chính khách tên tuổi. Chúng ta cũng đừng quên rằng “có những lợi nhuận khổng lồ vận hành trong thế giới kỹ thuật số, nó có thể có những hình thức kiểm soát vừa rất tinh vi vừa rất lan tràn, tạo ra cơ chế cho sự dẫn dụ lương tâm người ta và sự lừa mị tiến trình dân chủ. Cách thế mà nhiều diễn đàn làm việc thường dẫn đến chỗ ủng hộ sự gặp gỡ giữa những người có suy nghĩ giống nhau, tránh cho họ khỏi bị tranh cãi. Những nhóm đóng kín này dễ tạo điều kiện cho sự lan truyền tin giả và thông tin không đúng, kích động thành kiến và đố kỵ”. (47)
  3. Chúng ta cũng cần nhận ra rằng những hình thức cực đoan đầy sức tàn phá đôi khi được tìm thấy giữa các tín đồ của các tôn giáo, kể cả các Kitô hữu; họ cũng “có thể bị cuốn vào mạng lưới ngôn ngữ bạo lực trên mạng internet và những diễn đàn khác nhau của truyền thông kỹ thuật số. Ngay cả trong truyền thông Công giáo, có thể người ta cũng bỏ qua các giới hạn, việc bôi nhọ và vu khống có thể trở nên phổ biến, và người ta có thể vứt bỏ mọi tiêu chuẩn đạo đức và sự tôn trọng thanh danh của người khác”. (48) Làm sao điều này có thể đóng góp vào tình huynh đệ mà Cha trên trời kêu gọi chúng ta?
Thông tin mà không có sự khôn ngoan
  1. Sự khôn ngoan đích thực đòi hỏi phải gặp gỡ thực tại. Tuy nhiên, ngày nay mọi sự có thể được tạo ra, ngụy trang và thay thế. Vì thế, một sự gặp gỡ trực tiếp với chỉ men bờ của thực tại cũng có thể được thấy là quá sức chịu đựng. Bấy giờ một thứ nguyên tắc chọn lựa sẽ nhập cuộc, theo đó tôi có thể ngay lập tức phân ra hai loại: thích và không thích; tức những gì tôi thấy hấp dẫn và những gì tôi thấy ngán ngẩm. Tương tự, chúng ta có thể chọn những người mà mình muốn chia sẻ thế giới của mình với họ. Còn những người hay những tình huống mà ta thấy không thích thú hay không hợp ý thì đương nhiên bị xóa trong mạng lưới ảo hôm nay; như vậy một nhóm ảo được tạo ra, cô lập chúng ta khỏi thế giới thực mà mình sống trong đó.
  2. Khả năng ngồi xuống và lắng nghe người khác, đặc trưng của những gặp gỡ liên vị, là kiểu thức của thái độ nồng nhiệt nơi những người vượt qua xu hướng ái kỷ và đón nhận người khác, quan tâm đến họ và đón nhận họ vào cuộc sống mình. Nhưng “thế giới ngày nay nhìn chung là một thế giới điếc… Nhiều khi, nhịp sống hối hả của thế giới hiện đại không cho phép chúng ta chú ý lắng nghe những gì mà người khác nói. Mới nghe nửa chừng, chúng ta ngắt lời người ấy và muốn cãi lại điều mà người ấy thậm chí chưa nói xong. Chúng ta không được đánh mất khả năng lắng nghe”. Thánh Phanxicô “nghe tiếng nói của Thiên Chúa, ngài nghe tiếng nói của người nghèo, tiếng nói của người đau yếu, và tiếng nói của thiên nhiên. Ngài lấy tất cả làm con đường sống. Tôi mong ước hạt giống mà Thánh Phanxicô đã gieo trồng có thể lớn lên trong trái tim của nhiều người”. (49)
  3. Khi sự thinh lặng và sự chú ý lắng nghe biến mất, bị thay thế bằng đủ thứ tin nhắn, thì cấu trúc căn bản này trong sự truyền thông của con người khôn ngoan bị lâm nguy. Một lối sống mới nổi lên, trong đó chúng ta tạo ra chỉ những gì chúng ta muốn, và loại bỏ tất cả những gì chúng ta không thể kiểm soát hay không thể biết được cách hời hợt và ngay tức thì. Tiến trình này, do lô-gic nội tại của nó, chặn đứng loại suy tư thanh thản có thể dẫn chúng ta đến một sự khôn ngoan chung.
  4. Cùng với nhau, chúng ta có thể tìm kiếm sự thật trong đối thoại, trong trao đổi nhẹ nhàng hay trong tranh luận sôi nổi. Để làm thế, cần kiên nhẫn; nó gắn liền với những khoảnh khắc thinh lặng và đau khổ, nhưng nó có thể nhẫn nại đón nhận kinh nghiệm lớn hơn của các cá nhân và các dân tộc. Cơn lũ thông tin ở các đầu ngón tay chúng ta không đem lại nhiều khôn ngoan hơn. Sự khôn ngoan không sinh ra từ những tra cứu nhanh trên internet, nó cũng không phải là một mớ dữ liệu không được xác thực. Đó không phải là cách để trưởng thành trong gặp gỡ sự thật. Những cuộc trò chuyện chỉ xoay quanh các dữ kiện mới nhất; chúng trở thành duy chỉ một chiều ngang và được chất đống. Chúng ta không tập trung được sự chú ý của mình, để thâm nhập vào cốt lõi của sự vật, và để nhận ra cái gì là thiết yếu trao ban ý nghĩa cho đời sống chúng ta. Như thế tự do trở thành một ảo tưởng mà chúng ta được nhồi nhét cho, nó dễ bị lẫn lộn với khả năng lướt mạng internet. Tiến trình xây dựng tình huynh đệ, ở cấp địa phương hay phổ quát, chỉ có thể được đảm nhận bởi những tinh thần thực sự tự do và mở ra cho những sự gặp gỡ chân thực.
NHỮNG HÌNH THỨC PHỤC TÙNG VÀ TỰ COI THƯỜNG MÌNH
  1. Một số quốc gia sung túc về kinh tế thường được biểu dương như những hình mẫu văn hóa cho các nước kém phát triển hơn; thay vào đó, mỗi quốc gia nên được giúp đỡ để phát triển theo cách thức riêng của mình, và phát triển khả năng đổi mới của mình trong khi tôn trọng các giá trị văn hóa của riêng mình. Một ao ước nông cạn và ngớ ngẩn muốn bắt chước kẻ khác sẽ dẫn người ta tới chỗ sao chép và tiêu thụ thay vì sáng tạo, và sẽ củng cố mặc cảm tự ti dân tộc. Tại những khu nhà giàu của nhiều nước nghèo, và đôi khi nơi những người vừa mới thoát lên khỏi cảnh nghèo, có một sự đề kháng đối với những cách nghĩ và cách làm của bản xứ, và một khuynh hướng coi thường căn tính văn hóa của chính mình, như thể đó là nguyên nhân duy nhất của mọi sự yếu kém.
  2. Tiêu diệt lòng tự trọng là một cách dễ dàng để thống trị người khác. Đàng sau những xu hướng san phẳng thế giới của chúng ta có nổi lên những lợi ích của kẻ mạnh tìm cách lợi dụng thái độ tự ti như thế, trong khi cố dùng mạng lưới truyền thông để tạo ra một nền văn hóa mới nhằm phục vụ tầng lớp thượng lưu. Điều này chống đỡ cho chủ nghĩa cơ hội của các nhà đầu tư và các nhà khai thác tài chính, rốt cục người nghèo luôn luôn là những người chịu thiệt. Thêm nữa, việc coi thường văn hóa của dân chúng đã dẫn tới sự bất lực của nhiều chính khách lãnh đạo trong việc phác họa một kế hoạch phát triển hữu hiệu có thể được người ta tự do chấp nhận và ủng hộ lâu dài.
  3. Chúng ta quên rằng “không có hình thức tha hóa nào tệ hơn là cảm giác bị mất gốc, chẳng thuộc về gì cả. Một xứ sở sẽ phồn vinh, người dân ở đó sẽ thành đạt và kiến tạo được tương lai chỉ trong mức độ nó có thể thúc đẩy một cảm thức thuộc về giữa các thành viên của mình, tạo ra những mối gắn kết giữa các thế hệ và các cộng đồng khác nhau, và tránh tất cả những gì làm cho ta vô cảm với người khác và gây ra tha hóa nhiều hơn”. (50)
HY VỌNG
  1. Bất chấp những đám mây đen ấy, mà chúng ta không thể phớt lơ, trong những trang sau đây tôi muốn đề cập và thảo luận nhiều nẻo đường mới của niềm hy vọng. Vì Thiên Chúa không ngừng gieo vãi tràn lan những hạt giống tốt lành trong gia đình nhân loại chúng ta. Cơn đại dịch vừa qua giúp chúng ta một lần nữa nhận ra và trân trọng tất cả những con người xung quanh chúng ta đã đáp lại bằng cách sẵn sàng đặt mạng sống của mình lên tuyến đầu, ngay giữa nỗi sợ hãi. Chúng ta bắt đầu nhận ra rằng sự sống của chúng ta được đan kết với và được nâng đỡ bởi những con người bình thường dũng cảm làm nên những biến cố quyết định trong lịch sử chung của chúng ta: các bác sĩ, y tá, dược sĩ, các chủ cửa hàng và các nhân viên siêu thị, những nhân viên vệ sinh, những người chăm sóc, những công nhân ngành giao thông, những người nam và nữ làm việc để cung cấp các dịch vụ thiết yếu và an ninh công cộng, các tình nguyện viên, các linh mục và tu sĩ… Họ hiểu rằng không ai được cứu một mình. (51)
  2. Tôi mời gọi mọi người đến với niềm hy vọng mới mẻ, vì hy vọng “nói với chúng ta về một cái gì đó cắm rễ sâu trong mọi trái tim con người, dù hoàn cảnh và điều kiện lịch sử của chúng ta thế nào đi nữa. Hy vọng nói với chúng ta về một nỗi khát khao, một cảm hứng, một mong ước đời sống viên mãn, một khát vọng đạt được những điều cao cả, những điều lấp đầy con tim chúng ta và nâng tinh thần chúng ta lên những thực tại cao thượng như chân, thiện, mỹ, công lý, và tình yêu… Hy vọng là dũng cảm; nó có thể nhìn quá sự tiện lợi riêng mình, những sự an toàn và những phần thưởng vụn vặt vốn làm giới hạn chân trời của chúng ta, và nó có thể khai mở chúng ta tới những lý tưởng lớn lao làm cho đời sống đẹp hơn và đáng giá hơn”. (52) Vì thế, chúng ta hãy tiếp tục bước tới trên những nẻo đường hy vọng.
CHƯƠNG II
MỘT KHÁCH LẠ TRÊN ĐƯỜNG
  1. Không nên đọc chương trước như một mô tả lạnh lùng và tách rời khỏi những vấn đề ngày nay, vì “vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người thời nay, nhất là của những người nghèo và đau khổ, là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô. Không có gì thực sự là con người mà không gieo âm hưởng trong lòng các môn đệ Chúa”. (53) Trong cố gắng tìm kiếm một tia sáng giữa những gì mà chúng ta đang kinh nghiệm, và trước khi nêu ra một vài hướng hành động, giờ đây tôi muốn dành chương này cho một dụ ngôn được Chúa Giêsu kể cách đây hai ngàn năm. Mặc dù Thông điệp này được gửi cho mọi người thiện chí, bất kể những niềm xác tín tôn giáo của họ, dụ ngôn ở đây là một câu chuyện mà bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể liên hệ và nhận thấy mình bị thách đố.
Có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” Người đáp: “Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?”  Ông ấy thưa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.” Đức Giê-su bảo ông ta: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống.”
Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” Đức Giê-su đáp: “Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lê-vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. Nhưng một người Sa-ma-ri kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: ‘Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác.’ Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?” Người thông luật trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy.” Đức Giê-su bảo ông ta: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.”
Bối cảnh
  1. Dụ ngôn này liên quan tới một vấn đề từ thời xa xưa. Không lâu sau trình thuật về việc tạo dựng thế giới và con người, Thánh Kinh nói đến vấn đề các mối tương quan của con người. Cain giết em mình là Abel và rồi nghe Thiên Chúa nói: “Abel em ngươi đâu?” (St 4,9). Câu trả lời của anh ta là một câu trả lời mà chính chúng ta rất thường đưa ra: “Tôi là người giữ em tôi sao?” (ibid.). Với chính câu hỏi của Ngài, Thiên Chúa không dành chỗ nào cho một sự viện dẫn thuyết tiền định hay thuyết định mệnh như một biện minh cho thái độ thờ ơ của chúng ta. Thay vào đó, Ngài khuyến khích chúng ta tạo ra một nền văn hóa khác, trong đó chúng ta giải quyết những xung đột của mình và quan tâm chăm sóc nhau.
  2. Sách Gióp nhìn thấy nguồn gốc của chúng ta nơi Đấng Sáng tạo duy nhất là nền tảng của một số quyền phổ quát: “Đấng đã tạo ra tôi trong dạ mẹ không phải là Đấng tạo ra nó hay sao? Không phải cũng một Thiên Chúa đã tạo ra chúng tôi hết thảy sao?” (G 31,15). Nhiều thế kỷ sau, Thánh Irênê sẽ dùng hình ảnh một giai điệu để nói điều tương tự: “Người tìm kiếm chân lý không nên tập trung vào những khác biệt giữa nốt nhạc này với một nốt khác, như thể cho rằng mỗi nốt được tạo ra cách riêng biệt và tách rời khỏi những nốt khác; thay vào đó, người ấy nên nhận ra rằng chỉ một tác giả duy nhất đã soạn trọn vẹn giai điệu”. (54)
  3. Trong các truyền thống xa xưa của Do thái giáo, mệnh lệnh yêu thương và chăm sóc người khác có vẻ bị giới hạn nơi các mối tương quan giữa các thành viên của cùng một dân tộc. Điều răn cổ xưa dạy “hãy yêu người thân cận như chính mình” (Lv 19,18) thường được hiểu là qui chiếu đến đồng bào của mình, nhưng các vành đai dần dần được mở rộng ra, nhất là những nơi Do thái giáo phát triển bên ngoài lãnh thổ Israel. Chúng ta gặp lệnh truyền đừng làm cho người khác điều bạn không muốn họ làm cho bạn (x. Tb 4,15). Vào thế kỷ thứ nhất trước Chúa Kitô, Rabbi Hillel tuyên bố: “Đó là toàn bộ Lề Luật. Mọi điều khác chỉ là diễn giải”. (55) Khát vọng bắt chước chính đường lối hành động của Thiên Chúa dần dần thay thế cho khuynh hướng chỉ nghĩ về những người ở gần chúng ta: “Tình thương của con người dành cho người thân cận, nhưng tình thương của Đức Chúa thì dành cho mọi sinh linh” (Hc 18,13).
  4. Trong Tân Ước, nguyên tắc của Hillel được diễn tả theo hướng tích cực: “Trong mọi sự, hãy làm cho người khác những gì anh em muốn họ làm cho anh em; vì đó là Lề Luật và lời các ngôn sứ” (Mt 7,12). Lệnh truyền này có tầm phổ quát, bao trùm hết mọi người trong nhân loại chúng ta, vì Cha trên trời “cho mặt trời của Người mọc lên trên kẻ xấu cũng như người tốt” (Mt 5,45). Vì thế có lời hiệu triệu “hãy thương xót, như Cha anh em là Đấng đầy lòng xót thương” (Lc 6,36).
  5. Trong các bản văn cũ xưa nhất của Thánh Kinh, chúng ta tìm thấy một lý do tại sao tấm lòng chúng ta phải mở ra để ôm lấy người ngoại kiều. Nó rút ra từ ký ức sâu đậm của dân Do thái về sự kiện rằng chính họ đã từng là những ngoại kiều ở Ai Cập:
“Người ngoại kiều, các ngươi không được ngược đãi và áp bức, vì chính các ngươi đã là ngoại kiều bên Ai Cập” (Xh 22,20).
“Người ngoại kiều, các ngươi không được áp bức; chính các ngươi đã biết thân phận của người ngoại kiều, vì các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai Cập” (Xh 23,9).
“Khi có ngoại kiều cư ngụ với các ngươi trong xứ các ngươi, các ngươi đừng bức hiếp nó. Các ngươi phải đối xử với người ngoại kiều cư ngụ với các ngươi như với một người bản xứ, một người trong các ngươi; các ngươi phải yêu nó như chính mình, vì các ngươi đã từng là ngoại kiều tại đất Ai-cập” (Lv 19,33-34).
“Khi hái nho, thì anh em không được mót lại; những trái còn sót dành cho ngoại kiều và cô nhi quả phụ. Anh em hãy nhớ mình đã làm nô lệ bên đất Ai-cập” (Đnl 24,21-22).
Tiếng gọi tình yêu huynh đệ âm vang trong toàn bộ Tân Ước:
“Vì toàn bộ Lề Luật được tóm lại trong một điều răn duy nhất: ‘Ngươi hãy yêu tha nhân như chính mình’” (Gl 5,14).
“Ai yêu anh chị em mình thì ở trong ánh sáng, và nơi người ấy không có gì là cớ vấp phạm. Nhưng ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối” (1Ga 2,10-11).
“Chúng ta biết rằng chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương anh em. Kẻ không yêu thương, thì ở lại trong sự chết” (1Ga 3,14).
“Ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20).
  1. Nhưng tiếng gọi yêu thương có thể bị hiểu nhầm. Thánh Phaolô, nhận ra cái cám dỗ của các cộng đoàn Kitô hữu sơ khai, trong đó họ muốn hình thành những nhóm cô lập và đóng kín, ngài đã thúc đẩy các môn đệ của ngài yêu thương thắm thiết “đối với nhau và đối với mọi người” (1Tx 3,12). Trong cộng đoàn của Gioan, các anh em Kitô hữu phải được đón tiếp, “dù họ là những người xa lạ đối với anh” (3Ga 5). Trong bối cảnh này, chúng ta có thể hiểu rõ hơn ý nghĩa của dụ ngôn Người Samari Tốt Lành: tình yêu không đặt vấn đề người anh em hay chị em đang cần giúp đỡ kia đến từ nơi này hay nơi khác. Vì “tình yêu đập vỡ những sợi xích giữ chúng ta trong tình trạng cô lập và tách rời; thay vào đó, tình yêu xây dựng những cây cầu. Tình yêu giúp chúng ta tạo ra một gia đình lớn, ở đó tất cả chúng ta có thể cảm thấy như ở nhà… Tình yêu phát tiết ra lòng thương cảm và phẩm giá”. (56)
Bị bỏ bên đường
  1. Chúa Giêsu kể câu chuyện về một người bị bọn cướp tấn công và nằm bên vệ đường với đầy thương tích. Vài người đi qua chỗ anh ta, nhưng đã không dừng lại. Đây là những người ở những địa vị quan trọng trong xã hội, nhưng thiếu mối quan tâm thực sự đối với thiện ích chung. Họ không chấp nhận bỏ ra vài phút để ghé mắt đến con người bị thương kia, hay thậm chí để gọi người cứu giúp. Chỉ một người dừng lại, đến gần nạn nhân và đích thân chăm sóc, ngay cả bỏ tiền của mình ra để chi trả cho các nhu cầu của nạn nhân. Người này cũng dành cho nạn nhân một cái gì đó mà trong thế giới cuồng nhiệt hôm nay chúng ta luôn bám chặt: dành thời gian của mình cho nạn nhân! Chắc chắn là anh ta có những chương trình của mình cho ngày hôm ấy, những nhu cầu của anh, những bổn phận và những ước muốn. Nhưng anh đã có thể đặt tất cả qua một bên, khi đối diện với một người đang cần được giúp đỡ. Dù thậm chí không biết nạn nhân, anh đã nhận thấy rằng nạn nhân đáng được anh dành thời gian và sự quan tâm.
  2. Bạn nhận diện mình là ai trong những người đó? Câu hỏi này không chỉ thẳng thừng mà còn thật thấm thía. Bạn giống nhân vật nào trong đó? Chúng ta cần nhận ra rằng chúng ta thường xuyên bị cám dỗ thờ ơ với người khác, nhất là những người yếu nhược. Chúng ta hãy nhìn nhận rằng dù với tất cả những tiến bộ mà mình đạt được, chúng ta vẫn “dốt đặc” trong việc đồng hành, săn sóc và nâng đỡ những thành viên yếu ớt và mong manh nhất trong các xã hội phát triển của chúng ta. Chúng ta đã trở nên quen với việc tìm con đường khác, bỏ đi qua, phớt lơ những hoàn cảnh cho đến khi chúng ảnh hưởng trực tiếp đến mình.
  3. Một người nào đó bị tấn công trên đường phố của chúng ta, và nhiều người vội vã đi qua như thể họ không nhìn thấy. Có người lái ô tô đụng phải một người nào đó, rồi chạy luôn khỏi hiện trường. Mong muốn duy nhất của họ là tránh các vấn đề; họ không quan tâm sự việc rằng chính do lỗi của mình mà một người khác có thể chết. Tất cả những điều này là những dấu hiệu của một lối sống đang lan rộng ra bằng những cách tế nhị và đa dạng. Hơn nữa, do bận bịu với những nhu cầu của mình, việc nhìn thấy một người đang khốn khổ sẽ làm chúng ta cảm thấy bị quấy rầy. Nó làm ta thấy không dễ chịu, vì chúng ta không có thời giờ để phung phí cho những vấn đề của người khác. Đây là những triệu chứng của một xã hội bệnh hoạn. Một xã hội tìm kiếm sự phồn vinh nhưng quay lưng lại với đau khổ.
  4. Chúng ta đừng chìm sâu như thế! Hãy nhìn mẫu gương của Người Samari Tốt Lành. Dụ ngôn của Chúa Giêsu thúc đẩy chúng ta khám phá lại ơn gọi của mình trong tư cách là công dân của đất nước mình và của toàn thế giới, chúng ta là những nhà xây dựng một mối gắn kết xã hội mới. Sứ mạng này vẫn luôn mới mẻ, nhưng nó cắm rễ trong một luật nền tảng của hữu thể chúng ta: chúng ta được mời gọi định hướng xã hội theo đuổi thiện ích chung và – với mục đích này trong tâm trí – chúng ta kiên trì củng cố trật tự xã hội và chính trị, mạng lưới các mối liên hệ của nó, các mục tiêu nhân bản của nó. Với những hành động của mình, Người Samari Tốt Lành cho thấy rằng “hiện hữu của mỗi người và của mọi cá nhân được gắn chặt với hiện hữu của những người khác: đời sống không phải duy chỉ là thời gian trôi qua; đời sống là một thời gian cho những tương tác”. (57)
  5. Dụ ngôn này trình bày rất hay cái quyết định căn bản mà chúng ta cần phải có để xây dựng lại thế giới đầy thương tích của mình. Đứng trước quá nhiều đau đớn và thống khổ, con đường duy nhất của chúng ta là bắt chước Người Samari Tốt Lành. Bất cứ quyết định nào khác sẽ làm cho chúng ta hoặc trở thành một trong những kẻ cướp hoặc một trong những kẻ bỏ đi qua mà không thể hiện lòng thương cảm trước những đau khổ của nạn nhân bên đường. Dụ ngôn này cho ta thấy cách mà một cộng đoàn có thể được xây dựng lại bởi những con người nam cũng như nữ đồng hóa mình với sự yếu đuối của những người khác, khước từ việc xây dựng một xã hội có tính loại trừ, và thay vào đó, hành động như những người thân cận, nâng dậy và cấp cứu những người gục ngã, vì thiện ích chung. Đồng thời, dụ ngôn cảnh giác chúng ta về thái độ của những kẻ chỉ nghĩ về bản thân mình, và không gánh vác những trách nhiệm tất yếu trong đời sống.
  6. Dụ ngôn rõ ràng không sa đà trong thuyết pháp luân lý cách trừu tượng, sứ điệp của nó cũng không duy chỉ có tính xã hội và đạo đức. Nó nói với chúng ta về một khía cạnh thiết yếu và thường bị lãng quên của nhân tính chúng ta: chúng ta được tạo dựng cho một sự viên mãn vốn chỉ được tìm thấy trong tình yêu. Chúng ta không thể dửng dưng trước đau khổ; chúng ta không thể cho phép bất cứ ai đi qua cuộc đời như một kẻ bị loại trừ. Trái lại, chúng ta phải cảm thấy bức xúc, cảm thấy bị thách đố thoát lên khỏi sự cô lập dễ chịu của mình, và được thay đổi nhờ tiếp xúc với đau khổ của con người. Đó là ý nghĩa của phẩm giá.
Một câu chuyện không ngừng được kể lại
  1. Dụ ngôn này thật rõ ràng và thẳng thắn, nhưng nó cũng khơi dậy cuộc đấu tranh nội tâm mà mỗi người chúng ta kinh nghiệm khi chúng ta dần dần tiến tới hiểu biết chính mình xuyên qua những mối tương quan với anh chị em mình. Sớm hay muộn, tất cả chúng ta sẽ gặp gỡ một con người đang đau khổ. Ngày nay ngày càng có thêm nhiều người đau khổ. Cái quyết định đón nhận lấy hay loại trừ những người bị thương nằm bên đường có thể phục vụ như một tiêu chuẩn để đánh giá mọi dự án kinh tế, chính trị, xã hội và tôn giáo. Mỗi ngày chúng ta phải quyết định hoặc làm những Người Samari Tốt Lành hoặc làm những kẻ dửng dưng đi qua. Và nếu chúng ta mở rộng tầm nhìn đến lịch sử cuộc đời của chính chúng ta và của toàn thế giới, thì tất cả chúng ta đang hoặc đã từng giống như mỗi nhân vật trong dụ ngôn. Tất cả chúng ta có nơi mình một cái gì đó của nạn nhân bị thương tích, một cái gì đó của những tên cướp, một cái gì đó của những người bỏ đi qua, và một cái gì đó của Người Samari Tốt Lành.
  2. Thật ấn tượng về cách thay đổi của các nhân vật khác nhau trong câu chuyện, khi đối diện với cảnh thương tâm của con người khốn khổ bền đường. Những nét phân biệt giữa người Do thái và Samari, tư tế và nhà buôn, trở nên mờ nhòa chẳng nghĩa lý gì. Giờ đây chỉ có hai loại người: Những người quan tâm tới kẻ bị thương và những người bỏ đi qua; những người cúi xuống giúp đỡ và những người tìm đường khác mà bỏ đi. Ở đây, tất cả những nét phân biệt của chúng ta, những nhãn hiệu và mặt nạ đều rơi rụng: đây là khoảnh khắc của sự thật. Chúng ta có sẽ cúi xuống chạm vào và chữa lành những vết thương của người khác không? Chúng ta có sẽ cúi xuống và giúp người khác đứng dậy không? Đó là thách đố của ngày hôm nay, và chúng ta đừng sợ đối diện với nó. Trong những thời khắc khủng hoảng, các quyết định trở thành cấp bách. Có thể nói rằng, ở đây và bây giờ, bất cứ ai không phải hoặc là một tên cướp hay một người bỏ đi qua thì người đó sẽ hoặc là nạn nhân bị thương tích hoặc là người đang vác kẻ bị thương tích trên vai mình.
  3. Câu chuyện Người Samari Tốt Lành thường xuyên được lặp lại. Chúng ta có thể thấy điều này rõ ràng khi sức ì chính trị và xã hội đang biến nhiều phần của thế giới chúng ta thành một đường mòn hoang vắng, chính khi mà những tranh chấp nội địa cũng như quốc tế và việc cướp mất các cơ hội đang loại bỏ rất nhiều người bên lề chơ vơ bên đường. Trong dụ ngôn của Người, Chúa Giêsu không đề ra những khả năng thay thế; Người không hỏi cái gì rất có thể xảy ra nếu nạn nhân hoặc người cứu giúp nạn nhân không kiềm được cơn phẫn nộ hay cơn sôi sục muốn báo thù. Chúa Giêsu tin tưởng vào ‘tính bổn thiện’ của con người; với dụ ngôn này, Người khích lệ chúng ta kiên trì trong yêu thương, phục hồi phẩm giá cho người đau khổ và xây dựng một xã hội xứng đáng.
Các nhân vật của câu chuyện
  1. Dụ ngôn bắt đầu với những kẻ cướp. Chúa Giêsu chọn bắt đầu khi vụ cướp đã xảy ra, để chúng ta khỏi sa đà vào chính vụ việc tội ác đó, hay vào bọn cướp là những kẻ phạm tội. Đó là những điều chúng ta biết rõ. Chúng ta đã thấy ập tới trên thế giới mình những bóng tối của thờ ơ và bạo lực, để phục vụ cho những lợi ích ti tiện của quyền lực, lòng tham và sự chia rẽ. Câu hỏi có thể là: Phải chăng chúng ta sẽ bỏ nạn nhân và chạy đi để tránh bạo lực, hay chúng ta sẽ đuổi theo bọn cướp? Phải chăng nạn nhân đầy thương tích kia rốt cục là sự biện minh cho những chia rẽ không thể hòa giải của chúng ta, cho sự thờ ơ độc ác của chúng ta, cho những xung đột bên trong của chúng ta?
  2. Rồi dụ ngôn mời gọi chúng ta nhìn kỹ vào những kẻ bỏ đi qua. Cái lạnh lùng vô tư khiến họ đi qua phía bên kia đường – dù đáng trách hay không, dù bởi khinh người hay duy chỉ bởi đãng trí – thì điều ấy cũng làm cho ông tư tế và ông Lê-vi trở thành một phản ảnh đáng buồn của sự phân cách ngày càng tăng giữa chúng ta và thế giới xung quanh mình. Có nhiều cách để bỏ đi qua và giữ khoảng cách an toàn: chúng ta có thể rút lui vào bên trong mình, phớt lơ người khác, hoặc dửng dưng với thảm cảnh của họ. Hoặc người ta đơn giản nhìn đi nơi khác, như thấy nơi một số quốc gia, hay một số bộ phận của các quốc gia, trong đó người nghèo và tương lai của họ bị xem là không quan trọng, và người ta nhìn ra hướng khác, như thể một kế hoạch phát triển du nhập từ bên ngoài sẽ có thể giúp họ giải quyết. Đây là cách mà một số người biện minh cho sự thờ ơ của mình: những người nghèo mà tiếng kêu cứu có thể làm họ động lòng thì hoàn toàn không tồn tại. Người nghèo ở ngoài phạm vi quan tâm của họ.
  3. Một chi tiết nổi bật về những kẻ bỏ đi qua: họ là một tư tế và một thầy Lê-vi, những con người tôn giáo, tận tụy với việc thờ phượng Thiên Chúa. Chi tiết này không nên bị bỏ qua. Nó cho thấy rằng niềm tin vào Thiên Chúa và việc thờ phượng Thiên Chúa thì không đủ để nắm chắc rằng chúng ta đang thực sự sống theo cách mà Thiên Chúa vui lòng. Một tín hữu có thể không trung tín với tất cả những gì mà đức tin đòi hỏi mình, song vẫn nghĩ mình gần gũi Thiên Chúa và mình tốt hơn những người khác. Đàng khác, sự bảo đảm một thái độ cởi mở đích thực với Thiên Chúa là một cách thực hành đức tin giúp mở lòng chúng ta ra với anh chị em mình. Thánh Gioan Kim Khẩu diễn tả điều này cách sắc bén khi ngài thách đố các thính giả Kitô hữu của ngài: Anh chị em mong muốn tôn vinh thân mình Đấng Cứu Độ phải không? Vậy thì đừng khinh bỉ khi thân mình đó bị trần truồng. Đừng tôn vinh thân mình Chúa trong nhà thờ với các lớp áo lụa, trong khi bên ngoài kia thân mình Chúa bị trần truồng và buốt lạnh”. (58) Thật nghịch lý, những người tự nhận mình là người không tin nhiều khi có thể thi hành thánh ý Thiên Chúa tốt hơn các tín hữu.
  4. “Bọn cướp” thường tìm thấy những đồng minh bí mật nơi những người “bỏ đi qua và tìm đường khác”. Có một tác động qua lại nào đó giữa những kẻ thao túng và dối gạt xã hội, và những kẻ trong khi tự nhận mình là người phê bình khách quan và không thiên vị thì lại sống dựa vào hệ thống ấy và những ân lộc của nó. Có một tình trạng đạo đức giả rất đáng buồn khi sự dung túng tội ác, việc dùng các cơ chế để kiếm lợi ích cho cá nhân hay cho nhóm, và những sự dữ khác rõ ràng không thể loại trừ, được kèm theo bởi một thái độ phê bình không ngớt về mọi sự, gieo rắc thường xuyên những nghi ngờ mà hậu quả là gây mất lòng tin tưởng và hoang mang. Lời phàn nàn rằng “mọi sự đã gãy đổ” được trả lời bằng tuyên bố “không thể sửa chữa được đâu!”, hoặc “tôi có thể làm gì được chứ?” Điều này càng thúc đẩy thêm sự vỡ mộng và chán nản, và khó mà khích lệ một tinh thần liên đới và quảng đại. Việc nhận chìm dân chúng trong chán nản sẽ đóng lại một vòng tròn tai ác tận cùng: đó là đường hướng của chế độ độc tài vô hình của những lợi ích ẩn giấu đã đạt được quyền thống trị trên cả những nguồn lực lẫn khả năng suy nghĩ và bày tỏ quan điểm của người ta.
  5. Cuối cùng, chúng ta hãy nhìn nạn nhân bị thương tích kia. Có những lúc chúng ta cảm thấy mình giống như người ấy, bị đánh nhừ tử và bị bỏ bên đường. Chúng ta có thể cũng cảm thấy bất lực vì các cơ chế của chúng ta chẳng được quan tâm và thiếu nguồn lực, hay đơn giản chỉ phục vụ cho ích lợi của một ít người, bên trong và bên ngoài. Thật vậy, “xã hội toàn cầu hóa thường có một cách nhẹ nhàng để quay nhìn hướng khác. Viện cớ rằng mình đúng đắn về chính trị hay hợp thời về ý thức hệ, chúng ta nhìn những người đau khổ mà không chạm đến họ. Chúng ta xem truyền hình trực tiếp về họ, ngay cả nói về họ với những uyển ngữ và với vẻ cảm thông”. (59)
Bắt đầu lại
  1. Mỗi ngày đều trao cho ta cơ hội mới, khả năng mới. Chúng ta không nên chờ đợi mọi sự từ những người cai trị chúng ta, vì như vậy là ấu trĩ. Chúng ta có không gian mình cần để cùng đảm trách việc sáng tạo và thực hiện những tiến trình mới và những thay đổi. Chúng ta hãy tích cực góp phần vào việc đổi mới và chống đỡ các xã hội đầy xáo trộn của mình. Ngày nay chúng ta có một cơ hội lớn để thể hiện cảm thức tự nhiên của mình về tình huynh đệ, để làm những Người Samari Tốt Lành biết mang lấy nỗi đau và những vấn đề của người khác, thay vì kích động thêm oán hận. Giống như người lữ khách tình cờ trong dụ ngôn, chúng ta chỉ cần có một khát vọng đơn thuần là làm thành một dân tộc, một cộng đồng, miệt mài nỗ lực đón nhận và hội nhập mọi người, nâng dậy những ai gục ngã. Nhiều khi chúng ta thấy mình đầu hàng trước não trạng của những kẻ bạo lực, những kẻ tham lam mù quáng, những kẻ truyền bá sự nghi ngờ và dối trá. Những người khác có thể tiếp tục xem chính trị hay kinh tế như một sân khấu cho quyền lực của riêng họ tự tung tự tác. Về phần mình, chúng ta hãy thúc đẩy những điều tốt đẹp và sẵn sàng phục vụ cho những điều ấy.
  2. Chúng ta có thể bắt đầu từ dưới thấp, và lần lượt từng vụ việc, chúng ta hành động ở những cấp độ địa phương và cụ thể nhất, rồi mở rộng ra tới những tầm xa nhất của quốc gia mình và của thế giới, với cùng mối quan tâm và sự chăm sóc mà người Samari ấy đã thể hiện đối với mỗi vết thương của nạn nhân. Chúng ta hãy tìm những người khác và đón nhận thực tế của thế giới này, không sợ nỗi đau hay một cảm thức về tình trạng quá tệ, bởi vì ở đó chúng ta sẽ khám phá ra tất cả những điều tốt đẹp mà Thiên Chúa đã gieo vào trái tim con người. Những khó khăn dường như tràn ngập chính là các cơ hội để lớn lên, chứ không phải là lý do cho một sự thoái thác đầy u uất vốn chỉ có thể dẫn tới sự miễn cưỡng đầu hàng. Nhưng chúng ta đừng làm một mình, một cách cá nhân. Người Samari ấy đã khám phá ra một chủ quán để giúp chăm sóc nạn nhân; chúng ta cũng được mời gọi kết hợp lại như một gia đình, sẽ mạnh hơn là tổng số những cá thể nhỏ bé. Vì “toàn thể thì hơn từng phần, và cũng hơn tổng số các thành phần”. (60) Chúng ta hãy bỏ sự nhỏ nhen và oán hận của sự xung đột ngầm vô ích và sự đối đầu thường xuyên. Chúng ta hãy ngừng biện minh chính mình và nhìn nhận những tội ác của mình, sự lãnh đạm của mình, những dối trá của mình. Sửa sai và hòa giải sẽ trao cho chúng ta sự sống mới và giải thoát chúng ta khỏi sự sợ hãi.
  3. Người Samari dừng lại trên đường kia đã ra đi mà không kỳ vọng bất cứ sự truy nhận hay hàm ơn nào. Nỗ lực của anh để hỗ trợ một người khác đã trao cho anh sự vui thỏa lớn lao trong đời sống và trước mặt Thiên Chúa của anh, và vì thế nỗ lực ấy trở thành một nhiệm vụ. Tất cả chúng ta đều có trách nhiệm đối với những người bị thương tích, những người thuộc dân tộc mình và thuộc mọi dân tộc trên thế giới. Chúng ta hãy chăm sóc cho nhu cầu của mọi người, nam cũng như nữ, trẻ cũng như già, với cùng tinh thần huynh đệ và sự gần gũi như được thấy nơi Người Samari Tốt Lành ấy.
Người láng giềng không biên giới
  1. Chúa Giêsu kể dụ ngôn về Người Samari Tốt Lành để trả lời cho câu hỏi: Ai là người thân cận của tôi? Từ “thân cận” trong xã hội thời Chúa Giêsu thường có ý chỉ những người gần chúng ta nhất. Nghe có vẻ như sự giúp đỡ nên được trao chủ yếu cho những người thuộc nhóm và chủng tộc của mình. Đối với một số người Do thái thời ấy, người Samari bị coi thường, bị xem là ô uế. Họ không thuộc số những người đáng được giúp đỡ. Chúa Giêsu, cũng là một người Do thái, thay đổi hoàn toàn cách tiếp cận ấy. Người đề nghị chúng ta đừng ấn định xem người ta gần mình mức nào mới được gọi là thân cận, nhưng đúng hơn chính chúng ta phải trở thành thân cận với tất cả mọi người.
  2. Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta hiện diện với những ai cần sự giúp đỡ, bất kể họ có thuộc về nhóm xã hội của chúng ta hay không. Trong trường hợp này, người Samari ấy đã trở thành một người thân cận của người Do thái bị thương kia. Bằng cách đến gần và hiện diện, anh ta đã vượt qua tất cả các rào cản văn hóa và lịch sử. Chúa Giêsu đúc kết dụ ngôn bằng lời này: “Ông hãy đi và cũng làm như vậy” (Lc 10,37). Nói cách khác, Người thách đố chúng ta gạt những khác biệt qua một bên khi đứng trước đau khổ, để đến gần người khác mà không chần chừ nghĩ ngợi gì. Tôi không nên tiếp tục nói rằng mình có những người thân cận để giúp đỡ, nhưng tôi phải xem mình là một người thân cận của người khác.
  3. Vấn đề là Chúa Giêsu hữu ý nhấn vào chi tiết rằng nạn nhân bị thương là một người Do thái, trong khi người dừng lại để giúp nạn nhân là một người Samari. Chi tiết này rất có ý nghĩa cho suy tư của chúng ta về một tình yêu bao gồm hết mọi người. Người Samari sống trong một vùng mà ở đó người ta thực hành các nghi thức ngoại giáo. Đối với người Do thái, điều này làm cho dân Samari trở nên ô uế, đáng kinh tởm, và nguy hiểm. Thật vậy, một bản văn Do thái cổ nói về những dân bị gớm ghét đã đề cập đến Samari như “thậm chí chẳng phải là một dân” (Hc 50,25); bản văn ấy nói về “đám dân ngu xuẩn ở vùng Si-khem” (50,26).
  4. Điều này giải thích tại sao một phụ nữ Samari, khi được Chúa Giêsu xin nước uống, đã trả lời cộc lốc: “Ông là người Do thái mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?” (Ga 4,9). Sự lên án nặng nề nhất mà những người tìm cách hạ uy tín của Chúa Giêsu có thể đưa ra, đó là nói rằng Người “bị quỉ ám” và là “một người Samari” (Ga 8,48). Vì thế cuộc gặp gỡ của lòng thương xót này giữa một người Samari và một người Do thái thật là cảm kích; nó không chừa chỗ cho sự lôi kéo của ý thức hệ và nó thách đố chúng ta mở rộng các biên giới của mình ra. Nó trao một chiều kích phổ quát cho tiếng gọi yêu thương của chúng ta, một tình yêu vượt trên mọi định kiến, mọi rào cản lịch sử và văn hóa, mọi lợi ích nhỏ nhen.
Tiếng kêu van của người khách lạ
  1. Cuối cùng, tôi muốn ghi nhận rằng trong một bản văn khác của Tin Mừng, Chúa Giêsu nói: “Ta là khách lạ và các ngươi đã tiếp đón Ta” (Mt 25,35). Chúa Giêsu có thể nói lên những lời ấy vì Người có một trái tim rộng mở, nhạy cảm với những khó khăn của người khác. Thánh Phaolô khuyến dụ chúng ta “vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15). Khi trái tim của chúng ta làm như thế, nó có thể đồng hóa với người khác mà không thắc mắc họ sinh ở đâu hay đến từ đâu. Trong tiến trình này, chúng ta sẽ kinh nghiệm người khác như “cốt nhục” của chính mình (Is 58,7).
  2. Đối với các Kitô hữu, những lời của Chúa Giêsu thậm chí có một ý nghĩa sâu xa hơn. Những lời ấy thúc bách chúng ta nhận ra chính Đức Kitô nơi mỗi người anh chị em bị bỏ rơi hay bị loại trừ của mình (x. Mt 25,40.45). Đức tin có sức mạnh khôn tả để truyền cảm hứng và nâng đỡ lòng tôn trọng của chúng ta đối với người khác, vì các tín hữu nhận biết rằng Thiên Chúa yêu thương mọi người, nam cũng như nữ, với tình yêu vô hạn và “qua đó Người trao ban phẩm giá vô hạn” cho mọi người. (61) Cũng vậy, chúng ta tin rằng Chúa Kitô đã đổ máu ra cho mỗi chúng ta, và không ai ở ngoài tình yêu phổ quát của Người. Nếu chúng ta đi tới cội nguồn cuối cùng của tình yêu ấy, tức là chính sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta sẽ gặp trong cộng đoàn Ba-Ngôi-Vị Thần Linh nguồn gốc và kiểu mẫu hoàn hảo của mọi đời sống xã hội. Thần học tiếp tục được bồi đắp phong phú qua những suy tư về sự thật lớn lao này.
  3. Trong ánh sáng này, đôi khi tôi ngạc nhiên tại sao đã mất quá nhiều thời gian trước khi Giáo hội dứt khoát lên án chế độ nô lệ và các hình thức khác nhau của bạo lực. Ngày nay, với linh đạo và thần học đã phát triển của mình, chúng ta không có thể biện minh. Nhưng vẫn có những người có vẻ cảm thấy được khích lệ hay ít nhất được cho phép bởi đức tin của mình để ủng hộ chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và bạo lực thuộc nhiều dạng khác nhau, não trạng bài ngoại và trịch thượng, và ngay cả ngược đãi những người khác mình. Đức tin, và chủ nghĩa nhân bản dựa trên đức tin, phải giữ một cảm thức phê bình khi đứng trước những khuynh hướng này, và phải lên tiếng cảnh báo ngay bất cứ khi nào những khuynh hướng ấy ngóc đầu lên. Vì thế, thật quan trọng việc dạy giáo lý và giảng thuyết phải nói trực tiếp và rõ ràng hơn nữa về ý nghĩa xã hội của hiện hữu, về chiều kích huynh đệ của linh đạo, về niềm xác tín của chúng ta rằng mỗi con người có phẩm giá bất khả nhượng, và về các lý do chúng ta phải yêu thương và đón nhận tất cả các anh chị em mình.
CHƯƠNG III
HÌNH DUNG VÀ KIẾN TẠO MỘT THẾ GIỚI MỞ
  1. Con người được tạo dựng theo cách mà họ không thể sống, phát triển, và tìm thấy viên mãn trừ phi trở thành “món quà chân thành trao cho người khác”. (62) Con người cũng không thể hiểu biết đầy đủ chính mình nếu không gặp gỡ những người khác: “Tôi liên lạc tốt đẹp với chính mình chỉ trong mức độ tôi liên lạc với người khác”. (63) Không ai có thể kinh nghiệm vẻ đẹp thực sự của đời sống nếu không liên hệ với người khác, nếu không có những khuôn mặt thực sự để yêu thương. Đây là một phần của mầu nhiệm hiện sinh đích thực của con người. “Sự sống tồn tại ở nơi có sự gắn kết, hiệp thông, và tình huynh đệ; và sự sống mạnh hơn sự chết khi nó được xây dựng trên những tương quan thực sự và những ràng buộc về lòng trung tín. Trái lại, không có sự sống khi chúng ta tự nhận mình đầy đủ nơi chính mình, và sống như những ốc đảo: với những thái độ này, sự chết sẽ thống trị”. (64)
VƯỢT QUA CHÍNH MÌNH
  1. Trong sâu thẳm mỗi trái tim con người, tình yêu tạo ra những gắn kết và mở rộng sự hiện hữu, vì nó kéo người ta ra khỏi chính họ và hướng về người khác. (65) Vì chúng ta được dựng nên cho tình yêu, trong mỗi chúng ta dường như có “một luật xuất thần” vận hành: “người yêu ‘đi ra khỏi’ mình để tìm thấy một hiện hữu viên mãn hơn nơi một người khác”. (66) Vì thế, “con người luôn luôn phải đảm nhận cái thách đố vượt qua chính mình”. (67)
  2. Tôi cũng không thể giảm đời sống mình đến chỉ còn tương quan với một nhóm nhỏ, thậm chí chỉ với gia đình mình; tôi không thể hiểu biết mình nếu không có một mạng lưới tương quan rộng hơn, gồm cả những tương quan đã đi trước tôi và hình thành toàn thể cuộc đời tôi. Tương quan của tôi với những người mà tôi kính trọng cũng phải nhìn nhận sự kiện rằng họ không sống chỉ cho tôi, và tôi cũng không sống chỉ cho họ. Các tương quan của chúng ta, nếu lành mạnh và chân thực, sẽ khai mở chúng ta ra với những người khác, là những người giúp chúng ta triển nở và trở nên phong phú. Ngày nay, các khuynh năng xã hội cao quí nhất của chúng ta có thể dễ dàng bị bế tắc bởi những cuộc tán chuyện đầy tính qui ngã và trao ấn tượng như thể là những tương quan rất sâu xa. Trái lại, tình yêu trưởng thành chân thực và tình bạn đích thực chỉ có thể cắm rễ trong những trái tim mở ra để lớn lên xuyên qua các mối tương quan với người khác. Trong tư cách là những đôi lứa hay những bạn hữu, chúng ta nhận thấy rằng trái tim của mình mở rộng ra khi chúng ta đi ra khỏi chính mình và đón nhận người khác. Những nhóm và những đôi bạn đóng kín, tự định nghĩa mình trong đối lập với người khác, sẽ có chiều hướng trở thành những biểu hiện của ích kỷ và chỉ lo bảo tồn chính mình.
  3. Một cách đầy ý nghĩa, nhiều cộng đồng nhỏ bé sống trong những vùng cô quạnh đã phát triển một hệ thống độc đáo để chào đón các khách hành hương như một cách thực hành bổn phận hiếu khách có tính thiêng liêng. Những cộng đoàn đan tu thời Trung cổ cũng đã làm như thế, như chúng ta thấy trong Luật của Thánh Biển Đức. Trong khi nhìn nhận rằng điều đó có thể làm mất tập trung vào kỷ luật và sự thinh lặng của đan viện, Thánh Biển Đức vẫn khẳng định rằng “người nghèo và khách hành hương phải được đối xử với sự quan tâm chu đáo nhất”. (68) Lòng hiếu khách là một cách cụ thể để đón nhận sự thách đố và món quà tặng chứa đựng trong một cuộc gặp gỡ với những người bên ngoài cộng đoàn của mình. Các tu sĩ đã nhận ra rằng các giá trị mà mình tìm cách vun xới phải được kèm theo bởi một sự sẵn sàng vượt quá chính mình trong sự mở ra với người khác.
Giá trị độc đáo của yêu thương
  1. Người ta có thể phát triển một số nhân đức trông có vẻ như các giá trị luân lý: dũng cảm, điềm tĩnh, chịu khó và những đức tính tương tự. Nhưng nếu các hành động của các nhân đức luân lý khác nhau phải được định hướng đúng đắn, thì người ta cũng cần quan tâm đến mức độ mà chúng thúc đẩy sự mở ra và liên kết với những người khác. Đức ái mà Thiên Chúa ban cho sẽ làm cho điều đó có thể. Không có đức ái, có lẽ chúng ta chỉ có được những nhân đức mặt ngoài thôi, không có khả năng nâng đỡ đời sống chung. Vì thế, Thánh Tôma Aquinô đã dẫn lời Thánh Augustinô để nói rằng sự điều độ của một người tham ăn thì không phải là nhân đức. (69) Về phần ngài, Thánh Bonaventura giải thích rằng các nhân đức khác, nếu không có đức ái, thì rõ ràng không chu toàn các giới răn “theo cách mà Thiên Chúa muốn chúng được chu toàn”. (70)
  2. Tầm vóc đời sống thiêng liêng của một người được đo lường bằng tình yêu, cuối cùng đó vẫn là “tiêu chuẩn để quyết định dứt khoát xem một đời sống con người có hay không có giá trị”. (71) Thế nhưng một số tín hữu nghĩ rằng điều quan trọng là áp đặt các ý thức hệ của mình trên mọi người khác, hay bảo vệ chân lý một cách bạo lực, hay những thể hiện sức mạnh đầy ấn tượng. Tất cả chúng ta, trong tư cách là các tín hữu, cần nhận ra rằng tình yêu chiếm chỗ thứ nhất: không bao giờ được phép liều đánh mất tình yêu, và nguy hiểm lớn nhất nằm ở chỗ không yêu thương (x. 1Cr 13,1-13).
  3. Thánh Tôma Aquinô tìm cách mô tả tình yêu – được ân sủng của Thiên Chúa làm cho có thể – là một vận động hướng ra về phía người khác, nhờ đó chúng ta xem “người được ta yêu cách nào đó như hợp nhất với chúng ta”. (72) Tấm lòng của chúng ta dành cho người khác làm cho chúng ta có thể tự nguyện ước muốn tìm kiếm điều tốt lành cho họ. Rốt cục đó là ý tưởng đằng sau từ “bác ái”: những người được yêu mến thì “đắt giá” đối với tôi; “họ được xem là có giá trị lớn lao”. (73) Và “tình yêu trong đó người này trở thành sự vui lòng (grata) đối với tôi chính là lý do tại sao tôi trao ban một cái gì đó cho người ấy cách nhưng không (gratis)”. (74)
  4. Như vậy, tình yêu không chỉ là một loạt những hành động thi ân. Những hành động ấy có nguồn gốc ở một sự kết hợp ngày càng được định hướng về người khác, xem họ có giá trị, xứng đáng, làm mình vui lòng, và tuyệt đẹp, bất kể dáng vẻ luân lý và thể lý của họ thế nào đi nữa. Tình yêu của chúng ta dành cho người khác, vì chính họ, sẽ thúc đẩy chúng ta tìm kiếm những gì tốt nhất cho đời sống họ. Chỉ bằng cách vun đắp con đường liên hệ lẫn nhau này, chúng ta mới sẽ kiến tạo được một tình thân hữu xã hội trong đó không ai bị loại trừ và kiến tạo được một tình huynh đệ mở ra cho tất cả.
MỘT TÌNH YÊU NGÀY CÀNG MỞ RỘNG
  1. Tình yêu cũng thúc đẩy chúng ta đi đến mối hiệp thông phổ quát. Không ai có thể trưởng thành hay tìm thấy sự viên mãn bằng cách rút lui khỏi những người khác. Tự bản chất của nó, tình yêu đòi phải lớn lên trong sự cởi mở và trong khả năng đón nhận người khác, như một phần của một cuộc phiêu lưu không ngừng làm cho mọi đường biên giao nhau trong một cảm thức thuộc về nhau rộng lớn hơn. Như Chúa Giêsu nói: “Tất cả anh em đều là anh em với nhau” (Mt 23,8).
  2. Nhu cầu phải vượt lên trên những giới hạn của mình cũng áp dụng cho các vùng và các quốc gia khác nhau. Thật vậy, “con số ngày càng tăng những nối kết và những liên lạc trong thế giới hôm nay làm cho chúng ta ý thức mãnh liệt về sự hiệp nhất và về định mệnh chung của các dân tộc. Trong các năng động lịch sử, và trong sự đa dạng của các nhóm chủng tộc, các xã hội, và các nền văn hóa, chúng ta nhìn thấy những hạt giống của một ơn gọi hình thành một cộng đồng gồm những anh chị em đón nhận và chăm sóc lẫn nhau”. (75)
Những xã hội mở ra hội nhập mọi người
  1. Một số vùng ngoại biên rất gần chúng ta, tại các trung tâm thành phố hay ngay trong các gia đình. Vì vậy, có một khía cạnh của sự mở rộng phổ quát trong tình yêu có tính hiện sinh hơn là có tính địa lý. Nó liên quan tới những cố gắng hằng ngày của chúng ta để mở rộng vòng thân hữu, đến với những người mà ngay cả dù họ ở gần tôi, tôi không đương nhiên xem họ là một phần thuộc phạm vi quan tâm của mình. Mọi anh chị em túng khổ, khi bị bỏ rơi hay bị thờ ơ bởi xã hội mà tôi sống trong đó, sẽ trở thành một người ngoại kiều về mặt hiện sinh, ngay cả dù được sinh ra trong cùng một đất nước. Họ có thể là những công dân với đầy đủ quyền hạn, nhưng họ bị đối xử như những ngoại kiều ngay trên đất nước mình. Sự kỳ thị chủng tộc là một thứ vi rút biến thể rất nhanh, và thay vì biến mất, nó ẩn nấp và mai phục.
  2. Tôi muốn đề cập đến một số trong những “người lưu đày ẩn giấu” bị đối xử như thành phần ngoại lai trong xã hội. (76) Nhiều người khuyết tật “cảm thấy mình hiện hữu mà không thuộc về và không tham gia cộng đồng”. Nhiều người bị cản trở không có được đầy đủ quyền công dân. Chúng ta không nên chỉ quan tâm chăm sóc họ, mà còn phải bảo đảm họ được “tham dự tích cực vào cộng đoàn xã hội và Giáo hội. Đó là một tiến trình rất đòi hỏi và thậm chí rất mệt mỏi, song đó cũng là một tiến trình sẽ dần dần góp phần đào tạo các lương tâm, để có thể nhìn nhận mỗi cá nhân như một nhân vị độc đáo và không thể thay thế”. Tôi cũng nghĩ về “các cụ già do tình trạng tàn tật của mình mà đôi khi bị coi như một gánh nặng”. Nhưng mỗi người trong các cụ đều có thể có “một sự đóng góp độc đáo cho thiện ích chung xuyên qua những câu chuyện cuộc đời đặc sắc của các cụ”. Tôi xin lặp lại: Chúng ta cần có “can đảm để lên tiếng cho những người bị kỳ thị do khuyết tật của họ, bởi vì thật đáng buồn, tại một số nước ngay cả hôm nay, người ta cảm thấy khó để nhìn nhận họ như những con người có phẩm giá bình đẳng”. (77)
Những cách hiểu không phù hợp về tình yêu phổ quát
  1. Một tình yêu có thể vượt trên các ranh giới, đó chính là cơ sở của điều mà có thể được gọi là “tình thân hữu xã hội” nơi mọi thành phố và mọi quốc gia. Tình thân hữu đích thực trong một xã hội sẽ làm cho người ta có thể thực sự mở ra tầm phổ quát. Đây là một điều rất khác với thuyết phổ quát giả hiệu của những người thường xuyên đi nước ngoài vì họ không thể chịu đựng hay yêu mến đồng bào của mình. Những người khinh thường đồng bào mình thường có khuynh hướng tạo ra trong xã hội những phạm trù về giai cấp hạng nhất, hạng nhì, về những người có phẩm giá cao hơn và thấp hơn, về những người có nhiều quyền hơn và những người có ít quyền hơn. Bằng cách này, họ không nhìn nhận rằng có chỗ cho mọi người.
  2. Tôi chắc chắn không đang đề nghị một thuyết phổ quát trừu tượng và độc đoán, được phác họa hay lên kế hoạch bởi một nhóm nhỏ và được trình bày như một lý tưởng để phục vụ cho việc san bằng, thống trị và trục lợi. Có một mô hình toàn cầu hóa trong thực tế “nhắm đạt đến một sự đồng nhất có tính một chiều, và tìm cách loại bỏ tất cả những khác biệt và các truyền thống, trong một công cuộc tìm kiếm sự hiệp nhất cách hời hợt… Nếu một kiểu toàn cầu hóa nào đó muốn làm cho mọi người thành đồng nhất, muốn san phẳng mọi người, thì kiểu toàn cầu hóa ấy sẽ tiêu diệt những tặng phẩm phong phú và tính độc đáo của mỗi người và mỗi dân tộc”. (78) Phổ quát thuyết sai lầm này sẽ dẫn đến việc tước mất của thế giới những sắc màu đa dạng của nó, tước mất vẻ đẹp, và cuối cùng tước mất tính người của nó. Vì “tương lai không đơn sắc; nếu chúng ta can đảm, chúng ta có thể chiêm ngắm tương lai trong tất cả tính đa dạng của những gì mà mỗi cá nhân có thể đóng góp vào. Cần thiết biết bao việc gia đình nhân loại chúng ta biết cách sống với nhau trong hòa điệu và hòa bình, chứ không phải mọi người phải giống như nhau!” (79)
VƯỢT QUA MỘT THẾ GIỚI “LIÊN KẾT CỤC BỘ”
  1. Giờ đây chúng ta hãy trở lại với dụ ngôn về Người Samari Tốt Lành, vì dụ ngôn vẫn còn nhiều điều để nói với chúng ta. Một nạn nhân bị thương tích nằm bên đường. Những người đi ngang qua anh ta đã không nghe tiếng thúc giục bên trong mình để hành động như những người thân cận; họ đang bận tâm về các bổn phận của mình, địa vị xã hội của mình, và vai trò chuyên môn của mình trong xã hội. Họ nhận thấy mình rất quan trọng cho xã hội thời ấy, và họ mải lo làm cho tốt vai trò ấy. Nạn nhân bên đường, bị đánh nhừ tử và bị bỏ đó, là một mối phiền phức, một sự gián đoạn tất cả những điều ấy; nói cho cùng, anh ta không có gì quan trọng. Anh ta là một “người không đáng kể”, tầm thường, không phù hợp với các dự phóng của họ về tương lai. Người Samari Tốt Lành đã vượt qua những sự phân loại hẹp hòi này. Chính anh cũng không thuộc bất cứ phạm trù nào nói trên; anh chỉ đơn giản là một người ngoại và không có chỗ trong xã hội. Không dính dáng gì đến bất cứ nhãn hiệu và địa vị nào, anh đã có thể tạm gián đoạn hành trình của mình, thay đổi các chương trình của mình, và bất ngờ bước đến trợ giúp nạn nhân bị thương đang cần sự giúp đỡ của anh.
  2. Trước cùng câu chuyện ấy, liệu đâu là phản ứng của ngày hôm nay, trong một thế giới thường xuyên chứng kiến sự xuất hiện và phát triển của những nhóm xã hội bám vào một căn tính tách biệt mình khỏi những người khác? Câu chuyện ấy sẽ tác động thế nào đến những người lập trình cho chính mình theo cách ngăn chặn mọi sự hiện diện ngoại lai vốn có thể đe dọa căn tính của mình và những cơ cấu đóng kín qui ngã của mình? Ở đó, ngay cả khả năng hành động như một người thân cận cũng bị loại trừ; người ta là thân cận chỉ đối với những ai phục vụ cho mục đích của họ. Từ “thân cận” đánh mất mọi ý nghĩa; chỉ có thể có những “liên kết cục bộ”, những đối tác trong việc theo đuổi các lợi ích riêng. (80)
Tự do, bình đẳng và huynh đệ
  1. Tình huynh đệ được sinh ra không chỉ từ một bầu khí tôn trọng sự tự do của các cá nhân, hay ngay cả từ một sự bình đẳng nào đó được bảo đảm bởi bộ máy hành chánh. Tình huynh đệ nhất thiết đòi một điều gì đó lớn hơn, và điều này sẽ giúp củng cố cho tự do và bình đẳng. Điều gì sẽ xảy ra khi tình huynh đệ không được vun xới cách ý thức, khi thiếu một ý chí chính trị muốn thăng tiến nó xuyên qua việc giáo dục trong tình huynh đệ, qua việc đối thoại, và qua sự nhìn nhận các giá trị của nhau và việc làm phong phú cho nhau? Tự do trở thành duy chỉ là một điều kiện để sống như mình muốn, hoàn toàn tự do để chọn thuộc về ai hay thuộc về cái gì, hay đơn giản là để chiếm hữu hoặc khai thác. Cách hiểu nông cạn này không liên quan mấy với tính phong phú của một sự tự do được định hướng trước hết để yêu thương.
  2. Bình đẳng cũng không đạt được bằng một công bố trừu tượng rằng “mọi người nam nữ đều bình đẳng”. Thay vào đó, nó là kết quả của sự vun xới tình huynh đệ một cách cẩn thận và ý thức. Những ai chỉ có khả năng “kết nhóm cục bộ” sẽ tạo ra những thế giới đóng kín. Trong cái khung ấy, còn đâu chỗ cho những người không tham gia vào nhóm hay hội của mình, nhưng họ vẫn mong ước một đời sống tốt đẹp hơn cho bản thân và gia đình họ?
  3. Chủ nghĩa cá nhân không giúp chúng ta có tự do, bình đẳng, và tình huynh đệ nhiều hơn. Duy chỉ việc gộp lại những lợi ích cá nhân thì không thể làm ra một thế giới tốt đẹp hơn cho toàn thể gia đình nhân loại. Nó cũng không thể cứu chúng ta khỏi rất nhiều vấn đề yếu kém hiện đang ngày càng toàn cầu hóa. Chủ nghĩa cá nhân triệt để là một thứ vi rút cực kỳ khó loại trừ, vì nó thông minh. Nó làm cho chúng ta tin rằng mọi sự hệ tại ở việc thả phanh cho những tham vọng của riêng mình, như thể bằng cách theo đuổi những tham vọng lớn hơn và tạo ra những mạng lưới an toàn thì đó là chúng ta đang phục vụ cho thiện ích chung vậy.
MỘT TÌNH YÊU PHỔ QUÁT THĂNG TIẾN CÁC NHÂN VỊ
  1. Tình thân hữu xã hội và tình huynh đệ phổ quát nhất thiết đòi hỏi sự nhìn nhận giá trị của mọi nhân vị, ở mọi lúc mọi nơi. Nếu mỗi cá nhân có giá trị lớn lao như thế, thì phải tuyên bố rõ ràng và dứt khoát rằng “duy chỉ việc một số người sinh ra ở những nơi có ít nguồn lực hay kém phát triển thì không biện minh cho sự kiện rằng họ đang sống với ít phẩm giá hơn”. (81) Nguyên tắc căn bản này của đời sống xã hội có xu hướng bị phớt lơ bằng nhiều cách bởi những người cảm thấy rằng nó không phù hợp với thế giới quan của họ hay không phục vụ cho các mục đích của họ.
  2. Mọi con người đều có quyền sống với phẩm giá và có quyền phát triển cách toàn vẹn; quyền căn bản này không thể bị chối bỏ bởi bất cứ quốc gia nào. Người ta có quyền này ngay cả dù họ không có khả năng sản xuất, hoặc họ có những giới hạn bẩm sinh hay do hoàn cảnh. Điều này không làm giảm phẩm giá cao cả của họ trong tư cách là những nhân vị, một phẩm giá không đặt nền trên những hoàn cảnh cuộc sống, nhưng trên giá trị nội tại của hữu thể con người. Nếu không thượng tôn nguyên tắc này, sẽ không có tương lai cả cho tình huynh đệ lẫn cho sự sống còn của nhân loại.
  3. Một số xã hội chấp nhận nguyên tắc ấy chỉ một phần. Người ta đồng ý rằng các cơ hội cần phải được cung ứng cho mọi người, nhưng rồi họ nói rằng mọi sự tùy thuộc vào cá nhân mỗi người. Từ quan điểm thiên lệch này, sẽ là vô nghĩa “việc chọn đầu tư vào những cố gắng giúp những người chậm chạp, yếu ớt hay những người ít khả năng để họ tìm thấy các cơ hội trong cuộc sống”. (82) Những cuộc đầu tư trợ giúp những người yếu ớt có thể được thấy là không có lợi nhuận; họ có thể làm cho mọi sự kém hiệu quả. Không. Điều chúng ta cần trong thực tế, đó là những cơ chế dân sự và nhà nước cần có mặt và hoạt động, những cơ chế nhìn quá sự vận hành tự do và hiệu quả của một số hệ thống kinh tế, chính trị, hay ý thức hệ, và quan tâm chủ yếu đến các cá nhân và thiện ích chung.
  4. Một số người sinh ra trong những gia đình ổn định về kinh tế, nhận được một nền giáo dục tốt, lớn lên với chế độ dinh dưỡng tốt, hay tự nhiên sở hữu được tài năng trổi vượt. Họ chắc chắn sẽ không cần một nhà nước chủ động; họ chỉ cần sự tự do của mình. Nhưng cùng một qui tắc ấy rõ ràng không phù hợp đối với một người khuyết tật, một người sinh ra trong nghèo khó cùng cực, những người thiếu một nền giáo dục tốt và ít có điều kiện nhận được sự săn sóc y tế thích đáng. Nếu một xã hội được điều hành chủ yếu bởi những tiêu chuẩn của thị trường tự do và hiệu năng, sẽ không có chỗ cho những con người như thế, và tình huynh đệ sẽ vẫn còn là một lý tưởng mơ hồ.
  5. Thật vậy, “việc cổ võ tự do kinh tế trong khi những hoàn cảnh thực tế ngăn cản nhiều người không tiếp cận được nó thực sự, và trong khi các khả năng việc làm tiếp tục giảm sút, thì đó là chơi trò lập lờ nước đôi”. (83) Những từ như tự dodân chủhay huynh đệ trở thành chẳng có nghĩa gì, vì thực tế là “chỉ khi hệ thống kinh tế và xã hội của chúng ta không còn tạo ra dù chỉ một nạn nhân, dù chỉ một người bị loại ra rìa, thì chúng ta mới có thể cử hành lễ mừng tình huynh đệ phổ quát”. (84) Một xã hội thực sự huynh đệ và nhân bản sẽ có khả năng bảo đảm một cách ổn định và hữu hiệu rằng mỗi thành viên của mình được đồng hành ở mọi giai đoạn trong đời sống. Không chỉ bằng cách cung ứng những nhu cầu căn bản cho người ta, nhưng bằng cách giúp họ có thể cống hiến hết sức có thể, ngay cả dù sự cống hiến ấy không nhiều lắm, dù bước đi của họ thì chậm chạp và hiệu năng của họ thì giới hạn.
  6. Nhân vị con người, với các quyền bất khả nhượng, tự bản chất mở ra cho tương quan. Sâu thẳm trong chúng ta được gieo một tiếng gọi vượt lên trên chính mình xuyên qua việc gặp gỡ những người khác. Vì thế, “phải lưu tâm để không rơi vào một số lầm lỗi vốn có thể xảy ra do hiểu sai ý niệm về các quyền con người và do sử dụng sai lầm các quyền đó. Ngày nay có một khuynh hướng đòi ngày càng nhiều quyền cá nhân hơn – tôi muốn tế nhị để không nói là những quyền có tính cá nhân chủ nghĩa. Ẩn dưới khuynh hướng này là một quan niệm về con người như tách rời khỏi các bối cảnh xã hội và nhân văn, như thể con người “đứng một mình”, ngày càng không dính dáng gì đến người khác… Nếu các quyền của mỗi cá nhân không được sắp đặt hòa hợp với thiện ích lớn hơn, các quyền ấy sẽ đi đến chỗ được xem là vô giới hạn và do đó sẽ trở thành một nguồn xung đột và bạo lực”. (85)
CỔ VÕ SỰ THIỆN LUÂN LÝ
  1. Chúng ta cũng không thể không đề cập rằng việc tìm kiếm và theo đuổi thiện ích cho người khác và cho toàn thể gia đình nhân loại cũng hàm ý việc giúp các cá nhân và các xã hội trưởng thành trong các giá trị luân lý có sức thúc đẩy sự phát triển nhân bản toàn diện. Tân Ước mô tả một hoa trái của Thánh Thần (x. Gl 5,22) là ‘từ tâm’ / ‘agathosyne’, là từ Hy lạp diễn tả sự gắn kết với sự thiện, theo đuổi sự thiện. Hơn nữa, nó chỉ một sự phấn đấu vì điều tốt đẹp nhất cho người khác, cho sự lớn lên của họ trong sự trưởng thành và trong sức khỏe, trong sự vun trồng các giá trị chứ không duy chỉ là vật chất tiền của. Một diễn tả tương tự cũng có trong tiếng La tinh: benevolentia. Đây là thái độ “muốn điều tốt” cho người khác; nó nói về một khao khát điều tốt lành, một hướng chiều về tất cả những gì là tuyệt vời, một ước ao lấp đầy đời sống của người khác bằng những điều tốt đẹp, cao quí và khai sáng.
  2. Ở đây, tôi rất tiếc buộc phải nhắc lại rằng “chúng ta đã có đủ rồi sự suy bại luân lý và những nhạo báng đối với đạo đức, lòng tốt, đức tin, và sự trung thực. Đã đến lúc phải nhìn nhận rằng tính hời hợt xuề xòa không đem lại điều gì tốt cho chúng ta. Một khi nền tảng của đời sống xã hội bị sạt lở, thì điều xảy ra là những trận chiến giành giựt các lợi ích gây xung đột”. (86) Chúng ta hãy quay lại với việc cổ võ lòng tốt, cho chính chúng ta và cho toàn thể gia đình nhân loại, và nhờ đó cùng nhau tiến lên, hướng đến một sự phát triển đích thực và toàn diện. Mọi xã hội đều cần bảo đảm rằng các giá trị được chuyển trao; nếu không, cái được chuyển trao sẽ là lòng ích kỷ, bạo lực, sự hư hỏng trong các hình thức khác nhau của nó, sự dửng dưng, và cuối cùng là một đời sống khép lại đối với siêu việt, và chỉ theo đuổi những lợi ích cá nhân.
Giá trị của liên đới
  1. Tôi muốn đề cập cách đặc biệt về tinh thần liên đới; “trong tư cách là một nhân đức luân lý và thái độ xã hội có được từ sự hoán cải cá nhân, tinh thần liên đới đòi hỏi sự quan tâm về phía những người trách nhiệm việc giáo dục và đào tạo. Tôi nghĩ trước hết đến các gia đình, được mời gọi đảm nhận sứ mạng có tính quyết định hàng đầu là giáo dục. Các gia đình là nơi chốn đầu tiên mà các giá trị yêu thương, huynh đệ, cùng với sự chia sẻ, quan tâm và chăm sóc người khác được sống và được truyền thụ. Các gia đình cũng là nơi chốn ưu tiên để truyền thụ đức tin, bắt đầu bằng những cử chỉ đơn giản đầu tiên diễn tả lòng đạo đức mà các bà mẹ dạy con cái mình. Các thầy cô, những người đảm nhận công việc đầy thách đố là giáo dục thiếu nhi và các bạn trẻ ở trường hay ở những khung cảnh khác, cần phải ý thức rằng trách nhiệm của họ cũng mở ra tới các khía cạnh luân lý, tâm linh, và xã hội của đời sống. Các giá trị tự do, tôn trọng lẫn nhau, và liên đới có thể được truyền thụ từ độ tuổi rất sớm… Các nhà truyền thông cũng có trách nhiệm giáo dục và đào tạo, nhất là ngày nay, khi các phương tiện thông tin và liên lạc quá phổ cập”. (87)
  2. Vào một thời mà mọi sự dường như phân rã và mất tính nhất quán, thật tốt nếu chúng ta nhấn mạnh sự “vững chắc” (88) đến từ ý thức rằng chúng ta trách nhiệm về sự yếu ớt của người khác khi chúng ta phấn đấu xây dựng một tương lai chung. Sự liên đới tìm thấy diễn tả cụ thể của nó trong phục vụ, có thể mang nhiều hình thức trong một cố gắng chăm sóc người khác. Và phục vụ nói chung có nghĩa là “quan tâm đến sự chênh vênh, đến những thành viên mong manh của gia đình, xã hội và dân tộc chúng ta”. Khi cung ứng sự phục vụ như vậy, các cá nhân học biết “gác qua một bên những mong muốn riêng của mình, sự theo đuổi quyền lực của mình, trước cái nhìn cụ thể của những con người yếu ớt nhất… Sự phục vụ luôn luôn hướng nhìn khuôn mặt của họ, chạm đến thịt da của họ, cảm giác sự gần gũi của họ, và đôi khi thậm chí ‘chịu đựng’ sự gần gũi ấy, và cố gắng giúp đỡ họ. Sự phục vụ không bao giờ có tính ý thức hệ, vì chúng ta không phục vụ các ý tưởng, chúng ta phục vụ những con người”. (89)
  3. Người nghèo túng thường “thực hành một sự liên đới đặc biệt tồn tại giữa những người nghèo và đau khổ, và nền văn minh của chúng ta dường như đã quên sự liên đới ấy, hay quả thực là muốn quên. Liên đới là một từ không luôn luôn được nồng nhiệt đón nhận; trong một số tình huống, nó trở thành một từ dơ bẩn, một từ mà người ta không dám nói. Liên đới mang ý nghĩa nhiều hơn là chỉ có những hành động quảng đại cách ngẫu nhiên. Nó có nghĩa là suy nghĩ và hành động vì cộng đồng. Nó có nghĩa rằng đời sống của mọi người thì ưu tiên hơn sự kiếm chác của một ít người. Nó cũng có nghĩa là đấu tranh chống lại những nguyên nhân có tính cơ cấu của tình trạng nghèo đói, bất bình đẳng, thiếu việc làm, thiếu đất và nhà ở, sự phủ nhận các quyền lao động và xã hội. Nó có nghĩa là đương đầu với những hậu quả đầy sức tàn phá của đế quốc tiền bạc… Liên đới, được hiểu trong ý nghĩa sâu xa nhất của nó, là một cách để làm lịch sử. Và đây là điều mà các phong trào đại chúng đang làm”. (90)
  4. Khi chúng ta nói về sự cần thiết phải chăm sóc ngôi nhà chung, hành tinh của chúng ta, chúng ta nại đến tia lửa ý thức cộng đồng phổ quát và tinh thần quan tâm lẫn nhau có thể vẫn còn trong trái tim con người. Những người có điều kiện dùng nước dư dả nhưng chọn tiết kiệm nước vì ích lợi của gia đình nhân loại rộng lớn hơn, đó là những người đã đạt được một cấp độ đạo đức giúp họ nhìn quá chính mình và nhóm của mình. Thật là nhân bản tuyệt vời! Chúng ta cũng phải có cùng thái độ ấy nếu chúng ta nhìn nhận quyền của tất cả mọi người, ngay cả những người ở rất xa chúng ta.
NHÌN LẠI VAI TRÒ XÃ HỘI CỦA TÀI SẢN
  1. Thế giới hiện hữu cho mọi người, vì tất cả chúng ta đều sinh ra với cùng phẩm giá. Những khác biệt về màu da, tôn giáo, tài năng, sinh quán hay trú quán, và rất nhiều thứ khác, không thể được dùng để biện minh cho các đặc lợi của một số người trên quyền của mọi người. Trong tư cách là một cộng đồng, chúng ta có bổn phận bảo đảm rằng mọi người được sống với phẩm giá và có đủ cơ hội để phát triển toàn diện.
  2. Trong những thế kỷ đầu của Kitô giáo, nhiều nhà tư tưởng đã phát triển một tầm nhìn phổ quát trong các suy tư của họ về mục đích chung của các của cải thụ tạo. (91) Điều này dẫn họ tới nhìn nhận rằng nếu một ai đó thiếu những gì cần để sống với phẩm giá, đó là vì một người khác đang chiếm giữ. Thánh Gioan Kim Khẩu đúc kết như sau: “Không chia sẻ của cải của chúng ta với người nghèo, đó là ăn cướp của họ và giựt mất sự sống của họ. Của cải mà chúng ta sở hữu không phải là của riêng chúng ta, nhưng cũng là của họ nữa”. (92) Theo cách nói của Thánh Gregory Cả: “Khi chúng ta cung ứng cho người nghèo những nhu cầu căn bản của họ, đó là chúng ta đang trao cho họ những gì thuộc về họ, không phải thuộc về chúng ta”. (93)
  3. Một lần nữa, tôi muốn làm âm vang lại một tuyên bố của Thánh Gioan Phaolô II, sức mạnh của tuyên bố này có lẽ chưa được nhìn nhận đúng mức: “Thiên Chúa ban trái đất cho toàn thể loài người để nâng đỡ mọi thành viên của loài người, không loại trừ hay thiên vị ai”. (94) Về phần mình, tôi ghi nhận rằng “truyền thống Kitô giáo chưa bao giờ nhìn nhận quyền tư hữu như cái gì tuyệt đối hay không thể bị phá vỡ, đồng thời nhấn mạnh mục đích xã hội của mọi hình thức tư hữu”. (95) Nguyên tắc về mục đích phổ quát của các của cải thụ tạo là “nguyên tắc thứ nhất của toàn bộ trật tự đạo đức và xã hội”; (96) đó là một quyền tự nhiên và thiết yếu, ưu tiên trên các quyền khác. (97) Tất cả các quyền khác liên quan tới của cải cần cho sự hoàn thành toàn vẹn của các nhân vị, gồm cả quyền tư hữu hay bất cứ loại sở hữu tài sản nào khác – theo lời của Thánh Phaolô VI – phải “không được cản trở (quyền này), nhưng phải tích cực tạo điều kiện cho việc thực hiện quyền này”. (98) Quyền tư hữu chỉ có thể được coi như một quyền tự nhiên thứ cấp, rút ra từ nguyên tắc về mục đích phổ quát của các của cải thụ tạo. Điều này có những hệ quả cụ thể phải được thấy trong sự vận hành của xã hội. Song thực tế thường là những quyền thứ cấp chiếm chỗ của các quyền hàng đầu và ưu tiên hơn, và đó là thực hành không thích đáng.
Các quyền không giới hạn
  1. Vì thế, không ai có thể bị loại bỏ do xuất xứ của mình, càng không thể do những đặc quyền của những người khác, là những người sở tại với cơ hội lớn hơn nhiều. Các giới hạn và ranh giới của mỗi nước không thể can dự vào đây. Cũng như không thể chấp nhận rằng một số người có ít quyền hơn do sự kiện họ là phụ nữ, thì cũng không thể chấp nhận rằng chỉ do sinh quán hay trú quán của một số người mà họ có ít cơ hội hơn để có một đời sống phát triển và có phẩm giá.
  2. Sự phát triển không được nhắm đến việc thu gom của cải bởi một ít người, nhưng phải bảo đảm “các quyền con người – quyền cá nhân và xã hội, kinh tế và chính trị, bao gồm các quyền của các quốc gia và các dân tộc”. (99) Quyền của một số người về kinh doanh tự do, hay sự tự do của thị trường, không thể lấn át các quyền của các dân tộc và phẩm giá của người nghèo, và do đó không thể lấn át sự tôn trọng đối với môi trường tự nhiên, vì “nếu chúng ta sở hữu cái gì đó, thì đấy chỉ là để dành phục vụ cho thiện ích của mọi người”. (100)
  3. Một cách thiết yếu, hoạt động kinh doanh là “một ơn gọi cao quí, được định hướng để sản xuất của cải và cải thiện thế giới chúng ta”. (101) Thiên Chúa khích lệ chúng ta phát triển các tài năng mà Người ban cho chúng ta, và Người đã dựng nên vũ trụ của chúng ta là một vũ trụ có tiềm năng hết sức lớn lao. Trong kế hoạch của Thiên Chúa, mỗi cá nhân được kêu gọi để thăng tiến sự phát triển của chính mình, (102) và điều này bao gồm việc tìm ra những phương tiện kinh tế và kỹ thuật để làm ra nhiều hàng hóa và của cải hơn. Các khả năng kinh doanh, là một quà tặng của Thiên Chúa, phải luôn luôn được định hướng rõ ràng để phát triển người khác và xóa bỏ sự nghèo đói, nhất là qua việc tạo ra những cơ hội việc làm đa dạng. Quyền tư hữu luôn luôn được gắn với nguyên tắc tiên quyết về sự phụ thuộc của mọi quyền tư hữu đối với mục đích phổ quát của các của cải trên trái đất, nghĩa là mọi người có quyền sử dụng chúng.
Quyền của các dân tộc
  1. Ngày nay, một niềm tin vững chắc về mục đích phổ quát của các của cải trên trái đất đòi hỏi rằng nguyên tắc này cũng được áp dụng cho các quốc gia, các lãnh thổ, và các tài nguyên của các quốc gia. Được nhìn không chỉ từ quan điểm về tính hợp pháp của quyền tư hữu, và các quyền của công dân, mà còn từ nguyên tắc đệ nhất về mục đích phổ quát của các của cải, chúng ta có thể nói rằng mỗi quốc gia cũng thuộc về những người ngoại quốc, theo nghĩa rằng của cải của một lãnh thổ không thể bị từ chối đối với một người nghèo túng đến từ một nơi khác. Như các giám mục Mỹ đã khuyến dụ, có những quyền nền tảng “đi trước bất cứ xã hội nào vì chúng xuất phát từ phẩm giá được ban cho mỗi con người xét như thụ tạo của Thiên Chúa”. (104)
  2. Điều này giả định một cách khác để hiểu các mối liên hệ và trao đổi giữa các quốc gia. Nếu mọi con người đều có một phẩm giá bất khả nhượng, nếu tất cả mọi người là anh chị em của tôi, và nếu thế giới này thực sự thuộc về mọi người, thì không quan trọng lắm chuyện người láng giềng của tôi đã sinh ra ở đất nước tôi hay ở nơi khác. Đất nước tôi cũng có trách nhiệm đối với sự phát triển của người ấy, dù trách nhiệm này có thể được thực thi bằng rất nhiều cách khác nhau. Đất nước tôi có thể cung ứng một sự hào hiệp chào đón những ai đang trong tình trạng khẩn cấp, hoặc làm việc để cải thiện các điều kiện sống tại xứ sở của họ, bằng cách từ chối bóc lột các quốc gia ấy hay vơ vét các nguồn tài nguyên của họ, từ chối hỗ trợ những hệ thống tham nhũng vốn gây cản trở sự phát triển có phẩm giá của dân chúng ở đó. Điều áp dụng cho các quốc gia thì cũng đúng đối với các vùng khác nhau trong một quốc gia, vì ở đây cũng có tồn tại quá nhiều sự bất bình đẳng. Nhiều trường hợp do không nhìn nhận đúng phẩm giá bình đẳng của con người, những vùng phát triển hơn tại một số quốc gia nghĩ rằng họ có thể liệng bỏ “của nợ” là các vùng nghèo hơn, và nhờ đó gia tăng mức tiêu thụ của mình.
  3. Chúng ta đang thực sự nói về một mạng lưới quan hệ quốc tế mới, bởi vì không có cách nào để giải quyết những vấn đề nghiêm trọng của thế giới chúng ta nếu ta tiếp tục suy nghĩ duy chỉ về việc tương trợ giữa các cá nhân hay các nhóm nhỏ. Chúng ta cũng không được quên rằng “sự không công bằng không chỉ ảnh hưởng đến các cá nhân mà cả các quốc gia nữa; nó thúc bách chúng ta xem xét một đạo đức học về các quan hệ quốc tế”. (105) Thật vậy, công lý đòi phải nhìn nhận và tôn trọng không chỉ quyền của các cá nhân, mà cả các quyền xã hội và quyền của các dân tộc nữa. (106) Nghĩa là phải tìm cách bảo đảm cho “quyền nền tảng của các dân tộc là được tồn tại và được tiến bộ”, (107) một quyền mà có nhiều lúc bị áp chế cách khắc nghiệt do áp lực tạo ra bởi nợ nước ngoài. Trong nhiều trường hợp, việc trả nợ không chỉ không cho phép thúc đẩy phát triển mà còn giới hạn và khống chế sự phát triển rất nhiều. Trong khi tôn trọng nguyên tắc rằng mọi món nợ thủ đắc hợp pháp phải được hoàn trả, thì cách thức mà nhiều nước nghèo chu toàn bổn phận này không được gây tổn hại đến chính sự hiện hữu và sự phát triển của họ.
  4. Chắc chắn tất cả những điều này kêu gọi một cách nghĩ khác. Nếu không có một cố gắng đi vào cách nghĩ ấy, điều tôi đang nói ở đây sẽ nghe có vẻ phi hiện thực một cách điên rồ. Mặt khác, nếu chúng ta chấp nhận nguyên tắc rất quan trọng rằng có những quyền phát xuất từ nhân phẩm bất khả nhượng của chúng ta, thì chúng ta có thể đảm nhận cái thách đố về việc hình dung một nhân loại mới. Chúng ta có thể tìm kiếm một thế giới cung cấp đất đai, nhà ở, và công việc làm cho mọi người. Đây là nẻo đường hòa bình đích thực, không phải cái chiến lược thiển cận và vô nghĩa nhằm gieo rắc sợ hãi và nghi ngờ trước những đe dọa từ bên ngoài. Vì một nền hòa bình đích thực và bền vững sẽ chỉ đạt được “trên cơ sở một nền đạo đức toàn cầu về sự liên đới và hợp tác, để phục vụ một tương lai được hình thành bởi sự phụ thuộc lẫn nhau và đồng trách nhiệm trong toàn thể gia đình nhân loại”. (108)
 
CHƯƠNG IV
MỘT TRÁI TIM MỞ RA CHO TOÀN THẾ GIỚI
  1. Mọi người là anh chị em của nhau, nếu muốn niềm xác tín ấy không chỉ là một ý nghĩ trừu tượng, mà tìm thấy sự thể hiện cụ thể của nó, thì rất nhiều vấn đề liên quan sẽ nổi lên, thúc đẩy chúng ta nhìn mọi sự trong một ánh sáng mới và có những sự đáp trả mới.
CÁC BIÊN GIỚI VÀ CÁC GIỚI HẠN CỦA CHÚNG
  1. Những thách đố phức tạp nổi lên khi người láng giềng của chúng ta là một người nhập cư. (109) Một cách lý tưởng, nên tránh những cuộc di cư không cần thiết; điều này đòi phải tạo ra nơi các nước nguyên quán những điều kiện cần thiết cho một đời sống có phẩm giá và sự phát triển toàn diện. Nhưng trước khi có được những tiến bộ thiết yếu để đạt được mục tiêu này, chúng ta buộc phải tôn trọng quyền của mọi cá nhân được tìm ra một nơi chốn đáp ứng các nhu cầu căn bản của họ và của gia đình họ, và ở đó họ có thể tìm thấy sự hoàn thành con người của mình. Sự đáp trả của chúng ta khi những người nhập cư đặt chân đến có thể được đúc kết bằng bốn từ: tiếp đón, bảo vệ, thăng tiến, và hội nhập. Vì “đây không phải là một trường hợp thực hiện các chương trình phúc lợi từ trên xuống, nhưng đúng hơn đây là chuyện đảm nhận cuộc hành trình cùng với nhau, xuyên qua bốn hành động ấy, để xây dựng các thành phố và các quốc gia mà trong khi bảo toàn căn tính tôn giáo và văn hóa của mình, thì vẫn mở ra với những sự khác biệt và biết cách thăng tiến chúng trong tinh thần huynh đệ giữa con người”. (110)
  2. Điều này bao hàm việc thực hiện một số bước tất yếu, nhất là để đáp ứng cho những ai đang chạy tránh các khủng hoảng nhân đạo nghiêm trọng. Ví dụ, chúng ta có thể nêu ra: gia tăng và đơn giản hóa việc cấp visa; áp dụng những chương trình bảo lãnh cá nhân và tập thể; mở các hành lang nhân đạo cho những người tị nạn trong hoàn cảnh chênh vênh nhất; cung cấp nhà ở phù hợp và xứng phẩm giá; bảo đảm an ninh cá nhân và sự tiếp cận các dịch vụ căn bản; bảo đảm sự hỗ trợ thích đáng từ lãnh sự, và quyền giữ giấy tờ tùy thân; sự tiếp cận hệ thống tư pháp; khả năng mở các tài khoản ngân hàng và sự bảo đảm nhu cầu tối thiểu để sống còn; sự tự do đi lại và khả năng có việc làm; việc bảo vệ trẻ vị thành niên và bảo đảm trẻ được đi học bình thường; cung cấp những chương trình bảo trợ hay chỗ ở tạm thời; bảo đảm tự do tôn giáo; giúp hội nhập vào xã hội; hỗ trợ việc đoàn tụ gia đình; và chuẩn bị những cộng đồng sở tại cho tiến trình hội nhập. (111)
  3. Đối với những ai không phải là người mới đến nhưng đã tham gia vào đời sống xã hội, thật quan trọng việc áp dụng ý niệm “quyền công dân”, là điều “đặt nền trên sự bình đẳng về các quyền lợi và nghĩa vụ, nhờ đó mọi người có được công lý. Vì thế thật quan trọng việc thiết lập trong các xã hội chúng ta ý niệm về quyền công dân đầy đủ, và loại bỏ kiểu nói ‘người thiểu số’ có tính kỳ thị, đó là từ ngữ gây ra cảm giác cô lập và tự ti. Cách dùng từ không ổn như vậy sẽ mở đường cho sự hiếu chiến và xung đột; nó phá hỏng mọi thành công và tước đi các quyền tôn giáo và dân sự của một số công dân bị kỳ thị như vậy”. (112)
  4. Ngay cả khi các nhà nước thực hiện những bước thiết yếu, thì một mình nhà nước cũng không thể xúc tiến những giải pháp phù hợp, “vì những hệ quả của các quyết định do mỗi chính phủ sẽ nhất thiết có những tác động đến toàn thể cộng đồng quốc tế”. Vì thế, “sự đáp ứng của chúng ta chỉ có thể là kết quả của một nỗ lực chung” (113) để phát triển một hình thức quản trị toàn cầu liên quan đến các phong trào di dân. Do đó, cần “lập kế hoạch trung hạn và dài hạn, không giới hạn chỉ ở những sự đáp ứng khẩn cấp. Việc lập kế hoạch như thế phải bao gồm sự trợ giúp hữu hiệu để hội nhập các người nhập cư tại những quốc gia tiếp nhận họ, trong khi cũng thúc đẩy sự phát triển các quốc gia nguyên quán của họ xuyên qua những chính sách được cảm hứng từ sự liên đới, nhưng không nối kết sự trợ giúp này với các chiến lược có tính ý thức hệ và các thực hành xa lạ hay tương phản với các nền văn hóa của các dân tộc được trợ giúp”. (114)
NHỮNG QUÀ TẶNG CHO NHAU    
  1. Những người mới đến, khác biệt về lối sống và văn hóa, có thể là một quà tặng, vì “những câu chuyện của người nhập cư luôn luôn là những câu chuyện về sự gặp gỡ giữa các cá nhân và giữa các nền văn hóa. Đối với các cộng đồng và các xã hội nơi mà họ đến, những người nhập cư mang tới một cơ hội giúp làm phong phú hơn, và giúp cho sự phát triển nhân bản toàn diện của mọi người”. (115) Vì thế, “tôi đặc biệt kêu gọi các bạn trẻ, đừng để bị giật dây bởi những kẻ xúi mình chống lại các bạn trẻ khác – là những người mới đến tại đất nước mình – và những kẻ khuyến khích các bạn trẻ xem những người mới đến như một mối đe dọa, và như thể họ không có cùng phẩm giá bất khả nhượng như mọi con người khác”. (116)
  2. Thật vậy, khi chúng ta bắt đầu mở lòng mình ra với những người khác mình, thì điều này sẽ giúp họ phát triển trong những con đường mới, trong khi họ vẫn tiếp tục là chính họ. Các nền văn hóa khác nhau đã triển nở qua các thế kỷ cần phải được giữ gìn, nếu không muốn thế giới chúng ta bị nghèo nàn đi. Đồng thời, những nền văn hóa ấy cần được khuyến khích mở ra với những kinh nghiệm mới, xuyên qua sự gặp gỡ với những thực tại khác, vì mối nguy của việc chịu xơ cứng văn hóa vẫn luôn luôn có đó. Đó là lý do tại sao “chúng ta cần truyền thông với nhau, khám phá những quà tặng của mỗi người, cổ võ những gì giúp hiệp nhất chúng ta, và xem những khác biệt của chúng ta như một cơ hội để lớn lên trong sự tôn trọng lẫn nhau. Rất cần sự kiên nhẫn và tin tưởng trong cuộc đối thoại như thế, cho phép các cá nhân, các gia đình và các cộng đồng chia sẻ những giá trị văn hóa của mình, và tiếp nhận những điều tốt đẹp từ kinh nghiệm của những người khác”. (117)
  3. Ở đây tôi muốn đề cập một số ví dụ mà tôi đã từng dùng. Văn hóa la tinh là “một thứ men các giá trị và các khả năng, có thể giúp làm cho nước Mỹ phong phú thêm rất nhiều”, vì “làn sóng di cư luôn tác động ảnh hưởng và biến đổi nền văn hóa của một nơi chốn… Ở Argentina, làn sóng di cư từ Ý đã để lại một dấu ấn trên nền văn hóa của xã hội tại đây, và sự hiện diện của khoảng 200.000 người Do thái đã có một hiệu ứng trên ‘phong cách’ văn hóa của Buenos Aires. Nếu những người nhập cư được giúp đỡ để hội nhập, họ sẽ là một sự chúc phúc, một nguồn đem lại sự phong phú và là một quà tặng mới có sức khích lệ một xã hội lớn lên”. (118)
  4. Trên một qui mô rộng hơn, Đại giáo trưởng Ahmad Al-Tayyeb và tôi đã ghi nhận rằng “những mối quan hệ tốt giữa Đông và Tây là điều thiết yếu cần cho cả hai bên. Không được coi nhẹ các mối quan hệ ấy, để mỗi bên có thể được phong phú hơn nhờ nền văn hóa của bên kia, xuyên qua việc trao đổi và đối thoại đầy triển vọng. Phương Tây có thể khám phá nơi phương Đông những phương dược cho các bệnh trạng về tôn giáo và tâm linh gây ra bởi một chủ nghĩa duy vật đang tràn ngập. Và phương Đông có thể tìm thấy nơi phương Tây nhiều yếu tố có thể giúp giải thoát mình khỏi yếu kém, chia rẽ, xung đột, và sự suy yếu văn hóa, kỹ thuật và khoa học. Thật quan trọng việc chú ý đến các khác biệt về tôn giáo, văn hóa và lịch sử, vốn là một thành tố năng động trong việc định hình tính cách, văn hóa, và văn minh của phương Đông. Cũng quan trọng không kém, việc tăng cường mối ràng buộc về các quyền căn bản của con người, để giúp bảo đảm một đời sống có phẩm giá cho mọi người nam và nữ ở phương Đông và phương Tây, tránh những chính sách có tính tiêu chuẩn kép”. (119)
Một sự trao đổi đầy hoa trái
  1. Sự trợ giúp lẫn nhau giữa các quốc gia rõ ràng đem lại sự phong phú cho mỗi bên liên hệ. Một quốc gia tiến lên phía trước trong khi vẫn giữ gốc rễ vững chắc trên nền tảng văn hóa của mình, đó là một kho tàng cho toàn thể nhân loại. Chúng ta cần phát triển nhận thức rằng ngày nay chúng ta hoặc được cứu cùng với nhau tất cả, hoặc không ai được cứu cả! Sự nghèo đói, suy thoái, và khốn khổ tại một vùng trên trái đất là một mảnh đất âm thầm sản sinh những vấn đề rốt cục ảnh hưởng đến toàn thể hành tinh. Nếu chúng ta lo lắng bởi sự tuyệt chủng của một số giống loài, thì chúng ta càng phải lo lắng vì tại một số nơi trên thế giới chúng ta những cá nhân hay những dân tộc bị cản trở việc phát triển các tiềm năng và vẻ đẹp của mình, do bởi tình trạng nghèo đói hay những giới hạn có tính cơ cấu khác. Cuối cùng, điều này sẽ làm nghèo nàn tất cả chúng ta.
  2. Điều nói trên vẫn đúng trong mọi thời, song chưa bao giờ nó rõ ràng hơn thời của chúng ta, khi thế giới được nối kết bởi hiện tượng toàn cầu hóa. Chúng ta cần đạt được một trật tự kinh tế, chính trị, pháp lý có tính toàn cầu, “một trật tự có thể tăng cường và giúp định hướng cho sự hợp tác quốc tế, nhằm phát triển mọi dân tộc trong tình liên đới”. (120) Cuối cùng, điều này sẽ giúp ích cho toàn thế giới, vì “sự trợ giúp phát triển cho các nước nghèo” hàm nghĩa là “tạo ra của cải cho tất cả”. (121) Từ quan điểm phát triển toàn diện, điều này giả thiết “việc cho phép các nước nghèo có một tiếng nói có hiệu năng trong việc cùng nhau đưa ra các quyết định” (122) và khả năng “tạo điều kiện dễ dàng tiếp cận thị trường quốc tế đối với các nước đang trong tình trạng nghèo và kém phát triển”. (123)
Tinh thần vô vụ lợi mở ra với người khác  
  1. Tuy nhiên, tôi không muốn giới hạn ý tưởng của mình ở một cách tiếp cận có tính thực dụng. Luôn luôn có yếu tố “vô vụ lợi”: đó là khả năng làm những điều gì đó chỉ vì tự chúng tốt đẹp, chứ không bận tâm kiếm chác hay bù đắp cá nhân. Tinh thần vô vụ lợi làm cho chúng ta có thể tiếp đón người lạ, ngay cả dù điều này không đem lại cho chúng ta ích lợi cụ thể lập tức nào. Thế nhưng, một số quốc gia lại chủ trương chỉ đón nhận các nhà khoa học hay các nhà đầu tư mà thôi!
  2. Đời sống mà không có tinh thần vô vụ lợi huynh đệ sẽ trở thành một hình thức thương mại lạnh lùng, trong đó chúng ta thường xuyên cân nhắc điều mình cho đi và điều mình nhận lại. Đàng khác, Thiên Chúa trao ban cách nhưng không, đến mức Người trợ giúp cả những ai bất trung với Người; Thiên Chúa “cho mặt trời của Người mọc lên trên kẻ dữ cũng như người lành” (Mt 5,45). Đó là một lý do tại sao Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Khi anh em bố thí, đừng để tay phải biết việc tay trái làm, như thế việc bố thí của anh em sẽ kín đáo” (Mt 6,3-4). Chúng ta đón nhận sự sống cách nhưng không; chúng ta chẳng trả giá nào cho nó cả. Vì thế, tất cả chúng ta có thể cho đi mà không chờ mong nhận lại bất cứ gì, làm điều tốt lành cho người khác mà không đòi họ đối xử tốt với mình để đáp lại. Như Chúa Giêsu bảo các môn đệ: “Anh em đã lãnh nhận nhưng không, anh em hãy cho đi nhưng không” (Mt 10,8).
  3. Giá trị đích thực của các quốc gia trên thế giới chúng ta được đo lường bằng khả năng nhận thức mình không chỉ là một quốc gia mà còn là một phần của gia đình nhân loại rộng lớn hơn. Điều này được thấy cách đặc biệt vào những thời khắc khủng hoảng. Những hình thức hẹp hòi của chủ nghĩa dân tộc là một biểu hiện cực đoan của tình trạng thiếu khả năng nắm bắt ý nghĩa vô vụ lợi này. Người ta sai lầm khi nghĩ rằng họ có thể tự mình phát triển mà không quan tâm đến sự thiệt hại của những người khác, họ nghĩ rằng bằng cách đóng cửa từ chối người khác thì họ sẽ được bảo vệ tốt hơn. Những người di dân bị coi như những kẻ đột nhập và chẳng có gì để cống hiến. Điều này dẫn tới niềm tin ngây thơ rằng người nghèo rất nguy hiểm và vô dụng, trong khi người mạnh là những đại ân nhân. Chỉ một nền văn hóa chính trị xã hội sẵn sàng tiếp đón người khác cách “vô vụ lợi” thì mới có tương lai.
ĐỊA PHƯƠNG VÀ PHỔ QUÁT
  1. Cần nhớ rằng “có một căng thẳng nội tại giữa toàn cầu hóa và địa phương hóa. Chúng ta cần chú ý tới tầm vóc toàn cầu để tránh sự hẹp hòi và tầm thường. Nhưng chúng ta cũng cần để tâm tới chiều kích địa phương, qua đó giữ bàn chân mình trên mặt đất. Cả hai chiều kích sẽ giữ cho chúng ta khỏi rơi vào một trong hai thái cực. Ở thái cực thứ nhất, người ta bị kẹt trong một vũ trụ toàn cầu hóa trừu tượng… Ở thái cực kia, họ chuyển thành một viện bảo tàng thần thoại địa phương, một thế giới tách rời, chết cứng trong sự lặp đi lặp lại cùng những việc nào đó mãi mãi, không có khả năng bị thách đố bởi cái mới mẻ hay biết thưởng ngoạn vẻ đẹp mà Thiên Chúa ban cho vượt quá các biên giới của mình”. (124) Chúng ta cần có một nhãn giới toàn cầu để cứu chúng ta khỏi não trạng thiển cận nhỏ nhen. Khi ngôi nhà chúng ta không còn là một mái ấm và bắt đầu trở thành một khu nội cấm, một xà lim, thì tính toàn cầu sẽ giải cứu chúng ta, như một “nguyên tắc tối hậu” lôi kéo chúng ta về hướng hoàn thành chính mình. Đồng thời, tính địa phương cũng phải được trân trọng, vì nó có một cái gì đó mà tính toàn cầu không có: đó là khả năng làm men, đem lại sự phong phú, kích hoạt những cơ chế bổ trợ. Tình huynh đệ phổ quát và tình thân hữu xã hội, vì thế, là hai cực năng động như nhau và không thể tách rời. Việc tách rời chúng sẽ làm méo mó mỗi bên, và tạo ra tình trạng phân cực rất nguy hiểm.
Bản sắc địa phương
  1. Giải pháp ở đây không phải là một sự mở ra khiến loại bỏ nét phong phú của chính mình. Cũng như không thể có đối thoại với “người khác” nếu không có một cảm thức về căn tính của mình, thì cũng không thể có sự mở ra giữa các dân tộc trừ phi đặt nền tảng trên tình yêu đối với xứ sở mình, dân tộc mình, gốc rễ văn hóa của mình. Tôi không thể thực sự gặp gỡ một người khác nếu tôi không đứng trên những nền móng vững vàng, vì chính trên cơ sở của những nền móng này mà tôi có thể đón nhận quà tặng mà người khác mang lại, và về phần mình tôi trao một quà tặng đích thực của tôi. Tôi chỉ có thể tiếp đón người khác là những người rất khác biệt, và trân trọng sự đóng góp độc đáo mà họ cống hiến, khi tôi cắm rễ vững vàng trong dân tộc và văn hóa của mình. Người ta yêu mến và quan tâm đến quê hương xứ sở của mình, cũng như người ta yêu mến và chăm sóc mái nhà của mình và đích thân trách nhiệm giữ gìn nó. Cũng vậy, thiện ích chung đòi chúng ta phải bảo vệ và yêu mến quê hương xứ sở mình. Nếu không, những hệ quả của một tai họa ở một quốc gia sẽ rốt cục ảnh hưởng đến toàn thể hành tinh. Tất cả những điều này cho thấy rõ ý nghĩa tích cực của quyền sở hữu tài sản: Tôi quan tâm chăm sóc một cái gì đó mà tôi sở hữu, sao cho cái ấy có thể góp phần vào thiện ích của mọi người.
  2. Bản sắc địa phương cũng thúc đẩy những trao đổi lành mạnh và phong phú. Kinh nghiệm về việc được nuôi lớn lên ở một nơi cụ thể, và việc chia sẻ trong một văn hóa cụ thể, cho phép chúng ta hiểu biết những khía cạnh của thực tại mà những người khác không thể dễ dàng nhận hiểu được. Phổ quát không nhất thiết có nghĩa là vô vị, đồng nhất, và cứng nhắc, không nhất thiết chỉ dựa trên một kiểu mẫu văn hóa phổ biến, vì điều này rốt cục sẽ dẫn tới chỗ đánh mất những gam màu phong phú, và sẽ gây ra tình trạng hoàn toàn đơn điệu. Đó là cái cám dỗ được qui chiếu đến trong trình thuật cổ xưa về Tháp Babel. Sự cố gắng xây một ngọn tháp vươn tới trời không phải là một diễn tả sự hiệp nhất giữa những dân tộc khác nhau nói với nhau từ tính đa dạng của họ. Thay vào đó, đó là một cố gắng lệch lạc, phát xuất từ lòng kiêu ngạo và tham vọng, muốn xây dựng một sự hiệp nhất khác hơn sự hiệp nhất mà Thiên Chúa muốn trong chương trình quan phòng của Người đối với các dân tộc (x. St 11,1-9).
  3. Sự mở ra với phổ quát cũng có thể là giả hiệu, khi phát xuất từ sự nông cạn của những người thiếu nhận thức về bản sắc của xứ sở mình, hay nuôi dưỡng nỗi oán hận dai dẳng đối với đồng bào mình. Dù trường hợp nào đi nữa, “chúng ta phải không ngừng mở rộng các chân trời của chúng ta, và nhìn thấy sự thiện lớn hơn có ích cho tất cả chúng ta. Nhưng khi làm thế, phải không được để xảy ra sự xói mòn hay bật rễ. Chúng ta cần cắm rễ sâu hơn trong mảnh đất màu mỡ và lịch sử của xứ sở mình, vốn là một quà tặng của Thiên Chúa. Chúng ta có thể làm việc trên một qui mô nhỏ, trong lối xóm của mình, nhưng với một nhãn quan mở rộng hơn… Tính phổ quát không cần làm ngột ngạt người ta, bản sắc địa phương cũng không cần bị làm cho khô kiệt”; (125) kiểu mẫu của chúng ta phải là một khối đa diện, trong đó giá trị của mỗi cá nhân được tôn trọng, ở đó “toàn thể lớn hơn từng phần, nhưng nó cũng lớn hơn tổng số các thành phần”. (126)
Một chân trời phổ quát
  1. Có một chứng ái kỷ “địa phương” không liên quan gì đến tình yêu lành mạnh đối với đồng bào và văn hóa của mình. Nó phát xuất từ một sự bất an và nỗi sợ nào đó đối với người khác, dẫn tới sự tẩy chay và ước muốn dựng những bức tường bảo vệ chính mình. Nhưng không thể nào có cảm thức “địa phương” một cách lành mạnh nếu không chân thành mở ra với phổ quát, nếu không cảm thấy bị thách đố bởi những gì đang xảy ra ở các nơi khác, nếu không mở ra để được nên phong phú nhờ các nền văn hóa khác, và nếu không liên đới và quan tâm tới những thảm kịch đang ảnh hưởng đến các dân tộc khác. Trong khi đó, một chứng “ái kỷ địa phương” thì loay hoay chỉ với một số ý nghĩ nào đó, chỉ một số tập quán và dạng an toàn nào đó; không có khả năng thưởng ngoạn tiềm năng lớn lao và vẻ đẹp của thế giới rộng lớn hơn, nó thiếu một tinh thần liên đới quảng đại và chân thực. Đời sống ở cấp độ địa phương như thế sẽ trở thành ngày càng ít nồng nhiệt hơn, người ta sẽ ít mở ra hơn cho sự bổ khuyết. Những khả năng phát triển của đời sống ấy sẽ chật hẹp; người ta sẽ trở nên mỏi mòn và bạc nhược. Đàng khác, một nền văn hóa lành mạnh thì tự bản chất nó mở ra và nồng nhiệt hiếu khách; thật vậy, “một nền văn hóa mà không có các giá trị phổ quát thì không thực sự là một nền văn hóa”. (127)
  2. Chúng ta hãy nhận ra rằng khi tâm trí mình chật hẹp thì chúng ta ít có khả năng nhận hiểu thế giới xung quanh mình. Nếu không gặp gỡ và liên hệ với những sự khác biệt, thật khó mà đạt được một nhận hiểu rõ ràng và trọn vẹn ngay cả về chính mình, và về quê hương xứ sở của mình. Những nền văn hóa khác không phải là những “kẻ thù” mà chúng ta phải chiến đấu để tự vệ, nhưng đó là những phản ảnh khác nhau của sự phong phú bất tận trong đời sống con người. Nhìn chính mình từ nhãn giới của một người khác, một người khác biệt với mình, chúng ta có thể dễ nhận ra hơn những nét độc đáo của mình và của nền văn hóa mình: sự phong phú của nó, những khả năng và những giới hạn của nó. Kinh nghiệm địa phương của chúng ta cần phát triển “trong đối ứng với” và “trong hòa hợp với” kinh nghiệm của những người khác sống trong các bối cảnh văn hóa đa dạng. (128)
  3. Quả thật, một sự mở ra lành mạnh không bao giờ đe dọa căn tính của người ta. Một nền văn hóa sống động, được bồi đắp bởi các yếu tố từ những nơi khác, không du nhập các yếu tố mới ấy duy chỉ như một bản sao y hệt, nhưng hội nhập chúng bằng cách thức độc đáo của mình. Kết quả là một tổng hợp mới rốt cục có ích cho tất cả, vì chính nền văn hóa gốc kia nhận được sự bồi đắp. Đó là lý do tại sao tôi kêu gọi các sắc dân bản xứ trân trọng các gốc rễ và nền văn hóa của tổ tiên mình. Nhưng đồng thời, tôi nhấn mạnh rằng tôi không có ý định đề nghị một “‘chủ nghĩa duy bản địa’ hoàn toàn tĩnh tại, khép kín, thiếu nhãn giới lịch sử, và bác bỏ mọi loại pha trộn (mestizaje)”. Vì “căn tính văn hóa của chúng ta được củng cố và làm phong phú nhờ đối thoại với những người không giống với chúng ta. Căn tính đích thực của chúng ta cũng không được bảo tồn bởi một sự cô lập nghèo nàn”. (129) Thế giới phát triển và chứa đầy vẻ đẹp mới mẻ, nhờ những tổng hợp nối tiếp nhau được sản sinh giữa các nền văn hóa mở ra, và không có bất cứ hình thức áp đặt văn hóa nào.
  4. Để có một tương quan lành mạnh giữa tình yêu quê hương xứ sở và một cảm thức thuộc về gia đình nhân loại rộng lớn hơn của chúng ta, thiết tưởng cần ghi nhớ rằng xã hội toàn cầu không phải là tổng số các quốc gia khác nhau, nhưng đúng hơn đó là mối hiệp thông giữa các quốc gia. Cảm thức thuộc về lẫn nhau đi trước sự xuất hiện của các nhóm riêng. Mỗi nhóm riêng trở thành một phần của mối hiệp thông phổ quát, và khám phá vẻ đẹp của mình ở đó. Tất cả các cá nhân, bất kể nguồn gốc, biết rằng mình là thành phần của gia đình nhân loại rộng lớn hơn, nếu không có gia đình rộng lớn này thì mình không thể nhận hiểu chính mình cách đầy đủ.
  5. Việc nhìn mọi sự theo cách này sẽ giúp ta vui mừng nhận ra rằng không một dân tộc nào, nền văn hóa hay cá nhân nào có thể tự mình đạt được mọi sự: để đạt được sự viên mãn trong đời sống, chúng ta cần đến những người khác. Ý thức về những giới hạn và bất toàn của chính mình thì không hề là một sự đe dọa, nhưng trở thành chìa khóa để hình dung và theo đuổi một dự án chung. Vì “con người là một hữu thể hữu hạn không có giới hạn”. (130)
Bắt đầu với chính vùng của mình
  1. Nhờ những sự trao đổi giữa các vùng, các nước nghèo được mở ra với thế giới rộng lớn hơn, và tính phổ quát không nhất thiết dập tắt những đặc nét của các vùng. Một sự mở ra chân thực và thích đáng với thế giới giả thiết khả năng mở ra với láng giềng của mình trong gia đình các dân tộc. Sự hội nhập chính trị, kinh tế, và văn hóa với các dân tộc lân cận, vì thế, nên được gắn liền với một tiến trình giáo dục giúp cổ võ giá trị của tình yêu đối với láng giềng, đó là bước thứ nhất tất yếu hướng tới một sự hội nhập phổ quát lành mạnh.
  2. Tại một số khu vực của các thành phố chúng ta, vẫn có một cảm thức sống động về tình láng giềng. Mỗi người hoàn toàn tự nguyện nhận trách nhiệm đồng hành và giúp đỡ người ở gần mình. Ở những nơi mà các giá trị cộng đồng này được gìn giữ, người ta kinh nghiệm một sự gần gũi in dấu ấn của lòng biết ơn, sự liên đới, và tính hỗ tương. Tình láng giềng trao cho người ta một cảm thức về căn tính chung. (131) Mong sao những quốc gia láng giềng có thể khích lệ một tinh thần láng giềng tương tự giữa các dân tộc của mình! Nhưng tinh thần cá nhân chủ nghĩa cũng ảnh hưởng trên các mối quan hệ giữa các quốc gia. Lối nghĩ rằng chúng ta phải dè chừng nhau để bảo vệ chính mình, tức nhìn kẻ khác như đối thủ tranh chấp, hay như những kẻ thù ngu hiểm, sự nguy hiểm của lối nghĩ ấy cũng tác động trên các mối quan hệ giữa các dân tộc trong cùng một vùng. Dường như chúng ta đã được đào tạo trong cảm thức sợ hãi và nghi ngờ như thế!
  3. Có những cường quốc và những doanh nghiệp lớn hưởng lợi từ sự cô lập này, và thích thương lượng với mỗi nước một cách tách biệt. Mặt khác, những nước nhỏ và nghèo có thể ký các hiệp ước với các nước láng giềng trong vùng, theo đó họ sẽ thương thuyết trong tư cách một khối, và như vậy tránh bị xé lẻ ra, tránh bị làm cho cô lập và phụ thuộc vào các nước lớn. Ngày nay, không nhà nước nào có thể bảo đảm thiện ích chung cho dân của mình nếu vẫn còn bị cô lập.
CHƯƠNG V
MỘT THỨ CHÍNH TRỊ TỐT HƠN
  1. Sự phát triển của cộng đồng huynh đệ toàn cầu – dựa trên thực hành tình thân hữu xã hội của các dân tộc và các quốc gia – đòi phải có một loại chính sách tốt hơn, loại chính sách thực sự phục vụ cho công ích. Đáng buồn là chính trị ngày nay thường ở trong những dạng thức cản trở sự tiến bộ hướng về một thế giới khác.
NHỮNG HÌNH THỨC CỦA CHỦ NGHĨA DÂN TÚY VÀ CHỦ NGHĨA TỰ DO
  1. Sự thiếu quan tâm đến những người yếu ớt có thể ẩn sau một chủ nghĩa dân túy nhằm khai thác người ta bằng cách tuyên truyền lôi kéo để phục vụ các mục đích của mình, hay một chủ nghĩa tự do phục vụ cho các lợi ích kinh tế của kẻ mạnh. Trong cả hai trường hợp, sẽ thật khó để hình dung một thế giới mở ra dành chỗ cho mọi người, bao gồm cả những người yếu ớt nhất, và biểu hiện lòng tôn trọng đối với các nền văn hóa khác nhau.
Dân chúng và dân túy
  1. Trong những năm gần đây, các từ “dân túy chủ nghĩa” và “người theo chủ nghĩa dân túy” đã tràn ngập các phương tiện truyền thông và các cuộc chuyện hằng ngày. Vì thế, chúng đánh mất bất cứ giá trị nào mà chúng có thể đã có, và trở thành một nguyên nhân gây phân cực trong một xã hội vốn dĩ đã chia rẽ. Người ta đã cố gắng phân loại các dân tộc, các nhóm, các xã hội, và các chính quyền là ‘dân túy’ hay không ‘dân túy’. Ngày nay, một người không thể biểu đạt quan điểm của mình về bất cứ chủ đề nào đó mà không bị xếp loại cách này hay cách khác, hoặc để bị phỉ báng cách bất công, hoặc để được ca tụng lên tận trời xanh.
  2. Việc cố gắng xem chủ nghĩa dân túy như một chìa khóa diễn dịch thực tế xã hội đặt ra vấn đề theo một cách khác: nó làm mất ý nghĩa chính đáng của từ “dân”. Mọi cố gắng tháo gỡ ý niệm này ra khỏi kiểu nói thông thuộc có thể dẫn tới việc loại trừ chính ý niệm về dân chủ hiểu là “chính quyền do dân”. Nếu chúng ta muốn khẳng định rằng xã hội không duy chỉ là một mớ các cá nhân gộp lại, thì từ “dân” sẽ rất cần thiết. Có những hiện tượng xã hội tạo ra các thành phần số đông, các xu hướng lớn, và các cảm hứng cộng đồng. Những con người nam nữ có khả năng hướng tới các mục tiêu chung vượt trên những khác biệt của họ, và do đó họ có thể dấn thân trong một công cuộc chung. Thêm nữa, sẽ cực kỳ khó khăn việc thực hiện một kế hoạch lâu dài nếu nó không trở thành một cảm hứng tập thể. Tất cả những yếu tố này nằm đằng sau cách chúng ta dùng từ “dân” và “dân chúng”. Cần phải tính đến các yếu tố ấy – cùng với một sự phê bình sáng suốt về ‘hoạt động dân vận’ – thì một khía cạnh nền tảng của thực tại xã hội mới không bị bỏ qua.
  3. Ở đây có thể có một sự hiểu nhầm. “Dân” không phải là một phạm trù luận lý, nó cũng không phải một phạm trù thần bí, nếu hiểu như là mọi sự dân làm đều tốt, hay cho rằng dân là một thực tại ‘thiên thần’. Đúng hơn, đó là một phạm trù huyền thoại… Khi bạn phải giải thích điều bạn muốn nói trong từ ‘dân’, bạn dùng các phạm trù luận lý để mà giải thích, và đương nhiên phải thế. Nhưng bằng cách đó bạn không thể giải thích ý nghĩa của việc thuộc về một dân. Từ ‘dân’ có một ý nghĩa sâu hơn, và không thể được diễn đạt bằng ngôn ngữ thuần túy luận lý. Thuộc về một dân là thuộc về một căn tính chung do những mối gắn kết văn hóa và xã hội. Và đó không phải là một cái gì tự động, mà đúng hơn đó là một quá trình chậm chạp và khó khăn… tiến tới một dự phóng chung”. (132)
  4. Các thủ lãnh “của dân chúng”, những người có thể diễn dịch các cảm nghĩ và các động lực văn hóa của dân, và các xu thế quan trọng trong xã hội: Họ có đó! Việc phục vụ mà họ cung ứng qua các nỗ lực qui tụ và dẫn dắt, có thể trở thành cơ sở của một tầm nhìn dài hơi về sự thay đổi và phát triển vốn cũng sẽ bao gồm việc dành chỗ cho những người khác trong công cuộc theo đuổi thiện ích chung. Nhưng điều này có thể thoái hóa thành một thứ “dân túy” không lành mạnh, khi các cá nhân có thể khai thác nền văn hóa của dân theo lối chính trị, dưới bất cứ khẩu hiệu ý thức hệ nào, để đạt lợi thế cho riêng mình hay để tiếp tục nắm quyền lực. Hay trong các trường hợp khác, khi họ tìm kiếm sự ủng hộ của công chúng bằng cách dựa vào những xu hướng hạ cấp và ích kỷ nhất của một số thành phần trong dân chúng. Điều này càng trở thành nghiêm trọng khi mà – trong những hình thức có thể thô thiển hay tinh tế – nó dẫn tới sự thao túng các cơ chế và luật pháp.
  5. Những nhóm dân túy đóng kín làm méo mó từ “dân”, vì những nhóm ấy không thể hiện ý nghĩa ‘dân’ thực sự. Ý niệm “dân” quả thực là một ý niệm mở. Một dân sống hoạt, một dân có một tương lai, đó là một dân không ngừng mở cho một tổng hợp mới, xuyên qua khả năng đón nhận những khác biệt. Bằng cách này, người ta không phủ nhận căn tính riêng của mình, nhưng mở ra để được thúc đẩy, được thách đố, được mở rộng và bồi đắp bởi người khác, nhờ đó lớn lên và phát triển hơn.
  6. Một dấu hiệu khác của sự thoái hóa trong vai trò lãnh đạo dân chúng, đó là bận tâm về lợi thế ngắn hạn. Người ta đáp ứng các đòi hỏi của dân chúng để thu được phiếu hay sự ủng hộ, nhưng không tiến triển trong một nỗ lực cần mẫn và bền bỉ để tạo ra các nguồn lực mà người dân cần để phát triển và sinh sống bằng chính sự cố gắng và khả năng sáng tạo của họ. Về phương diện này, tôi đã nói rõ rằng “tôi không có ý định đề ra một chủ trương dân túy vô trách nhiệm”. (133) Việc xóa bỏ bất bình đẳng đòi hỏi một sự phát triển kinh tế có thể giúp đánh thức tiềm lực của mỗi vùng, và nhờ đó bảo đảm một sự bình đẳng kiên vững. (134) Đồng thời, đòi hỏi tiếp theo là “các dự án phúc lợi, giúp đáp ứng một số nhu cầu khẩn cấp, nên được xem chỉ như những giải pháp tạm thời”. (135)
  7. Vấn đề lớn nhất là việc làm. Điều thực sự “vì dân” – bởi nó ủng hộ thiện ích của dân chúng – đó là cung cấp cho mọi người cơ hội để chăm sóc những hạt giống mà Thiên Chúa đã gieo trồng trong mỗi chúng ta: các tài năng của ta, sáng kiến và các nguồn lực nội tại của ta. Đây là sự giúp đỡ tốt nhất mà chúng ta có thể trao cho người nghèo, là con đường tốt nhất để đạt được một đời sống có phẩm giá. Vì thế tôi muốn nhấn mạnh rằng “việc trợ giúp tài chánh cho người nghèo phải luôn được xem chỉ là một giải pháp tình thế khi đứng trước những nhu cầu cấp thiết. Tầm nhìn rộng hơn phải luôn luôn là cho phép họ có được một đời sống có phẩm giá xuyên qua lao động”. (136) Vì hệ thống sản xuất có thể thay đổi, các hệ thống chính trị phải tiếp tục làm việc để cấu trúc xã hội, theo cách thức sao cho mọi người có cơ hội đóng góp bằng tài năng và những sự cố gắng của mình. Vì “không có cái nghèo nào tệ hại hơn là cái nghèo tước mất lao động và phẩm giá của lao động”. (137) Trong một xã hội thực sự phát triển, lao động là một chiều kích thiết yếu của đời sống xã hội, vì nó không chỉ là một phương tiện để kiếm sống, mà còn là phương tiện giúp người ta lớn lên, xây dựng những tương quan lành mạnh, thể hiện chính mình, và trao đổi các ân ban. Lao động đem lại cho chúng ta một cảm thức đồng trách nhiệm đối với sự phát triển của thế giới, và cuối cùng, trách nhiệm đối với đời sống của chúng ta trong tư cách là một dân.
Lợi ích và giới hạn của những cách tiếp cận mang tính tự do chủ nghĩa
  1. Ý niệm về một “dân”, vốn gợi một cái nhìn tích cực về cộng đồng và về những mối gắn kết văn hóa, thường bị bác bỏ bởi những phương pháp tiếp cận mang tính tự do chủ nghĩa và cá nhân chủ nghĩa, vốn nhìn xã hội chỉ như tổng số các lợi ích của mọi người. Người ta nói về sự tôn trọng tự do, nhưng không có gốc rễ trong một câu chuyện chung; trong một số bối cảnh, những người bảo vệ các quyền của các thành viên yếu ớt nhất trong xã hội thường dễ bị phê bình là những người dân túy. Ý niệm về một dân được xem như một ý niệm trừu tượng, một cái gì không thực sự tồn tại. Nhưng như vậy là tạo ra một sự lưỡng phân không cần thiết. Cả ý niệm “dân” lẫn ý niệm “láng giềng” đều không thể được xem như thuần túy có tính trừu tượng hay lãng mạn, theo kiểu như tổ chức xã hội, khoa học, và các cơ chế dân sự có thể bị loại bỏ hay coi thường. (138)
  2. Đàng khác, bác ái liên kết cả hai chiều kích – trừu tượng và cơ chế – vì nó đòi một tiến trình thay đổi lịch sử cách hữu hiệu, bao gồm mọi sự: các cơ chế, pháp luật, công nghệ, kinh nghiệm, năng lực chuyên môn, phân tích khoa học, các thủ tục hành chánh, vân vân… Theo đó, “đời sống riêng tư không thể tồn tại trừ phi nó được bảo vệ bởi trật tự công cộng. Gian bếp trong nhà sẽ không có hơi ấm thật sự nếu nó không được bảo vệ bởi luật pháp, nếu không có sự yên ổn đặt nền trên luật pháp, và nếu nó không có được tối thiểu an sinh xã hội được bảo đảm bởi sự phân phối lao động, trao đổi thương mại, công bằng xã hội, và quyền chính trị của công dân”. (139)
  3. Bác ái đích thực có thể tháp nhập tất cả các yếu tố ấy trong mối quan tâm của nó đối với người khác. Trong trường hợp những cuộc gặp gỡ cá nhân, bao gồm những cuộc gặp gỡ một người anh chị em ở xa hoặc bị lãng quên, nó có thể sử dụng tất cả các nguồn lực mà các cơ chế của một xã hội có tổ chức, tự do, và sáng tạo có thể tạo ra. Ngay cả Người Samari Tốt Lành, chẳng hạn, đã cần có một quán trọ gần đó cung cấp sự trợ giúp mà tự anh ta không thể cung cấp được. Tình yêu tha nhân thì cụ thể, và nó dùng mọi nguồn lực cần thiết để mang lại sự thay đổi lịch sử có thể phục vụ cho lợi ích của người nghèo và những người thiếu may mắn. Tuy nhiên, có khi các ý thức hệ cánh tả hay các học thuyết xã hội nối kết với những phương thức hành động đậm tính cá nhân chủ nghĩa, và với những thủ tục kém hiệu quả, chỉ có tác dụng đối với một ít người, trong khi đa số người bị bỏ lại đằng sau vẫn phụ thuộc vào thiện chí của những kẻ khác. Điều này cho thấy cần phải có một tình huynh đệ lớn hơn, nhưng cũng cần một tổ chức hữu hiệu trên khắp thế giới, để giúp giải quyết các vấn đề đang đè nặng trên những người bị bỏ rơi, là những người đang khốn khổ và đang chết tại những nước nghèo. Điều này cũng cho thấy rằng không có một giải pháp, một phương pháp có triển vọng, một mô hình kinh tế nào có thể được áp dụng cách không phân biệt cho tất cả. Ngay cả những nghiên cứu khoa học chặt chẽ nhất cũng có thể đề ra những cách làm khác nhau.
  4. Như thế, mọi sự tùy thuộc vào khả năng chúng ta nhận hiểu rằng cần phải thay đổi trái tim, các thái độ và các lối sống. Nếu chẳng vậy, sự tuyên truyền chính trị, truyền thông, và những người dẫn dắt công luận sẽ tiếp tục quảng bá một văn hóa cá nhân chủ nghĩa thiếu phê bình, bị thao túng bởi những lợi ích kinh tế vô độ và những cơ chế liên kết, để phục vụ cho những người vốn nắm giữ quá nhiều quyền lực. Sự phê bình của tôi đối với kiểu thức kỹ trị thì không chỉ liên quan đến ý tưởng rằng nếu kiểm soát những thái quá của nó thì mọi sự sẽ ổn. Nguy hiểm lớn hơn không đến từ những đối tượng chuyên biệt, những thực tại vật chất, hay những cơ chế, nhưng đến từ cách thức mà chúng được dùng. Nó liên hệ tới sự yếu đuối của con người, tới xu hướng ích kỷ vốn thuộc về cái mà truyền thống Kitô giáo gọi là “lòng dục”: xu hướng trong đó con người chỉ bận tâm tới chính mình, nhóm của mình, những lợi ích nhỏ nhen của mình. Lòng dục không phải là một sự xấu xa chỉ có trong thời chúng ta. Nó vẫn có ngay từ thuở ban đầu của nhân loại, và chỉ đơn giản thay đổi và mặc lấy những hình thức khác nhau qua các thời đại, sử dụng bất cứ phương tiện nào mà mỗi giai đoạn trong lịch sử có thể cung ứng. Tuy nhiên, lòng dục có thể được vượt qua với sự trợ giúp của Thiên Chúa.
  5. Nuôi dưỡng và giáo dục, quan tâm tới người khác, một cái nhìn toàn nhập về đời sống, và sự trưởng thành tâm linh: tất cả những điều này là thiết yếu cho các mối tương quan chất lượng của con người, và cho việc giúp chính xã hội chống lại những bất công, sai lạc, và những lạm dụng sức mạnh kinh tế, công nghệ, chính trị, và truyền thông. Một số phương pháp tiếp cận mang tính tự do chủ nghĩa bỏ qua yếu tố này của thân phận yếu đuối con người; họ hình dung một thế giới đi theo một trật tự được ấn định, có thể tự nó bảo đảm một tương lai tươi sáng và cung cấp những giải pháp cho mọi vấn đề.
  6. Thị trường tự nó không thể giải quyết mọi vấn đề, dù chúng ta bị tuyên truyền để tin vào cái tín điều của tân phái tự do này đến mấy đi nữa. Dù gặp loại thách đố nào, trường phái tư tưởng nghèo nàn và chán ngắt này vẫn luôn đưa ra cùng một công thức ấy! Tân phái tự do sinh sản đơn giản bằng cách viện đến những thuyết huyền bí về “tràn bờ” hay “rỉ giọt” – dù không gọi tên như thế – để làm giải pháp duy nhất cho các vấn đề xã hội. Người ta không lưu tâm đủ sự kiện rằng cái gọi là “tràn bờ” không giải quyết được sự bất bình đẳng vốn sinh ra những hình thức bạo lực mới đe dọa cấu trúc xã hội. Cần phải có một chính sách kinh tế tích cực nhắm đến “việc thúc đẩy một nền kinh tế hỗ trợ cho sự đa dạng trong sản xuất và sự sáng tạo trong kinh doanh” (140) và giúp tạo ra chứ không cắt giảm việc làm. Việc đầu cơ tài chánh cốt nhắm đến lợi nhuận tức thời tiếp tục cho thấy sự tàn phá của nó. Thật vậy, “không có những hình thức bảo đảm sự liên đới và tín nhiệm lẫn nhau, thị trường không thể chu toàn chức năng kinh tế của nó. Và ngày nay sự tín nhiệm này đã không còn”. (141) Câu chuyện đã không kết thúc theo cách nó được nhắm đến, và cái công thức giáo đều của thuyết kinh tế đang phổ biến kia được chứng minh là không bất khả ngộ. Sự mong manh của các hệ thống thế giới khi đứng trước cơn đại dịch đã cho thấy rằng không phải mọi sự có thể được giải quyết bởi thị trường tự do. Nó cũng cho thấy rằng ngoài việc phục hồi một đời sống chính trị lành mạnh, không tùng phục các thế lực tài chánh, “chúng ta phải đặt phẩm giá con người trở lại vị trí trung tâm, và trên cột trụ đó chúng ta xây dựng những cơ cấu xã hội khác mà mình cần”. (142)
  7. Chẳng hạn, trong một số chính sách kinh tế khép kín và đơn điệu dường như không có chỗ cho các phong trào đại chúng liên kết những người thất nghiệp, những người lao động tạm thời và không biên chế, và nhiều người khác vốn không dễ tìm được một chỗ trong các cơ cấu hiện hành. Nhưng những phong trào đó có thể điều hành các hình thức khác nhau của nền kinh tế đại chúng và của lối sản xuất cộng đồng. Điều cần ở đây là một mô hình tham gia xã hội, chính trị, và kinh tế “có thể bao gồm các phong trào đại chúng và những cơ cấu quản trị quốc tế, quốc nội, và địa phương đầy năng động, với nguồn năng lực đạo đức phát xuất từ việc bao gồm những người bị loại bỏ trong công cuộc kiến tạo một định mệnh chung”, trong khi cũng bảo đảm rằng “những kinh nghiệm liên đới này – trỗi lên từ đại chúng, từ sát đất – có thể tập họp với nhau, được phối kết nhiều hơn, và tiếp tục gặp gỡ nhau”. (143) Nhưng điều này phải diễn ra trong cách thế sao cho không phản bội lại cung cách hành động đặc sắc của mình trong tư cách là “những người gieo mầm thay đổi, những người cổ võ một tiến trình liên can tới hàng triệu hành động, lớn và nhỏ, được đan kết với nhau một cách đầy sáng tạo như những từ ngữ trong một bài thơ”. (144) Theo nghĩa đó, những phong trào như thế là “những nhà thơ xã hội” – theo cách riêng của mình, những phong trào này làm việc, đề nghị, thúc đẩy, và giải phóng. Những phong trào này góp phần vào công cuộc phát triển nhân bản toàn diện, vượt quá “cái ý tưởng về các chính sách xã hội là chính sách chongười nghèo, nhưng lại không bao giờ với người nghèo và của người nghèo, càng không phải là thành phần của một dự án đoàn kết các dân tộc”. (145) Các phong trào này có thể gây hoang mang, và một số “lý thuyết gia” có thể thấy rằng khó mà phân loại chúng, nhưng chúng ta phải có can đảm để nhìn nhận rằng nếu không có chúng thì “dân chủ sẽ suy vong, hóa thành một từ ngữ suông, một thể thức; nó đánh mất đặc tính tiêu biểu của nó và trở thành không có xác thịt, vì nó bỏ mặc dân chúng trong cuộc đấu tranh hằng ngày cho phẩm giá của họ, trong công cuộc xây dựng tương lai của họ”. (146)
SỨC MẠNH QUỐC TẾ
  1. Một lần nữa tôi muốn ghi nhận rằng “cơn khủng hoảng tài chính hồi năm 2007-08 đã cung cấp cơ hội để phát triển một nền kinh tế mới, chú ý nhiều hơn đến các nguyên tắc đạo đức, và những cách thức mới để điều tiết những hoạt động đầu cơ tài chánh và sự giàu ảo. Nhưng cách đáp trả cơn khủng hoảng ấy đã không bao gồm việc suy nghĩ lại về những tiêu chuẩn lỗi thời vẫn tiếp tục cai trị thế giới”. (147) Thật vậy, dường như những chiến lược thực tế được phát triển sau cơn khủng hoảng ấy đã thúc đẩy chủ nghĩa cá nhân nhiều hơn, ít tính hội nhập hơn, và thêm sự tự do cho những người thực sự có thế lực, là những người luôn tìm được cách để tránh bị thiệt hại.
  2. Tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng “việc trao cho mỗi người cái thuộc về họ – là định nghĩa kinh điển về sự công bằng – có nghĩa rằng không cá nhân hay nhóm người nào có thể xem mình là tuyệt đối, được quyền bỏ qua phẩm giá và quyền của các cá nhân khác hay những nhóm xã hội của họ. Sự phân phối hữu hiệu quyền lực (nhất là sức mạnh chính trị, kinh tế, khả năng bảo vệ, và công nghệ) giữa rất nhiều chủ thể, và việc tạo ra một hệ thống pháp lý để điều chỉnh những đòi hỏi và những lợi ích, là một cách cụ thể để giới hạn quyền lực. Nhưng thế giới ngày nay cho chúng ta thấy nhiều quyền không đúng, và đồng thời cũng cho thấy nhiều nhóm người rất chênh vênh là nạn nhân của sự hành xử quyền lực cách tồi tệ”. (148)
  3. Thế kỷ 21 “đang chứng kiến một sự suy yếu quyền lực của các nhà nước, chủ yếu bởi vì các bộ phận kinh tế và tài chánh, do có tính liên quốc gia, có khuynh hướng tràn sang lãnh vực chính trị. Đứng trước tình hình này, thật thiết yếu việc phác họa các cơ chế quốc tế được tổ chức vững mạnh hơn và hiệu năng hơn, với những nhân sự được bổ nhiệm hoàn toàn bởi sự đồng thuận của chính quyền các quốc gia, và được trao quyền lực để đưa ra các phán quyết”. (149) Khi chúng ta nói về khả năng của một số dạng quyền bính thế giới được điều chỉnh bởi luật, (150) chúng ta không nhất thiết nghĩ về một thẩm quyền cá nhân. Tuy nhiên, một thẩm quyền như thế phải ít nhất thúc đẩy những tổ chức thế giới hữu hiệu hơn, được trang bị với quyền lực để phục vụ cho thiện ích toàn cầu, loại bỏ đói nghèo và bảo vệ vững chắc các quyền căn bản của con người.
  4. Về phương diện này, tôi cũng muốn lưu ý cần phải cải cách “Tổ chức Liên Hiệp Quốc, cũng như các cơ chế kinh tế và tài chánh quốc tế, để ý niệm về gia đình các dân tộc có thể đạt được thực sự”. (151) Hiển nhiên là điều này đòi phải có những giới hạn pháp lý rõ ràng, để tránh cho quyền lực khỏi bị thao túng bởi một vài nước, và để đề phòng những áp đặt văn hóa hay sự hạn chế các quyền tự do căn bản của những nước yếu, do những khác biệt ý thức hệ. Vì “cộng đồng quốc tế là một cộng đồng có tính pháp lý được thiết lập dựa trên chủ quyền của mỗi quốc gia thành viên, nên không có những ràng buộc gây ra sự lệ thuộc và làm mất đi hay hạn chế sự độc lập của mỗi quốc gia”. (152) Đồng thời, “công việc của Liên Hiệp Quốc – theo các nguyên tắc được nêu trong Lời Mở Đầu và trong các Điều Khoản đầu tiên của bản Hiến Chương thành lập – có thể được hiểu là phát triển và cổ võ tinh thần pháp trị, dựa trên sự nhìn nhận rằng công lý là một điều kiện thiết yếu để đạt được lý tưởng tình huynh đệ phổ quát… Cần phải bảo đảm tính pháp trị và cần kiên trì dùng việc thương thuyết, sự trung gian và trọng tài, như được đề ra trong bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc vốn là chuẩn mực pháp lý nền tảng”. (153) Cần phải phòng tránh tình trạng Tổ Chức này bị mất hiệu lực, vì các vấn đề và những khuyết điểm của nó có thể được cùng nhau xem xét và giải quyết.
  5. Sự can đảm và lòng quảng đại rất cần để sẵn sàng đặt ra những mục tiêu chung và bảo đảm rằng một số chuẩn mực thiết yếu sẽ được tôn trọng trên khắp thế giới. Để điều này thực sự hữu ích, thật quan trọng “việc trung thành với những hiệp ước đã được ký kết (pacta sunt servanda)”, (154) và tránh “cái cám dỗ nại đến luật của sức mạnh thay vì nại đến sức mạnh của luật”. (155) Điều này đòi phải củng cố “những công cụ pháp lý để giải quyết các mâu thuẫn một cách hòa bình… để tăng cường qui mô và sức ràng buộc của chúng”. (156) Trong số các công cụ pháp lý này, nên dành ưu tiên cho những hiệp ước đa phương giữa các quốc gia, vì – hơn các hiệp ước song phương – chúng bảo đảm sự thăng tiến thiện ích chung thực sự phổ quát và bảo vệ những nước yếu hơn.
  6. Đáng mừng là có nhiều nhóm và nhiều tổ chức xã hội dân sự giúp bù đắp cho những khiếm khuyết của cộng đồng quốc tế và sự thiếu phối kết của nó trong những tình hình phức tạp, cũng như bù đắp cho sự thiếu lưu tâm của nó đối với các quyền căn bản của con người và các nhu cầu của một số nhóm. Ở đây chúng ta có thể nhìn thấy một áp dụng cụ thể của nguyên tắc bổ trợ, là nguyên tắc biện minh cho sự tham dự và hoạt động của các cộng đồng và các tổ chức ở bình diện thấp hơn, như một phương tiện để hội nhập và bổ sung cho hoạt động của nhà nước. Các nhóm và các tổ chức này thường thực hiện những nỗ lực đáng quí để phục vụ công ích, và các thành viên đôi khi cho thấy tính cách anh hùng thật sự, biểu lộ một cái gì đó của tinh thần cao thượng vẫn còn trong khả năng của nhân loại chúng ta.
BÁC ÁI CÓ TÍNH CHÍNH TRỊ VÀ XÃ HỘI
  1. Đối với nhiều người hôm nay, chính trị là một từ gây kinh tởm, thường do những sai lầm, tham nhũng và thiếu hiệu năng của một số chính khách. Cũng có những cố gắng để hạ giá chính trị, thay thế nó bằng kinh tế hoặc ép nó vào một ý thức hệ nào đó. Nhưng phải chăng thế giới chúng ta có thể vận hành mà không có chính trị? Phải chăng có một cách thế hữu hiệu để phát triển tình huynh đệ phổ quát và hòa bình trong xã hội mà không cần một đời sống chính trị lành mạnh? (157)
Loại chính trị mà chúng ta cần
  1. Ở đây một lần nữa tôi muốn ghi nhận rằng “chính trị không được lệ thuộc kinh tế, kinh tế cũng không được lệ thuộc vào những mệnh lệnh của kiểu thức kỹ trị duy hiệu năng”. (158) Mặc dù sự dùng quyền lực cách sai trái, nạn tham nhũng, sự xem thường luật pháp và sự thiếu hiệu năng phải bị loại trừ cách rõ ràng, nhưng “kinh tế mà không có chính trị thì không thể được biện minh, vì điều này sẽ cản trở việc chọn những cách khác để xử lý những khía cạnh khác nhau của cơn khủng hoảng hiện nay”. (159) Thay vào đó, “điều cần thiết là một nền chính trị có viễn kiến, và có khả năng đạt được một cách tiếp cận mới có tính hội nhập các qui phạm, để xử lý những khía cạnh khác nhau của cơn khủng hoảng”. (160) Nói cách khác, “một “nền chính trị lành mạnh… sẽ có khả năng cải cách và phối kết các cơ chế, thúc đẩy những thực hành tốt nhất, vượt qua những áp lực không đáng và sức ì quan liêu”. (161) Chúng ta không thể kỳ vọng kinh tế làm công việc này, chúng ta cũng không cho phép kinh tế chiếm quyền lực thật sự của quốc gia.
  2. Đứng trước nhiều hình thức chính trị nhỏ nhen tập chú vào những lợi ích tức thời, tôi muốn nhắc lại rằng “nghệ thuật quản lý nhà nước được thể hiện rõ khi ở trong những thời khắc khó khăn chúng ta thượng tôn những nguyên tắc cơ bản và nghĩ đến thiện ích chung lâu dài. Các quyền lực chính trị sẽ không cảm thấy dễ dàng việc đảm nhận nhiệm vụ này trong công việc xây dựng đất nước”, (162) càng không dễ dàng việc rèn đúc một dự án chung cho gia đình nhân loại, hiện nay và trong tương lai. Việc nghĩ đến những người thuộc các thế hệ sau này sẽ không phục vụ cho các mục đích tranh cử, nhưng đó chính là điều mà công lý đích thực đòi hỏi. Như các giám mục Bồ Đào Nha đã khuyến dụ, trái đất “được trao cho mỗi thế hệ, để trao lại cho thế hệ đến sau”. (163)
  3. Xã hội toàn cầu đang chịu đựng những khiếm khuyết trầm trọng có tính cơ cấu, không thể được giải quyết bởi những biện pháp manh mún hay những sửa chữa tạm thời. Nhiều điều cần thay đổi, xuyên qua sự cải cách nền tảng và sự đổi mới thật cốt yếu. Chỉ một nền chính trị lành mạnh mới có khả năng điều hành tiến trình này, nhờ huy động nhiều bộ phận và nhiều kỹ năng đa dạng. Một nền kinh tế được hội nhập trong một chương trình chính trị, xã hội, văn hóa, và đại chúng – được định hướng phục vụ công ích – có thể mở đường cho “những khả năng khác nhau, trong đó sự sáng tạo của con người và những lý tưởng tiến bộ không bị tê liệt, nhưng đúng hơn năng lực ấy được điều hướng theo những kênh mới”. (164)
Đức ái chính trị
  1. Nhìn nhận rằng mọi người là anh chị em của chúng ta, và tìm kiếm các hình thức thân hữu xã hội bao gồm được mọi người, đó không chỉ là một lý tưởng. Nó đòi hỏi một sự dấn thân có tính quyết định để phác họa những phương tiện hữu hiệu cho mục đích này. Mọi cố gắng theo chiều hướng này sẽ chính là một thực thi bác ái rất cao quí. Đành rằng các cá nhân có thể giúp đỡ những người khác đang cần, nhưng khi các cá nhân liên kết với nhau khởi động các tiến trình xã hội để mưu cầu tình huynh đệ và công lý cho tất cả, thì đó là họ đi vào “lãnh vực bác ái rộng lớn nhất, gọi là bác ái chính trị”. (165) Điều này đòi hỏi phải kiến tạo một trật tự xã hội và chính trị, mà linh hồn của nó là bác ái xã hội. (166) Một lần nữa, tôi kêu gọi một sự trân trọng mới mẻ đối với chính trị hiểu như “một ơn gọi cao quí và là một trong những hình thức cao nhất của bác ái, trong mức độ nó tìm kiếm thiện ích chung”. (167)
  2. Mọi sự dấn thân được cảm hứng từ học thuyết xã hội của Giáo hội đều “được rút ra từ bác ái, mà theo giáo huấn của Chúa Giêsu thì bác ái là tổng hợp của toàn thể Lề Luật (x. Mt 22,36-40)”. (168) Điều này có nghĩa là nhìn nhận rằng “tình yêu, chảy tràn với những cử chỉ nhỏ diễn tả sự quan tâm lẫn nhau, thì cũng có ý nghĩa công dân và chính trị, và nó thể hiện nơi mọi hành động tìm cách xây dựng một thế giới tốt hơn”. (169) Vì thế, bác ái tìm cách diễn tả không chỉ trong những mối tương quan gần gũi và mật thiết, mà còn trong “những tương quan vĩ mô: xã hội, kinh tế và chính trị”. (170)
  3. Bác ái chính trị này phát xuất từ một ý thức xã hội siêu vượt trên mọi não trạng cá nhân chủ nghĩa: “Bác ái xã hội làm cho chúng ta yêu quí thiện ích chung”, nó thúc đẩy ta tìm kiếm một cách hiệu quả sự tốt lành cho mọi người, được nhìn không chỉ như những cá nhân hay những ngôi vị riêng biệt, mà còn trong chiều kích xã hội liên kết họ với nhau”. (171) Mỗi chúng ta là một nhân vị cách trọn vẹn khi chúng ta là thành phần của một dân; đồng thời, không có các dân tộc nếu không có sự tôn trọng cá thể tính của mỗi con người. “Dân” và “người” là những thuật ngữ tương liên. Tuy nhiên, ngày nay có những cố gắng giảm trừ con người đến chỉ còn là những cá nhân cô lập, dễ dàng bị dẫn dắt bởi những quyền lực theo đuổi các lợi ích bất minh. Nền chính trị tốt sẽ tìm những cách thế xây dựng các cộng đồng ở mọi cấp độ đời sống xã hội, để hiệu chỉnh và định hướng lại sự toàn cầu hóa và nhờ đó tránh những hậu quả tai hại của nó.
Đức ái hữu hiệu
  1. “Tình yêu có tính xã hội” (172) giúp người ta có thể tiến tới một nền văn minh tình thương, điều mà tất cả chúng ta đều có thể cảm thấy mình được kêu gọi. Bác ái, với xung năng hướng tới tính phổ quát của nó, có khả năng xây dựng một thế giới mới. (173) Không phải là cảm tính đơn thuần, nó là phương tiện tốt nhất để khám phá những nẻo đường hiệu quả cho sự phát triển của mọi người. Tình yêu có tính xã hội là một “lực có khả năng khơi gợi những cách thức mới để tiếp cận các vấn đề của thế giới ngày nay, để đổi mới cách sâu xa các cơ cấu, các tổ chức xã hội, và các hệ thống pháp lý từ bên trong”. (174)
  2. Bác ái nằm ở trung tâm của mọi xã hội cởi mở và lành mạnh, nhưng ngày nay “nó dễ dàng bị loại bỏ vì bị cho là không phù hợp cho việc giải thích và hướng dẫn trách nhiệm luân lý”. (175) Bác ái, khi được đi kèm bởi một thái độ dấn thân cho sự thật, thì không chỉ là cảm nghĩ cá nhân, và do đó không nên bị nhầm lẫn với những cảm xúc và quan điểm chủ quan xảy đến bất chợt”. (176) Thật vậy, mối liên hệ mật thiết của nó với sự thật củng cố tính phổ quát của nó, và giữ cho nó khỏi “bị giới hạn nơi một không gian chật hẹp thiếu vắng các tương quan”. (177) Nếu không, nó sẽ “bị loại khỏi các kế hoạch và các tiến trình thúc đẩy sự phát triển nhân bản trên bình diện phổ quát, trong cuộc đối thoại giữa tri và hành”. (178) Nếu không có sự thật, cảm xúc sẽ thiếu nội dung tương quan và xã hội. Sự mở ra của bác ái đối với sự thật, vì thế, sẽ bảo vệ nó khỏi “một chủ nghĩa duy tín tước mất tầm vóc nhân bản và phổ quát của nó”. (179)
  3. Bác ái cần ánh sáng của sự thật mà chúng ta không ngừng tìm kiếm. “Đó vừa là ánh sáng của lý trí vừa là ánh sáng của đức tin”, (180) và không chấp nhận bất cứ hình thức nào của chủ trương tương đối. Nhưng nó cũng tôn trọng sự phát triển của các khoa học và sự đóng góp thiết yếu của chúng cho việc tìm ra phương tiện chắc chắn nhất và thực tiễn nhất để đạt được các kết quả mong muốn. Vì khi thiện ích của người khác bị đe dọa, thì những ý hướng tốt lành mà thôi sẽ không đủ. Các cố gắng cụ thể phải được thực hiện để đem lại bất cứ gì mà người ta và đất nước của họ cần cho công cuộc phát triển.
THỰC THI ĐỨC ÁI CHÍNH TRỊ
  1. Có một loại tình yêu rất “thúc bách”: những hành động của nó được thúc đẩy trực tiếp từ bác ái và được hướng đến các cá nhân và các dân tộc. Cũng có một tình yêu rất “khơi động”, được diễn tả trong những hành động của lòng bác ái nhằm kiến tạo những cơ chế lành mạnh hơn, những qui định công bằng hơn, những cơ cấu có sức nâng đỡ hơn. (181) Nghĩa là, “đó là loại hành động yêu thương cũng tất yếu không kém, nhằm cố gắng tổ chức và cơ cấu xã hội sao cho những người láng giềng của mình sẽ không còn thấy họ ở trong cảnh nghèo nữa”. (182) Đó là một hành động của lòng bác ái để trợ giúp ai đó đau khổ, nhưng đó cũng là một hành động của lòng bác ái để giúp thay đổi thân phận xã hội gây ra đau khổ cho người ta, cho dù chúng ta không biết họ. Nếu một người nào đó giúp một cụ già lội qua một con sông, đó là một hành động bác ái tốt đẹp. Đàng khác, các chính khách xây dựng những cây cầu, thì đó cũng là một hành động bác ái. Trong khi một người có thể giúp một người khác bằng cách chia sẻ cái gì đó để ăn, thì các chính khách tạo ra việc làm cho người kia, và như vậy đang thực hành một hình thức bác ái cao độ làm cho hoạt động chính trị của mình nên tôn quí.
Những hy sinh xuất phát từ đức ái
  1. Lòng bác ái này, là cốt lõi tâm linh của chính trị, luôn luôn là một tình yêu ưu tiên thể hiện với những người đang gặp khó khăn nhất; nó là bệ đỡ mọi việc chúng ta làm để phục vụ họ. (183) Chỉ một cái nhìn bởi lòng bác ái có thể làm cho phẩm giá của người khác được nhìn nhận, và nhờ đó người nghèo được đón nhận và trân trọng trong phẩm giá của họ, được tôn trọng trong căn tính và văn hóa của họ, và như thế được hội nhập thực sự vào xã hội. Cái nhìn ấy nằm ở trung tâm của tinh thần chính trị đích thực. Nó nhìn thấy những nẻo đường mở ra, khác hẳn với những nẻo đường của một chủ nghĩa thực dụng vô hồn. Nó làm chúng ta nhận ra rằng “vấn đề nghèo đói không thể được xử lý bằng cách thúc đẩy những chiến lược ngăn chặn chỉ nhằm xoa dịu người nghèo và làm cho họ ngoan ngoãn dễ bảo. Thật buồn biết bao khi chúng ta thấy đằng sau những công cuộc được gọi là bác ái, người khác bị giảm trừ đến chỉ còn thụ động”. (184) Điều cần là phải có những nẻo đường mới để biểu lộ chính mình và tham gia trong xã hội. Giáo dục phục vụ cho những mục đích này qua việc tạo điều kiện cho mỗi người kiến tạo tương lai của chính mình. Ở đây chúng ta cũng thấy tầm quan trọng của nguyên tắc bổ trợ, vốn không tách rời khỏi nguyên tắc liên đới.
  2. Những xem xét này giúp chúng ta nhận ra nhu cầu khẩn thiết phải chiến đấu chống lại tất cả những gì đe dọa hay xâm phạm các quyền căn bản của con người. Các chính khách được kêu gọi “chăm sóc nhu cầu của các cá nhân và các dân tộc. Việc chăm sóc những người khó khăn cần đến sức mạnh và sự dịu dàng, sự cố gắng và lòng quảng đại, trong bối cảnh của não trạng công chức và riêng tư hóa tất yếu dẫn đến ‘văn hóa vứt bỏ’… Nó liên can đến việc nhận trách nhiệm về hiện trạng, với những hoàn cảnh bị loại trừ và khốn khổ nhất, và liên can tới khả năng đem lại phẩm giá cho người ta trong những hoàn cảnh ấy”. (185) Các chính khách là những tác nhân, những người xây dựng, với những hoài bão lớn, có một tầm nhìn rộng, thực tiễn và hiện thực để nhìn thấy xa hơn các biên giới của mình. Mối quan tâm lớn nhất của họ không nên là từng lá phiếu bầu, mà nên hướng về việc tìm ra những giải pháp hữu hiệu cho “hiện tượng loại trừ về kinh tế và xã hội, với những hậu quả đầy tàn phá của nó: nạn buôn người, thị trường mô và nội tạng con người, nạn khai thác tình dục các trẻ trai và gái, lao động khổ sai, nạn mại dâm, buôn bán ma túy và vũ khí, nạn khủng bố và tội phạm quốc tế có tổ chức. Đó là tầm rộng của những hoàn cảnh này và hậu quả của nó trên những mảnh đời vô tội, vì thế chúng ta phải tránh mọi cám dỗ rơi vào một thứ chủ nghĩa duy danh với những tuyên bố suông nhằm làm yên ổn lương tâm mình. Chúng ta cần bảo đảm rằng các cơ chế của chúng ta thật sự hữu hiệu trong cuộc đấu tranh chống lại tất cả những thảm cảnh này”. (187) Điều này bao gồm việc tận dụng các nguồn lực lớn lao được cung ứng bởi sự phát triển công nghệ.
  3. Chúng ta vẫn còn xa viễn ảnh về một sự toàn cầu hóa các quyền căn bản nhất của con người. Vì thế chính trị thế giới cần xem việc xóa bỏ cách hữu hiệu tình trạng nghèo đói là một trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu của mình. Thật vậy, “khi việc đầu tư tài chánh thao túng giá thực phẩm, xem đó chỉ như một thứ hàng hóa không hơn không kém, thì hàng triệu người phải chịu khốn khổ và chết vì đói. Đồng thời, hàng tấn thực phẩm bị vứt bỏ. Điều này làm nên một cớ vấp phạm thực sự. Nạn đói là tội ác; thực phẩm là một quyền bất khả nhượng”. (188) Rất thường, khi chúng ta đang tranh luận về ý thức hệ hay về ngữ nghĩa, thì chúng ta để cho anh chị em mình đang chết vì đói khát, vì không có nhà ở hay không được săn sóc y tế. Bên cạnh những nhu cầu căn bản vẫn còn chưa được đáp ứng này, nạn buôn người cho thấy một nguồn khác nữa của sự sỉ nhục nhân tính, một sự sỉ nhục mà chính trị quốc tế, vượt quá những diễn văn hùng hồn và những ý hướng tốt lành, không thể tiếp tục chấp nhận nữa. Đây là những điều thật cấp thiết, không thể trì hoãn.
Một đức ái hội nhập và liên kết
  1. Bác ái chính trị cũng được diễn tả trong một tinh thần mở ra với mọi người. Các lãnh đạo chính quyền phải là những người đầu tiên có những hy sinh để thúc đẩy việc gặp gỡ và tìm kiếm sự đòng thuận trong ít nhất một số vấn đề. Họ cần sẵn sàng lắng nghe các quan điểm khác và dành chỗ cho mọi người. Xuyên qua hy sinh và kiên nhẫn, họ có thể giúp tạo ra một thực tại đa diện xinh đẹp trong đó mọi người đều có chỗ. Ở đây, các cuộc thương thuyết kinh tế không tác dụng. Chúng ta cần một cái gì đó khác: đó là một sự trao đổi các ân ban để phục vụ thiện ích chung. Điều này nghe có vẻ ngây thơ và lý tưởng, nhưng chúng ta không thể từ bỏ mục đích cao quí này.
  2. Vào một thời mà những hình thức bất bao dung cực đoan khác nhau đang phá hoại tương quan giữa các cá nhân, các nhóm và các dân tộc, chúng ta hãy dấn thân sống và truyền bá giá trị của sự tôn trọng người khác, giá trị của một tình yêu có khả năng tiếp đón những khác biệt, và ưu tiên cho phẩm giá của mọi con người, bất kể các ý kiến, quan điểm, thực hành, và ngay cả tội lỗi của họ. Ngay cả dù đứng trước những hình thức của chủ nghĩa cực đoan, não trạng khép kín, và sự phân hóa xã hội và văn hóa đang tràn ngập hôm nay, một chính trị gia tốt sẽ trước hết lưu tâm sao cho các tiếng nói khác biệt được lắng nghe. Những bất đồng có thể dẫn đến xung đột, nhưng sự đồng nhất cũng làm tê liệt và dẫn tới suy bại về văn hóa. Ước gì chúng ta không hài lòng với tình trạng bị đóng kín trong một mảnh của thực tại.
  3. Về phương diện này, Đại giáo trưởng Ahmad Al-Tayyeb và tôi đã kêu gọi các “nhà thiết kế chính sách quốc tế và kinh tế thế giới tận tâm làm việc để lan tỏa văn hóa bao dung và sự sống chung hòa bình; để can thiệp sớm nhất nhằm chặn đứng sự đổ máu những người vô tội”. (189) Khi một chính sách nào đó nhân danh lợi ích của nước mình mà gieo rắc hận thù và sợ hãi nơi các nước khác, thì phải cảnh giác, phản ứng kịp thời và ngay lập tức điều chỉnh nó.
KHẢ NĂNG SINH SẢN QUAN TRỌNG HƠN KẾT QUẢ
  1. Bên cạnh hoạt động miệt mài của mình, các chính trị gia cũng là những con người nam và nữ. Họ được mời gọi diễn tả tình yêu trong các mối tương quan liên vị hằng ngày của mình. Trong tư cách là những con người, họ cần ghi nhận rằng “thế giới hiện đại, với những tiến bộ kỹ thuật của nó, có xu hướng ngày càng chức năng hóa việc đáp ứng những ao ước của con người, ngày nay được phân loại tỉ mỉ giữa các dịch vụ khác nhau. Người ta ngày càng ít được gọi bằng tên, con người độc đáo ngày càng ít được đối xử như một nhân vị với những cảm xúc, những đau khổ, những vấn đề, những niềm vui, và gia đình của mình. Họ đau ốm, người ta chỉ cần biết bệnh của họ để chữa; họ thiếu tiền, người ta chỉ cần chi tiền; họ không có nhà, người ta chỉ cần cung cấp chỗ ở; họ muốn nghỉ ngơi, giải trí, người ta chỉ cần đáp ứng nhu cầu đó”. Nhưng không bao giờ được quên rằng “việc yêu thương những con người hèn mọn nhất như anh chị em mình, như thể trên thế giới này chỉ có người ấy mà thôi, thì không thể bị xem là một sự phung phí thời gian”. (190)
  2. Chính trị cũng phải dành chỗ cho một tình yêu ân cần đối với người khác. “Ân cần là gì? Đó là tình yêu đẩy ta đến gần và trở thành rất thực. Một chuyển động khởi phát từ con tim chúng ta và đạt tới con mắt, lỗ tai, bàn tay… Ân cần là sự chọn lựa của những con người mạnh nhất và can đảm nhất”. (191) Giữa những bận tâm hằng ngày của đời sống chính trị, “những người bé nhỏ nhất, yếu ớt nhất, nghèo nhất phải chạm được trái tim chúng ta: thật vậy, họ có ‘quyền’ trên trái tim và linh hồn chúng ta. Họ là anh chị em chúng ta, vì thế, chúng ta phải yêu mến và chăm sóc họ”. (192)
  3. Tất cả điều này có thể giúp chúng ta nhận ra rằng điều quan trọng không phải là không ngừng đạt được những kết quả lớn, vì không thể luôn luôn như vậy. Trong hoạt động chính trị, chúng ta nên nhớ rằng “bất chấp những yếu tố bên ngoài, mọi con người đều rất thánh và đều xứng đáng với tình yêu của chúng ta. Vì thế, nếu tôi có thể giúp ít nhất một người có được cuộc sống tốt hơn, thì như vậy đã đủ biện minh cho việc tôi trao hiến sự sống của mình. Thật tuyệt vời được làm dân tín trung của Thiên Chúa. Chúng ta đạt được sự viên mãn khi chúng ta phá đổ các bức tường, và trái tim chúng ta được lấp đầy bởi những khuôn mặt và những cái tên!” (193) Những mục tiêu lớn của các giấc mơ và các kế hoạch của chúng ta chỉ có thể đạt được một phần. Nhưng vượt quá điều này, những ai yêu thương, và những ai không còn nhìn chính trị chỉ như một cuộc theo đuổi quyền lực, “có thể chắc chắn rằng không có một hành động yêu thương nào của chúng ta mất đi cả, cũng không mất đi một hành động nào chân thành quan tâm tới người khác cả. Không một hành động yêu mến Thiên Chúa nào sẽ bị mất, không một cố gắng quảng đại nào vô nghĩa, không một sự chịu đựng nỗi đau nào trở nên phung phí. Tất cả những điều này vây quanh thế giới chúng ta như một năng lực sống động”. (194)
  4. Vì thế, thật là cao quí việc đặt hy vọng của chúng ta nơi sức mạnh giấu ẩn của những hạt giống thiện hảo mà chúng ta gieo vãi, và qua đó khởi động các tiến trình mà hoa trái của chúng sẽ được gặt hái bởi người khác. Chính trị tốt sẽ kết hợp tình yêu với hy vọng, và với sự tin tưởng vào thiện căn trong trái tim con người. Thật vậy, “đời sống chính trị chân thực, được xây dựng trên sự tôn trọng luật pháp và sự thẳng thắn đối thoại giữa các cá nhân, thì không ngừng được đổi mới bất cứ khi nào người ta nhìn nhận rằng mọi con người nam nữ, và mọi thế hệ, đều mang triển vọng về những năng lực tương quan, tri thức, văn hóa và tâm linh mới mẻ”. (195)
  5. Được nhìn theo cách này, chính trị là một cái gì đó cao quí hơn là việc vận động, tiếp thị, và tuyên truyền. Những thứ này gieo chia rẽ, xung đột, và gieo một thái độ hoài nghi tiêu cực không có khả năng cổ vũ người ta theo đuổi thiện ích chung. Có những lúc, khi nghĩ về tương lai, chúng ta thực sự tự hỏi: “Tại sao tôi làm điều này?”, “Đâu là mục đích thật sự của tôi?” Vì khi thời gian trôi qua, nghĩ về quá khứ, những câu hỏi sẽ không là: “Bao nhiêu người ủng hộ tôi?”, “Bao nhiêu người bỏ phiếu cho tôi?”, “Bao nhiêu người có một hình ảnh tích cực về tôi?” Những câu hỏi thực sự, và có thể rất đau đớn, sẽ là: “Bao nhiêu tình yêu tôi đã đặt vào công việc của mình?”, “Tôi đã làm gì cho sự tiến bộ của dân tộc mình?”, “Tôi đã để lại dấu ấn gì trong đời sống xã hội”, “Tôi đã tạo ra những mối gắn kết thực sự nào?”, “Tôi đã tác động được những lực tích cực nào?”, “Tôi đã gieo được bao nhiêu sự bình an trong xã hội?”, “Tôi đã đạt được những điều tốt đẹp nào trong chức vụ được ủy trao cho tôi?”
CHƯƠNG VI
ĐỐI THOẠI VÀ TÌNH THÂN HỮU TRONG XÃ HỘI
  1. Việc tiếp cận, nói, lắng nghe, nhìn, tiến tới biết nhau, và hiểu nhau, tìm kiếm thiện ích chung: tất cả những điều này được tóm kết trong một từ “đối thoại”. Nếu chúng ta muốn gặp gỡ và giúp đỡ nhau, chúng ta phải đối thoại. Tôi không cần phải nhấn mạnh những ích lợi của đối thoại. Tôi chỉ thấy phải tự hỏi thế giới của chúng ta sẽ như thế nào nếu không có sự đối thoại kiên nhẫn của nhiều con người quảng đại, là những người giữ được sự gắn kết của các gia đình và các cộng đồng. Không giống như bất đồng và xung đột, việc kiên trì và can đảm đối thoại sẽ không gây tiếng vang, nhưng âm thầm giúp cho thế giới này sống tốt đẹp hơn chúng ta tưởng tượng.
ĐỐI THOẠI XÃ HỘI CHO MỘT NỀN VĂN HÓA MỚI
  1. Một số người muốn trốn tránh thực tế, tị nạn trong thế giới nhỏ bé của họ; những người khác phản ứng lại thực tế bằng bạo lực đầy sức tàn phá. Nhưng “ngoài thái độ thờ ơ ích kỷ và thái độ phản kháng đầy bạo lực, luôn luôn còn một khả năng chọn lựa khác: đó là đối thoại. Đối thoại giữa các thế hệ; đối thoại giữa dân tộc chúng ta, vì chúng ta chính là dân tộc đó; sẵn sàng cho và nhận, trong khi vẫn mở ra với sự thật. Một quốc gia triển nở khi việc đối thoại xây dựng xảy ra giữa nhiều thành tố văn hóa phong phú của nó: văn hóa bình dân, văn hóa đại học, văn hóa giới trẻ, văn hóa nghệ thuật, văn hóa công nghệ, văn hóa kinh tế, văn hóa gia đình, và văn hóa truyền thông”. (196)
  2. Đối thoại thường bị nhầm lẫn với một cái gì đó rất khác: sự sôi nổi trao đổi ý kiến trên các mạng xã hội, thường dựa trên thông tin đại chúng vốn không luôn luôn đáng tin cậy. Những trao đổi này chỉ là những độc thoại đặt song song bên nhau. Chúng có thể lôi cuốn sự chú ý nào đó do âm giọng sắc bén và mạnh bạo của chúng. Nhưng độc thoại không lôi cuốn được ai, và nội dung của nó thường qui ngã và mâu thuẫn.
  3. Thật vậy, đủ thứ dữ kiện và quan điểm ồn ào trên truyền thông thường là một cản trở cho đối thoại, vì nó cho phép người ta cố bám vào những ý kiến, những sự quan tâm và những chọn lựa của mình, chắc mẩm rằng mọi người khác đều sai. Người ta dễ phỉ báng và xúc phạm đến đối thủ ngay từ đầu hơn là mở ra một cuộc đối thoại đầy sự tôn trọng nhằm đạt được đồng thuận ở một bình diện sâu hơn. Tệ hơn nữa, loại ngôn ngữ này, thường rút ra từ những vận động chính trị trên truyền thông, đã tràn lan đến nỗi trở thành một phần của đàm thoại hằng ngày. Việc tranh luận thường bị thao túng bởi những lợi ích có sức mạnh hơn muốn ma mãnh lôi kéo công luận ủng hộ mình. Loại thao túng này có thể thấy không chỉ nơi các chính quyền, mà còn nơi lãnh vực kinh tế, chính trị, truyền thông, tôn giáo, và những lãnh vực khác. Người ta có thể cố bao biện để phục vụ cho những lợi ích kinh tế hay ý thức hệ của mình, nhưng sớm hay muộn, nó sẽ chống lại chính những lợi ích đó.
  4. Ở đâu thiếu đối thoại thì có nghĩa rằng ở đó người ta không quan tâm đến công ích, nhưng chỉ tranh thủ quyền lực, hoặc giả chỉ là để tìm cách áp đặt các ý tưởng của mình. Những bàn tròn, như vậy, sẽ trở thành những cuộc thương lượng mà thôi, trong đó người ta cố nắm được mọi lợi điểm hết sức có thể, thay vì hợp tác mưu cầu thiện ích chung. Những người hùng của tương lai sẽ là những người có thể phá vỡ cái não trạng không lành mạnh này, và quyết tâm phụng sự cho sự thật với lòng tôn trọng, chứ không phải tìm lợi ích riêng. Mong sao, nhờ ơn Thiên Chúa, những người hùng như thế đang âm thầm xuất hiện, ngay cả hiện nay, giữa xã hội chúng ta.
Cùng nhau xây dựng
  1. Đối thoại xã hội chân thực đòi khả năng tôn trọng quan điểm của người khác, chấp nhận rằng quan điểm ấy có thể bao gồm những xác tín và những quan tâm chính đáng. Dựa trên căn tính và kinh nghiệm của mình, những người khác sẽ có phần đóng góp, và đáng mong ước rằng họ sẽ nêu rõ các quan điểm của họ để cuộc tranh luận công khai có được hoa trái nhiều hơn. Khi các cá nhân hay các nhóm nhất quán trong suy nghĩ của mình, bảo vệ các giá trị và các xác tín của mình, và phát triển các luận cứ của mình, thì điều này chắc chắn sẽ đem lại ích lợi cho xã hội. Nhưng điều này chỉ có thể xảy ra khi có sự đối thoại chân thực và mở ra với người khác. Thật vậy, “trong một tinh thần đối thoại đích thực, chúng ta sẽ lớn lên trong khả năng nắm được ý nghĩa của những gì người khác nói và làm, ngay cả dù chúng ta không chấp nhận đó như là xác tín của chính chúng ta. Bằng cách này, chúng ta có thể thẳng thắn và cởi mở về các niềm tin của chúng ta, trong khi tiếp tục thảo luận, tìm kiếm những điểm tương đồng, và nhất là cùng nhau làm việc và phấn đấu”. (197) Việc tranh luận công khai, nếu nó chừa chỗ cho mọi người và không thao túng hay che giấu thông tin, là một sự thúc đẩy thường xuyên giúp nắm hiểu hơn sự thật, hay ít nhất là sự diễn tả tốt hơn về sự thật. Nó giữ cho người ta khỏi trở nên tự mãn và qui ngã trong nhãn giới của họ, và trong những bận tâm nhất định của họ. Chúng ta đừng quên rằng “những khác biệt có sức sáng tạo; chúng tạo ra căng thẳng, và trong khi hóa giải căng thẳng ấy thì nhân loại tiến bộ”. (198)
  2. Có một xác tín ngày càng rõ rằng cùng với những tiến bộ khoa học được chuyên môn hóa, chúng ta cần sự liên lạc nhiều hơn giữa các lãnh vực. Mặc dù thực tại là một, nó có thể được tiếp cận từ nhiều góc khác nhau và bằng những phương pháp khác nhau. Có nguy cơ rằng một tiến bộ khoa học nào đó sẽ được xem như lăng kính duy nhất khả dĩ để nhìn một khía cạnh nào đó của đời sống, của xã hội và thế giới. Các nhà nghiên cứu là chuyên gia trong lãnh vực riêng của mình, nhưng cũng quen thuộc với những khám phá của các khoa học và các qui phạm khác, họ sẽ có lợi điểm để phân định các khía cạnh khác thuộc đối tượng nghiên cứu của mình, và nhờ đó họ mở ra với sự hiểu biết bao quát và toàn vẹn hơn về thực tại.
  3. Trong thế giới toàn cầu hóa hôm nay, “truyền thông có thể giúp chúng ta cảm thấy gần nhau hơn, tạo ra cảm giác về sự hiệp nhất gia đình nhân loại, đến lượt nó sẽ khơi lên tình liên đới và những cố gắng nghiêm túc để bảo đảm một đời sống có phẩm giá hơn cho mọi người… Truyền thông có thể giúp chúng ta rất nhiều trong việc này, nhất là hôm nay, khi các mạng truyền thông của con người đạt được những tiến bộ chưa từng có. Cách riêng internet cung ứng những khả năng lớn lao cho sự gặp gỡ và liên đới. Đây là một điều thực sự tốt lành, một món quà của Thiên Chúa”. (199) Chúng ta cần không ngừng bảo đảm rằng những hình thức truyền thông hôm nay đang thực sự hướng dẫn chúng ta tới sự gặp gỡ đầy quảng đại với những người khác, sự chân thành theo đuổi sự thật trọn vẹn, sự phục vụ, sự gần gũi với những người kém may mắn, và sự cổ võ cho thiện ích chung. Như các giám mục Australia đã chỉ ra, chúng ta không thể chấp nhận “một thế giới kỹ thuật số được hoạch định để khai thác những điểm yếu của chúng ta và phơi ra những điều tồi tệ nhất nơi người ta”. (200)
Nền tảng của sự đồng thuận
  1. Chủ nghĩa tương đối không phải là giải pháp. Dưới danh nghĩa bao dung, chủ trương tương đối rốt cục phó thác việc giải thích các giá trị luân lý cho những người nắm giữ quyền lực, để họ xác định theo ý của họ. “Nếu thiếu các chân lý khách quan, hay thiếu những nguyên tắc lành mạnh vốn khác với sự thỏa mãn các ước vọng riêng và các nhu cầu trước mắt của chúng ta… thì chúng ta không nên nghĩ rằng chỉ các nỗ lực chính trị hay sức mạnh của luật pháp thì đã đủ… Khi chính nền văn hóa bị suy bại, chân lý khách quan và các nguyên tắc có hiệu lực phổ quát không còn được trân trọng, thì luật pháp có thể chỉ được xem như những sự áp đặt độc đoán hay những cản trở cần phải tránh”. (201)
  2. Người ta có thể quan tâm đến chân lý, tìm kiếm chân lý đáp ứng ý nghĩa sâu xa nhất của đời sống không? Luật pháp là gì nếu không có niềm xác tín từ sự khôn ngoan ngàn đời rằng mỗi con người là thánh thiêng và không thể bị xúc phạm? Nếu xã hội phải có một tương lai, thì nó phải tôn trọng sự thật về phẩm giá con người và tuân theo sự thật đó. Giết người là điều sai trái không chỉ vì điều đó không được xã hội chấp nhận và bị trừng phạt bởi luật pháp, nhưng bởi vì một niềm xác tín sâu xa hơn. Đây là một sự thật được thấy hiển nhiên nhờ việc sử dụng lý trí và được chấp nhận trong lương tâm. Một xã hội tốt và đáng trọng cũng bởi cảm thức của nó trong việc tìm kiếm chân lý, và sự gắn bó của nó với những chân lý căn bản nhất.
  3. Chúng ta cần học biết lột trần những cách thức khác nhau trong đó sự thật bị xuyên tạc, bóp méo và che giấu trong những cảnh vực công cũng như tư. Điều chúng ta gọi là “sự thật” thì không phải là sự tường thuật các dữ kiện và các biến cố, như ta thấy trên các tờ nhật báo. Đó chủ yếu là sự tìm kiếm những nền móng chắc chắn nâng đỡ các quyết định và luật pháp của chúng ta. Điều này giả thiết sự nhìn nhận rằng tâm trí con người có khả năng vượt trên những mối quan tâm trước mắt và nắm hiểu một số sự thật bất biến, bây giờ cũng như trong quá khứ. Như khi khảo sát bản tính con người, lý trí khám phá những giá trị phổ quát rút ra từ bản tính ấy.
  4. Nếu chẳng vậy, phải chăng người ta không thể quan niệm rằng những quyền căn bản của con người mà chúng ta hiện xem là không thể phủ nhận thì sẽ bị phủ nhận bởi những người nắm quyền lực, một khi họ đạt được “sự đồng thuận” của một đám dân thờ ơ hoặc nhát sợ? Duy chỉ sự đồng thuận giữa các dân tộc khác nhau – mà chính sự đồng thuận này cũng có thể bị bóp méo – thì không đủ để bảo vệ họ. Chúng ta có nhiều bằng chứng về khả năng rất tốt lành của mình, nhưng chúng ta cũng phải nhìn nhận sức tàn phá nội tại nơi chúng ta. Sự dửng dưng và thái độ vô tâm của chủ nghĩa cá nhân mà chúng ta đã rơi vào, đó không phải cũng là hậu quả của việc chúng ta lười biếng theo đuổi những giá trị cao hơn vốn siêu vượt trên các nhu cầu nhất thời của mình đó sao? Chủ nghĩa tương đối luôn luôn mang cái nguy cơ rằng một sự thật được giả định nào đó sẽ bị áp đặt bởi kẻ nắm quyền lực hay bởi kẻ khôn khéo. Tuy nhiên, “khi đó là vấn đề về các qui tắc luân lý cấm chỉ sự dữ hiển nhiên, thì không có đặc quyền hay ngoại lệ cho bất cứ ai. Không có sự khác biệt nào, dù người ta là ông chủ của thế giới hay là ‘người nghèo nhất giữa những người nghèo’ trên mặt đất này. Trước những đòi hỏi của luân lý, tất cả chúng ta đều tuyệt đối bình đẳng với nhau”. (202)
  5. Điều hiện đang xảy ra, và lôi kéo chúng ta vào một lối suy nghĩ sai lầm và trống rỗng, đó là việc giảm trừ đạo đức và chính trị đến chỉ còn là vật lý. Tốt và xấu không còn tồn tại tự nơi chính nó; chỉ có một sự tính toán về những lợi ích hay những gánh nặng. Hậu quả của sự phế bỏ tư duy đạo đức, đó là luật pháp không còn được xem như sự phản ảnh một ý niệm nền tảng về công lý, mà chỉ như sự phản chiếu những ý niệm thời thượng. Đổ vỡ xảy ra: mọi sự bị “san bằng” bởi một sự đồng thuận nông cạn đã được mặc cả. Cuối cùng, luật của kẻ mạnh nhất sẽ thống trị.
Sự đồng thuận và sự thật
  1. Trong một xã hội đa nguyên, đối thoại là cách tốt nhất để nhận ra những điều luôn phải được khẳng định và tôn trọng, chứ không phải bất cứ sự đồng thuận tạm thời nào. Đối thoại như thế cần phải được bồi đắp và soi sáng bởi sự suy nghĩ rõ ràng, chứng cứ xác đáng, với nhiều nhãn giới khác nhau, và với sự đóng góp của những hiểu biết và những quan điểm từ các lãnh vực khác nhau. Nó cũng không thể loại trừ xác tín rằng người ta có thể đạt tới một số sự thật nền tảng vốn luôn được bảo vệ. Việc nhìn nhận sự tồn tại của một số giá trị bền vững, dù có thể khó phân định chúng đến mấy đi nữa, sẽ đem lại một nền đạo đức xã hội ổn định và chắc chắn. Một khi những giá trị nền tảng ấy được nhìn nhận và vận dụng xyên qua đối thoại và đồng thuận, chúng ta sẽ nhận thấy rằng chúng vươn lên trên sự đồng thuận; chúng siêu vượt trên các hoàn cảnh cụ thể của chúng ta, và vẫn luôn bất khả thương lượng. Sự nhận hiểu của chúng ta về ý nghĩa và tầm vóc của chúng có thể tăng triển – và trong phương diện ấy, đồng thuận là một thực tại năng động – nhưng nơi chính chúng, chúng được giữ vững là nhờ ở ý nghĩa nội tại của chúng.
  2. Nếu một cái gì đó luôn luôn phục vụ cho sự vận hành tốt của xã hội, đấy không phải vì ở phía sau nó có một sự thật bền vững mà trí năng có thể tiếp cận đó sao? Gắn chặt trong bản tính của con người và xã hội có tồn tại một số cấu trúc căn bản nâng đỡ sự phát triển và sự tồn tại của chúng ta. Ở đây có một số yêu cầu, và người ta có thể khám phá những yêu cầu này xuyên qua đối thoại, ngay cả dù – nói cách chặt chẽ – chúng không được tạo ra bởi sự đồng thuận. Một số qui tắc là thiết yếu cho đời sống xã hội, sự kiện này là dấu cho thấy rằng những qui tắc ấy thì tốt tự nơi chúng. Vì thế, không cần phải chống lại những lợi ích của xã hội, của sự đồng thuận, và của thực tế về sự thật khách quan. Ba thực tại này có thể được hòa hợp bất cứ khi nào qua đối thoại người ta không sợ đi thẳng vào cốt lõi của vấn đề.
  3. Phẩm giá của người khác phải được tôn trọng trong mọi hoàn cảnh, không phải vì phẩm giá ấy là một cái gì chúng ta đã phát minh hay tưởng tượng ra, nhưng bởi vì con người sở hữu một giá trị nội tại vượt trên giá trị của các đồ vật và các hoàn cảnh bất tất. Điều này đòi hỏi rằng con người phải được cư xử một cách khác. Mọi người đều sở hữu một phẩm giá bất khả nhượng, đó là một sự thật tương hợp với bản tính con người, không phụ thuộc vào mọi thay đổi văn hóa. Vì lý do này, mọi người có cùng phẩm giá bất khả xúc phạm trong mọi thời đại lịch sử, và không ai có thể xem mình có quyền – do những hoàn cảnh nào đó – bác bỏ niềm xác tín này hay hành động chống lại nó. Trí năng có thể điều tra thực tại của các sự vật xuyên qua suy tư, kinh nghiệm, và đối thoại, và đi đến nhận ra trong thực tại ấy – vốn siêu vượt trên trí năng – nền tảng của một số mệnh lệnh luân lý phổ quát.
  4. Đối với những người chủ trương bất khả tri, nền tảng này có thể được thấy là đủ để trao hiệu lực phổ quát và vững chãi cho các nguyên tắc đạo đức căn bản và bất khả thương lượng có thể giúp thế giới ngăn ngừa các hiểm họa khác. Là người tin, chúng ta xác tín rằng bản tính con người, xét như nguồn của các nguyên tắc đạo đức, được tạo dựng bởi Thiên Chúa, và rằng rốt cục chính Thiên Chúa là Đấng trao cho các nguyên tắc ấy nền tảng vững chắc của chúng. (203) Điều này không dẫn tới một thứ đạo đức nghiệt ngã, cũng không dẫn tới việc áp đặt bất cứ một hệ thống luân lý nào, vì những nguyên tắc luân lý nền tảng và có hiệu lực phổ quát có thể được thể hiện trong những qui tắc thực tiễn khác nhau. Như vậy, sẽ luôn luôn có chỗ cho đối thoại.
MỘT NỀN VĂN HÓA MỚI
  1. “Đời sống, dù với tất cả những sự đương đầu trong đó, là nghệ thuật gặp gỡ”. (204) Tôi vẫn thường kêu gọi việc phát triển một văn hóa gặp gỡ có khả năng vượt trên những khác biệt và chia rẽ. Điều này giả thiết phải làm việc để kiến tạo một ‘khối đa diện’ mà những cạnh khác nhau của nó hình thành một thực thể đa sắc, trong đó “cái toàn bộ thì lớn hơn từng phần”. (205) Hình ảnh một khối đa diện có thể biểu trưng một xã hội với những khác biệt bổ sung cho nhau, làm phong phú nhau, và chiếu sáng nhau, ngay cả giữa những bất đồng và những cái được giữ riêng. Mỗi chúng ta đều có thể học được điều gì đó từ những người khác. Không ai vô dụng và không ai đáng vứt bỏ đi. Điều này cũng giả thiết phải tìm cách để bao gồm những người ở các vùng ngoại biên cuộc sống. Vì họ có một cách khác để nhìn sự vật, nên họ nhìn thấy những khía cạnh của thực tại vốn không được nhìn thấy bởi các trung tâm quyền lực, là nơi mà các quyết định quan trọng được đưa ra.
Sự gặp gỡ trở thành văn hóa
  1. Từ “văn hóa” nói về một cái gì đó nằm sâu trong một dân tộc, những niềm xác tín được trân quí nhất của nó và lối sống của nó. “Văn hóa” của một dân tộc thì không chỉ là một ý niệm trừu tượng. Nó liên hệ với những khát vọng của người ta, những quan tâm của họ, và nói chung là lối sống của họ. Nói về một “văn hóa gặp gỡ” có nghĩa rằng chúng ta, trong tư cách một dân, nên sốt sắng gặp gỡ người khác, tìm kiếm những điểm chung, xây những nhịp cầu, vạch một dự án có bao gồm mọi người. Điều này trở thành một cảm hứng và một phong cách sống. Chủ thể của nền văn hóa này là dân chúng, chứ không duy chỉ là một bộ phận của xã hội ‘bình định’ phần còn lại, với sự trợ giúp của các nguồn lực chuyên môn và truyền thông.
  2. Hòa bình của xã hội đòi phải dày công và phải có kỹ năng. Việc dùng sự khéo léo và một số phương tiện để kiểm soát các quyền tự do và những sự khác biệt thì dễ hơn nhiều. Nhưng hòa bình như thế rất hời hợt và mong manh, không phải là hoa trái của một văn hóa gặp gỡ có khả năng đem lại sự ổn định lâu dài. Việc hội nhập những khác biệt là một tiến trình chậm chạp và khó hơn nhiều, nhưng điều đó mới bảo đảm cho một nền hòa bình đích thực và bền vững. Hòa bình ấy không đạt được bằng cách chỉ dựa vào những người sạch sẽ không tì vết, vì “ngay cả những người được xem là có vấn đề do các sai lỗi của họ thì cũng có điều gì đó để cống hiến mà chúng ta không được bỏ qua”. (206) Hòa bình cũng không đến từ sự dửng dưng với những đòi hỏi của xã hội, hay việc trấn áp những quấy rối, bởi vì nó không phải là “một sự đồng thuận trên giấy tờ, hay một hòa bình tạm bợ cho một thiểu số hài lòng”. (207) Điều quan trọng là tạo ra những tiến trình gặp gỡ, những tiến trình xây dựng một dân tộc có thể chấp nhận những khác biệt. Chúng ta hãy trang bị cho con cái mình vũ khí đối thoại! Chúng ta hãy dạy cho chúng chiến đấu trong cuộc chiến của nền văn hóa gặp gỡ!
Niềm vui của việc nhìn nhận người khác
  1. Tất cả những điều này yêu cầu phải nhận thức rằng người khác có quyền trở nên chính họ và có quyền khác với mình. Sự nhìn nhận này, khi trở thành một văn hóa, sẽ giúp tạo ra một khế ước xã hội. Nếu không có sự nhìn nhận này, người ta sẽ tìm những cách tế nhị để làm cho người khác trở thành không quan trọng, không phù hợp, và không có giá trị gì đối với xã hội. Trong khi tẩy chay một số hình thức hữu hình của bạo lực, thì một loại bạo lực khác tinh tế hơn có thể bắt rễ: bạo lực của những người khinh rẻ những kẻ khác mình, nhất là khi những đòi hỏi của họ cách nào đó động chạm đến các lợi ích riêng của mình.
  2. Khi một phần của xã hội bóc lột tất cả những gì mà thế giới có để cung ứng, làm như thể người nghèo không hiện hữu, thì cuối cùng sẽ dẫn đến các hậu quả. Sớm hay muộn, việc dửng dưng sự hiện hữu và các quyền của người khác sẽ làm vọt ra một hình thức bạo lực nào đó, thường rất bất ngờ. Tự do, bình đẳng và huynh đệ có thể vẫn còn mãi là những lý tưởng cao vời trừ phi chúng có thật đối với mọi người. Sự gặp gỡ không thể xảy ra chỉ giữa những người nắm giữ quyền lực kinh tế, chính trị, và học thuật. Sự gặp gỡ xã hội đúng nghĩa sẽ cần một cuộc đối thoại liên quan tới nền văn hóa của đa số dân chúng. Điều thường xảy ra là các ý tưởng tốt không được chấp nhận bởi những thành phần nghèo của xã hội, bởi vì các ý tưởng ấy được trình bày trong một khung văn hóa không phải của họ, và họ không thể nhận ra mình trong đó. Một khế ước xã hội có tính hiện thực và bao gồm cũng phải là một “khế ước văn hóa” nữa, trong đó người ta tôn trọng và nhìn nhận những thế giới quan, những văn hóa và lối sống khác nhau cùng tồn tại.
  3. Chẳng hạn, các dân tộc bản địa không chống lại sự tiến bộ, nhưng họ hiểu sự tiến bộ một cách khác, thường là nhân bản hơn nền văn hóa hiện đại của các dân tộc phát triển. Văn hóa của họ không nhằm phục vụ lợi ích của những kẻ mạnh, những kẻ có xu hướng tạo ra cho mình một thứ thiên đàng trần gian. Thái độ thiếu bao dung và thiếu tôn trọng đối với những nền văn hóa của dân bản địa là một hình thức bạo lực đặt nền trên một cách nhìn lạnh lùng phán xét họ. Không thể có sự thay đổi sâu xa, đích thực và bền vững trừ phi nó bắt đầu từ những nền văn hóa khác nhau, nhất là từ văn hóa của người nghèo. Một khế ước văn hóa sẽ tránh cách hiểu đơn nhất về căn tính của một nơi chốn cụ thể; nó đòi phải tôn trọng tính đa dạng bằng việc cung ứng các cơ hội giúp tiến bộ và giúp hội nhập xã hội cho mọi người.
  4. Một khế ước như thế cũng đòi phải nhìn nhận rằng một số điều có thể phải bị loại bỏ vì thiện ích chung. Không ai có thể sở hữu toàn bộ sự thật hay có thể thỏa mãn mọi mong ước của mình, vì việc đòi hỏi như vậy sẽ dẫn tới chỗ xóa bỏ người khác qua việc phủ nhận các quyền của họ. Một ý niệm sai lầm nào đó về bao dung phải nhường chỗ cho một tinh thần hiện thực có tính đối thoại của những con người nam nữ vẫn trung tín với các nguyên tắc của mình trong khi nhìn nhận người khác cũng có quyền hành động giống như vậy. Đây là sự nhìn nhận thực sự đối với người khác, chỉ có được nhờ tình yêu mà thôi. Chúng ta phải đứng ở vị trí của người khác, nếu muốn khám phá cái gì thực sự (hay ít ra cái gì có thể thông cảm được) nằm trong động cơ và các mối quan tâm của họ.
PHỤC HỒI LÒNG TỐT
  1. Chủ nghĩa cá nhân hưởng thụ đã dẫn đến những bất công trầm trọng. Người khác bị xem chỉ là vật cản trở sự hiện hữu êm ái của chúng ta; chúng ta đi đến chỗ đối xử với họ như là những mối phiền phức, và chúng ta trở thành ngày càng hung hăng. Điều này càng rõ trong những thời khắc khủng hoảng, thảm họa và thử thách, khi chúng ta bị cám dỗ để nghĩ rằng “phần ai nấy lo”. Nhưng ngay cả trong những lúc như vậy, chúng ta có thể chọn vun xới lòng từ tâm. Những người hành động cách này trở thành những vì sao chiếu sáng trong đêm tối.
  2. Thánh Phaolô mô tả từ tâm là một hoa trái của Chúa Thánh Thần (Gl 5,22). Ngài dùng từ Hi lạp ‘chrestótes’, nói về một thái độ tử tế, dễ chịu và sốt sắng giúp đỡ, không thô lỗ hay cứng cỏi. Những cá nhân có được phẩm chất này sẽ giúp làm cho cuộc sống của người khác trở nên dễ chịu hơn, nhất là bằng cách chia sẻ gánh nặng các vấn đề của họ, những nhu cầu và những nỗi lo sợ của họ. Cách cư xử với người khác như thế có thể mang những hình thức khác nhau: một hành động tử tế, một sự ý tứ để không gây tổn thương bằng lời nói hay việc làm, một sự sẵn sàng làm vơi nhẹ gánh nặng của họ. Nó liên can tới việc “nói những lời an ủi, củng cố, nâng đỡ và khích lệ”, chứ không phải là “những lời sỉ nhục, u uất, giận dữ hay trách mắng”. (208)
  3. Lòng từ tâm giải thoát chúng ta khỏi sự độc ác vốn nhiều lúc làm hại các mối tương quan con người, nó giải thoát chúng ta khỏi nỗi lo lắng không cho phép ta nghĩ đến người khác, khỏi những hoạt động xô bồ hối hả trong khi quên rằng người khác cũng có quyền được hạnh phúc. Ngày nay chúng ta thường không tìm thấy thời gian hay nghị lực để dừng lại và cư xử tử tế với người khác, để nói “xin lỗi”, “cảm phiền”, “cảm ơn”. Nhưng đôi khi, thật tuyệt diệu, một con người tử tế nào đó xuất hiện và sẵn sàng đặt mọi sự khác qua một bên để bày tỏ sự quan tâm, để trao món quà là một nụ cười, để nói một lời khích lệ, để lắng nghe giữa một thế giới dửng dưng. Nếu mỗi ngày chúng ta cố gắng làm chính xác điều này, chúng ta có thể tạo ra một bầu khí giao tiếp xã hội lành mạnh, trong đó những hiểu lầm có thể được vượt qua và những xung đột có thể được phòng tránh. Lòng từ tâm phải được vun xới; nó không phải là kiểu cách kẻ cả hời hợt. Chính vì lòng từ tâm thúc đẩy ta tôn trọng người khác, nên một khi nó trở thành một văn hóa trong xã hội, nó sẽ làm thay đổi các lối sống, các mối tương quan, các cách người ta xem xét và đối chiếu các ý kiến. Lòng từ tâm giúp tìm thấy sự đồng thuận; nó mở ra những nẻo đường mới ở những nơi mà sự hiếu chiến và xung đột có thể thiêu hủy mọi cây cầu.
CHƯƠNG VII
NHỮNG NẺO ĐƯỜNG GẶP GỠ MỚI
  1. Tại nhiều vùng trên thế giới, cần có những nẻo đường hòa bình để chữa lành các vết thương hở miệng. Cũng cần có những người xây dựng hòa bình, những con người nam và nữ được chuẩn bị để làm việc một cách dũng cảm và sáng tạo, nhằm khởi xướng những tiến trình chữa lành và những sự gặp gỡ mới mẻ.
BẮT ĐẦU LẠI TỪ SỰ THẬT
  1. Sự gặp gỡ mới mẻ không có nghĩa là quay trở lại với thời gian trước khi xảy ra xung đột. Tất cả chúng ta đều thay đổi qua thời gian. Nỗi đau và sự xung đột làm thay đổi chúng ta. Chúng ta không còn dùng lối ngoại giao trống rỗng, kiểu cách giả vờ, lối nói hàng hai, sự giấu giếm các ý định, và những cung cách tỏ ra tử tế để che đậy thực tại. Những người vốn là kẻ thù hung hăng của nhau phải nói sự thật rõ ràng và đầy đủ với nhau. Họ phải học cách khai khẩn một ký ức đáng hối tiếc, biết chấp nhận quá khứ để không che mờ tương lai với những cắn rứt, những vấn đề, và những dự phóng của mình. Chỉ bằng cách dựa trên sự thật lịch sử của các biến cố thì người ta mới có thể có những cố gắng rộng rãi và bền bỉ để hiểu biết nhau và phấn đấu đạt được một tổng hợp mới, vì thiện ích của tất cả. Mọi “tiến trình hòa bình đều đòi sự dấn thân lâu dài. Đó là một nỗ lực kiên trì tìm kiếm sự thật và công lý, trân quí ký ức của các nạn nhân và từng bước mở lối tiến tới một niềm hy vọng chung mạnh mẽ hơn cả ước muốn trả thù”. (209) Như các giám mục Congo đã nói về một cuộc xung đột dai dẳng: “Các hiệp ước hòa bình trên giấy thì không đủ. Chúng ta sẽ phải đi xa hơn, bằng cách tôn trọng những đòi hỏi được biết sự thật về nguồn gốc của khủng hoảng dai dẳng này. Dân chúng có quyền biết điều gì đã xảy ra”. (210)
  2. “Quả thực, sự thật là một bạn đồng hành không thể tách rời của công lý và lòng thương xót. Cùng với nhau, cả ba đều thiết yếu để xây dựng hòa bình; hơn nữa, mỗi thành tố giúp giữ cho các thành tố kia không bị thay thế… Sự thật không nên dẫn tới oán hận, nhưng đúng hơn nên dẫn tới hòa giải và tha thứ. Sự thật có nghĩa là nói với các gia đình bị xé nát bởi hoàn cảnh đau thương về điều gì đã xảy ra cho những người thân mất tích của họ. Sự thật có nghĩa là thú nhận những gì đã xảy ra cho các trẻ em vị thành niên bị tuyển dụng bởi những kẻ độc ác và bạo lực. Sự thật có nghĩa là nhận ra nỗi thống khổ của các phụ nữ là nạn nhân của bạo lực và lạm dụng… Mỗi hành động bạo lực chống lại một con người là một vết thương trên da thịt của nhân loại; mỗi cái chết do bạo lực làm cho chúng ta bị suy thoái trong tư cách là một dân… Bạo lực dẫn tới bạo lực nhiều hơn, oán ghét sinh ra thêm oán ghét, giết người gây thêm giết người. Chúng ta phải bẻ gãy cái vòng tưởng chừng như không thể thoát được này”. (211)
NGHỆ THUẬT VÀ KIẾN TRÚC CỦA HÒA BÌNH
  1. Con đường hòa bình không có nghĩa là làm cho xã hội thành đồng nhất một cách đơn điệu, nhưng làm cho người ta sát cánh làm việc với nhau, theo đuổi những mục tiêu phục vụ mọi người. Rất nhiều đề nghị thực tiễn đa dạng và những kinh nghiệm khác nhau có thể giúp đạt được các mục đích chung và phục vụ cho công ích. Các vấn đề mà một xã hội đang kinh nghiệm cần phải được nhận diện rõ ràng, để có thể nhận thức sự tồn tại của những cách hiểu khác nhau và việc giải quyết chúng. Con đường hiệp nhất xã hội luôn luôn giả thiết sự nhìn nhận rằng người khác có thể có một quan điểm chính đáng, ít nhất một phần, tức một cái gì đó đáng để đóng góp, ngay cả dù họ ở trong sai lầm hay hành động cách tệ hại. “Chúng ta đừng bao giờ giam hãm người khác nơi những gì họ đã nói hay đã làm, nhưng phải đánh giá họ theo triển vọng đang có nơi họ”, (212) một triển vọng luôn luôn mang theo với nó một tia lửa của niềm hy vọng mới.
  2. Các giám mục Nam Phi đã chỉ ra rằng sự hòa giải đích thực có thể đạt được một cách chủ động, “bằng cách hình thành một xã hội mới, một xã hội dựa trên việc phục vụ người khác, thay vì mong muốn thống trị họ; một xã hội dựa trên việc chia sẻ với người khác những gì mình có, thay vì mỗi người cứ ích kỷ giành giựt càng nhiều của cải càng tốt; một xã hội trong đó giá trị của việc liên kết với nhau trong tư cách là những con người thì rốt cục quan trọng hơn là các nhóm nhỏ, dù đó là gia đình, quốc gia, chủng tộc hay văn hóa”. (213) Như các giám mục Hàn Quốc đã nói rõ, hòa bình đích thực “chỉ có thể đạt được khi chúng ta đấu tranh cho công lý qua đối thoại, tìm kiếm sự hòa giải, và giúp nhau phát triển”. (214)
  3. Làm việc để vượt qua các chia rẽ của chúng ta mà không đánh mất căn tính của mình xét như những cá nhân, điều này giả thiết rằng mọi người phải có một cảm thức thuộc về cách căn bản. Thật vậy, “xã hội sẽ được ích lợi khi mỗi người và mỗi nhóm xã hội thật sự cảm thấy an nhiên. Trong một gia đình, cha mẹ, ông bà và con cháu đều cảm thấy an nhiên; không ai bị loại trừ. Nếu một ai đó có vấn đề, ngay cả một vấn đề hệ trọng, dù người đó đã tự xoay xở, những người khác trong gia đình đến trợ giúp; họ nâng đỡ người ấy. Các vấn đề của người ấy là của cả nhà… Trong các gia đình, mọi người đóng góp cho mục đích chung; mọi người làm việc cho thiện ích chung, mà không phủ nhận cá thể tính của mỗi người, nhưng khích lệ và nâng đỡ nó. Họ có thể cãi nhau, nhưng vẫn có một cái gì đó không thay đổi: đó là mối ràng buộc gia đình. Những tranh cãi trong gia đình luôn luôn sẽ được giải quyết với thời gian. Những niềm vui và nỗi buồn của mỗi thành viên được cảm nhận bởi cả nhà. Đó là ý nghĩa của gia đình! Ước gì chúng ta có thể nhìn các đối thủ chính trị hay các người láng giềng cùng một cách như chúng ta nhìn con cái hay vợ chồng, hay cha mẹ mình! Sẽ tốt đẹp biết bao! Chúng ta có yêu mến xã hội không, hay xã hội vẫn là một cái gì xa xa, một cái gì vô danh và không liên quan đến chúng ta, một cái gì mà chúng ta không dấn thân cho nó?” (215)
  4. Việc thương lượng thường trở nên cần thiết để hình thành những nẻo đường cụ thể đi đến hòa bình. Nhưng các tiến trình thay đổi để dẫn tới hòa bình bền vững thì trước hết được tạo ra bởi các dân tộc; mỗi cá nhân có thể hành động như một nắm men hữu hiệu qua cách sống của mình mỗi ngày. Những thay đổi lớn không được sản xuất ở các bàn giấy hay trong các văn phòng. Điều này có nghĩa rằng “mọi người có một vai trò nền tảng để đảm nhận trong một dự án lớn đầy sáng tạo: đó là dự án viết một trang sử mới, một trang đầy hy vọng, hòa bình và hòa giải”. (216) Có một “kiến trúc” hòa bình, trong đó các cơ chế xã hội khác nhau đều góp phần, theo lãnh vực chuyên môn riêng, nhưng cũng có một “nghệ thuật” hòa bình liên can đến tất cả chúng ta. Từ những tiến trình hòa bình khác nhau đã diễn ra tại nhiều nơi khác nhau trên thế giới, “chúng ta đã học biết rằng những cách kiến tạo hòa bình ấy, những cách đặt lý trí trên sự oán hận, những cách hòa hợp tế nhị giữa chính trị và luật pháp, thì không thể bỏ qua sự liên can của dân chúng. Hòa bình không đạt được bằng những khung qui chuẩn và những dàn xếp có tính cơ chế giữa các nhóm kinh tế hay chính trị có thiện chí… Sẽ luôn là điều hữu ích việc tháp nhập vào các tiến trình hòa bình của chúng ta kinh nghiệm của những thành phần vốn thường bị bỏ qua, để chính các cộng đồng có thể tác động đến sự phát triển của một ký ức tập thể”. (217)
  5. Việc xây dựng hòa bình trong xã hội của một quốc gia không bao giờ kết thúc; đúng hơn, đó là “một công cuộc trường kỳ, đòi hỏi sự dấn thân của mọi người, và nó thách đố chúng ta cần mẫn làm việc để xây dựng sự hiệp nhất của đất nước. Bất kể những cản trở, những khác biệt và những nhãn giới khác nhau trên con đường mưu cầu sự chung sống hòa bình, công cuộc này mời gọi chúng ta kiên trì đấu tranh để thăng tiến một ‘nền văn hóa gặp gỡ’. Điều này yêu cầu chúng ta phải dành vị trí trung tâm của mọi hoạt động xã hội, chính trị và kinh tế cho nhân vị con người, vốn có phẩm giá cao nhất, và phải tôn trọng công ích. Ước gì quyết tâm này giúp chúng ta tránh được cái cám dỗ báo thù và sự thỏa mãn những lợi ích cục bộ và nhất thời”. (218) Những cuộc biểu tình bạo lực công khai, từ phía này hay phía khác, sẽ không giúp tìm ra các giải pháp. Chính bởi vì, như các giám mục Colombia đã ghi nhận đúng đắn: “các nguồn gốc và các mục đích của biểu tình dân sự thì không luôn luôn rõ ràng; một số hình thức thao túng chính trị có mặt trong đó, và trong một số trường hợp người ta bị khai thác cho những lợi ích phe phái”. (219)
Bắt đầu với những người rốt hết
  1. Việc xây dựng tình thân hữu xã hội không chỉ đòi quan hệ hữu nghị giữa các nhóm đã từng là phe phái khác nhau vào một giai đoạn bất ổn nào đó trong lịch sử, nhưng cũng đòi một sự gặp gỡ mới mẻ với những thành phần nghèo nàn và yếu ớt nhất của xã hội. Vì hòa bình “không chỉ là vắng chiến tranh, nhưng là một sự dấn thân không mệt mỏi – nhất là đối với những người có trách nhiệm nhiều hơn trong chúng ta – để nhìn nhận, bảo vệ và phục hồi một cách cụ thể phẩm giá vốn thường bị bỏ qua của các anh chị em chúng ta, để họ có thể thấy chính họ là những tác nhân chủ yếu của định mệnh đất nước mình”. (220)
  2. Rất thường, những thành viên yếu ớt nhất của xã hội là những nạn nhân của những sự khái quát hóa có tính bất công. Nếu có những lúc người nghèo và những người vô sản phản ứng với những thái độ có vẻ như phản xã hội, chúng ta nên nhận ra rằng trong nhiều trường hợp những phản ứng ấy phát xuất từ một lịch sử bị xã hội khinh miệt và bị loại trừ. Các giám mục Mỹ La tinh đã ghi nhận rằng “chỉ sự gần gũi làm cho chúng ta thành bạn hữu mới có thể giúp chúng ta biết trân trọng sâu xa các giá trị của người nghèo hôm nay, các mong ước chính đáng của họ, và cách sống đức tin của họ. Việc chọn lựa người nghèo phải dẫn chúng ta đến tình thân hữu với người nghèo”. (221)
  3. Những người làm việc thúc đẩy sự sống chung hòa bình phải đừng bao giờ quên rằng sự bất bình đẳng và tình trạng thiếu phát triển nhân bản toàn diện làm cho chúng ta không thể đạt được hòa bình. Thật vậy, “nếu không có sự bình đẳng về các cơ hội, những hình thức quá khích và xung đột khác nhau sẽ tìm thấy một mảnh đất màu mỡ để lớn lên và cuối cùng bùng nổ. Khi một xã hội – dù cấp địa phương, quốc gia hay toàn cầu – sẵn sàng bỏ một phần của nó ra ngoài lề, thì không có chương trình chính trị hay nguồn tài chánh nào cho việc củng cố luật pháp và các hệ thống cảnh sát có thể bảo đảm trật tự an ninh mãi được”. (222) Nếu chúng ta phải bắt đầu lại, thì luôn luôn phải bắt đầu từ những người rốt hết trong các anh chị em của chúng ta.
GIÁ TRỊ VÀ Ý NGHĨA CỦA THA THỨ
  1. Có những người không thích nói về hòa giải, vì họ nghĩ rằng xung đột, bạo lực và đổ vỡ là một phần của sự vận hành bình thường của xã hội. Trong bất cứ nhóm người nào cũng luôn sẽ có tranh chấp quyền lực cách tế nhị nhiều hay ít giữa các thành phần / đảng phái khác nhau. Những người khác nghĩ rằng việc cổ võ sự tha thứ có nghĩa là chịu nhường sân và nhường ảnh hưởng cho những người khác. Vì thế, họ cảm thấy tốt hơn nên giữ mọi sự y như thế, duy trì một sự cân bằng sức mạnh giữa các nhóm khác nhau. Vẫn có những người khác nữa tin rằng hòa giải là dấu hiệu của yếu nhược; vì không có khả năng đối thoại thực sự nghiêm túc, họ chọn tránh các vấn đề bằng cách không quan tâm đến những bất công. Không thể giải quyết các vấn đề, họ chọn một thứ hòa bình biểu kiến thôi.
Xung đột không tránh được
  1. Tha thứ và hòa giải là những chủ đề trung tâm trong Kitô giáo, và cách nào đó cũng thấy trong các tôn giáo khác nữa. Nhưng có nguy cơ rằng một cách nhận hiểu và trình bày không phù hợp về những xác tín thâm sâu ấy có thể dẫn đến thuyết định mệnh, sự lãnh đạm và bất công, hay thậm chí thái độ bất bao dung và bạo lực.
  2. Chúa Giêsu không bao giờ cổ võ bạo lực và tinh thần bất bao dung. Người công khai tố cáo việc sử dụng sức mạnh để nắm quyền lực trên người khác: “Anh em biết, thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy” (Mt 20,25-26). Thay vào đó, Tin Mừng bảo chúng ta tha thứ “bảy mươi lần bảy” (Mt 18,22) và cung cấp một ví dụ về người đầy tớ độc ác được tha thứ, nhưng đến lượt mình thì không có khả năng tha thứ cho kẻ khác (x. Mt 18,23-35).
  3. Đọc các bản văn khác của Tân Ước, chúng ta có thể nhận thấy các cộng đoàn Kitô hữu sơ khai sống trong thế giới dân ngoại đầy những sự hư hỏng và lộn xộn, đã tìm cách cho thấy sự kiên nhẫn vững vàng, tinh thần bao dung và cảm thông. Một số bản văn rất rõ ràng về khía cạnh này: chúng ta được dạy phải đáp trả những kẻ chống đối mình “với sự hiền hòa” (2Tm 2,25) và được khuyến khích “không nói xấu ai, tránh cãi vã, cư xử hiền hòa, luôn luôn tỏ lòng nhân từ với mọi người. Vì chính chúng ta đã từng ngu xuẩn” (Tt 3,2-3). Sách Công vụ Tông đồ ghi nhận rằng các môn đệ, dù bị bách hại bởi một số nhà cầm quyền, “đã được toàn dân thương mến” (2,47; x. 4,21.33; 5,13).
  4. Nhưng khi suy tư về sự tha thứ, hòa bình, và hòa hợp xã hội, chúng ta cũng gặp những lời gây sốc của Chúa Kitô: “Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà” (Mt 10,34-36). Những lời này cần phải được hiểu trong văn mạch, ở đó thật rõ Chúa Giêsu đang nói về sự trung tín của chúng ta trong quyết định đi theo Người; chúng ta không được xấu hổ với quyết định đó, dù cho có những thử thách đủ loại, và dù cho những người thân yêu nhất của chúng ta không chấp nhận điều đó. Những lời của Chúa Kitô không khuyến khích chúng ta tìm kiếm xung đột, nhưng đơn giản là chịu đựng nó khi không tránh được, để việc tôn trọng người khác (nhằm giữ hòa thuận trong gia đình, xã hội) sẽ không chi phối đến sự trung tín của chúng ta. Thánh Gioan Phaolô II nhận định rằng Giáo hội “không có ý lên án mọi hình thức xung đột xã hội. Giáo hội ý thức rõ rằng trong dòng lịch sử, những xung đột lợi ích giữa các nhóm xã hội khác nhau không thể tránh xảy ra, và rằng đứng trước những xung đột như thế, các Kitô hữu thường phải có một lập trường, cách chân thành và dứt khoát”. (223)
Xung đột chính đáng và sự tha thứ
  1. Điều này cũng không có nghĩa là kêu gọi tha thứ khi đó là chuyện người ta bác bỏ các quyền của chúng ta, chuyện đương đầu với các quan chức tham nhũng, các tội phạm hay những ai sỉ nhục phẩm giá chúng ta. Chúng ta được kêu gọi yêu thương mọi người, không trừ ai; đồng thời, việc yêu thương một kẻ áp bức không có nghĩa là cho phép kẻ ấy tiếp tục áp bức mình, hay cho phép kẻ ấy nghĩ rằng điều y làm có thể được chấp nhận. Trái lại, tình yêu đích thực đối với một kẻ áp bức có nghĩa là tìm cách làm cho y ngừng việc áp bức ấy; nó có nghĩa là tước khỏi y quyền lực mà y đã không biết cách sử dụng, và quyền lực ấy làm giảm tính người của y cũng như của những người khác. Tha thứ không phải là cho phép những kẻ áp bức tiếp tục chà đạp lên phẩm giá của chính họ và của người khác, hay để cho những kẻ tội phạm tiếp tục phạm tội ác. Những ai bị đối xử bất công phải kiên quyết bảo vệ các quyền của mình và của gia đình mình, chính vì họ phải trân trọng phẩm giá mà họ đã nhận được như quà tặng yêu thương của Thiên Chúa. Nếu một kẻ tội phạm đã hại tôi hay một người thân yêu của tôi, không ai có thể cấm tôi đòi công lý và tìm cách để bảo đảm rằng kẻ ấy – hay bất cứ ai khác – sẽ không hại tôi hay những người khác nữa. Điều đó hoàn toàn công bằng; sự tha thứ không cấm mà thực sự yêu cầu tôi làm điều đó.
  2. Điều quan trọng là không chọc khuấy giận dữ, điều vốn không tốt cho linh hồn chúng ta và linh hồn của những người khác, và cũng đừng bị ám ảnh với việc trả thù và hủy diệt người khác. Không ai đạt được sự bình an nội tâm hay trở về với một đời sống bình thường bằng cách đó. Sự thật là “không có gia đình nào, không có nhóm láng giềng hay nhóm sắc tộc nào, càng không có quốc gia nào có một tương lai nếu cái lực liên kết họ, giữ họ với nhau và giải quyết các khác biệt của họ lại là sự óan thù và đố kỵ. Chúng ta không thể dàn xếp và liên kết với nhau để báo thù, hoặc đáp trả người khác bằng chính thứ bạo lực mà họ đã đối xử với mình, hoặc gài bẫy để trả đũa dưới danh nghĩa hợp pháp”. (224) Ta không đạt được điều gì tốt đẹp bằng cách thức này, và cuối cùng, sẽ mất tất cả.
  3. Chắc chắn “không dễ vượt qua cái di sản cay đắng của những bất công, hung hăng và nghi ngờ do sự xung đột để lại. Chỉ có cách là chế ngự sự dữ bằng sự thiện (x. Rm 12,21) và bằng cách vun xới những nhân đức thúc đẩy sự hòa giải, liên đới và hòa bình”. (225) Bằng cách này, “những người nuôi dưỡng sự thiện hảo trong trái tim mình sẽ nhận thấy rằng những sự thiện ấy sẽ đem lại một lương tâm an ổn và niềm vui thâm sâu, ngay cả giữa những khó khăn và những hiểu lầm. Ngay cả khi bị lăng nhục, sự thiện không bao giờ yếu đi, mà đúng hơn nó cho thấy sức mạnh của nó ở chỗ từ chối trả thù”. (226) Mỗi người chúng ta cần nhận ra rằng “ngay cả sự bức xúc trong lòng tôi đối với người anh chị em mình, vết thương toang hoác ấy chưa bao giờ lành, sự xúc phạm ấy chưa bao giờ được tha thứ, nỗi cay đắng này đang làm tổn thương tôi… tất cả đều là những tình huống cho một cuộc đấu tranh diễn ra trong tôi, một ngọn lửa nhỏ trong sâu tâm hồn tôi cần phải bị dập tắt trước khi nó chuyển thành một đám cháy lớn”. (227)
Cách tốt nhất để bước tới
  1. Khi các xung đột không được giải quyết nhưng bị giấu kín hay vùi lấp đi trong quá khứ, thinh lặng có thể dẫn tới sự đồng lõa trong những việc làm sai trái và tội lỗi nghiêm trọng. Sự hòa giải đích thực không trốn tránh xung đột, nhưng đạt được trong xung đột, giải quyết nó xuyên qua đối thoại và thương lượng kiên trì, chân thành và cởi mở. Xung đột giữa các nhóm khác nhau – “nếu kiềm chế được sự thù địch và căm ghét nhau – sẽ dần dần đổi thành một cuộc thảo luận chân thành về những khác biệt, đặt nền trên một khát vọng công lý”. (228)
  2. Trong nhiều dịp, tôi đã nói về “một nguyên tắc tất yếu để xây dựng tình thân hữu trong xã hội: đó là, hiệp nhất thì hơn xung đột… Đây không phải là chọn một loại chủ trương hổ lốn, hay bên này bị hút bởi bên kia, nhưng đúng hơn đây là một giải pháp xảy ra ở một bình diện cao hơn, và bảo tồn được những gì có hiệu lực và có ích ở cả hai phía”. (229) Tất cả chúng ta biết rằng “khi chúng ta, trong tư cách cá nhân và cộng đồng, học cách nhìn quá chính mình và những lợi ích riêng của mình, thì sự hiểu biết và dấn thân cho nhau sẽ sinh hoa trái… trong một khung cảnh mà ở đó các xung đột, căng thẳng, và ngay cả các nhóm đã từng được coi là thù địch, có thể đạt được một sự hiệp nhất đa diện giúp làm phát sinh sự sống mới”. (230)
KÝ ỨC    
  1. Đối với những người đã hứng chịu nhiều đau khổ do bất công và tàn nhẫn, thì không được đòi hỏi họ một loại “tha thứ xã hội” nào đó. Hòa giải là một hành động cá nhân, và không ai có thể áp đặt nó trên toàn thể một xã hội, cho dù nhu cầu thúc đẩy điều đó lớn đến mấy đi nữa. Bằng một cách rất riêng tư, do một quyết định quảng đại và tự nguyện, một người nào đó có thể chọn không đòi hỏi sự trừng phạt (x. Mt 5,44-46), ngay cả dù điều này được đòi hỏi cách hoàn toàn chính đáng bởi xã hội và hệ thống tư pháp của nó. Tuy nhiên, không thể công bố một “sự hòa giải toàn thể” bằng cách dùng một lời tuyên bố để đóng các vết thương lại, hay cố gắng chôn lấp các bất công bằng một ‘phù phép lãng quên”. Ai có thể có quyền tha thứ nhân danh những người khác? Thật cảm kích khi ta nhìn thấy sự tha thứ được thể hiện bởi những người có khả năng bỏ lại sau lưng sự thiệt hại mà họ đã phải chịu, nhưng cũng dễ cảm thông phận người trong trường hợp của những người không thể bỏ qua như thế. Trong mọi trường hợp, sự lãng quên không bao giờ là câu trả lời.
  2. Không được quên lãng Shoah(= nạn tàn sát người Do thái của Đức Quốc Xã). Nó mãi còn là biểu tượng cho thấy sự dữ của con người có thể đạt đến mức nào, khi mà bị kích động bởi những ý thức hệ sai lầm, người ta không nhận ra phẩm giá nền tảng của mỗi con người, là phẩm giá đáng được tôn trọng vô điều kiện, bất chấp nguồn gốc chủng tộc hay niềm tin tôn giáo”. (231) Mỗi khi tôi nghĩ về nạn tàn sát ấy, tôi không thể không lặp lại lời cầu nguyện này: “Lạy Chúa, xin nhớ đến chúng con trong lòng thương xót của Chúa. Xin ban cho chúng con ơn biết xấu hổ vì những gì chúng con đã làm, xấu hổ vì đã thờ ngẫu tượng kinh khủng này, vì đã khinh bỉ và hủy diệt chính cốt nhục của chúng con, mà chính Chúa đã làm ra từ đất, đã ban sự sống bằng hơi thở sự sống của Chúa. Đừng bao giờ nữa, Chúa ơi, đừng để như thế bao giờ nữa!”. (232)
  3. Chúng ta cũng không được quên những quả bom nguyên tử rơi xuống Hiroshima và Nagasaki. Một lần nữa, “tôi tưởng niệm tất cả các nạn nhân, và tôi nghiêng mình trước sức mạnh và phẩm giá của những người sống sót qua những khoảnh khắc đầu tiên ấy, nhiều năm sau họ vẫn mang trên da thịt mình sự đau đớn khủng khiếp, và mang trong tinh thần mình những hạt giống của sự chết tiếp tục tiêu hao sức sống của họ… Chúng ta không thể cho phép các thế hệ hiện tại và tương lai đánh mất ký ức về những gì đã xảy ra. Đó là một ký ức giúp bảo đảm và khích lệ việc xây dựng một tương lai công bằng và huynh đệ hơn”. (233) Chúng ta cũng không được quên những cuộc bách hại, nạn buôn nô lệ, và những vụ tàn sát người bản xứ vẫn tiếp tục tại nhiều nước khác nhau, cũng như nhiều biến cố lịch sử khác nữa vẫn làm cho chúng ta xấu hổ về nhân loại của mình. Cần phải nhớ những biến cố ấy, nhớ lại luôn luôn. Chúng ta không bao giờ được trơ lì mất cảm xúc trước các biến cố ấy.
  4. Ngày nay, thật dễ bị cám dỗ để lật sang trang khác, để nói rằng mọi chuyện ấy xảy ra lâu rồi và ta nên nhìn về tương lai. Đừng như vậy, nhân danh Chúa! Chúng ta không bao giờ có thể tiến tới trước mà không hồi tưởng về quá khứ; chúng ta không tiến bộ nếu không có một ký ức trung thực và rõ ràng. Chúng ta cần “giữ sống động ngọn lửa của lương tâm tập thể, làm chứng cho các thế hệ theo sau về sự kinh dị của những gì đã xảy ra”, vì lời chứng ấy “đánh thức và bảo tồn ký ức về các nạn nhân, để lương tâm nhân loại có thể trổi dậy khi đứng trước mọi tham vọng thống trị và hủy diệt”. (234) Chính các nạn nhân – các cá nhân, các nhóm xã hội, và các quốc gia – cần phải làm như thế, để họ không đầu hàng trước cái tâm thức dẫn đến việc biện minh cho những sự trả đũa và mọi loại bạo lực nhân danh sự dữ lớn lao mà họ đã chịu. Vì lý do này, tôi nghĩ cần phải nhớ lại không chỉ những điều kinh tởm ấy, mà còn tất cả những ai – ở giữa sự phi nhân và tồi tệ như thế – đã giữ phẩm giá của mình, và với những cử chỉ lớn hay nhỏ, họ đã chọn đứng về phía liên đới, tha thứ và huynh đệ. Nhớ lại điều tốt lành cũng là một điều tốt lành.
Thứ tha nhưng không quên lãng
  1. Tha thứ không có nghĩa là quên lãng. Hay nói đúng hơn, đứng trước một thực tại không thể phủ nhận được, không thể giảm nhẹ hay che giấu được, thì sự tha thứ vẫn là điều có thể. Đứng trước một hành động không bao giờ có thể được chấp nhận, được biện minh hay bỏ qua, thì chúng ta vẫn có thể tha thứ. Đứng trước một điều gì đó không thể bị quên lãng vì bất cứ lý do nào, chúng ta vẫn có thể tha thứ. Nếu tha thứ là nhưng không, thì nó có thể được thể hiện ngay cả cho một người không hối hận và không có khả năng xin sự tha thứ.
  2. Ai tha thứ thực sự thì không quên lãng. Thay vào đó, họ chọn không chịu thua chính cái lực hủy diệt đã gây cho họ quá nhiều đau khổ. Họ phá vỡ cái vòng ác nghiệt; họ chặn đứng sự lấn tới của các lực tàn phá. Họ chọn không làm lan tràn trong xã hội cái tinh thần trả thù mà sớm hay muộn nó sẽ quay lại đòi trả giá. Sự trả thù không bao giờ thực sự làm thỏa mãn các nạn nhân. Một số tội ác thì kinh khủng và tàn độc đến nỗi hình phạt đối với những người gây ra chúng không đền bù được sự thiệt hại. Ngay cả việc tử hình kẻ phạm tội cũng sẽ không đủ, cũng không có bất cứ hình thức hành hạ nào là tương xứng với những đau khổ đã gây ra cho nạn nhân. Trả thù không giải quyết được gì cả.
  3. Điều này không có nghĩa là miễn hình phạt. Công lý được tìm kiếm cách đúng đắn chỉ từ tình yêu đối với chính công lý, từ lòng tôn trọng đối với các nạn nhân, như một cách phòng tránh những tội ác mới và bảo vệ công ích, chứ không phải như một nút xả trút giận. Sự tha thứ mới chính là cái giúp chúng ta theo đuổi công lý mà không rơi vào vòng xoáy của báo thù hay sự bất công của việc quên lãng.
  4. Khi các bất công xảy ra ở cả hai phía, thì thật quan trọng việc xem xét kỹ liệu chúng có hệ trọng như nhau, hay hơn kém nhau cách nào đó. Bạo lực gây ra bởi nhà nước, với việc sử dụng các cơ cấu và quyền lực, thì không ở trên cùng bình diện như bạo lực do các nhóm riêng biệt nào đó. Trong mọi tình huống, người ta không thể nói rằng những đau khổ do bất công của chỉ một bên cần phải được ghi nhớ. Các giám mục Croatia đã tuyên bố rằng “chúng ta mắc nợ cùng một lòng kính trọng đối với mọi nạn nhân vô tội. Không thể có những khác biệt do chủng tộc, quốc gia, tôn giáo hay đảng phái”. (235)
  5. Tôi cầu xin Thiên Chúa “giúp chuẩn bị cho con tim chúng ta để gặp gỡ anh chị em mình, để chúng ta có thể vượt qua những khác biệt cắm rễ trong quan điểm chính trị, trong ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo. Chúng ta hãy xin Chúa xức dầu toàn thể con người chúng ta với thứ dầu lòng thương xót của Người, dầu sẽ chữa lành các thương tích gây ra bởi những sai lỗi, những hiểu lầm và những tranh chấp. Và chúng ta hãy xin Chúa sai chúng ta đi, trong khiêm nhường và hiền lành, trên con đường tìm kiếm hòa bình rất cam go nhưng cũng thật phong phú”. (236)
CHIẾN TRANH VÀ ÁN TỬ HÌNH
  1. Có hai tình huống cực đoan có thể được người ta xem là những giải pháp cho các trường hợp đặc biệt, mà không nhận ra rằng chúng là những giải pháp sai lầm, không giải quyết được những vấn đề chúng muốn giải quyết, và cuối cùng chẳng khác gì đưa thêm những yếu tố hủy diệt vào khung cảnh xã hội toàn cầu và quốc gia. Đó là chiến tranh và án tử hình.
Sự bất công của chiến tranh
  1. “Lòng kẻ mưu điều ác chất đầy chuyện lừa đảo, người cổ võ hoà bình được chan chứa niềm vui” (Cn 12,20). Tuy nhiên có những người tìm các giải pháp trong chiến tranh, thường được bồi thêm bởi một sự đổ vỡ mối quan hệ, những tham vọng thống trị, những lạm dụng quyền lực, nỗi sợ những người khác, và khuynh hướng nhìn sự đa dạng như một chướng ngại. (237) Chiến tranh không phải là một con ma của thời đã qua, mà là một mối đe dọa thường hằng. Thế giới chúng ta đang gặp ngày càng nhiều khó khăn hơn trên hành trình chậm chạp tìm kiếm hòa bình, hành trình vốn đã được khởi động và cũng đã bắt đầu có những hoa trái.
  2. Vì các điều kiện gây bùng nổ chiến tranh một lần nữa lại đang gia tăng, tôi chỉ muốn nhắc lại rằng “chiến tranh là sự phủ nhận mọi lẽ phải và là một sự tấn công khủng khiếp vào môi trường. Nếu chúng ta muốn sự phát triển nhân bản toàn diện cho mọi người, chúng ta phải nỗ lực không mệt mỏi để tránh chiến tranh giữa các quốc gia và các dân tộc. Để đạt mục đích này, cần phải bảo đảm nền pháp trị vững vàng và luôn luôn tìm kiếm thương lượng, vai trò trung gian và trọng tài, như được đề ra trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc là qui chuẩn pháp lý nền tảng thực sự”. (238) Bảy mươi lăm năm kể từ sự kiện thành lập Liên Hiệp Quốc và kinh nghiệm từ hai mươi năm đầu tiên của thiên niên kỷ này đã cho thấy rằng việc áp dụng đầy đủ các qui chuẩn quốc tế sẽ đem lại hiệu quả thực sự, và việc không tôn trọng các qui chuẩn ấy sẽ rất tai hại. Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, khi được tuân thủ và áp dụng cách minh bạch và chân thành, là một điểm qui chiếu bắt buộc của công lý và là một kênh dẫn tới hòa bình. Ở đây không có chỗ cho việc ngụy trang những ý hướng sai lầm hay việc đặt các lợi ích cục bộ của một quốc gia hay một nhóm lên trên lợi ích chung toàn cầu. Nếu các qui tắc chỉ được xem là phương tiện để dùng khi thấy có lợi, và khi không có lợi thì chúng bị phớt lơ, thì những sức mạnh không thể kiểm soát được sẽ bung ra và gây thiệt hại trầm trọng cho các xã hội, cho người nghèo và những người yếu ớt, cho các mối quan hệ huynh đệ, cho môi trường và cho các kho tàng văn hóa, với những mất mát không bù đắp được cho cộng đồng thế giới.
  3. Người ta dễ dàng chọn chiến tranh bằng cách nại đến đủ thứ lý do như nhân đạo, tự vệ hay ngăn ngừa, và thậm chí bằng cách bóp méo thông tin. Trong những thập niên gần đây, mọi cuộc chiến tranh đều được “biện minh” cách chiếu lệ. Giáo lý Giáo hội Công giáo nói về khả năng phòng vệ chính đáng bằng phương tiện vũ trang quân sự, và cho thấy rõ rằng một số “điều kiện nghiêm ngặt cho tính chính đáng về luân lý” (239) phải được đáp ứng. Nhưng thật dễ rơi vào một sự giải thích quá rộng về cái quyền có tính tiềm năng này. Ví dụ, một số người sẽ biện minh cách sai trái ngay cả những cuộc tấn công “phòng vệ”, hay những hành động chiến tranh vốn khó tránh, họ gây ra “những sự dữ và hỗn loạn trầm trọng hơn cả sự dữ cần được loại trừ”. (240) Vấn đề là sự phát triển các vũ khí hạt nhân, hóa học và sinh học, và những khả năng to lớn ngày càng được cung ứng bởi các công nghệ mới, đã trao cho chiến tranh một sức mạnh hủy diệt không thể kiểm soát được trên vô số người dân vô tội. Sự thật là “chưa bao giờ nhân loại có sức mạnh như thế trên chính mình, nhưng không có gì bảo đảm rằng sức mạnh ấy sẽ được sử dụng một cách khôn ngoan”. (241) Chúng ta không còn có thể nghĩ về chiến tranh như một giải pháp, bởi vì sự nguy hiểm của nó xem ra luôn luôn lớn hơn những ích lợi được kỳ vọng của nó. Trong nhãn giới này, ngày nay thật khó nêu lên những tiêu chuẩn lý tính vốn được trình bày rõ trong các thế kỷ trước để nói về khả năng của một cuộc “chiến tranh chính đáng”. Đừng bao giờ chiến tranh nữa! (242)
  4. Cần phải nói thêm rằng với hiện tượng toàn cầu hóa ngày càng tăng, điều có vẻ như một giải pháp trực tiếp và thực tiễn, đó là một vùng của thế giới phát động một chuỗi bạo lực và các hậu quả thường tiềm ẩn của nó rốt cục sẽ phá hại toàn thể hành tinh, và mở đường cho những cuộc chiến tranh khác tệ hại hơn trong tương lai. Trong thế giới ngày nay, không còn những sự bùng nổ chiến tranh chỉ cô lập tại nước này hay nước khác; thay vào đó, chúng ta đang kinh nghiệm “một cuộc chiến tranh thế giới từng phần”, vì vận mạng của các quốc gia được nối kết mật thiết với nhau trong khung cảnh toàn cầu.
  5. Như cách diễn tả của Thánh Gioan XXIII: “Không còn ý nghĩa gì việc khẳng định chiến tranh là một công cụ thích hợp để sửa chữa những vi phạm công lý”. (243) Khi nêu điều này giữa bầu khí thế giới rất căng thẳng, ngài đã nói lên khát vọng hòa bình ngày càng được thấy rõ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh. Ngài ủng hộ niềm tin rằng những lý do cho hòa bình thì mạnh hơn bất cứ sự tính toán lợi ích riêng nào, và mạnh hơn lòng tin đặt vào việc sử dụng vũ lực. Tuy nhiên, các cơ hội có được lúc kết thúc Chiến tranh Lạnh đã không được nắm bắt thích đáng, do thiếu một tầm nhìn về tương lai và thiếu một ý thức về vận mệnh chung của chúng ta. Vì thế, bóng ma đáng sợ của chiến tranh lại bắt đầu có cơ hội mới của nó.
  6. Mọi cuộc chiến tranh đều làm cho thế giới chúng ta tệ hơn trước. Chiến tranh là một thất bại của chính trị và của nhân loại, một sự đầu hàng đáng xấu hổ, một sự khuất phục đau đớn trước những sức mạnh của sự dữ. Chúng ta đừng cứ miệt mài trong những tranh luận thuần lý thuyết, nhưng hãy chạm đến thân thể đầy thương tích của các nạn nhân. Chúng ta hãy một lần nữa nhìn vào tất cả những người dân mà việc họ bị giết chết được coi như “thiệt hại thứ cấp”. Chúng ta hãy hỏi chính các nạn nhân ấy. Chúng ta hãy nghĩ về những người tị nạn và những người bị xua đuổi, những người đã hứng chịu các hậu quả của phóng xạ nguyên tử hay của những cuộc tấn công hóa học, những người mẹ mất con mình, và những đứa trẻ bị thương tật hay bị tước mất tuổi thơ của chúng. Chúng ta hãy nghe những câu chuyện thực của các nạn nhân này của bạo lực, hãy nhìn thực tại bằng con mắt của họ, và mở lòng ra lắng nghe các câu chuyện họ kể. Bằng cách này, chúng ta sẽ có thể nắm hiểu được sự dữ của chiến tranh khủng khiếp dường nào. Và chúng ta cũng sẽ không bối rối khi bị coi là ngây thơ vì chọn lựa hòa bình.
  7. Các qui tắc tự chúng sẽ không đủ, nếu chúng ta tiếp tục nghĩ rằng giải pháp cho các vấn đề hiện nay là việc người ta chùn tay lại vì lo sợ, hay sự đe dọa của các vũ khí hạt nhân, hóa học hay sinh học. Thật vậy, “nếu chúng ta xem xét các đe dọa chủ yếu đối với hòa bình và an ninh, với nhiều chiều kích của chúng trong thế giới đa cực này của thế kỷ 21, chẳng hạn như nạn khủng bố, những xung đột không cân sức, an ninh mạng, các vấn đề môi trường, sự nghèo đói… thì sẽ nổi lên không ít nghi ngờ rằng thật không thích đáng nếu coi nỗi sợ vũ khí hạt nhân như là giải pháp hữu hiệu cho những thách đố ấy. Những bận tâm này thậm chí càng lớn hơn khi chúng ta xem xét các hậu quả về môi trường và về thảm họa nhân đạo gây ra bởi bất cứ việc sử dụng vũ khí hạt nhân nào, với những tác động hủy diệt toàn diện và không thể kiểm soát, trong thời gian và không gian… Chúng ta cũng cần tự hỏi làm sao có thể tin cậy một sự ổn định dựa trên sự sợ hãi, khi thực ra nó làm gia tăng nỗi sợ và làm xói mòn các mối tương quan tin tưởng giữa các dân tộc. Hòa bình và sự ổn định quốc tế không thể dựa trên một cảm giác an toàn giả tạo, dựa trên sự đe dọa hủy diệt lẫn nhau hay xóa sạch tất cả, hoặc dựa trên duy chỉ việc giữ thế cân bằng quyền lực… Trong bối cảnh này, mục tiêu cuối cùng là loại trừ toàn bộ vũ khí hạt nhân trở thành vừa là một thách đố vừa là một mệnh lệnh đạo đức và nhân đạo… Sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng hơn và hiện tượng toàn cầu hóa có nghĩa rằng bất cứ sự đáp trả nào đối với sự đe dọa của vũ khí hạt nhân phải có tính tập thể và phối hợp, dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau. Sự tin tưởng này chỉ có thể được xây dựng xuyên qua việc đối thoại được định hướng phục vụ công ích, chứ không phải nhằm bảo vệ những lợi ích riêng hay được che đậy”. (244) Với số tiền chi tiêu cho vũ khí và các chi tiêu quân sự khác, chúng ta hãy thiết lập một quĩ toàn cầu (245) có thể cuối cùng chấm dứt nạn đói và hỗ trợ cho sự phát triển tại những nước nghèo nhất, để người dân ở đó sẽ không phải dùng đến những giải pháp bạo lực hay ảo vọng, hay phải bỏ đất nước mình để tìm kiếm một đời sống có phẩm giá hơn.
Án tử hình
  1. Vẫn có một cách khác nữa để loại trừ người khác, không nhắm các quốc gia mà nhắm các cá nhân. Đó là án tử hình. Thánh Gioan Phaolô II đã tuyên bố rõ ràng và mạnh mẽ rằng án tử hình là điều không thích đáng xét theo một quan điểm luân lý, và không còn cần thiết xét theo quan điểm tư pháp hình sự. (246) Chúng ta không thể thoái lui khỏi lập trường này. Ngày nay chúng ta tuyên bố rõ ràng rằng “án tử hình là điều không thể chấp nhận” (247) và Giáo hội dấn thân mạnh mẽ để kêu gọi hủy bỏ nó trên toàn thế giới. (248)
  2. Trong Tân Ước, khi các cá nhân được yêu cầu không tự ý mình đòi công lý (x. Rm 12,17.19), cũng có một sự nhìn nhận rằng các nhà cầm quyền cần áp đặt các án phạt đối với những kẻ làm điều ác (x. Rm 13,4; 1Pr 2,14). Quả thật, “đời sống dân sự, được cấu trúc xung quanh một cộng đồng được tổ chức, cần những qui tắc cho việc sống chung, và sự cố tình vi phạm các qui tắc ấy cần phải được xử lý tương xứng”. (249) Điều này có nghĩa rằng thẩm quyền công cộng chính đáng có thể và phải “áp dụng các hình phạt tùy theo mức nghiêm trọng của tội phạm” (250), và quyền của tòa án phải được bảo đảm có “tính độc lập cần thiết trong lãnh vực pháp luật”. (251)
  3. Từ những thế kỷ đầu của Giáo hội, một số người rõ ràng chống lại án tử hình. Chẳng hạn, Lactantius chủ trương rằng “không có ngoại lệ nào cả; việc giết một con người luôn luôn là phi pháp”. (252) Đức giáo hoàng Nicholas I kêu gọi phải có các cố gắng để “tránh dùng án tử hình không chỉ đối với mỗi người vô tội, mà đối với tất cả những kẻ phạm tội nữa”. (253) Trong cuộc xét xử những kẻ sát hại hai linh mục, Thánh Augustinô đã xin quan tòa đừng lấy mạng sống của những kẻ giết người, với lý do: “Chúng tôi không phản đối việc quí vị tước sự tự do của những kẻ xấu này, để họ không phạm tội ác như thế nữa. Đúng hơn, điều mong ước của chúng tôi là công lý phải được thực hiện mà không tước đi mạng sống của họ, hay hủy hoại phần nào đó của thân thể họ. Và đồng thời, chúng tôi mong ước rằng bằng những biện pháp cưỡng chế theo luật định, họ sẽ chuyển từ kẻ cuồng nộ mất lý trí thành người điềm tĩnh và sáng suốt, từ kẻ làm những việc gian ác thành người hữu ích. Đây cũng được coi là một sự lên án, nhưng khi bạo lực hung hãn bị kiềm chế và những phương dược giúp hối cải được cung cấp, thì ai cũng thấy rằng nên xem xét một điều ích lợi, hơn là một biện pháp thuần túy trừng phạt… Đừng để cho sự tàn ác của tội lỗi của họ nung nấu một ao ước báo thù, nhưng thay vào đó nên ao ước chữa lành các thương tích mà những hành động ấy đã gây ra cho linh hồn họ”. (254)
  4. Sự sợ hãi và oán hận rất dễ dẫn tới việc nhìn hình phạt như một cách trả đũa và thậm chí độc ác, thay vì như một phần của một tiến trình chữa lành và tái hội nhập vào xã hội. Ngày nay, “trong một số khung cảnh chính trị, và một số phương tiện truyền thông, bạo lực công khai hay riêng tư, và sự oán hận được kích động, không chỉ chống lại những người phạm tội, mà chống lại cả những người bị nghi ngờ phạm pháp nữa, dù có chứng cứ hay không. Có khi người ta cố ý tạo ra các kẻ thù: những nhân vật ‘đối tượng’, tức những người tiêu biểu cho tất cả các tính cách mà xã hội hiểu và diễn dịch là đầy đe dọa. Các hệ thống qui trình tạo ra những hình ảnh này thì không khác các hệ thống đã cho phép truyền bá sự phân biệt chủng tộc vào thời trước”. (255) Điều này làm tăng thêm nguy hiểm cho cái biện pháp đang phổ biến tại một số nước, đó là giam giữ, bỏ tù người ta mà không qua xét xử, và đặc biệt là án tử hình.
  5. Ở đây tôi muốn nhấn mạnh rằng “thật không thể tưởng tượng các chính phủ ngày nay mà không có phương tiện nào khác hơn án tử hình để bảo vệ sự sống của mọi người trước những kẻ hung dữ quá khích”. Đặc biệt trầm trọng ở đây là những vụ hành quyết ngoài vòng pháp luật, đó là những vụ “cố ý giết người do một số nhà nước hay mật vụ của họ ra tay, thường được đưa tin kiểu như những vụ chạm súng với các tội phạm, hay được giải thích như là hậu quả ngoài ý muốn của việc dùng vũ lực đúng mức, cần thiết và có lý do, theo đúng qui định của pháp luật”. (256)
  6. “Các lý do chống lại án tử hình thì có rất nhiều và cũng được nhiều người biết đến. Giáo hội đã có dịp kêu gọi chú ý đến một số lý do, như khả năng xét xử sai lầm và việc sử dụng hình phạt ấy bởi các chế độ độc tài và toàn trị như một phương tiện để đàn áp những người bất đồng chính kiến, hay để bách hại các nhóm thiểu số văn hóa và tôn giáo, tức tất cả các nạn nhân mà luật pháp của các chế độ ấy gọi là ‘những kẻ chống đối’. Tất cả các Kitô hữu và những người thiện chí ngày nay được mời gọi đấu tranh không chỉ cho việc hủy bỏ án tử hình, dù án hợp pháp hay bất hợp pháp, trong mọi hình thức của nó, mà còn được mời gọi làm việc để cải thiện các điều kiện lao tù, vì tôn trọng nhân phẩm của những con người bị tước mất tự do. Tôi muốn nối kết những điều này với án tù chung thân… Một án chung thân chính là một án tử hình bí mật”. (257)
  7. Chúng ta hãy ghi nhớ rằng “ngay cả một kẻ sát nhân cũng không mất phẩm giá con người của y, và chính Thiên Chúa hứa bảo vệ điều này”. (258) Việc dứt khoát loại bỏ án tử hình sẽ cho thấy mức độ mà người ta có thể nhìn nhận phẩm giá bất khả nhượng của mọi con người, và chấp nhận rằng ai cũng có chỗ trong vũ trụ này. Nếu tôi không phủ nhận phẩm giá ấy nơi những kẻ tội phạm tệ hại nhất, tôi sẽ không phủ nhận nó đối với bất cứ ai. Tôi sẽ trao cho mọi người cái khả năng chia sẻ hành tinh này với tôi, bất chấp mọi khác biệt giữa tôi và họ.
  8. Tôi kêu gọi những Kitô hữu nào vẫn còn do dự về điểm này, và những ai bị cám dỗ để nhượng bộ cho bạo lực trong bất cứ hình thức nào, hãy ghi nhớ những lời này trong sách Isaia: “Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày” (2,4). Đối với chúng ta, lời tiên tri này ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu Kitô. Người đã nói dứt khoát khi trông thấy một môn đệ bị cám dỗ dùng bạo lực: “Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm” (Mt 26,52). Những lời này vang âm lại lời cảnh cáo xưa: “Ta sẽ đòi con người phải đền nợ máu. Ai đổ máu con người, thì máu nó sẽ bị con người đổ ra” (St 9,5-6). Phản ứng của Chúa Giêsu, phát xuất từ trái tim của Người, lấp cái khoảng trống của nhiều thế kỷ và chạm tới hiện tại này như một lời kêu gọi khôn nguôi.
CHƯƠNG VIII
CÁC TÔN GIÁO PHỤC VỤ CHO TÌNH HUYNH ĐỆ TRÊN THẾ GIỚI
  1. Các tôn giáo khác nhau – dựa trên sự tôn trọng đối với mỗi nhân vị xét như một con người được mời gọi làm con cái của Thiên Chúa – góp phần đầy ý nghĩa để xây dựng tình huynh đệ và bảo vệ công lý trong xã hội. Việc đối thoại giữa các tín đồ của các tôn giáo khác nhau không diễn ra chỉ vì ngoại giao, vì tôn trọng hay vì bao dung. Như các giám mục Ấn Độ diễn tả: “Mục đích của đối thoại là thiết lập tình thân hữu, hòa bình và hòa điệu, và để chia sẻ các giá trị đạo đức và tâm linh, cũng như những kinh nghiệm, trong tinh thần của sự thật và yêu thương”. (259)
NỀN TẢNG CUỐI CÙNG
  1. Trong tư cách là các tín hữu, chúng ta xác tín rằng nếu không mở ra với vị Cha chung của mọi người, sẽ không có những lý do vững mạnh để thúc đẩy tình huynh đệ. Chúng ta xác quyết “chỉ với ý thức rằng chúng ta không phải là những trẻ mồ côi, nhưng là con cái, thì chúng ta mới có thể sống hòa thuận với nhau”. (260) Vì “lý trí tự nó có khả năng nắm hiểu tính bình đẳng giữa mọi con người, và có khả năng trao sự ổn định cho đời sống chung của họ trong thế giới, nhưng nó không thể thiết lập tình huynh đệ”. (261)
  2. Về phương diện này, tôi muốn trích dẫn tuyên bố đáng ghi nhớ sau đây: “Nếu như không có chân lý siêu việt – mà nhờ vâng phục chân lý đó, con người đạt tới căn tính trọn vẹn của mình – thì chẳng có nguyên tắc nào chắc chắn để bảo đảm cho các tương quan đúng đắn giữa con người với nhau. Những lợi ích riêng của giai cấp, phe nhóm hay dân tộc tất nhiên sẽ đặt họ vào thế chống lại nhau. Nếu chân lý siêu việt không được nhìn nhận, thì sức mạnh của quyền lực sẽ thống trị, và mọi người đều có khuynh hướng tận dụng tối đa những phương tiện mình có để áp đặt những lợi ích hay những quan điểm của mình, và không quan tâm đến các quyền của người khác… Gốc rễ của chủ nghĩa toàn trị hiện đại được gặp thấy trong sự chối bỏ phẩm giá siêu việt của nhân vị, là hình ảnh hữu hình của Thiên Chúa vô hình, và vì thế – do chính bản tính của mình – là chủ thể của những quyền mà không một ai, dù là cá nhân, đoàn thể, giai cấp, dân tộc hay nhà nước có thể xâm phạm. Ngay cả thành phần đa số trong một thực thể xã hội cũng không thể xâm phạm các quyền ấy bằng cách chống lại thành phần thiểu số”. (262)
  3. Từ kinh nghiệm đức tin của chúng ta, từ sự khôn ngoan tích lũy qua bao đời, và cũng từ những bài học rút ra sau những yếu đuối và thất bại của mình nữa, chúng ta, những tín đồ thuộc các tôn giáo khác nhau, biết rằng chứng tá của chúng ta về Thiên Chúa sẽ hữu ích cho các xã hội của mình. Nỗ lực tìm kiếm Thiên Chúa với một trái tim chân thành – để nó không bao giờ hoen nhiễm các mục tiêu ích kỷ hay có tính ý thức hệ – sẽ giúp chúng ta nhận ra nhau như những người bạn đồng hành, những anh chị em thực sự của nhau. Chúng ta xác tín rằng “khi người ta nhân danh một ý thức hệ mà cố loại bỏ Thiên Chúa khỏi một xã hội, thì xã hội ấy rốt cục sẽ tôn thờ các ngẫu tượng, và sớm hay muộn người ta sẽ lạc đường, phẩm giá của họ bị chà đạp và các quyền của họ bị xâm phạm. Anh chị em biết rõ bao nhiêu đau khổ do bởi phủ nhận quyền tự do lương tâm và tự do tôn giáo, và vết thương đó làm cho nhân loại nghèo nàn như thế nào, vì nhân loại không có niềm hy vọng và không có các lý tưởng để hướng dẫn mình”. (263)
  4. Phải nhìn nhận rằng “trong số những nguyên nhân quan trọng nhất của các khủng hoảng trong thế giới hiện đại, đó là một lương tâm con người bị chai lì, một sự xa cách đối với các giá trị tôn giáo, và chủ nghĩa cá nhân lan tràn được kèm theo bởi những triết lý duy vật tôn thờ con người và quảng bá những giá trị vật chất phàm trần để thay chỗ cho những nguyên tắc siêu việt và tối thượng”. (264) Thật sai lầm khi những tiếng nói duy nhất được nghe trong tranh luận công khai là những tiếng nói của những người nắm quyền lực và các “chuyên gia”. Cần dành chỗ cho những suy tư từ các truyền thống tôn giáo, vốn là kho tích trữ của bao thế kỷ kinh nghiệm và khôn ngoan. Vì “những tinh túy tôn giáo có thể chứng tỏ có đầy ý nghĩa trong mọi thời đại; chúng có một sức mạnh vững bền [để khai mở các chân trời mới, khơi gợi suy tư, mở rộng tâm trí]”. Nhưng chúng thường bị nhìn một cách khinh bỉ như một hệ quả từ “chứng cận thị của một chủ nghĩa duy lý nào đó”. (265)
  5. Vì những lý do này, trong khi tôn trọng tính tự trị của đời sống chính trị, Giáo hội không giới hạn sứ mạng của mình chỉ nơi cảnh vực riêng tư. Trái lại, “Giáo hội không thể và không được phép ở ngoài lề” trong công cuộc xây dựng một thế giới mới, cũng không thể ngừng “đánh thức những năng lực tinh thần” vốn có thể đóng góp vào việc cải thiện xã hội. (266) Quả thật là các chức sắc tu hành không được liên can đến chính trị đảng phái, là lãnh vực riêng của người giáo dân, nhưng họ cũng không thể buông bỏ chiều kích chính trị của chính đời sống, (267) chiều kích này đòi họ thường xuyên quan tâm đến công ích và quan tâm đến sự phát triển nhân bản toàn diện. Giáo hội “có một vai trò công cộng bên cạnh các hoạt động giáo dục và từ thiện của mình”. Giáo hội làm việc cho “sự thăng tiến của nhân loại và của tình huynh đệ phổ quát”. (268) Giáo hội không nhằm cạnh tranh với các quyền lực trần gian, nhưng cống hiến chính mình trong tư cách “một gia đình – gia đình Giáo hội – ở giữa các gia đình, mở ra để nêu chứng tá trong thế giới hôm nay, mở ra với đức tin, đức cậy và đức mến đối với Chúa, và đối với những ai được Chúa yêu thương một cách ưu tiên. Một ngôi nhà mở toang cửa. Giáo hội là một ngôi nhà mở toang cửa, vì Giáo hội là một người mẹ”. (269) Và bắt chước Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, “chúng ta muốn làm một Giáo hội phục vụ, một Giáo hội rời khỏi nhà và đi ra từ nơi thờ phượng của mình, từ các phòng thánh của mình, để đồng hành với đời sống, nâng đỡ niềm hy vọng, trở thành dấu chỉ hiệp nhất… xây những cây cầu, phá vỡ những bức tường, và gieo rắc những hạt giống hòa giải”. (270)
Căn tính Kitô hữu     
  1. Giáo hội trân trọng những cách thức Thiên Chúa hoạt động trong các tôn giáo khác, và “không bác bỏ những gì chân thật và thánh thiện trong các tôn giáo ấy. Giáo hội ngưỡng mộ cách sống và ứng xử của các tôn giáo, các qui tắc và các giáo thuyết vốn thường phản ảnh một tia sáng của sự thật chiếu soi mọi con người nam nữ”. (271) Nhưng các Kitô hữu chúng ta rất ý thức rằng “nếu điệu nhạc của Tin Mừng ngừng âm vang trong chính hữu thể chúng ta, thì chúng ta sẽ đánh mất niềm vui sinh ra từ lòng thương cảm, đánh mất tình yêu dịu dàng sinh ra từ tín thác, và đánh mất khả năng hòa giải vốn bắt nguồn từ nhận thức của chúng ta rằng mình đã được tha thứ và sai đi. Nếu điệu nhạc của Tin Mừng ngừng âm vang trong nhà của chúng ta, tại các quảng trường của chúng ta, những nơi làm việc, đời sống chính trị và tài chánh, thì chúng ta sẽ không còn nghe cái giai điệu thách đố chúng ta bảo vệ phẩm giá của mọi con người nam cũng như nữ”. (272) Những người khác uống từ các nguồn suối khác. Đối với chúng ta, suối nguồn của nhân phẩm và tình huynh đệ được tìm thấy trong Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Từ đó hiện lộ lên “– trong tư tưởng Kitô giáo và trong hoạt động của Giáo hội – tầm quan trọng được trao cho sự tương quan, sự gặp gỡ với mầu nhiệm thánh thiêng của người khác, và sự hiệp thông phổ quát với toàn thể gia đình nhân loại, như một ơn gọi của Thiên Chúa”. (273)
  2. Được gọi cắm rễ ở mọi nơi, Giáo hội từ bao thế kỷ nay đã hiện diện trên khắp thế giới, vì đó là ý nghĩa của “công giáo”. Vì thế, từ chính kinh nghiệm về ân sủng và về tội lỗi của mình, Giáo hội có thể hiểu vẻ đẹp của lời mời gọi tiến đến tình yêu phổ quát. Thật vậy, “mọi sự của con người đều là sự quan tâm của chúng ta… bất cứ ở đâu hội đồng của các quốc gia họp lại để thiết định các quyền và các bổn phận của con người, chúng ta hân hạnh được cho phép có chỗ giữa họ”. (274) Đối với nhiều Kitô hữu, hành trình huynh đệ này cũng có một người Mẹ, tên là Maria. Khi đã nhận tư cách làm Mẹ phổ quát này dưới chân Thập giá (x. Ga 19,26), Mẹ quan tâm không chỉ Chúa Giêsu mà còn cả “những người còn lại trong dòng dõi bà” (x. Kh 12,17). Trong sức mạnh của Chúa Phục sinh, Mẹ muốn sinh hạ một thế giới mới, trong đó tất cả chúng ta là anh chị em, trong đó có chỗ cho tất cả những ai bị các xã hội chúng ta loại bỏ, trong đó công lý và hòa bình chiếu sáng.
  3. Chúng ta, các Kitô hữu, yêu cầu rằng tại những quốc gia mà mình là một thiểu số, chúng ta được bảo đảm sự tự do, như chính chúng ta cổ võ sự tự do ấy cho những người không phải là Kitô hữu tại những nơi mà họ là thiểu số. Một quyền con người nền tảng không thể bị quên trong hành trình hướng tới huynh đệ và hòa bình, đó là quyền tự do tôn giáo cho các tín đồ của mọi tôn giáo. Quyền tự do ấy công bố rằng chúng ta có thể “xây dựng sự hòa điệu và sự hiểu biết giữa các nền văn hóa và các tôn giáo khác nhau. Nó cũng chứng thực cho sự kiện rằng – vì có rất nhiều điều quan trọng cùng chia sẻ với nhau – chúng ta có thể tìm ra một cách sống chung êm ái, trật tự và hòa bình, chấp nhận những khác biệt của chúng ta, và vui mừng vì là anh chị em của nhau, trong tư cách là con cái của một Thiên Chúa”. (275)
  4. Đồng thời, chúng ta cầu xin Thiên Chúa củng cố mối hiệp nhất trong Giáo hội, mối hiệp nhất được nên phong phú nhờ những khác biệt được hòa giải bởi hoạt động của Thánh Thần. Vì “tất cả chúng ta đều đã chịu Phép Rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể” (1Cr 12,13), trong đó mỗi chi thể có sự đóng góp riêng của mình. Như Thánh Augustinô nói: “tai thấy qua mắt, mắt nghe qua tai”. (276) Cũng thật khẩn thiết phải tiếp tục làm chứng cho hành trình gặp gỡ giữa các Kitô hữu thuộc các phái khác nhau. Chúng ta không thể quên khát vọng của Chúa Kitô rằng “tất cả họ sẽ nên một” (x. Ga 17,21). Nghe tiếng gọi này, chúng ta hối tiếc nhận ra rằng tiến trình toàn cầu hóa vẫn còn thiếu sự đóng góp có tính ngôn sứ và tâm linh của sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu. Dù vậy, “chính trong khi thực hiện hành trình tiến tới hiệp thông hoàn toàn, chúng ta vẫn có bổn phận cùng nhau trao chứng tá về tình yêu của Thiên Chúa đối với mọi người, bằng cách cùng nhau làm việc để phục vụ nhân loại”. (277)
TÔN GIÁO VÀ BẠO LỰC
  1. Một hành trình hòa bình là điều có thể giữa các tôn giáo. Điểm khởi hành của nó phải là cách mà Thiên Chúa nhìn mọi sự. “Thiên Chúa không nhìn bằng mắt, mà bằng trái tim. Và Thiên Chúa yêu thương mọi người với cùng một tình yêu, bất kể tôn giáo. Ngay cả dù họ là người vô thần, tình yêu của Thiên Chúa cũng vẫn thế. Khi đến hồi tận thời, và có đủ ánh sáng để nhìn thấy mọi sự như sự thật của chúng, chúng ta hẳn sẽ rất đỗi ngạc nhiên”. (278)
  2. Vậy thì “chúng ta, các tín hữu , cần tìm dịp để nói chuyện với nhau và hành động cùng nhau cho thiện ích chung và cho việc thăng tiến người nghèo. Điều này không đòi phải giảm nhẹ hay che giấu những niềm xác tín sâu xa nhất của mình khi gặp gỡ những người có suy nghĩ khác ta… Vì khi căn tính của chúng ta càng sâu hơn, mạnh hơn, và phong phú hơn, thì chúng ta càng có khả năng hơn để giúp làm phong phú những người khác, với sự đóng góp riêng của chúng ta”. (279) Chúng ta, các tín hữu, được thách đố trở về với các cội nguồn của mình, để tập trung vào những gì là thiết yếu: thờ phượng Thiên Chúa và yêu thương tha nhân, để cho một số giáo huấn của chúng ta không bị lấy ra khỏi bối cảnh, và dẫn tới việc nuôi dưỡng những hình thức khinh mạn, oán ghét, bài ngoại, hay phủ nhận người khác. Thật vậy, bạo lực không có cơ sở trong những niềm xác tín tôn giáo nền tảng của chúng ta, nhưng chỉ có trong sự bóp méo các niềm xác tín ấy.
  3. Việc thờ phượng Thiên Chúa cách chân thành và khiêm tốn “sẽ sinh hoa quả không phải là thái độ kỳ thị, thù địch và bạo lực, nhưng là lòng tôn trọng đối với tính thánh thiêng của sự sống, tôn trọng phẩm giá và tự do của người khác, và sự dấn thân đầy yêu thương cho thiện ích của mọi người”. (280) Quả thực, “ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8). Vì lý do này, “nạn khủng bố thật là tồi tệ, nó đe dọa sự an toàn của người ta – dù ở Đông hay Tây, Nam hay Bắc – và nó làm lan tràn sự hốt hoảng, sợ hãi và bi quan, nhưng đây không phải là do tôn giáo, ngay cả khi những kẻ khủng bố mượn danh nghĩa tôn giáo. Đúng hơn, nó xuất phát từ sự tích tụ những giải thích sai lầm về các bản văn tôn giáo, và từ những chính sách có liên quan tới nạn đói nghèo, bất công, áp bức và hãnh thắng. Đó là lý do tại sao rất cần phải ngừng việc hỗ trợ cho các phong trào khủng bố, ngừng nuôi dưỡng chúng bằng tài chánh, ngừng cung cấp vũ khí và chiến lược, và ngừng tìm cách biện minh cho những phong trào này – ngay cả qua việc sử dụng truyền thông. Tất cả những điều này phải được xem là tội phạm quốc tế đe dọa an ninh và hòa bình thế giới. Nạn khủng bố như thế phải bị lên án trong tất cả hình thức và cách thể hiện của nó”. (281) Những niềm xác tín tôn giáo về ý nghĩa thánh thiêng của sự sống con người cho phép chúng ta “nhận ra những giá trị nền tảng của nhân tính phổ quát nơi chúng ta, chính vì nhân danh những giá trị này mà chúng ta có thể và phải hợp tác, xây dựng và đối thoại, tha thứ và phát triển; điều này sẽ cho phép những tiếng nói khác nhau kết hợp lại và tạo ra một giai điệu tuyệt hay và tôn quí, thay vì là những tiếng la hét cuồng loạn của hận thù”. (282)
  4. Nhiều khi bạo lực quá khích đến từ một số nhóm, thuộc bất cứ tôn giáo nào, bởi sự điên rồ của các nhân vật thủ lãnh. Nhưng, “giáo huấn về hòa bình được ghi khắc sâu xa trong các truyền thống tôn giáo của chúng ta… Trong tư cách là các lãnh đạo tôn giáo, chúng ta được kêu gọi trở nên “những con người đối thoại” đích thực, cộng tác trong việc xây dựng hòa bình không phải như những người trung gian mà như những tác nhân hòa giải đích thực. Những người trung gian tìm cách ve vuốt mọi người, nhằm cuối cùng kiếm lợi cho mình. Đàng khác, những tác nhân hòa giải là người không thu vén gì cho mình, mà sẵn sàng quảng đại quên mình cho đến mức mình bị tiêu hao, bởi biết rằng mối lợi duy nhất là hòa bình. Mỗi chúng ta được kêu gọi trở thành chiến sĩ của hòa bình, bằng cách đoàn kết chứ không chia rẽ, bằng việc dập tắt lửa hận thù chứ không cố bám lấy nó, bằng việc mở ra những nẻo đường đối thoại chứ không xây thêm những bức tường”. (283)
Một lời kêu gọi
  1. Trong cuộc gặp gỡ huynh đệ của tôi với Đại giáo trưởng Ahmad Al-Tayyeb mà tôi rất vui khi nhớ lại, “chúng tôi đã dứt khoát [tuyên bố] rằng các tôn giáo không bao giờ được kích động chiến tranh, những thái độ thù hận, sự hiếu chiến và quá khích, cũng không được kích động bạo lực hay sự đổ máu. Những thực tế bi thảm này là hậu quả của một sự lạc xa các giáo huấn của tôn giáo. Chúng đến từ một sự thao túng các tôn giáo cho mục tiêu chính trị, và từ những giải thích của các nhóm tôn giáo mà trong lịch sử đã lợi dụng sức mạnh của tâm thức tôn giáo trong người ta… Thiên Chúa, Đấng Toàn Năng, không cần được bảo vệ bởi bất cứ ai, và Ngài không muốn tên của Ngài được dùng để gieo rắc khủng bố”. (284) Vì lý do này, tôi muốn lặp lại ở đây lời kêu gọi hòa bình, công lý và tình huynh đệ mà chúng ta thực hiện cùng với nhau:
“Nhân danh Thiên Chúa, Đấng dựng nên mọi con người bình đẳng trong các quyền, các bổn phận và trong phẩm giá, và là Đấng đã kêu gọi mọi người sống với nhau như anh chị em, để lấp đầy trái đất này và cổ võ các giá trị của sự thiện, tình yêu và hòa bình;
“Nhân danh sự sống của những con người vô tội mà Thiên Chúa đã cấm giết hại, xác nhận rằng ai giết một con người thì giống như kẻ giết toàn thể nhân loại, và ai cứu sống một con người thì giống như kẻ cứu sống toàn thể nhân loại;
“Nhân danh những người nghèo, những người cùng khổ, những người bị loại ra bên lề và những người túng quẫn nhất, họ là những người mà Thiên Chúa đã truyền dạy chúng ta phải giúp đỡ, như một bổn phận của tất cả mọi người, nhất là những người giàu và những ai có phương tiện;
“Nhân danh các cô nhi, quả phụ, những người tị nạn và những người phải rời bỏ quê hương đất nước của mình; nhân danh tất cả các nạn nhân của chiến tranh, của bách hại và bất công; nhân danh những người yếu thế, những người sống trong sợ hãi, các tù nhân chiến tranh và những người bị tra tấn ở bất cứ đâu trên thế giới, không phân biệt;
“Nhân danh các dân tộc đã đánh mất an ninh, hòa bình và khả năng sống với nhau, trở thành những nạn nhân của sự hủy diệt, thảm họa và chiến tranh;
“Nhân danh tình huynh đệ giữa con người, tình huynh đệ bao gồm hết mọi con người, kết hợp họ và làm cho họ bình đẳng;
“Nhân danh tình huynh đệ bị xé rách bởi các chính sách cực đoan và chia rẽ, bởi những hệ thống lợi ích vô độ hay bởi các khuynh hướng ý thức hệ thù hận đang dẫn dụ các hành động và phá hại tương lai của mọi người;
“Nhân danh sự tự do mà Thiên Chúa đã ban cho mọi con người, Ngài dựng nên họ với tự do, và làm cho họ có nét độc đáo riêng nhờ quà tặng này;
“Nhân danh công lý và lòng thương xót, là những nền tảng của sự thịnh vượng và là viên đá góc của đức tin;
“Nhân danh mọi người thiện chí đang hiện diện khắp nơi trên thế giới;
“Nhân danh Thiên Chúa và nhân danh tất cả những gì nói trên, [chúng tôi] tuyên bố lấy văn hóa đối thoại làm con đường của mình; lấy sự hợp tác với nhau làm qui tắc ứng xử; và lấy sự cảm thông nhau làm phương pháp và tiêu chuẩn của mình”. (285)
* * *
  1. Trong những trang suy tư này về tình huynh đệ phổ quát, tôi nhận cảm hứng cách riêng từ Thánh Phanxicô Assisi, nhưng cũng được cảm hứng từ nhiều anh chị em khác của chúng ta, những người không phải là tín hữu Công giáo: Martin Luther King, Desmond Tutu, Mahatma Gandhi, và nhiều người khác. Nhưng tôi muốn đúc kết bằng cách nhắc đến một người khác nữa, một người với đức tin sâu sắc và được thúc đẩy bởi kinh nghiệm thâm sâu về Thiên Chúa, đã thực hiện một hành trình biến đổi hướng tới cảm nghiệm mình là một người anh em của mọi người. Đó là Chân phước Charles de Foucauld.
  2. Với lý tưởng hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, Chân phước Charles de Foucauld đã đi đến đồng hóa mình với những người nghèo, những người bị bỏ rơi ở những góc xa khuất nhất của sa mạc Phi Châu. Trong khung cảnh đó, ngài đã diễn tả ao ước cảm nhận mình là một người anh em của mọi người, (286) và đã xin một người bạn “cầu nguyện xin Chúa cho tôi thực sự là người anh em của tất cả”. (287) Cuối cùng, ngài muốn làm “người anh em phổ quát”. (288) Hẳn nhiên chỉ bằng cách tự đồng hóa mình với những người bé nhỏ nhất mà ngài đã có thể trở thành người anh em của tất cả mọi người. Nguyện xin Thiên Chúa khơi dậy giấc mơ này nơi mỗi chúng ta. Amen.
Lời cầu nguyện với Đấng Tạo Thành
Lạy Chúa, là Cha của gia đình nhân loại chúng con,
Chúa đã dựng nên mọi người với phẩm giá bình đẳng:
xin đổ vào trái tim chúng con một tinh thần huynh đệ
và khơi lên trong chúng con giấc mơ gặp gỡ cách mới mẻ,
giấc mơ đối thoại, công lý và hòa bình.
Xin thúc đẩy chúng con kiến tạo những xã hội lành mạnh hơn
và một thế giới có phẩm giá hơn,
một thế giới không có chiến tranh, bạo lực và đói nghèo.
Xin mở rộng trái tim chúng con
hướng đến mọi dân mọi nước trên mặt đất này.
Xin giúp chúng con nhận ra sự tốt lành và vẻ đẹp
mà Chúa đã gieo vào mỗi người chúng con,
nhờ đó chúng con kiến tạo những mối dây hiệp nhất,
những dự án chung, và những giấc mơ cùng chia sẻ. Amen.
Lời cầu nguyện hiệp nhất Kitô hữu  
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi yêu thương
từ mối hiệp thông sâu xa trong sự sống thần linh của Chúa,
xin tuôn đổ dạt dào trên chúng con tình yêu huynh đệ.
Xin ban cho chúng con tình yêu
biểu lộ nơi các hành động của Chúa Giêsu,
trong gia đình Nadarét, và trong cộng đoàn tín hữu sơ khai.
Xin giúp các Kitô hữu chúng con biết sống Tin Mừng,
khám phá Chúa Kitô nơi mỗi con người,
nhận ra Người chịu đóng đinh
trong những thống khổ của những người bị bỏ rơi
và bị lãng quên trên thế giới này,
và nhận ra Chúa sống lại nơi mỗi anh chị em
đang thực hiện một cuộc bắt đầu mới.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến
và tỏ cho chúng con thấy vẻ đẹp của Chúa,
được phản chiếu nơi mọi dân tộc trên trái đất,
để chúng con có thể khám phá một lần nữa
rằng mọi người đều quan trọng, và mọi người đều cần thiết,
là những khuôn mặt khác nhau của một nhân loại duy nhất
mà Chúa rất đỗi yêu thương. Amen.
Được ban hành tại Assisi, bên mộ Thánh Phanxicô, vào ngày 3 tháng 10, Áp lễ kính Thánh nhân, năm 2020, năm thứ tám triều Giáo hoàng của tôi.
Phanxicô
 Nguồn: xuanbichvietnam.net
Chú thích:
…. (thiếu chú thích 1-131)?
[132] ANTONIO SPADARO, S.J., Le orme di un pastore. Una conversazione con Papa Francesco, in JORGE MARIO BERGOLIO – PAPA FRANCESCO, Nei tuoi occhi è la mia parola. Omelie e discorsi di Buenos Aires 1999-2013, Rizzoli, Milan 2016, XVI; cf. Tông huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11, 2013), 220-221: AAS 105 (2013), 1110-1111.
[133] Tông huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11, 2013), 204: AAS 105 (2013), 1106.
[134] Cf. ibid.: AAS 105 (2013), 1105-1106.
[135] Ibid., 202: AAS 105 (2013), 1105.
[136] Thông điệp Laudato Si’ (24 tháng 5, 2015), 128: AAS 107 (2015), 898.
[137] Diễn văn với Các Ngoại giao đoàn tại Tòa Thánh (12 tháng 1, 2015): AAS 107 (2015), 165; cf. Diễn văn với các Tham dự viên Hội nghị Thế giới về Các Phong trào Đại chúng (28 tháng 10, 2014): AAS 106 (2014), 851-859.
[138] Có thể nêu một ghi nhận tương tự đối với phạm trù Nước Thiên Chúa trong Thánh Kinh.
[139] PAUL RICOEUR, Histoire et Verité, ed. Le Seuil Paris, 1967, 122.
[140] Thông điệp Laudato Si’ (24 tháng 5, 2015), 129: AAS 107 (2015), 899.
[141] BÊNÊĐICTÔ XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 tháng 6, 2009), 35: AAS 101 (2009), 670.
[142] Diễn văn với các Tham dự viên Hội nghị Thế giới về Các Phong trào Đại chúng (28 October 2014): AAS 106 (2014), 858.
[143] Ibid.
[144] Diễn văn với các Tham dự viên Hội nghị Thế giới về Các Phong trào Đại chúng (5 tháng 11, 2016): L’Osservatore Romano, 7-8 tháng 11, 2016, tr. 4-5.
[145] Ibid.
[146] Ibid.
[147] Thông điệp Laudato Si’ (24 tháng 5, 2015), 189: AAS 107 (2015), 922.
[148] Diễn văn với các Thành viên Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, New York (25 tháng 9, 2015): AAS 107 (2015), 1037.
[149] Thông điệp Laudato Si’ (24 tháng 5, 2015), 175: AAS 107 (2015), 916-917.
[150] Cf. BÊNÊDĐICTÔ XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 tháng 6, 2009), 67: AAS 101 (2009), 700-701.
[151] Ibid.: AAS 101 (2009), 700.
[152] HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH, Tuyển tập Giáo huấn Xã hội của Giáo hội, 434.
[153] Diễn văn với các Thành viên Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, New York (25 tháng 9, 2015): AAS 107 (2015), 1037, 1041.
[154] HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH, Tuyển tập Giáo huấn Xã hội của Giáo hội, 437.
[155] Thánh GIOAN PHAOLÔ II, Sứ điệp Ngày Hòa Bình Thế giới 2004, 5: AAS 96 (2004), 117.
[156] HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH, Tuyển tập Giáo huấn Xã hội của Giáo hội, 439.
[157] Cf. ỦY BAN XÃ HỘI của HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC PHÁP, Declaration Réhabiliter la Politique (17 tháng 2, 1999).
[158] Thông điệp Laudato Si’ (24 tháng 5, 2015), 189: AAS 107 (2015), 922.
[159] Ibid., 196: AAS 107 (2015), 925.
[160] Ibid., 197: AAS 107 (2015), 925.
[161] Ibid., 181: AAS 107 (2015), 919.
[162] Ibid., 178: AAS 107 (2015), 918.
[163] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC BỒ ĐÀO NHA, Thư Mục vụ Responsabilidade Solidária pelo Bem Comum (15 tháng 9, 2003), 20; cf. Thông điệp Laudato Si’ (24 tháng 5, 2015), 159: AAS 107 (2015), 911.
[164] Thông điệp Laudato Si’ (24 tháng 5, 2015), 191: AAS 107 (2015), 923.
[165] PIÔ XI, Diễn văn với Liên đoàn Sinh viên Đại học Công giáo Ý (18 tháng 12, 1927): L’Osservatore Romano, 23 tháng 12, 1927, tr. 3.
[166] Cf. ID., Thông điệp Quadragesimo Anno (15 tháng 5, 1931): AAS 23 (1931), 206-207.
[167] Tông huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11, 2013), 205: AAS 105 (2013), 1106
[168] Bênêđictô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 tháng 6, 2009), 2: AAS 101 (2009), 642.
[169] Thông điệp Laudato Si’ (24 tháng 5, 2015), 231: AAS 107 (2015), 937.
[170] Bênêđictô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 tháng 6, 2009), 2: AAS 101 (2009), 642.
[171] HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH, Tuyển tập Giáo huấn Xã hội của Giáo hội, 207.
[172] Thánh GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp Redemptor Hominis (4 tháng 3, 1979), 15: AAS 71 (1979), 288.
[173] Cf. Thánh PHAOLÔ VI, Thông điệp Populorum Progressio (26 tháng 3, 1967), 44: AAS 59 (1967), 279.
[174] HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH, Tuyển tập Giáo huấn Xã hội của Giáo hội, 207.
[175] Bênêđictô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 tháng 6, 2009), 2: AAS 101 (2009), 642.
[176] Ibid., 3: AAS 101 (2009), 643.
[177] Ibid., 4: AAS 101 (2009), 643.
[178] Ibid.
[179] Ibid., 3: AAS 101 (2009), 643.
[180] Ibid.: AAS 101 (2009), 642.
[181] Giáo huấn luân lý Công giáo, theo giáo huấn của Thánh Thomas Aquinas, phân biệt giữa “thúc bách” và “khơi động”; cf. Summa Theologiae, I-II, qq. 8-17; M. ZALBA, S.J., Theologiae Moralis Summa. Theologia Moralis Fundamentalis. Tractatus de Virtutibus Theologicis, ed. BAC, Madrid, 1952, vol. I, 69; A. ROYO MARÍN, Teología de la Perfección Cristiana, ed. BAC, Madrid, 1962, 192-196.
[182] HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH, Tuyển tập Giáo huấn Xã hội của Giáo hội, 208.
[183] Cf. Thánh GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis (30 tháng 12, 1987), 42: AAS 80 (1988), 572-574; Thông điệp Centesimus Annus (1 tháng 5, 1991), 11: AAS 83 (1991), 806-807.
[184] Diễn văn với các Tham dự viên Hội nghị Thế giới về Các Phong trào Đại chúng (28 tháng 10, 2014): AAS 106 (2014), 852.
185] Diễn văn với Hội đồng Châu Âu, Strasbourg (25 tháng 11, 2014): AAS 106 (2014), 999.
[186] Diễn văn tại Cuộc Gặp gỡ Các Lãnh đạo và Ngoại giao đoàn tại Cộng hòa Trung Phi , Bangui (29 tháng 11, 2015): AAS 107 (2015), 1320.
[187] Diễn văn tại Liên Hiệp Quốc (25 tháng 9, 2015): AAS 107 (2015), 1039.
[188] Diễn văn với các Tham dự viên Hội nghị Thế giới về Các Phong trào Đại chúng (28 tháng 10, 2014): AAS 106 (2014), 853.
[189] Văn kiện về Tình Huynh đệ Con người Vì Hòa Bình Thế Giới Và Cùng Chung Sống, Abu Dhabi (4 tháng 2, 2019): L’Osservatore Romano, 4-5 tháng 2, 2019, tr. 6.
[190] RENÉ VOILLAUME, Frères de tous, ed. Cerf, Paris, 1968, 12-13.
[191] Sứ điệp Video gửi Hội nghị TED ở Vancouver (26 tháng 4, 2017): L’Osservatore Romano, 27 tháng 4, 2017, tr. 7.
[192] Tiếp kiến chung (18 tháng 2, 2015): L’Osservatore Romano, 19 tháng 2, 2015, tr. 8.
[193] Tông huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11, 2013), 274: AAS 105 (2013), 1130.
[194] Ibid., 279: AAS 105 (2013), 1132.
[195] Sứ điệp Ngày Hòa bình Thế giới 2019 (8 tháng 12, 2018), 5: L’Osservatore Romano, 19 tháng 12, 2018, tr. 8.
[196] Gặp gỡ Các Lãnh đạo Kinh tế, Chính trị và Văn hóa, Rio de Janeiro, Brazil (27 tháng 7, 2013): AAS 105 (2013), 683-684.
[197] Tông huấn Querida Amazonia (2 tháng 2, 2020), 108.
[198] Từ bộ phim Pope Francis: A Man of His Word, của Wim Wenders (2018).
[199] Sứ điệp Ngày Truyền thông Thế giới 2014 (24 tháng 1, 2014): AAS 106 (2014), 113.
[200] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC ÚC, Commission for Social Justice, Mission and Service, Making It Real: Genuine Human Encounter in Our Digital World (tháng 11, 2019).
[201] Thông điệp Laudato Si’ (24 tháng 5, 2015), 123: AAS 107 (2015), 896.
[202] Thánh GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp Veritatis Splendor (6 tháng 8, 1993), 96: AAS 85 (1993), 1209.
[203] Là Kitô hữu, chúng ta cũng tin rằng Thiên Chúa ban ơn của Ngài cho chúng ta để giúp chúng ta hành động như anh chị em của nhau.
[204] VINICIUS DE MORAES, Samba da Benção, trong Um encontro no Au bon Gourmet, Rio de Janeiro (2 August 1962).
[205] Tông huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11, 2013), 237: AAS 105 (2013), 1116.
[206] Ibid., 236: AAS 105 (2013), 1115.
[207] Ibid., 218: AAS 105 (2013), 1110.
[208] Tông huấn Amoris Laetitia (19 tháng 3, 2016), 100: AAS 108 (2016), 351.
Chú thích:
[259] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC ẤN ĐỘ, Đáp ứng của Giáo hội ở Ấn Độ trước Những Thách Đố Hiện Nay (9 tháng 3, 2016).
[260] Bài giảng Thánh lễ ở Domus Sanctae Marthae (17 tháng 5, 2020).
[261] BÊNÊĐICTÔ XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 tháng 6, 2009), 19: AAS 101 (2009), 655.
[262] Thánh GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp Centesimus Annus (1 tháng 5, 1991), 44: AAS 83 (1991), 849.
[263] Diễn văn với Lãnh đạo Các Tôn giáo khác và Các Phái Kitô giáo khác, Tirana, Albania (21 tháng 9, 2014): Insegnamenti II, 2 (2014), 277.
[264] Văn kiện về Tình Huynh đệ Con người Vì Hòa Bình Thế Giới Và Cùng Chung Sống, Abu Dhabi (4 tháng 2, 2019): L’Osservatore Romano, 4-5 tháng 2, 2019, tr. 6.
[265] Tông huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11, 2013), 256: AAS 105 (2013), 1123.
[266] BÊNÊĐICTÔ XVI, Thông điệp Deus Caritas Est (25 tháng 12, 2005), 28: AAS 98 (2006), 240.
[267] “Con người là một con vật chính trị”, ARISTOTLE, Chính trị, 1253a 1-3.
[268] BÊNÊĐICTÔ XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 tháng 6, 2009), 11: AAS 101 (2009), 648.
[269] Diễn văn với Cộng đồng Công giáo, Rakovski, Bulgaria (6 tháng 5, 2019): L’Osservatore Romano, 8 tháng 5, 2019, tr. 9.
[270] Bài giảngSantiago de Cuba (22 tháng 9, 2015): AAS 107 (2015), 1005.
[271] Công Đồng Vatican II, Nostra Aetate, 2.
[272] Lời Cầu nguyện Đại kết, Riga, Latvia (24 tháng 9, 2018): L’Osservatore Romano, 24-25 tháng 9, 2018, tr. 8.
[273] Lectio Divina, Đại học Giáo hoàng Laterano, Rome (26 tháng 3, 2019): L’Osservatore Romano, 27 tháng 3, 2019, tr. 10.
[274] Thánh PHAOLÔ VI, Thông điệp Ecclesiam Suam (6 August 1964): AAS 56 (1964), 650.
[275] Diễn văn với Các Quyền bính Dân sự, Bethlehem, Palestine (25 tháng 5, 2014): Insegnamenti II, 1 (2014), 597.
[276] Enarrationes trong Thánh Vịnh, 130, 6: PL 37, 1707.
[277] Tuyên bố chung của Giáo hoàng Phanxicô và Thượng phụ Bartholomew, Jerusalem (25 tháng 5, 2014), 5: L’Osservatore Romano, 26-27 tháng 5, 2014, tr. 6.
[278] Từ bộ phim Pope Francis: A Man of His Word, của Wim Wenders (2018).
[279] Tông huấn Querida Amazonia (2 tháng 2, 2020), 106.
[280] Bài giảngColombo, Sri Lanka (14 tháng 1, 2015): AAS 107 (2015), 139.
[281] Văn kiện về Tình Huynh đệ Con người vì Hòa Bình Thế Giới và Cùng Chung Sống, Abu Dhabi (4 tháng 2, 2019): L’Osservatore Romano, 4-5 tháng 2, 2019, tr. 7.
[282] Diễn văn với Các Quyền bính Dân sự, Sarajevo, Bosnia-Herzegovina (6 tháng 6, 2015): L’Osservatore Romano, 7 tháng 6, 2015, tr. 7.
[283] Diễn văn tại Hội nghị Quốc tế vì Hòa Bình được cộng đoàn Sant’Egidio tổ chức (30 tháng 9, 2013): Insegnamenti I, 1 (2013), 301-302.
[284] Văn kiện về Tình Huynh đệ Con người vì Hòa Bình Thế Giới và Cùng Chung Sống, Abu Dhabi (4 tháng 2, 2019): L’Osservatore Romano, 4-5 tháng 2, 2019, tr. 6.
[285] Ibid.
[286] Cf. CHARLES DE FOUCAULD, Suy niệm về Kinh Lạy Cha (23 tháng 1, 1897).
[287] Thư gửi Henry de Castries (29 tháng 11, 1901).
[288] Thư gửi Madame de Bondy (7 tháng 1, 1902). Thánh Phaolô VI dùng những lời này để ca ngợi sự dấn thân của Vị Chân Phước: Thông điệp Populorum Progressio (26 tháng 3, 1967): AAS 59 (1967), 263.

Toàn bộ ghi chú
 
Vũ Văn An
 
[1] Admonitions, 6, 1. Bản tiếng Anh trong Francis of Assisi: Early Documents, vol 1., New York, London, Manila (1999), 131.
[2] Đã dẫn, 25: tài liệu đã dẫn, 136.
[3] Thánh Phanxicô thành ASSISI, Earlier Rule of the Friars Minor (Regula non bullata), 16: 3.6: tài liệu đã dẫn 74.
[4] ELOI LECLERC, O.F.M., Exil et tendresse, Éd. Franciscaines, Paris, 1962, 205.
[5] Văn kiện Tình Huynh đệ Nhân bản vì Hòa bình Thế giới và Sống chung, Abu Dhabi (4 Tháng 2 2019): L’Osservatore Romano, 4-5 Tháng 2 2019, p. 6.
[6] Diễn văn Tại Cuộc Gặp gỡ Đại kết và Liên tôn với Người Trẻ, Skopje, North Macedonia (7 Tháng 5 2019): L’Osservatore Romano, 9 Tháng 5 2019, p. 9.
[7] Diễn văn với Nghị viện Âu Châu, Strasbourg (25 Tháng 11 2014): AAS 106 (2014), 996.
[8] Gặp Các Nhà Cầm quyền, Xã hội dân sự và Ngoại giao đoàn, Santiago, Chile (16 Tháng 1 2018): AAS 110 (2018), 256.
[9] Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 Tháng 6 2009), 19: AAS 101 (2009), 655.
[10] Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Christus vivit (25 Tháng 3 2019), 181.
[11] Đức Hồng Y RAÚL SILVA HENRÍQUEZ, Homily at the Te Deum, Santiago de Chile (18 Tháng 9 1974).
[12] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 57: AAS 107 (2015), 869.
[13] Diễn văn với Ngoại giao đoàn bên cạnh Tòa Thánh (11 Tháng 1 2016): AAS 108 (2016), 120.
[14] Diễn văn với Ngoại giao đoàn bên cạnh Tòa Thánh (13 Tháng 1 2014): AAS 106 (2014), 83-84.
[15] Xem Diễn văn với Qũy “Centesimus Annus pro Pontifice” (25 Tháng 5 2013): Insegnamenti I, 1 (2013), 238.
[16] Xem Thánh Phaolô VI, Thông điệp Populorum Progressio (26 Tháng 3 1967): AAS 59 (1967), 264.
[17] Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 Tháng 6 2009), 22: AAS 101 (2009), 657.
[18] Diễn văn với nhà Cầm quyền Dân sự, Tirana, Albania (21 Tháng 9 2014): AAS 106 (2014), 773.
[19] Diễn văn với Các Tham dự viên Hội Nghị Quôc Tế “Nhân quyền trong Thế giơí Ngày nay: Các thành tựu, Bỏ sót, Bác bỏ” (10 Tháng 12 2018): L’Osservatore Romano, 10-11 Tháng 12 2018, p. 8.
[20] Tông huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11 2013), 212: AAS 105 (2013), 1108.
[21] Thông điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới 2015 (8 Tháng 12 2014), 3-4: AAS 107 (2015), 69-71.
[22] Đã dẫn, 5: AAS 107 (2015), 72.
[23] Thông điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới 2016 (8 Tháng 12 2015), 2: AAS 108 (2016), 49.
[24] Thông điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới 2020 (8 Tháng 12 2019), 1: L’Osservatore Romano, 13 Tháng 12 2019, p. 8.
[25] Diễn văn về Vũ khí Nguyên tử, Nagasaki, Japan (24 Tháng 11 2019): L’Osservatore Romano, 25-26 Tháng 11 2019, p. 6.
[26] Đối thoại với các Học sinh và Giáo viên Trường San Carlo ở Milan (6 Tháng 4 2019): L’Osservatore Romano, 8-9 Tháng 4 2019, p. 6.
[27] Văn kiện Tình Huynh đệ Nhân bản vì Hòa bình Thế giới và Sống chung, Abu Dhabi (4 Tháng 2 2019): L’Osservatore Romano, 4-5 Tháng 2 2019, p. 6.
[28] Diễn văn với Thế giới văn hóa, Cagliari, Italy (22 Tháng 9 2013): L’Osservatore Romano, 23-24 Tháng 9 2013, p. 7.
[29] Humana Communitas. Thư gửi Chủ tịch Giáo Hoàng Hàn Lâm Viện Sư Sống dịp Kỷ niệm 25 thành lập (6 Tháng 1 2019), 2.6: L’Osservatore Romano, 16 Tháng 1 2019, pp. 6-7.
[30] Sứ điệp video gửi Hội nghị TED ở Vancouver (26 Tháng 4 2017): L’Osservatore Romano, 27 Tháng 4 2017, p. 7.
[31] Buổi Cầu Nguyện ngoại thường Thời Đại dịch (27 Tháng 3 2020): L’Osservatore Romano, 29 Tháng 3 2020, p. 10.
[32] Bài giảng lễ, North Macedonia (7 Tháng 5 2019): L’Osservatore Romano, 8 Tháng 5 2019, p. 12.
[33] Xem Aeneid 1, 462: “Sunt lacrimae rerum et mentem mortalia tangunt”.
[34] “Historia… magistra vitae” (CICERO, De Oratore, 2, 6).
[35] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 204: AAS 107 (2015), 928.
[36] Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Christus Vivit (25 Tháng 3 2019), 91.
[37]Đã dẫn, 92.
[38] Đã dẫn, 93.
[39] Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Ngày Thế giới Di dân và Người tỵ nạn năm 2013, (12 Tháng 10 2012): AAS 104 (2012), 908.
[40] Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Christus Vivit (25 Tháng 3 2019), 92.
[41] Thông điệp Ngày Thế giới Di dân và Người tỵ nạn năm 2020 (13 Tháng 5 2020): L’Osservatore Romano, 16 Tháng 5 2020, p. 8.
[42] Diễn văn với Ngoại giao đoàn bên cạnh Tòa Thánh (11 Tháng 1 2016): AAS 108 (2016), 124.
[43] Diễn văn với Ngoại giao đoàn bên cạnh Tòa Thánh (13 Tháng 1 2014): AAS 106 (2014), 84.
[44] Diễn văn với Ngoại giao đoàn bên cạnh Tòa Thánh (11 Tháng 1 2016): AAS 108 (2016), 123.
[45] Thông điệp Ngày Thế giới Di dân và Người tỵ nạn năm 2019 (27 Tháng 5 2019): L’Osservatore Romano, 27-28 Tháng 5 2019, p. 8.
[46] Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Christus Vivit (25 Tháng 3 2019), 88.
[47] Đã dẫn, 89.
[48] Tông huấn Gaudete et Exsultate (19 Tháng 3 2018), 115.
[49] Từ cuốn phim Pope Francis: A Man of His Word, by Wim Wenders (2018).
[50] Diễn văn với Các Nhà Cầm quyền, Xã hội dân sự và Ngoại giao đoàn Tallinn, Estonia (25 Tháng 9 2018): L’Osservatore Romano, 27 Tháng 9 2018, p. 7.
[51] Xem Buổi Cầu Nguyện ngoại thường Thời Đại dịch (27 Tháng 3 2020): L’Osservatore Romano, 29 Tháng 3 2020, p. 10; Thông điệp nhân Ngày Thế giới Người Nghèo (13 Tháng 6 2020), 6: L’Osservatore Romano, 14 Tháng 6 2020, p. 8.
[52] Chào mừng Người Trẻ tại Trung tâm văn hóa Padre Félix Varela, Havana, Cuba (20 Tháng 9 2015): L’Osservatore Romano, 21-22 Tháng 9 2015, p. 6.
[53] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mục vụ về Giáo Hội trong Thế giới Ngày nay Gaudium et Spes, 1.
[54] Thánh Irênê thành Lyons, Adversus Haereses, II, 25, 2: PG 7/1, 798ff.
[55] Talmud Bavli (Babylonian Talmud), Shabbat, 31a.
[56] Diễn văn với Những Người được Các Công trình Bác ái của Giáo Hội giúp đỡ, Tallinn, Estonia (25 Tháng 9 2018): L’Osservatore Romano, 27 Tháng 9 2018, p. 8.
[57] Sứ điệp video gửi Hội nghị TED ở Vancouver (26 Tháng 4 2017):L’Osservatore Romano, 27 Tháng 4 2017, p. 7.
[58] Homiliae in Matthaeum, 50: 3-4: PG 58, 508.
[59] Thông điệp gửi Cuộc Gặp gỡ của Các Phong trào Bình dân, Modesto, California, USA (10 Tháng 2 2017): AAS 109 (2017), 291.
[60] Tông huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11 2013), 235: AAS 105 (2013), 1115.
[61] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp gửi Những Người Khuyết Tật, buổi Đọc Kinh Sai Thiên Thần tại Osnabrück, Germany (16 Tháng 11 1980): Insegnamenti III, 2 (1980), 1232.
[62] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mục vụ về Giáo Hội trong Thế giới Ngày nay Gaudium et Spes, 24.
[63] Gabriel Marcel, Du refus à l’invocation, ed. NRF, Paris, 1940, 50.
[64] Buổi Đọc Kinh Truyền Tin(10 Tháng 11 2019): L’Osservatore Romano, 11-12 Tháng 11 2019, 8.
[65] Xem Thánh Tôma Aquinô: Scriptum super Sententiis, lib. 3, dist. 27, q. 1, a. 1, ad 4: “Dicitur amor extasim facere et fervere, quia quod fervet extra se bullit et exhalat”.
[66] Karol Wojtyła, Love and Responsibility, London, 1982, 126.
[67] Karl Rahner, Kleines Kirchenjahr. Ein Gang durch den Festkreis, Herderbücherei 901, Freiburg, 1981, 30.
[68] Luật Dòng, 53, 15: “Pauperum et peregrinorum maxime susceptioni cura sollicite exhibeatur”.
[69] Xem Summa Theologiae, II-II, q. 23, a. 7; Thánh Tháng 8 inô, Contra Julianum, 4, 18: PL 44, 748: “How many pleasures do misers forego, either to increase their treasures or for fear of seeing them diminish!”.
[70] “Secundum acceptionem divinam” (Scriptum super Sententiis, lib. 3, dist. 27, a. 1, q. 1, concl. 4).
[71] Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Deus Caritas Est (25 Tháng 12 2005), 15: AAS 98 (2006), 230.
[72] Summa Theologiae II-II, q. 27, a. 2, resp.
[73] CfĐã dẫn, I-II, q. 26, a. 3, resp.
[74] Đã dẫn, q. 110, a. 1, resp.
[75] Thông điệp nhân Ngày Hòa Bình Thế giới năm 2014 (8 Tháng 12 2013), 1: AAS 106 (2014), 22.
[76] Xem Kinh Truyền tin (29 Tháng 12 2013): L’Osservatore Romano, 30-31 Tháng 12 2013, p. 7; Diễn văn với Ngoại giao đoàn Bên cạnh Tòa Thánh (12 Tháng 1 2015): AAS 107 (2015), 165.
[77] Thông điệp nhân Ngày Người Khuyết Tật Thế giới (3 Tháng 12 2019): L’Osservatore Romano, 4 Tháng 12 2019, 7.
[78] Diễn văn với Cuộc Gặp gỡ về Tự do Tôn giáo với Cộng đồng Nói tiếng Tây Ban Nha và các Nhóm Di dân, Philadelphia, Pennsylvania, United States of America (26 Tháng 9 2015): AAS 107 (2015), 1050-1051.
[79] Diễn văn với Giới trẻ, Tokyo, Japan (25 Tháng 11 2019): L’Osservatore Romano, 25-26 Tháng 11 2019, 10.
[80] Trong các xem xét này, tôi được gợi hứng bời tư tưởng của Paul Ricoeur, “Le socius et le prochain”, trong Histoire et Verité, ed. Le Seuil, Paris, 1967, 113-127.
[81] Tông huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11 2013), 190: AAS 105 (2013), 1100.
[82] Đã dẫn, 209: AAS 105 (2013), 1107.
[83] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 129: AAS 107 (2015), 899.
[84] Thông điệp gửi cho Biến cố “Economy of Francesco” (1 Tháng 5 2019): L’Osservatore Romano, 12 Tháng 5 2019, 8.
[85] Diễn văn với Nghị viện Âu Châu, Strasbourg (25 Tháng 11 2014): AAS 106 (2014), 997.
86] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 229: AAS 107 (2015), 937.
[87] Thông điệp nhân Ngày Hòa Bình Thế giới năm 2016 (8 Tháng 12 2015), 6: AAS 108 (2016), 57-58.
[88] “Vững chắc” (Solidity) về từ nguyên có liên hệ với “liên đới” (solidarity). Liên đới, trong nghĩa đạo đức học chính trị mà nó mặc lấy trong 2 thế kỷ vừa qua, đem lại tác động an toàn và chắc chắn.
[89] Bài Giảng lễ, Havana, Cuba (20 Tháng 9 2015): L’Osservatore Romano, 21-22 Tháng 9 2015, 8.
[90] Diễn văn với Các Tham dự viên cuộc gặp gỡ các Phong trào Bình dạn (28 Tháng 10 2014): AAS 106 (2014), 851-852.
[91] Xem Thánh Basil, Homilia XXI, Quod rebus mundanis adhaerendum non sit, 3.5: PG 31, 545-549; Regulae brevius tractatae, 92: PG 31, 1145-1148; Thánh Peter Chrysologus, Sermo 123: PL 52, 536-540; Thánh Ambrose, De Nabuthe, 27.52: PL 14, 738ff.; Thánh Augustinô, In Iohannis Evangelium, 6, 25: PL 35, 1436ff.
[92] De Lazaro Concio, II, 6: PG 48, 992D.
[93] Regula Pastoralis, III, 21: PL 77, 87.
[94] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus Annus (1 Tháng 5 1991), 31: AAS 83 (1991), 831.
[95] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 93: AAS 107 (2015), 884.
[96] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Laborem Exercens (14 Tháng 9 1981), 19: AAS 73 (1981), 626.
[97] Cf. Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Hợp tuyền Giáo huấn Xã hội của Giáo Hội, 172.
[98] Thông điệp Populorum Progressio (26 Tháng 3 1967): AAS 59 (1967), 268.
[99] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis (30 Tháng 12 1987), 33: AAS 80 (1988), 557.
[100] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 95: AAS 107 (2015), 885.
[101] Đã dẫn, 129: AAS 107 (2015), 899.
[102] Xem Thánh Phaolô VI, Thông điệp Populorum Progressio (26 Tháng 3 1967): AAS 59 (1967), 265; Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 Tháng 6 2009), 16: AAS 101 (2009), 652.
[103] Xem Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 93: AAS 107 (2015), 884-885; Tông huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11 2013), 189-190: AAS 105 (2013), 1099-1100.
[104] Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, Thư Mục vụ chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc Open Wide Our Hearts: The Enduring Call to Love (Tháng 11 2018).
[105] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 51: AAS 107 (2015), 867.
[106] Xem Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 Tháng 6 2009), 6: AAS 101 (2009), 644.
[107] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus Annus (1 Tháng 5 1991), 35: AAS 83 (1991), 838.
[108] Diễn văn về Vũ khí Hạt nhân, Nagasaki, Japan (24 Tháng 11 2019): L’Osservatore Romano, 25-26 Tháng 11 2019, 6.
[109] Xem Hội Đồng Giám Mục Mễ tây cơ và Hoa kỳ, A Pastoral Letter Concerning Migration: “Strangers No Longer Together on the Journey of Hope” (Tháng 1 2003).
[110] Yết kiến chung (3 Tháng 4 2019): L’Osservatore Romano, 4 Tháng 4 2019, p. 8.
[111] Xem Thông điệp nhân ngày Di dân và Tịn nạn Thế giới năm 2018 (14 Tháng 1 2018): AAS 109 (2017), 918-923.
112] Văn kiện Tình Huynh đệ Nhân bản vì Hòa bình Thế giới và Sống chung, Abu Dhabi (4 Tháng 2 2019): L’Osservatore Romano, 4-5 Tháng 2 2019, p. 7.
[113] Diễn văn với Ngoại giao đoàn Bên cạnh Tòa Thánh, 11 Tháng 1 2016: AAS 108 (2016), 124.
[114] Đã dẫn, 122.
[115] Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Christus Vivit (25 Tháng 3 2019), 93.
[116] Đã dẫn, 94.
[117] Diễn văn với Nhà cầm quyền, Sarajevo, Bosnia và Herzegovina (6 Tháng 6 2015): L’Osservatore Romano, 7 Tháng 6 2015, p. 7.
[118] Latinoamérica. Conversaciones con Hernán Reyes Alcaide, ed. Planeta, Buenos Aires, 2017, 105.
[119] Văn kiện Tình Huynh đệ Nhân bản vì Hòa bình Thế giới và Sống chung, Abu Dhabi (4 Tháng 2 2019): L’Osservatore Romano, 4-5 Tháng 2 2019, p. 7.
[120] Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 Tháng 6 2009), 67: AAS 101 (2009), 700.
[121] Đã dẫn, 60: AAS 101 (2009), 695.
[122] Đã dẫn, 67: AAS 101 (2009), 700.
[123] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Hợp tuyển Giáo huấn Xã hội của Giáo Hội, 447.
[124] Tông huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11 2013), 234: AAS 105 (2013), 1115.
[125] Đã dẫn, 235: AAS 105 (2013), 1115.
[126] Đã dẫn
[127] Thánh Gioan Phaolô II, Diễn văn với Các Đại diện văn hóa Argentina, Buenos Aires, Argentina (12 Tháng 4 1987), 4: L’Osservatore Romano, 14 Tháng 4 1987, p. 7.
[128] Xem Đã dẫn., Diễn văn với Giáo Triều Rôma (21 Tháng 12 1984), 4: AAS 76 (1984), 506.
[129] Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Querida Amazonia (2 Tháng 2 2020), 37.
[130] GEORG SIMMEL, Brücke und Tür. Essays des Philosophen zur Geschichte, Religion, Kunst und Gesellschaft, ed. Michael Landmann, Köhler-Verlag, Stuttgart, 1957, 6.
[131] Xem JAIME HOYOS-VÁSQUEZ, S.J., “Lógica de las relaciones sociales. Reflexión onto-lógica”, Revista Universitas Philosophica, 15-16 (Tháng 12 1990-Tháng 6 1991), Bogotá, 95-106.
[132] ANTONIO SPADARO, S.J., Le orme di un pastore. Una conversazione con Papa Francesco, trong JORGE MARIO BERGOLIO – PAPA FRANCESCO, Nei tuoi occhi è la mia parola. Omelie e discorsi di Buenos Aires 1999-2013, Rizzoli, Milan 2016, XVI; xem Tông huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11 2013), 220-221: AAS 105 (2013), 1110-1111.
[133] Tông huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11 2013), 204: AAS 105 (2013), 1106.
[134] Xem Đã dẫn: AAS 105 (2013), 1105-1106.
[135] Đã dẫn, 202: AAS 105 (2013), 1105.
[136] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 128: AAS 107 (2015), 898.
[137] Diễn văn với Ngoại giao đoàn Bên cạnh Tòa Thánh (12 Tháng 1 2015): AAS 107 (2015), 165; cf. Diễn văn với Các Tham dự viên Cuộc Gặp gỡ Các Phong Trào Bình dân Thế giới (28 Tháng 10 2014): AAS 106 (2014), 851-859.
[138] Điểm tương tự cũng có thể đưa ra cho phạm trù Kinh Thánh Nước Thiên Chúa.
[139] PAUL RICOEUR, Histoire et Verité, ed. Le Seuil Paris, 1967, 122.
[140] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 129: AAS 107 (2015), 899.
[141] Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 Tháng 6 2009), 35: AAS 101 (2009), 670.
[142] Diễn văn với Các Tham dự viên Cuộc Gặp gỡ Các Phong Trào Bình dân Thế giới (28 Tháng 10 2014): AAS 106 (2014), 858.
[143] Đã dẫn.
[144] Diễn văn với Các Tham dự viên Cuộc Gặp gỡ Các Phong Trào Bình dân Thế giới (5 Tháng 11 2016): L’Osservatore Romano, 7-8 Tháng 11 2016, pp. 4-5.
[145] Đã dẫn.
[146] Đã dẫn.
[147] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 189: AAS 107 (2015), 922.
[148] Diễn văn với Các Thành viên của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York (25 Tháng 9 2015): AAS 107 (2015), 1037.
[149] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 175: AAS 107 (2015), 916-917.
[150] Cf. BENEDICT XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 Tháng 6 2009), 67: AAS 101 (2009), 700-701.
[151] Đã dẫn: AAS 101 (2009), 700.
[152] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Hợp tuyển Giáo huấn Xã hội của Giáo Hội, 434.
[153] Diễn văn với Các Thành viên của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York (25 Tháng 9 2015): AAS 107 (2015), 1037, 1041.
[154] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Hợp tuyển Giáo huấn Xã hội của Giáo Hội, 437.
[155] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Ngày Hòa Bình Thế giới năm 2004, 5: AAS 96 (2004), 117.
[156] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Hợp tuyển Giáo huấn Xã hội của Giáo Hội, 439.
[157] Xem Ủy Ban Xã hội của Hội Đồng Giám Mục Pháp, Tuyên ngôn Réhabiliter la Politique (17 Tháng 2 1999).
[158] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 189: AAS 107 (2015), 922.
[159] Đã dẫn, 196: AAS 107 (2015), 925.
[160] Đã dẫn, 197: AAS 107 (2015), 925.
[161] Đã dẫn, 181: AAS 107 (2015), 919.
[162] Đã dẫn, 178: AAS 107 (2015), 918.
[163] Hội Đồng Giám Mục Bồ đào nha, Thư Mục vụ Responsabilidade Solidária pelo Bem Comum (15 Tháng 9 2003), 20; cf. Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 159: AAS 107 (2015), 911.
[164] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 191: AAS 107 (2015), 923.
[165] Đức Piô XI, Diễn văn với Liên Đoàn Sinh viên Đại Học Công Giáo Ý (18 Tháng 12 1927): L’Osservatore Romano, 23 Tháng 12 1927, p. 3.
[166] Xem Đã dẫn, Thông điệp Quadragesimo Anno (15 Tháng 5 1931): AAS 23 (1931), 206-207.
[167] Tông huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11 2013), 205: AAS 105 (2013), 1106
[168] Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 Tháng 6 2009), 2: AAS 101 (2009), 642.
[169] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 231: AAS 107 (2015), 937.
[170] Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 Tháng 6 2009), 2: AAS 101 (2009), 642.
[171] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Hợp tuyển Giáo huấn Xã hội của Giáo Hội, 207.
[172] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptor Hominis (4 Tháng 3 1979), 15: AAS 71 (1979), 288.
[173] Xem Thánh Phaolô VI, Thông điệp Populorum Progressio (26 Tháng 3 1967), 44: AAS 59 (1967), 279.
[174] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Hợp tuyển Giáo huấn Xã hội của Giáo Hội, 207.
[175] Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 Tháng 6 2009), 2: AAS 101 (2009), 642.
[176] Đã dẫn, 3: AAS 101 (2009), 643.
[177] Đã dẫn, 4: AAS 101 (2009), 643.
[178] Đã dẫn.
[179] Đã dẫn, 3: AAS 101 (2009), 643.
[180] Đã dẫn: AAS 101 (2009), 642.
[181] Theo giáo huấn của Thánh Tôma Aquinô, tín lý luân lý Công Giáo phân biệt giữa các hành vi “được luận ra” (elicited) và “được truyền lệnh” (commanded); xem Summa Theologiae, I-II, qq. 8-17; M. ZALBA, S.J., Theologiae Moralis Summa. Theologia Moralis Fundamentalis. Tractatus de Virtutibus Theologicis, ed. BAC, Madrid, 1952, vol. I, 69; A. ROYO MARÍN, Teología de la Perfección Cristiana, ed. BAC, Madrid, 1962, 192-196.
[182] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Hợp tuyển Giáo huấn Xã hội của Giáo Hội, 208.
[183] Xem Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis (30 Tháng 12 1987), 42: AAS 80 (1988), 572-574; Thông điệp Centesimus Annus (1 Tháng 5 1991), 11: AAS 83 (1991), 806-807.
[184] Diễn văn với Các Tham dự viên Cuộc Gặp gỡ Các Phong Trào Bình dân Thế giới (28 Tháng 10 2014): AAS 106 (2014), 852.
185] Diễn văn với Nghị viện Âu Châu, Strasbourg (25 Tháng 11 2014): AAS 106 (2014), 999.
[186] Diễn văn tại cuộc Gặp gỡ với Nhà Cầm quyền và Ngoại giao đoàn tại Công Hòa Trung Phi, Bangui (29 Tháng 11 2015): AAS 107 (2015), 1320.
[187] Diễn văn với Liên Hiệp Quốc, New York (25 Tháng 9 2015): AAS 107 (2015), 1039.
[188] Diễn văn với Các Tham dự viên Cuộc Gặp gỡ Các Phong Trào Bình dân Thế giới (28 Tháng 10 2014): AAS 106 (2014), 853.
[189] Văn kiện Tình Huynh đệ Nhân bản vì Hòa bình Thế giới và Sống chung, Abu Dhabi (4 Tháng 2 2019): L’Osservatore Romano, 4-5 Tháng 2 2019, p. 6.
[190] RENÉ VOILLAUME, Frères de tous, ed. Cerf, Paris, 1968, 12-13.
[191] Thông điệp Video gửi Hội nghị TED ở Vancouver (26 Tháng 4 2017): L’Osservatore Romano, 27 Tháng 4 2017, p. 7.
[192] Yết kiến chung (18 Tháng 2 2015): L’Osservatore Romano, 19 Tháng 2 2015, p. 8.
[193] Tông huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11 2013), 274: AAS 105 (2013), 1130.
[194] Đã dẫn, 279: AAS 105 (2013), 1132.
[195] Thông điệp nhân Ngày Hòa Bình Thế giới năm 2019 (8 Tháng 12 2018), 5: L’Osservatore Romano, 19 Tháng 12 2018, p. 8.
[196] Gặp gỡ Các Nhà Lãnh đạo chính trị, Kinh tế và văn hóa Ba Tây, Rio de Janeiro, Brazil (27 Tháng 7 2013): AAS 105 (2013), 683-684.
[197] Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Querida Amazonia (2 Tháng 2 2020), 108.
[198] Từ cuốn phim Pope Francis: A Man of His Word, by Wim Wenders (2018).
[199] Thông điệp nhân ngày Truyền thông Thế giới (24 Tháng 1 2014): AAS 106 (2014), 113.
[200] Hội Đồng Giám Mục Úc, Ủy ban Công lý, Sứ mệnh và Phục vụ Xã hội, Making It Real: Genuine Human Encounter in Our Digital World (Tháng 11 2019).
[201] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 123: AAS 107 (2015), 896.
[202] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Veritatis Splendor (6 Tháng 8 1993), 96: AAS 85 (1993), 1209.
[203] Là các Kitô hữu, chúng ta cũng tin rằng Thiên Chúa ban cho chúng ta ơn thánh của Người giúp chúng ta hành động như anh chị em.
[204] VINICIUS DE MORAES, Samba da Benção, từ cuốn băng Um encontro no Au bon Gourmet, Rio de Janeiro (2 Tháng 8 1962).
[205] Tông huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11 2013), 237: AAS 105 (2013), 1116.
[206] Đã dẫn, 236: AAS 105 (2013), 1115.
[207] Đã dẫn, 218: AAS 105 (2013), 1110.
[208] Tông huấn Amoris Laetitia (19 Tháng 3 2016), 100: AAS 108 (2016), 351.
[209] Thông điệp Ngày Hòa Bình Thế giới năm 2020 (8 Tháng 12 2019), 2: L’Osservatore Romano, 13 Tháng 12 2019, p. 8.
[210] Hội Đồng Giám Mục Congo, Thông điệp gửi Dân Chúa và Những người đàn ông và đàn bà có thiện chí (9 Tháng 5 2018).
[211] Diễn văn tại Cuộc Gặp Gỡ Hòa Giải Quốc Gia, Villavicencio, Colombia (8 Tháng 9 2017): AAS 109 (2017), 1063-1064, 1066.
[212] Thông điệp nhân Ngày Hòa Bình Thế giới năm 2020 (8 Tháng 12 2019), 3: L’Osservatore Romano, 13 Tháng 12 2019, p. 8.
[213] Hội Đồng Giám Mục Nam Phi, Pastoral Letter on Christian Hope in the Current Crisis (Tháng 5 1986).
[214] Hội Đồng Giám Mục Đại Hàn, Appeal of the Catholic Church in Korea for Peace on the Korean Peninsula (15 Tháng 8 2017).
[215] Gặp gỡ Các Nhà Lãnh đạo Chính trị, Kinh tế và Dân sự, Quito, Ecuador (7 Tháng 7 2015): L’Osservatore Romano, 9 Tháng 7 2015, p. 9.
[216] Cuộc gặp gỡ Liên tôn với giới trẻ, Maputo, Mozambique (5 Tháng 9 2019): L’Osservatore Romano, 6 Tháng 9 2019, p. 7.
[217] Bài giảng lễ, Cartagena de Indias, Colombia (10 Tháng 9 2017): AAS 109 (2017), 1086.
[218] Gặp gỡ Nhà Cầm quyền, Ngoại giao đoàn và Đại diện Xã hội Dân sự, Bogotá, Colombia (7 Tháng 9 2017): AAS 109 (2017), 1029.
[219] Hội Đồng Giám Mục Colombia, Por el bien de Colombia: diálogo, reconciliación y desarrollo integral (26 Tháng 11 2019), 4.
[220] Gặp gỡ Nhà Cầm quyền, Ngoại giao đoàn và Đại diện Xã hội Dân sự, Maputo, Mozambique (5 Tháng 9 2019): L’Osservatore Romano, 6 Tháng 9 2019, p. 6.
[221] Hội nghị Toàn thể lần thứ năm các Giám Mục Châu Mỹ Latinh và vùng Caribbean, Aparecida Document (29 Tháng 6 2007), 398.
[222] Tông huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11 2013), 59: AAS 105 (2013), 1044.
[223] Thông điệp Centesimus Annus (1 Tháng 5 1991), 14: AAS 83 (1991), 810.
[224] Bài giảng trong Thánh lễ cầu cho Tiến bộ Các Dân tộc, Maputo, Mozambique (6 Tháng 9 2019): L’Osservatore Romano, 7 Tháng 9 2019, p. 8.
[225] Nghi thức tiếp đón, Colombo, Sri Lanka (13 Tháng 1 2015): L’Osservatore Romano, 14 Tháng 1 2015, p. 7.
[226] Gặp gỡ Các Trẻ em của “Trung tâm Bethany” và Đại diện Các Trung tâm Bác ái của Albania, Tirana, Albania (21 Tháng 9 2014): Insegnamenti II, 2 (2014), 288.
[227] Thông điệp Video gửi Hội nghị TED ở Vancouver (26 Tháng 4 2017): L’Osservatore Romano, 27 Tháng 4 2017, p. 7.
[228] Đức Piô XI, Thông điệp Quadragesimo Anno (15 Tháng 5 1931): AAS 23 (1931), 213.
[229] Tông huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11 2013), 228: AAS 105 (2013), 1113.
[230] Gặp gỡ Nhà Cầm quyền, Ngoại giao đoàn và Đại diện Xã hội Dân sự, Riga, Latvia (24 Tháng 9 2018): L’Osservatore Romano, 24-25 Tháng 9 2018, p. 7.
[231] Nghi thức tiếp đón, Tel Aviv, Israel (25 Tháng 5 2014): Insegnamenti II, 1 (2014), 604.
[232] Viếng Đài Kỷ niệm Yad Vashem, Jerusalem (26 Tháng 5 2014): AAS 106 (2014), 228.
[233] Diễn văn tại Đài Kỷ niệm Hòa bình, Hiroshima, Japan (24 Tháng 11 2019): L’Osservatore Romano, 25-26 Tháng 11 2019, p. 8.
[234] Thông điệp nhân Ngày Hòa Bình Thế giới năm 2020 (8 Tháng 12 2019), 2: L’Osservatore Romano, 13 Tháng 12 2019, p. 8.
[235] Hội Đồng Giám Mục Croatia, Letter on the Fiftieth Anniversary of the End of the Second World War (1 Tháng 5 1995).
[236] Bài Giảng lễ, Amman, Jordan (24 Tháng 5 2014): Insegnamenti II, 1 (2014), 593.
[237] Cf. Thông điệp nhân Ngày Hòa Bình Thế giới năm 2020 (8 Tháng 12 2019), 1: L’Osservatore Romano, 13 Tháng 12 2019, p. 8.
[238] Diễn văn với Các Thành viên của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York (25 Tháng 9 2015): AAS 107 (2015), 1041-1042.
[239] No. 2309.
[240] Đã dẫn.
[241] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 104: AAS 107 (2015), 888.
[242] Thánh Augustinô, người đã sáng chế ra ý niệm “chiến tranh chính đáng” mà chúng ta không còn duy trì thời nay nữa, cũng nói rằng “Vinh quang hơn vẫn là duy trì chiến tranh bằng lời nói, hơn là sát hại con người bằng gươm giáo, và cung cấp hoặc duy trì hòa bình bằng hòa bình, chứ không bằng chiến tranh” (Epistola 229, 2: PL 33, 1020).
[243] Thông điệp Pacem in Terris (11 Tháng 4 1963): AAS 55 (1963), 291.
[244] Thông điệp gửi Hội nghị Liên Hiệp Quốc thương thảo tìm ra phương thế trói buộc hợp pháp để ngăn cấm vũ khí hạt nhân (23 Tháng 3 2017): AAS 109 (2017), 394-396.
[245] Xem Thánh Phaolô VI, Thông điệp Populorum Progressio (26 Tháng 3 1967): AAS 59 (1967), 282.
[246] Xem Thông điệp Evangelium Vitae (25 Tháng 3 1995), 56: AAS 87 (1995), 463-464.
[247] Diễn văn nhân Kỷ niệm năm thứ 25 ngày công bố Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo (11 Tháng 10 2017): AAS 109 (2017), 1196.
[248] Xem Bộ Giáo Lý Đức tin, Letter to the Bishops Regarding the Revision of No. 2267 of the Catechism of the Catholic Church on the Death Penalty (1 Tháng 8 2018): L’Osservatore Romano, 3 Tháng 8 2018, p. 8.
[249] Diễn văn với các Đại biểu Hiệp hội Hình luật Quốc tế (23 Tháng 10 2014): AAS 106 (2014), 840.
[250] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Hợp tuyển Giáo huấn Xã hội của Giáo Hội, 402.
[251] Thánh Gioan Phaolô II, Diễn văn với Hiệp hội Thẩm phán Quốc gia (31 Tháng 3 2000), 4: AAS 92 (2000), 633.
[252] Divinae Institutiones VI, 20, 17: PL 6, 708.
[253] Epistola 97 (Responsa ad consulta Bulgarorum), 25: PL 119, 991. “ipsi (Christo) non solum innoxios quosque, verum etiam et noxios a mortis exitio satagite cunctos eruere…”.
[254] Epistola ad Marcellinum 133, 1.2: PL 33, 509.
[255] Diễn văn với các Đại biểu Hiệp hội Hình luật Quốc tế (23 Tháng 10 2014): AAS 106 (2014), 840-841.
[256] Đã dẫn, 842.
[257] Đã dẫn.
[258] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Evangelium Vitae (25 Tháng 3 1995), 9: AAS 87 (1995), 411.
[259] Hội Đồng Giám Mục Ấn độ, Response of the Church in India to the Present-day Challenges (9 Tháng 3 2016).
[260] Bài giảng trong Thánh Lễ tại Nhà Thánh Martha (17 Tháng 5 2020).
[261] Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 Tháng 6 2009), 19: AAS 101 (2009), 655.
[262] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus Annus (1 Tháng 5 1991), 44: AAS 83 (1991), 849.
[263] Diễn văn với Các Nhà Lãnh đạo Tôn giáo Khác và Các Tín phái Kitô giáo khác, Tirana, Albania (21 Tháng 9 2014): Insegnamenti II, 2 (2014), 277.
[264] Văn kiện Tình Huynh đệ Nhân bản vì Hòa bình Thế giới và Sống chung, Abu Dhabi (4 Tháng 2 2019): L’Osservatore Romano, 4-5 Tháng 2 2019, p. 6.
[265] Tông huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11 2013), 256: AAS 105 (2013), 1123.
[266] Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Deus Caritas Est (25 Tháng 12 2005), 28: AAS 98 (2006), 240.
[267] “Con người là một con vật chính trị”, ARISTOTLE, Politics, 1253a 1-3.
[268] Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 Tháng 6 2009), 11: AAS 101 (2009), 648.
[269] Diễn văn với Cộng đồng Công Giáo, Rakovski, Bulgaria (6 Tháng 5 2019): L’Osservatore Romano, 8 Tháng 5 2019, p. 9.
[270] Bài giảng lễ, Santiago de Cuba (22 Tháng 9 2015): AAS 107 (2015), 1005.
[271] Công Đồng Vatican II, Tuyên ngôn về Mối Liên hệ của Giáo Hội với các Tôn giáo không phải Kitô giáo, Nostra Aetate, 2.
[272] Buổi cầu nguyện đại kết Riga, Latvia (24 Tháng 9 2018): L’Osservatore Romano, 24-25 Tháng 9 2018, p. 8.
[273] Lectio Divina, Pontifical Lateran University, Rome (26 Tháng 3 2019): L’Osservatore Romano, 27 Tháng 3 2019, p. 10.
[274] Thánh Phaolô VI, Thông điệp Ecclesiam Suam (6 Tháng 8 1964): AAS 56 (1964), 650.
[275] Diễn văn với Nhà Cầm quyền Dân sự, Bethlehem, Palestine (25 Tháng 5 2014): Insegnamenti II, 1 (2014), 597.
[276] Enarrationes in Psalmos, 130, 6: PL 37, 1707.
[277] Tuyên bố chung của Đức Giáo Hoàng Phanxicô và Thượng phụ Đại kết, Jerusalem (25 Tháng 5 2014), 5: L’Osservatore Romano, 26-27 Tháng 5 2014, p. 6.
[278] Từ cuốn phim Pope Francis: A Man of His Word, của Wim Wenders (2018).
[279] Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Querida Amazonia (2 Tháng 2 2020), 106.
[280] Bài giảng lễ, Colombo, Sri Lanka (14 Tháng 1 2015): AAS 107 (2015), 139.
[281] Văn kiện Tình Huynh đệ Nhân bản vì Hòa bình Thế giới và Sống chung, Abu Dhabi (4 Tháng 2 2019): L’Osservatore Romano, 4-5 Tháng 2 2019, p. 7.
[282] Diễn văn với Nhà Cầm quyền Dân sự, Sarajevo, Bosnia-Herzegovina (6 Tháng 6 2015): L’Osservatore Romano, 7 Tháng 6 2015, p. 7.
[283] Diễn văn với Hội nghị Quốc tế về Hòa bình do cộng đồng Sant’Egidio tổ chức (30 Tháng 9 2013): Insegnamenti I, 1 (2013), 301-302.
[284] Văn kiện Tình Huynh đệ Nhân bản vì Hòa bình Thế giới và Sống chung, Abu Dhabi (4 Tháng 2 2019): L’Osservatore Romano, 4-5 Tháng 2 2019, p. 6.
[285] Đã dẫn.
[286] Xem CHARLES DE FOUCAULD, Méditation sur le Notre Père (23 Tháng 1 1897).
[287] Letter to Henry de Castries (29 Tháng 11 1901).
[288] Letter to Madame de Bondy (7 Tháng 1 1902). Thánh Phaolô VI dùng các lời này để ca ngợi việc dấn thân của bà: Thông điệp Populorum Progressio (26 Tháng 3 1967): AAS 59 (1967), 263.


 

Tác giả bài viết: Lm. Lê Công Đức chuyển ngữ

Nguồn tin:

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

CÁC GIÁO HẠT
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây