Lược sử Giáo xứ Đồng Tre

Thứ sáu - 06/07/2018 05:41

GIÁO XỨ ĐỒNG TRE

           
I. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ
Giáo xứ Đồng Tre là một giáo xứ thuộc miền núi tỉnh Phú Yên, bao gồm 8 xã thuộc huyện Đồng Xuân: Phú Mỡ, Xuân Long, Xuân Phước, Xuân Quang 1,2,3, Xuân Sơn Bắc, Xuân Sơn Nam.
Tiếng đồn chợ Xẩm nhiều khoai,
Đất Đỏ nhiều bắp, La Hai nhiều đường. [1]
La Hai là thị trấn của huyện Đồng Xuân. Từ cầu đường sắt La Hai bắc qua sông Kỳ Lộ, theo quốc lộ 19C về hướng Nam chừng 11 km sẽ đến nhà thờ Đồng Tre, thuộc Xóm Trường xã Xuân Phước, huyện Đồng Xuân.

           
II. ĐÔI DÒNG LỊCH SỬ
1. Nguồn gốc
Vào đầu thế kỷ XVIII, các nhà truyền giáo vùng Phú Yên đặt trụ sở bên bờ miền xuôi của sông Kỳ Lộ: Trụ sở Chợ Mới, nằm bên bờ nhánh sông chảy ra đầm Ô Loan thuộc Hội Thừa Sai Paris [2] và trụ sở Phường Lụa [3] ở đầu nhánh sông, cách Chợ Mới khoảng 2,6 km thuộc các nhà truyền giáo của Thánh Bộ.[4]
Dòng nước sông Kỳ Lộ từ miền ngược đã chảy qua vùng đất giáo xứ Đồng Tre trước khi chảy ra cửa biển Tiên Châu và đầm Ô Loan để trở về với đại dương.[5]  Trong khi dòng nước trong xanh của sông Kỳ Lộ lững lờ, thinh lặng, hữu tình xuôi dòng ra biển cả, đã âm thầm mang lại sức sống hữu hạn cho sinh linh, thì lòng nhiệt thành của các nhà truyền giáo lại ngược dòng lên miền cao tung gieo hạt giống sự sống vĩnh hằng.
Trong danh sách các nhà thờ, nhà nguyện năm 1747 do cha Guillaume Rivoal ghi thì Soi-re [6] có 20 giáo dân. Trong báo cáo của Đức cha Stêphanô Thể năm 1850 có ghi: Đồng Tre 225 tín hữu, Bến Buôn 282, Tân Hội 367, Xóm Vườn 37.[7]
Năm1867, cha Tađêô Tín vừa mới thụ phong linh mục, được chỉ định đến Phú Yên, phụ trách vùng truyền giáo Trà Kê - Đồng Tre.
Năm 1880, cha François Chatelet Thuông đến thay cha Tín. Năm 1885, cha Chatelet bị phong trào Văn thân sát hại tại Cây Da.

Trong báo cáo của Đức cha Van Camelbeke Hân gởi về Hội Thừa sai Paris năm 1885 có nhắc đến Bến Buôn, một họ đạo bên hữu ngạn sông Kỳ Lộ đã bị phong trào Văn Thân tàn phá. Suối Ré, Bến Buôn, Tân Hội, Xóm Vườn là những họ đạo thuộc vùng đất giáo xứ Đồng Tre ngày nay. Tại Suối Ré cũng như tại Đồng Tre vẫn còn di tích mả các "Vị Tử Đạo" bị Văn Thân sát hại. Hàng năm, vào tháng Các đẳng Linh hồn, giáo dân vẫn còn đi viếng và tảo mộ.

Cha Joseph Auger Đoài, người trực tiếp chứng kiến cảnh tang thương ở Bến Buôn và Đồng Tre đã kể lại: Trên đường đến Cây Da, "Khoảng ba giờ rưỡi chiều, đi ngang qua nơi trước đây là nhà thờ Đồng Dài (Bến Buôn) đẹp đẽ, tôi nhìn cảnh hoang tàn nơi đây; chỉ có tường rào là còn đứng vững, cây cối đều bị chặt sát đất. Nhưng thê lương nhất là những gì tôi thấy khi trở ra! Bên trái nhà thờ đổ nát là vũng đất trũng dài khoảng năm mét và rộng hai mét; đó là chiếc hố mà người ta đã vứt bừa những xác chết của giáo dân bị thảm sát cách đây một tháng rưỡi. Nhờ sự trợ giúp của những cơn mưa, một ít đất mà người ta đã lấp lên những phần thân thể quý giá này bị sụp xuống, đây đó lộ ra những chiếc sọ người giữa đống quần áo và rơm rạ bị thối rữa. Thật là một thảm kịch khinh hoàng phải trải qua!"…

Trên đường từ Cây Da về, "khoảng hai giờ chúng tôi lại lên đường và đến năm giờ thì chúng tôi vượt qua dãy đồi viền ở phía Nam thung lũng Đồng Tre dài và đẹp. Chúng tôi dừng chân tại một khu chợ lớn gần phế tích hoang tàn của nhà thờ Đồng Tre; lúc đó khoảng sáu giờ. Tôi đi qua thăm tàn tích đổ nát của nhà thờ; những sọ người nằm vương vãi và xương bị cháy đen một nửa. Bên cánh trái là một đống những mảnh vỡ vụn lấp dưới bùn đen và hôi thối, hài cốt quý giá của giáo dân Đồng Tre bị sát hại."[8]

Theo lời truyền tụng, sau Văn Thân khu vực Đồng Tre chỉ còn sống sót 17 gia đình công giáo, trong số đó có ông Nguyễn Sum (Xã Tú). Ông bị thương, ông trốn ở thượng nguồn sông Trà Bương, được một người lương dân phát hiện và đưa ông về nhà cứu chữa. Người lương nầy có người cháu nội là ông Hồ Văn Xứng hiện nay ở xóm Đồng Bò, thôn Phú Xuân A, xã Xuân Phước. Ông Nguyễn Sum có cháu nội là ông Hảo, cháu ngoại là ông Lê Chí Hiếu và bà Catarina Nguyễn Thị Phước, tất cả hiện ở giáo xứ Tuy Hòa.

Năm 1887, cha Joseph Guitton Thông là thừa sai đầu tiên đến Phú Yên sau khi bị Văn Thân bách hại. Cha ở tại Cây Da.
Năm 1888, vùng truyền giáo Phú Yên được chia làm hai vùng: Bắc và Nam Phú Yên. Cha Guitton Thông phụ trách Nam Phú Yên, ở tại Hoa Vông. Cha Joseph Lacassagne Xuân phụ trách vùng Bắc Phú Yên, ở tại Mằng Lăng. Cha Phêrô Huề làm phụ tá cho cha Lacassagne Xuân, ở tại Cây Da.

Năm 1895, cha Antoine Edmond Wendling Linh được bổ nhiệm làm phụ tá cho cha Lacassagne Xuân, ở tại Trà Kê - Cây Da.
Năm 1896, Phú Yên được chia thành 3 địa sở: Bắc Phú Yên do cha Lacassagne Xuân đảm nhiệm, ở tại Mằng Lăng; Nam Phú Yên do cha Gustave Dubulle Phương đảm nhiệm, ở tại Hoa Vông; Miền Núi Phú Yên do cha Wendling Linh đảm nhiệm, ở tại Trà Kê - Cây Da. Lúc bấy giờ khu vực Đồng Tre thuộc địa sở Bắc Phú Yên.

Năm 1897, sau khi hoàn thành ngôi nhà thờ mới ở Trà Kê, cha Wendling được giao phó trách nhiệm cả khu vực Đồng Tre.[9] Như vậy thời điểm nầy Đồng Tre là một họ đạo thuộc địa sở Miền Núi Phú Yên.

2. Thành lập địa sở
Năm 1901, cha Jean Marie Porcher Kính thay thế cha Wendling. Lúc bấy giờ từ Trà Kê đi Đồng Tre không có đường lớn, chỉ có những đường mòn nối kết nhiều xóm với nhau. Năm 1905, Đức cha Grangeon bổ nhiệm cha Phêrô Giảng về phụ tá cho cha Porcher Kính. Sau khi cha Giảng đến Trà Kê, cha Porcher giao Trà Kê - Cây Da cho cha phụ tá, cha Porcher xuống xây dựng Đồng Tre, từ  tháng 8 năm 1905 đến tháng 9 năm 1918, cha thường xuyên ở tại Đồng Tre.

Trong sổ tất niên của Giáo phận Qui Nhơn năm 1909-1910 thì vùng Phú Yên có 4 địa sở : Mằng Lăng, Đồng Tre, Hoa Vông và Tịnh Sơn. Như thế, địa sở Miền Núi Phú Yên được lập thành hai địa sở: Đồng Tre và Tịnh Sơn.  Từ đây Đồng Tre là một địa sở có Linh mục ở thường xuyên lâu năm và có những họ đạo đã họp thành cộng đoàn tín hữu sốt sắng sống động: Đồng Tre, Suối Ré, Tân Hội, Suối Mây, Suối Trầu, Bến Buôn, Trà Kê và Cây Da. Cha sở tiên khởi là cha Porcher Kính.

Nhà thờ Đồng Tre bị Văn Thân tàn phá năm 1885 tọa lạc bên bờ hữu ngạn sông Trà Bương,[10] tục danh ngày nay gọi là Soi Đạo thuộc xóm Đồng Bò, thôn Phú Xuân A. Cha Porcher Kính không xây lại nhà thờ trên vị trí cũ. Cha chọn vị trí xây dựng nhà thờ Đồng Tre ở chân núi Tân Hiệp, nay thuộc thôn Phú Xuân B. Chúa nhật, ngày 08 tháng 03 năm 1914 Đức cha Jeanningros làm phép ngôi nhà thờ mới nầy. Cha Porcher rất hạnh phúc khi nói đến các tín hữu ở Đồng Tre và rất thương nhớ họ khi ngài được lệnh đổi đi nơi khác.[11]

Ngày 11 tháng 12 năm 1918 cha Porcher được bổ nhiệm làm cha sở Hoa Vông. Trong thời gian cha Porcher đi Hoa Vông, địa sở Đồng Tre do cha Giacôbê Lê Kim Dung, phụ tá Đồng Tre đang ở Trà Kê, chăm sóc mục vụ. Năm 1919, địa sở Trà Kê được thành lập, cha Giacôbê Lê Kim Dung được bổ nhiệm làm cha sở Trà Kê. Cuối năm 1919, cha Phêrô Lê Châu được bổ nhiệm làm cha sở Đồng Tre với các họ đạo: Đồng Tre, Suối Ré, Tân Hội, Suối Mây, các họ đạo khác đã được tách ra để thành lập địa sở Trà Kê.[12]

Năm 1923, cha Châu đi nhận nhiệm sở mới, cha Dung, cha sở Trà Kê, kiêm nhiệm Đồng Tre, có các cha phụ tá ở tại Đồng Tre: cha Tôma Đoán (1923), cha Phêrô Lê Vĩnh Phước (1924 – 1926).
Thời gian cha Giacôbê Lê Kim Dung, cha sở Mằng Lăng, kiêm nhiệm Đồng Tre (1935-1941), có các cha phó Mằng Lăng lên xuống giúp mục vụ ở Đồng Tre: cha Giacôbê Nguyễn Đình Thuận (1936), cha Augustinô Nguyễn Thanh Long (1938), cha Tôma Trần Ngọc Hườn (1941).

Trong thời gian cha Mân, cha sở Sông Cầu, kiêm nhiệm Đồng Tre (1950-1953), thầy Phaolô Huỳnh Ngọc Cảnh giúp xứ, ở tại Đồng Tre, lo việc giáo lý và quản lý ruộng đất (1950-1951). Năm 1951-1953, thầy Phêrô Huỳnh Kim Lăng thay thế thầy Cảnh.[13] Trong thời gian nầy (1951-1953) cha Mân thường xuyên ở tại Đồng Tre.

Trong giai đoạn 1945 đến 1954, khắp nơi chìm trong lửa đạn của chiến tranh. Giáo phận Qui Nhơn, bao gồm một dải Miền Trung với các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, là nơi chiến tranh ác liệt. Sinh hoạt xã hội cũng như giáo hội bị ảnh hưởng nặng nề. Địa sở Đồng Tre cũng không nằm ngoài bối cảnh đó: Nhà thờ bị bom đánh sập, giáo dân phải tản cư, lánh nạn, linh mục không thường xuyên hiện diện.

Thời gian nầy chủ yếu duy trì sinh hoạt ở những nơi có giáo dân tập trung đông như Đồng Tre, Suối Ré. Các giáo điểm vùng sâu, vùng xa như Suối Mây, Suối Trầu thì hoặc tập trung lên Trà Kê, Cây Da, hoặc về Đồng Tre. Hai họ Tân Hội, Bến Buôn cũng còn sinh hoạt nhưng chỉ có một ít giáo dân.

Trong ký ức của địa sở, khoảng thời gian từ 1955-1975, có lẽ ba cha quản xứ sau đây đã để lại một dấu ấn sâu đậm nhất: cha Phaolô Nguyễn Thanh Bình, cha Giuse Phan Văn Hoa và cha Phêrô Phan Anh Thụ. Cả ba vị mục tử nầy đã có nhiều sáng kiến và nỗ lực mục vụ, đặc biệt là công cuộc truyền giáo, thiết lập các giáo điểm và xây dựng nhiều nhà nguyện cho các cộng đoàn vùng sâu vùng xa. Đặc biệt, cha Giuse Phan Văn Hoa đã mở ra phong trào truyền giáo cho các anh em Dân tộc ít người.
Ngoài ba cha, thời gian nầy cũng để lại một hình ảnh, một mẫu gương tông đồ giáo dân đáng khâm phục đó là ông Biện Kính, tức cụ Gioan Baotixita Nguyễn Nhường, một chức việc và là một giáo lý viên đã giúp công việc mục vụ qua liên tiếp mấy đời cha sở: cha Bình, cha Hạnh, cha Hoa. Có một điểm độc đáo nơi cụ là nói rành tiếng dân tộc, nên đã từng được chỉ định đi dạy tân tòng cho nhiều anh chị em Dân tộc khắp nơi trong địa sở. Cụ đã qua đời năm 1999, hưởng thọ trên 90 tuổi.

Trong giai đoạn 1957-1963, địa sở Đồng Tre có những bước phát triển đáng kể. Đặc biệt nhất đó là phong trào tòng giáo của anh em lương dân, nhất là anh em Dân tộc ít người. Theo thống kê của Giáo phận Qui Nhơn năm 1960, địa sở Đồng Tre có 1.280 cựu giáo hữu; 2.179 tân tòng và 809 dự tòng. Trong toàn địa sở có 39 giáo họ, rải rác trong các xã thuộc huyện Đồng Xuân đều có cộng đoàn sinh hoạt cùng với nhà nguyện đơn sơ để đáp ứng nhu cầu mục vụ và đời sống đức tin. Từ những cộng đoàn gần Đồng Tre như Thánh Giá, Xóm Mới, Phú Hội, Phước Hiệp… cho đến những nơi xa như Suối Mây, Tân Lương, Tấn Binh, Suối Trầu, Suối Cối, Kỳ Lộ, Đa Lộc, Xuân Sơn, Xuân Lãnh, La Hai gần như nơi nào cũng có nhà nguyện và sinh hoạt rất sinh động.

Theo quyết định của Hội đồng Giáo phận họp tại Tòa Giám mục Qui Nhơn ngày 06 tháng 02 năm 1961, địa sở Đồng Tre được tuyên bố là một trong số 49 giáo xứ chính thức theo giáo luật (Paroecia) trong Giáo phận Qui Nhơn (lúc ấy chưa chia tách Giáo phận Đà Nẵng).[14] 
Nhưng rồi thời ổn định và phát triển đó lại nhường chỗ cho bất ổn của chiến tranh. Hầu hết các nhà nguyện bị tàn phá, các cộng đoàn tan rã: một số đông tín hữu bỏ đạo, một số không ít di tản đi nơi khác. Đặc biệt, các cộng đoàn anh em Dân tộc ít người tứ tản chạy về sống tạm bợ trong các khu tị nạn để rồi tản mác lần về lại núi rừng và xa rời vốn liếng đức tin ít ỏi mới vừa tiếp nhận. Trong thời gian yên bình, sinh hoạt mục vụ của Đồng Tre vẫn còn trãi rộng trên toàn huyện Đồng Xuân. Tuy nhiên, sau năm 1963 sinh hoạt mục vụ chỉ còn tại ba địa điểm chính: Đồng Tre, Suối Ré và La Hai. Mỗi nơi đều có nhà nguyện tạm thời để giáo dân sớm hôm kinh nguyện và hiệp dâng thánh lễ. Tuy vậy, cũng không ít lần, giáo dân tại Đồng Tre, Suối Ré đã bồng bế sơ tán xuống La Hai để tránh bom đạn chiến tranh. Riêng tại Đồng Tre, từ năm 1972, vì thường xuyên bị đe doạ bởi đạn pháo của chiến cuộc, phải cử hành phụng vụ, kinh nguyện, tại ngôi nhà trường cách nhà thờ chính về phía Đông-Bắc khoảng 600m. Kể từ sau năm 1975, ngôi nhà trường nầy trở thành nhà thờ chính của giáo xứ. Nhà thờ tại chân núi Tân Hiệp (núi Một) bị hoang hóa và được chính quyền địa phương chọn làm cơ quan Ủy ban nhân dân xã Xuân Phước.

Kể từ khi hoà bình được tái lập, giáo xứ Đồng Tre một lần nữa "làm lại từ đầu". Giáo dân từ các khu tạm cư lần lượt trở về vườn xưa đất cũ, chủ yếu tập trung ở hai khu vực Đồng Tre và Suối Ré. Nhà thờ La Hai bị trưng dụng.

Năm 1975, cha Phêrô Bùi Huy Bích được bổ nhiệm làm cha sở Đồng Tre. Cha thường xuyên ở tại Suối Ré, hằng tuần đến Đồng Tre dâng thánh lễ Chúa nhật và các lễ trọng. Nhà thờ và nhà vuông tại Suối Ré được cha dựng lên bằng vật liệu thô sơ, vách trét đất, nhà thờ lợp tôn, nhà xứ lợp tranh, nhỏ hẹp. Cha đã qui tụ, củng cố, từng bước ổn định, phát triển và dẫn đưa đời sống giáo xứ vượt qua những khó khăn. Cha đã thiết lập một quan hệ đạo đời thật gắn bó, thân mật, giúp đỡ mọi người, hoà hợp qua cách sống nghèo khó, bình dân, giản dị, chất phác, vui tính và cởi mở đón nhận. Cha quả là một gương mẫu và chứng từ sống động về đời sống mục tử và loan báo Tin Mừng.

Kể từ ngày mồng 08 Tết Nguyên Đán năm 1979, Đồng Tre lại có dịp gia tăng con số tín hữu nhờ cộng đồng công giáo vùng Cam Ranh đi xây dựng vùng kinh tế mới Đa Lộc, một nơi mà từ thập niên 50-60 của thế kỷ XVIII đã từng ghi dấu một cộng đoàn giáo dân.     

Năm 1989, cha Bích tu sửa nhà thờ Đồng Tre, thay cây gỗ phần mái bị mối mọt. Kinh phí do Tòa Giám mục và các ân nhân, đặc biệt sự đóng góp quảng đại của gia đình ông bà Huệ ở giáo xứ Tuy Hòa. Sau khi tu sửa nhà thờ Đồng Tre, cha tiếp tục làm lại nhà thờ Suối Ré, tường gạch vữa vôi thô sơ.

Ngày 10 tháng 03 năm 1992, cha Giuse Trương Đình Hiền được đưa về làm cha sở Đồng Tre. Sau khi nhận nhiệm sở, cha thường xuyên ở tại Đồng Tre. Cha ổn định từng bước các cơ sở khu vực nhà thờ và nhà xứ, cổ võ ơn gọi tu trì, xây nhà dưỡng lão tiếp nhận những người già neo đơn, tổ chức phụng vụ và sinh hoạt giáo lý đi vào nề nếp.

Năm 2000, một số cây gỗ nhà thờ Suối Ré bị mối mọt, trụ vách nứt nẻ, cha phải chạy vạy để xây lại nhà thờ Suối Ré bằng vật liệu rắn chắc.

Vào ngày 27 tháng 05 năm 1993, giáo họ Đa Lộc đã vinh dự đón tiếp Đức cha Phaolô Huỳnh Đông Các, Giám mục Giáo phận, về khánh thành nhà thờ mới do cha Hiền xây dựng và ban phép Thêm sức cho trên 100 thiếu nhi và người lớn của giáo xứ.

Ngày 14 tháng 04 năm 2002, cha Antôn Nguyễn Huy Điệp được bổ nhiệm làm cha sở Đồng Tre. Nhà thờ Đa Lộc được xây dựng có tính tạm thời nên cha Điệp đã khởi công xây lại nhà thờ mới khang trang, kiên cố. Ngày 29 tháng 01 năm 2004 Đức cha Phêrô Nguyễn Soạn chủ sự lễ khánh thành nhà thờ cùng với 40 linh mục đồng tế, một số tu sĩ và khoảng 1.000 giáo dân rải rác từ các giáo xứ cùng về hiệp dâng thánh lễ.

Các cơ sở vật chất của giáo xứ đã cũ kỹ, rạn nứt. Ngày 15 tháng 08 năm 2007, cha Điệp khởi công xây dựng ‘Trung Tâm Mục Vụ’ của giáo xứ rất bề thề, khang trang tại khuôn viên phía Đông của nhà thờ. Ngày 30 tháng 01 năm 2009 (Mùng năm tết Kỷ Sửu) ‘Trung Tâm Mục Vụ’ được khánh thành và đưa vào sử dụng.

Ngày 28 tháng 05 năm 2009, Đức Giám mục Giáo phận ban hành quyết định thành lập giáo xứ Đa Lộc gồm phần đất xã Đa Lộc, xã Xuân Lãnh, huyện Đồng Xuân, trước đó thuộc giáo xứ Đồng Tre. Cùng ngày, cha Tôma Nguyễn Công Binh, nguyên phó xứ Đồng Tre, được bổ nhiệm làm cha sở Đa Lộc.

Nhà thờ Đồng Tre không mang vẻ cổ kính, không đường nét tân thời, nhưng đã rêu phong như đang chờ ngày tân tạo. Sau hai năm chuẩn bị, sáng ngày 29 tháng 08 năm 2012, Đức Cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi, Giám Mục Giáo phận Qui Nhơn, đã chủ sự thánh lễ đặt viên đá xây đựng nhà thờ Đồng Tre.[15] Ngày 17 tháng 06 năm 2015, nhà thờ được khánh thành và cung hiến cho Thiên Chúa.

Ngày 04 tháng 07 năm 2016, cha Augustinô Nguyễn Văn Phú được bổ nhiệm làm cha sở Đồng Tre cho đến nay.
Cuối năm 2017 giáo xứ Đồng Tre có 245 gia đình, 866 tín hữu, được phân bố trong 2 giáo họ: Đồng Tre 640, Suối Ré 226.

3. Các linh mục chánh xứ và phó xứ
- Các cha xứ
1. Cha Jean Marie Porcher Kính (1909 – 1918).
2. Cha Phêrô Lê Châu (1919-1923).
  . Cha Giacôbê Lê Kim Dung, cha sở Trà Kê kiêm nhiệm (1923-1928).
3. Cha Phêrô Phan Nho (1928-1935).
  . Cha Giacôbê Lê Kim Dung, cha sở Mằng Lăng kiêm nhiệm (1935-1941).
4. Cha Tôma Nguyễn Thiện (1941-1948).
5. Cha Phêrô Nguyễn Kỳ Hội (1948-1949).
6. Cha Gioakim Nguyễn Thanh Liêm (1949-1950).
. Cha Phêrô Nguyễn Đức Mân, cha sở Sông Cầu kiêm nhiệm (1950-1953).
7. Cha Giuse Tô Đình Sơn (1954 - 1955).
8. Cha Phaolô Nguyễn Thanh Bình (1955 - 1957).
9. Cha Antôn Hồ Ngọc Hạnh (1957 - 1958).
10. Cha Giuse Phan Văn Hoa (1958 - 1967).
11. Cha Phêrô Phan Anh Thụ (1967 - 1971).
12. Cha Micae Nguyễn Tri Phương (1971 - 1975).
13. Cha Phêrô Bùi Huy Bích (1975-1992).
14. Cha Giuse Trương Đình Hiền (1992-2002).
15. Cha Antôn Nguyễn Huy Điệp (2002 - 2016).
16. Cha Augustinô Nguyễn Văn Phú (2016-…)

Các cha phó
1. Cha Tôma Nguyễn Công Binh (2003-2009).
2. Cha Gioan Baotixita Võ Tá Chân (2009-2015).
3. Cha Matthia Võ Nhân Thọ (2015-...).

4. Các linh mục, tu sĩ xuất thân từ giáo xứ
1. Cha Gioan Baotixita Nguyễn Khắc Trung  (1897 -  † 1939).
2. Cha Phêrô Nguyễn Đình Tịch (1907 - † 26.03.1964).
3. Cha Phêrô Nguyễn Quang Báu.
4. Cha Phanxicô Phạm Đình Triều.
5. Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Tuyết, làm việc ở Úc.
6. Nữ tu Thecla Lê Thị Thừa, Dòng MTG Qui Nhơn († 2000).        
7. Nữ tu Anna Phạm Thị Hiền Linh, Dòng MTG Qui Nhơn.
8. Nữ tu Anna Lê Thị Bích Ngọc,  Dòng Đức Bà Truyền Giáo.
9. Nữ tu Macta Trương Thị Hồng Linh, Dòng Thánh Phaolô.


 


[1]  Ca dao Phú Yên.

[2] Chợ mới, thôn Hà Yến, xã An Thạch, huyện Tuy An.

[3] Phường Lụa, khu vực Ngân Sơn, thị trấn Chí Thạnh, huyện Tuy An.

[4] Xem Bulletin des Amis du Vieux Hué, No.4, tr. 208-209.

[5] Sông Kỳ Lộ Chảy đến Ngân Sơn thì phân nhánh tại cầu Lò Gốm, tục danh gọi là Tam Giang: một nhánh chảy ra cửa biển Tiên Châu, một nhánh chảy ra đầm Ô Loan. Nhánh chảy ra Ô Loan có phân khúc được gọi là sông Hà Yến. Nhà thờ Chợ Mới tọa lạc bên bờ phía Đông sông Hà Yến.

[6] Suối Ré.

[7] Nay thuộc xã Xuân Sơn Bắc.

[8] Bản thông tin Giáo phận Qui Nhơn, số tháng 4/2010 : "Giải cứu 900 giáo dân tỉnh Phú Yên".

[9] Xem Fiche individuelle de Wendling.

[10] Thượng nguồn gọi là sông Trà Bương, hạ nguồn gọi là sông Con, tiếp giáp với sông Cái tại ngã ba chợ Lùng, thôn Phước Lộc, Xuân Quang 3.

[11] Xem Fiche individuelle de Porcher; Mémorial Mission de Quinhon, du mois d'April 1927, tr. 34.

[12] Xem Mémorial Mission de Quinhon, No.156, 30 Novembre 1919, tr. 149. Trong bổ nhiệm nầy không thấy nói đến Bến Buôn và Suối Trầu.

[13] Hai thầy thụ phong linh mục vào ngày 17.5.1955.

[14] Xem Bản thông tin địa phận Qui Nhơn, số 22, tháng 5 và 6 năm 1961, tr. 13.

[15] Xem Bản thông tin Giáo phận Qui Nhơn, số 172, tháng 8 năm 2012, tr. 745.

Tác giả bài viết: BBT lịch sử giáo phận

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

lich cong giao 2022 - 2023
tapsanmucdong
THỐNG KÊ
  • Đang truy cập69
  • Máy chủ tìm kiếm28
  • Khách viếng thăm41
  • Hôm nay16,676
  • Tháng hiện tại426,565
  • Tổng lượt truy cập28,741,934

Chúng tôi trên mạng xã hội

CÁC GIÁO HẠT
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây