Khóa Thường Huấn Linh Mục
Giáo phận Qui Nhơn
(Ngày 23-25/9/2024)
LINH MỤC VÀ DÂN CHÚA:
HIỆP THÔNG
Lm. Phaolô Trần Thanh Nhân
“Ta sẽ ban cho các ngươi những mục tử như lòng Ta mong ước” (Gr 3,15).
Trong tình hiệp thông, với ước mong có nhiều “những mục tử như lòng Chúa mong ước,” Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã ban hành Tông huấn Pastores Dabo Vobis về Đào Tạo Linh Mục Trong Hoàn Cảnh Hiện Nay vào ngày 25.3.1992. Với số 74 của Tông huấn, chiều kích hiệp thông linh mục được nhấn mạnh.
Trong Giáo hội là mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ, linh mục ý thức mình thuộc về Giáo hội phổ quát qua Giáo hội địa phương “bởi vì trong nội bộ Giáo hội, linh mục là con người của sứ vụ và hiệp thông, cho nên đối với mọi người, linh mục phải là con người của sứ vụ và đối thoại… Linh mục phải nối kết những tương quan huynh đệ trước hết với các anh em thuộc các Giáo hội khác và thuộc các hệ phái Kitô giáo, nhưng cũng phải nối kết những quan hệ huynh đệ với các tín hữu thuộc các tôn giáo khác, với mọi người thiện chí và một cách đặc biệt với những người nghèo và những người yếu đuối hơn hết cũng như với hết mọi người, hoặc không nhận thức, hoặc không diễn đạt ra được, đang ngưỡng vọng về chân lý và ơn cứu độ mà Đức Kitô mang đến…” (PDV, SỐ 18).
Sự hiệp thông linh mục bắt nguồn từ mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, với Chúa Kitô - Vị Mục Tử Nhân Lành được Cha sai đến trong quyền năng của Chúa Thánh Thần. Tông huấn này còn nói rõ: “Tình huynh đệ linh mục không loại trừ một ai; dầu vậy, trong lựa chọn theo tinh thần Tin mừng, linh mục có thể và phải dành ưu tiên cho người nào đang cần giúp đỡ và cần khích lệ nhất. Tình huynh đệ ấy dành một sự quan tâm đặc biệt đối với các linh mục trẻ, duy trì một thái độ đối thoại chân tình và huynh đệ với những linh mục thuộc lứa tuổi trung bình hoặc cao niên cũng như đối với những linh mục nào vì lý do này hay lý do khác đang phải đương đầu với những khó khăn…” (PDV, số 74).
Có nhiều hạn từ để nói về linh mục. Tuy nhiên, phạm vi giới hạn của bài viết chỉ tìm hiểu về hạn từ “hiệp thông” và ý nghĩa của sự hiệp thông đối với dân Chúa, mối tương quan giữa Giáo hội hoàn vũ và Giáo hội địa phương, và sau cùng bài viết đề cập đến điểm chính yếu “linh mục và các tương quan hiệp thông.”
I. HẠN TỪ “HIỆP THÔNG”
Thượng Hội đồng Giám mục thế giới lần thứ 16 được triệu tập và chủ đề “hiệp thông” được nói đến như là một trong những khía cạnh của tiến trình hiệp hành Giáo hội: “Vì một Giáo hội hiệp hành: Hiệp Thông, Tham Gia và Sứ Vụ.” Với Giáo hội Việt Nam, vào năm 2022, Đại hội Hội đồng Giám mục đã đưa ra định hướng mục vụ cho năm 2023 với chủ đề “Củng Cố Sự Hiệp Thông,” cùng với những hướng dẫn thực hành cụ thể, là: khuyến khích đọc Thánh Kinh, tham dự Bí tích Thánh Thể, sống tình tương thân tương ái và truyền thông sự thật với đức ái... Giáo hội hiệp hành phải là một ngôi nhà hiệp thông, cùng nhau tham gia và thực thi sứ vụ. Giáo hội hiệp hành thực sự là một trường học hiệp thông, dạy các tín hữu ý thức tham gia vào đời sống Giáo hội và cổ võ sứ mạng loan báo Tin mừng.
Vậy, hiệp thông là gì?
Hiệp thông là chủ đề và là hạn từ được lặp đi lặp lại rất nhiều trong Giáo hội dưới các khía cạnh và góc nhìn khác nhau. Khái niệm này được đề cập trong các văn bản của Công đồng Vaticanô II qua các Hiến chế, Sắc lệnh, Tông huấn,… Theo ngôn ngữ Kitô giáo, đây là từ ngữ linh thiêng dùng để chỉ sự kết hợp dưới nhiều hình thức: hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người, hiệp thông trong bí tích Thánh Thể và hiệp thông trong mầu nhiệm các Thánh thông công,…
Khái niệm “hiệp thông” đặt nền tảng trên Thánh Kinh. Hạn từ “koinōnia” tiếng Hy Lạp (communio-Latinh) đã có ngay từ thuở đầu lịch sử Giáo hội, phát xuất từ chính đời sống của các cộng đoàn Kitô hữu sơ thời (x. Cv 2,42; 1 Cr 1,9). Thuật ngữ này có nghĩa là “cộng đoàn” hay “sự tham gia vào cộng đoàn,” là “một ý niệm được đề cao trong Giáo hội mọi thời. Đây là một thực tại mang tính liên kết, đòi hỏi phải có một hình thức pháp lý, đồng thời được sinh động nhờ đức ái.” Hạn từ “koinōnia,” phát xuất từ chữ “koinos” nhằm diễn tả việc nhiều người chia sẻ với nhau về điều gì đó. Trong Tân ước, hạn từ này xuất hiện 19 lần (với 13 lần trong các thư của Thánh Phaolô).
Trước hết, điểm qui chiếu của sự hiệp thông là cuộc gặp gỡ trong Chúa Kitô. Thánh Gioan Tông đồ đã sử dụng hạn từ này để diễn tả sự sống cộng đoàn chia sẻ với Thiên Chúa và với nhau: “Điều tai chúng tôi đã nghe, mắt chúng tôi đã thấy, chúng tôi loan báo cho anh em, để anh em được hiệp thông với chúng tôi; vì sự hiệp thông của chúng ta là hiệp thông với Chúa Cha và với Con của Ngài, Chúa Giêsu Kitô” (1 Ga 1,3; x. 1 Ga 1,6-7). Qua đó, các tín hữu được mời gọi tham gia, thông phần, đồng hình đồng dạng với Người (x. Rm 15,26; 1 Cr 1,9; 2 Cr 1,7); hiệp thông với Mình và Máu Chúa Kitô, chính họ trở thành thân mình Ngài (x. 1 Cr 10,16); hiệp thông với những nỗi đau khổ của Người (x. Pl 3,10) và được dự phần vinh quang sắp tỏ hiện trong tương lai vào thời cánh chung (x. 1 Pr 5,1).
Thứ đến, hạn từ “koinōnia” ngụ ý sự hiệp thông trong Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần chính là tác nhân của sự hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con trong Ba Ngôi cực thánh: “Ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, tình yêu của Chúa Cha và ơn hiệp thông của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em” (2 Cr 13,13; x. Pl 2,1). Như thế, hạn từ “koinōnia” mang đậm chiều kích Ba Ngôi.
Sau cùng, sự hiệp thông với Thiên Chúa được thực hiện trong Giáo hội, trong đời sống cộng đoàn. Chính cuộc gặp gỡ giữa các Kitô hữu với Chúa Kitô phát xuất từ lòng tin và tình yêu của họ đối với Thiên Chúa đã làm nảy sinh sự hiệp thông giữa các Kitô hữu với nhau, là điều kiện cần thiết để sinh hoa trái. Sự hiệp thông này được diễn tả trong sách Công vụ Tông đồ, là: các Kitô hữu hiệp thông qua việc bẻ bánh và cầu nguyện (x. Cv 2,42), để chung của cải (x. Cv 4,32-37); trong các thư của Thánh Phaolô: “koinōnia” được dùng theo nghĩa lạc quyên cho Hội thánh tại Giêrusalem, chia sẻ quà tặng vật chất (x. 1 Cr 16,1-4; 2 Cr 8,4.18-23; 9,13; Rm 12,13; 15,26), việc tham dự vào Tin mừng (x. Pl 1,5),… Theo tư tưởng của Thánh Phaolô, hạn từ này có thể được hiểu là sự hiệp nhất nội tại trong đời sống cộng đoàn: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep, 4,4-6; x. Gl 2, 9).
II. DÂN CHÚA NHƯ LÀ “HIỆP THÔNG”
Hiến chế Tín lý về Giáo hội Lumen Gentium (21.11.1964) đã dành hai chương đầu nói về hai khái niệm “Mầu nhiệm” và “Dân Thiên Chúa”: Giáo hội như là mầu nhiệm và Giáo hội là Dân Thiên Chúa. Sự hiệp thông trong Giáo hội vừa mang tính chất vô hình, vừa hữu hình. Đó là sự hiệp thông giữa từng người với Chúa Cha, qua Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần (x. Ep 2,18). Thánh công đồng đã viết:
Với ý định tự do và nhiệm mầu đầy khôn ngoan nhân lành, Chúa Cha hằng hữu đã tạo dựng toàn thể vũ trụ, Ngài đã quyết định nâng con người lên để chia sẻ sự sống thần linh, và đã không bỏ mặc loài người sa ngã nơi nguyên tổ Ađam, nhưng luôn giúp họ đón nhận ơn cứu rỗi nhờ Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc, Đấng vốn là “hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thụ tạo” (Cl 1,15)… Thiên Chúa quyết định quy tụ những ai tin vào Chúa Kitô thành một Giáo hội thánh thiện, được tiên báo bằng hình ảnh biểu trưng ngay từ lúc khởi nguyên thế giới, được chuẩn bị cách kỳ diệu nơi lịch sử dân Israel và Cựu ước, được thiết lập vào thời kỳ sau hết, được tỏ lộ trong Chúa Thánh Thần và sẽ được hoàn tất trong vinh quang vào lúc kết tận thời gian.
Trong Chúa Kitô, và qua các Bí tích, con người được hiệp thông với nhau trong cùng một niềm tin (x. Ep 4,13; Plm 6) và cùng một tinh thần (x. Pl 2,1).
1. HIỆP THÔNG TRONG CỰU ƯỚC
Theo dòng lịch sử cứu độ, các tác giả Thánh Kinh đã phác họa mối dây hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người một cách rõ nét. Ngay từ những trang đầu của Sáng Thế Ký, các độc giả có thể bắt gặp hình ảnh của một cộng đoàn sống tình liên đới hiệp thông: giữa con người (Ađam) với Thiên Chúa và giữa người với người. Theo tương quan chiều dọc, Thiên Chúa đã tạo dựng và đặt để con người do chính mình nặn ra trong vườn địa đàng là để con người luôn hướng về Thiên Chúa (x. St 2,8-23). Trong sự hiệp thông đó, con người luôn tìm thấy sự hài hòa, niềm vui vì ngày ngày được trò chuyện cùng Thiên Chúa lúc gió thổi trong ngày (x. St 3,8). Theo tương quan chiều ngang, con người được sống hài hòa với nhau và với thiên nhiên, súc vật, chim trời, dã thú (x. St 2,18-20).
Tuy nhiên, con người đã đan tâm phá hủy tình hiệp thông giữa họ với Thiên Chúa. Khi Ađam và Evà bất tuân, tội lỗi và sự chết đã đi vào trần gian. Một khi đánh mất tình hiệp thông với Thiên Chúa, con người cũng đánh mất sự hòa hợp nơi bản thân, chẳng còn tìm thấy vị thế của mình với muôn loài thọ tạo và trong các tương quan với tha nhân. Do đó, nói theo ngôn ngữ của Thánh Phaolô Tông đồ: “Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại” (1 Cr 15,21).
Thế nhưng, Thiên Chúa không bỏ rơi con cái của Người. Ngài vẫn trung tín với giao ước tình yêu đã ký kết với họ. Quả thật, tình yêu của Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi của con người. Ngài có sáng kiến bước trước đến với con người. Để chuẩn bị thành lập một dân riêng, dân ưu tuyển của Thiên Chúa, Ngài đã tuyển chọn Abraham, cụ già tuổi đã gần xế bóng (x. St 12,1-3). Để lãnh đạo và đưa dân Chúa ra khỏi Ai Cập tiến vào Hứa địa, Ngài lại chọn ông Môsê, một con người ăn nói ngọng nghịu, chẳng đâu vào đâu (x. Xh 3,1-12). Để giúp dân sống theo đường lối Người, Chúa lại chọn gọi các ngôn sứ. Và sau cùng, để tái lập giao ước thuở ban đầu, Thiên Chúa đã ban tặng chính Con Một của Người đến trần gian, để cho nhân loại được sống và sống dồi dào (x. Ga 3,16).
Thánh Kinh Cựu ước đã dùng nhiều hình ảnh để nói về sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và dân Người. Trước hết, sách Xuất hành ghi lại việc Thiên Chúa thiết lập giao ước với dân Israel tại núi Sinai, qua nghi thức Môsê rảy máu trên dân (x. Xh 24,1-8). Như thế, máu là dấu chỉ của sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và dân Israel mà ông Môsê là trung gian: “Đây là máu giao ước Đức Chúa đã lập với anh em” (Xh 24,8). Thứ đến, hình ảnh mục tử và đàn chiên cũng là cách dùng quen thuộc trong Cựu ước để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân Người (x. Tv 23; Is 40,11; Gr 23,3; Ed 34,11-16;…);…
2. HIỆP THÔNG TRONG TÂN ƯỚC
Tình hiệp thông trong thời Tân ước giữa Thiên Chúa và con người được thể hiện nơi Chúa Giêsu Kitô, “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và đã cắm lều ở giữa chúng ta” (Ga 1,14). Con Một Thiên Chúa không chỉ đồng hành, ở với con người trong giây phút hiện tại qua biến cố “nhập thể” và “nhập thế” (x. Pl 2,6-11), nhưng Ngài còn hứa với các môn đệ là “sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20).
Tình hiệp thông ấy chỉ đạt đến sự viên mãn qua mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô. Hy lễ xưa bằng máu chiên bò (x. Xh 24,5-8) nay đã được thay thế bằng chính máu Con Thiên Chúa (x. Ga 19,34). Trong Cựu ước, Đền thờ Giêrusalem là biểu tượng cho sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Người. Đến thời Tân ước, Đền thờ mới sẽ là chính Chúa Kitô khi Ngài nói với người Do-thái: “Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi; nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2,19). Như thế, ơn cứu độ giờ đây mang chiều kích phổ quát. Ơn cứu độ ấy hệ tại không chỉ giới hạn dành riêng cho người Do-thái, dân ưu tuyển của Thiên Chúa, mà còn mở rộng cho tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc và ngôn ngữ. Nơi Tông Thư Desiderio Desideravi (29/6/2022), Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết: “Không ai tự kiếm được một chỗ ngồi trong bữa tiệc này, nhưng ai cũng được mời, hay nói đúng hơn, tất cả đều bị lôi cuốn bởi nỗi khao khát mãnh liệt của Chúa Giêsu muốn ăn Lễ Vượt Qua với họ: Người biết mình là Con Chiên Vượt Qua, và là chính Lễ Vượt Qua. Tuy nhiên, khát vọng vô hạn của Người muốn tái lập mối hiệp thông với chúng ta, đã và vẫn là dự định từ đầu của Người, sẽ không được thỏa mãn cho đến khi mọi người, thuộc mọi chi họ, ngôn ngữ, dân tộc và quốc gia (Kh 5,9) được ăn Thịt và uống Máu của Người: đó là lý do tại sao chính bữa tiệc này phải được hiện tại hóa trong việc cử hành Thánh Thể, cho đến khi Người trở lại” (DD, số 4).
Tương quan hiệp thông giữa Chúa Giêsu và nhân loại được Thánh Kinh Tân ước minh họa qua hình ảnh mục tử và đàn chiên (x. Mt 9,36; Mc 6,34; Ga 10,11.14); như cành nho gắn liền với cây nho (x. Ga 15,1-8); và Giáo hội ví như là thân mình và là hiền thê của Chúa Kitô (x. 1 Cr 10,17; Gl 3,28; Ep 5,21-33);…
Như thế, theo suốt dòng lịch sử cứu độ từ thời Cựu ước đến thời Tân ước, đó là cả một tiến trình Thiên Chúa dẫn đưa nhân loại đi vào sự hiệp thông với Người. Khởi sự với việc tạo dựng mái ấm đầu tiên của nhân loại (Ađam và Evà), Thiên Chúa mời gọi họ sống tình hiệp thông với Ngài khi cho họ được hưởng hạnh phúc tại vườn địa đàng. Khi con người sa ngã, con người đã tự cắt đứt tình hiệp thông với Thiên Chúa; từ đó, tội lỗi, đau khổ và sự chết xâm nhập trần gian. Thế nhưng, Thiên Chúa đã có sáng kiến đi bước trước đến với con người để nối lại tình hiệp thông bằng sự hiện diện đầy yêu thương của Con Một Ngài: “Thuở xưa nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,1-2).
3. HIỆP THÔNG GIỮA GIÁO HỘI HOÀN VŨ VÀ GIÁO HỘI ĐỊA PHƯƠNG
Công đồng Vaticanô II, trong Hiến chế Tín lý về Giáo hội đã khẳng định: “Trong Đức Kitô, Giáo hội như là bí tích, nghĩa là dấu chỉ và phương tiện hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa và hợp nhất mọi người…” (LG, số 1). Nơi mầu nhiệm Giáo hội, chúng ta khám phá sự hiệp thông giữa các Giáo hội địa phương với Giáo hội phổ quát, giữa các phẩm trật với các thành phần trong Giáo hội: “Các Giáo hội địa phương vẫn hiện diện cách chính thức trong tình hiệp thông Giáo hội, vẫn có thể nắm giữ những truyền thống của riêng mình trong khi vẫn bảo toàn quyền tối thượng của ngai tòa Phêrô đứng đầu toàn thể cộng đoàn đức ái, bảo toàn các dị biệt hợp pháp, đồng thời lưu tâm giữ gìn sao cho các dị biệt ấy không làm phương hại, trái lại còn phục vụ cho sự hợp nhất. Sau cùng, giữa các thành phần khác nhau của Giáo hội còn có mối dây hiệp thông mật thiết, nhờ đó họ chia sẻ những ơn phúc thiêng liêng, những người làm việc tông đồ và những nguồn tài liệu vật chất…” (LG, số 13). Linh mục cũng cần “phát huy ý thức về sự hiệp thông vốn tồn tại giữa các Giáo hội địa phương khác nhau, một sự hiệp thông bén rễ trong chính hữu thể của các Giáo hội xét như là Giáo hội đang sống tại địa phương mình cùng một cuộc sống như Giáo hội duy nhất và phổ quát của Chúa Kitô. Một ý thức như thế về sự hiệp thông liên-Giáo-hội sẽ cổ võ ‘sự trao đổi các ân huệ’, khởi đầu bằng các ân huệ sống động và cá vị là chính các linh mục” (PDV, số 74).
Trong Tông huấn Thượng Hội Đồng Giáo hội tại Á Châu (6/11/1999), Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã mời gọi các Giáo hội địa phương cởi mở đón tiếp lẫn nhau và cộng tác với nhau, để trong sự khác biệt, họ có thể gìn giữ và bày tỏ rõ ràng mối dây hiệp thông với Giáo hội hoàn vũ (x. số 26). Vì thế, sự hiệp thông Giáo hội bao hàm rằng mỗi Giáo hội địa phương phải trở nên “một Giáo hội tham gia,” nghĩa là một Giáo hội trong đó mọi người đều sống ơn gọi và chu toàn vai trò của riêng mình (x. số 25), vì Giáo hội của Chúa Kitô là Giáo hội của sự duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền (Kinh Tin Kính).
4.1. Giáo hội duy nhất
Trong quá khứ lịch sử của Giáo hội, có ba cuộc ly giáo trầm trọng: 1) cuộc ly giáo giữa Giáo hội Công giáo và Giáo hội Chính Thống vào năm 1054; 2) cuộc ly giáo của Giáo hội Tin Lành do Martin Luther chủ xướng vào năm 1517; và 3) cuộc ly giáo của Giáo hội Anh giáo do vua Henry VIII khởi xướng vào năm 1534.
Lời mở đầu của Sắc lệnh về Đại kết Unitatis Redintegratio (do Đức Phaolô VI ban hành vào ngày 21.11.1964) cho thấy: Đứng trước sự chia năm xẻ bảy của Giáo hội Chúa Kitô, tất cả đều khao khát và ước mong nhìn thấy “một Giáo hội duy nhất và hữu hình của Thiên Chúa, một Giáo hội thực sự phổ quát và được sai đi khắp trần gian...” Vì thế, Giáo hội Công giáo đã dành một tuần lễ hằng năm để cầu nguyện cho sự hiệp nhất các Kitô hữu trên toàn thế giới từ ngày 18-25/1.
Giáo hội Chúa Kitô là Giáo hội của sự duy nhất vì “chỉ có một thân thể, một Thần Khí… Chỉ có một Chúa, một niềm tin và một phép rửa” (Ep 4,4-5). “Thật vậy, bất kỳ ai trong anh em được rửa tội trong Chúa Kitô, đều mặc lấy Chúa Kitô…Vậy, tất cả anh em chỉ là một trong Chúa Giêsu Kitô” (Gl 3,27-28). Giáo hội ấy đã được ủy thác cho Phêrô chăn dắt (x. Mt 16,18; Ga 21,17). Thánh công đồng còn nói rõ: “Giáo hội phổ quát xuất hiện như ‘một dân tộc được hợp nhất khởi nguồn từ sự hợp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (LG, số 4). Vì thế, khuôn mẫu lý tưởng và cội nguồn là “sự hợp nhất trong Ba Ngôi của một Thiên Chúa duy nhất là Cha và Con và Thánh Thần.” Cộng đoàn tín hữu sơ thời đã thể hiện sự hiệp nhất cách rõ ràng khi họ sống hiệp thông huynh đệ, lắng nghe các Tông đồ giảng dạy, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng (x. Cv 2,42). Nét đặc biệt của cộng đoàn tín hữu ở Giêrusalem là một lòng một ý (x. Cv 4,32a), để của cải làm của chung (x. Cv 4,32b) và mạnh dạn làm chứng (x. Cv 4,33). Bốn động từ “nghe, sống, bẻ bánh, tham dự” được bổ nghĩa bởi trạng từ chung là “chuyên cần” nhằm diễn tả một cộng đoàn lý tưởng sống theo Tin mừng, cộng đoàn phụng vụ, bác ái và truyền giáo. Trong Tông thư Desiderio Desideravi, Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết rằng: “Việc cử hành ngày Chúa nhật giúp cho cộng đoàn Kitô hữu được đào tạo bởi Bí tích Thánh Thể. Hằng tuần, lời của Chúa Phục Sinh soi sáng sự hiện hữu của chúng ta, để hoàn tất nơi chúng ta điều Chúa muốn khi gửi lời của Người cho chúng ta (x. Is 55,10-11). Hằng tuần, việc rước Mình và Máu Chúa Kitô cũng muốn làm cho cuộc sống của chúng ta trở nên của lễ đẹp lòng Chúa Cha, trong tình hiệp thông huynh đệ chia sẻ, hiếu khách, phục vụ. Hằng tuần, năng lượng của tấm Bánh được bẻ ra nâng đỡ chúng ta trong việc loan báo Tin mừng, trong đó thể hiện tính xác thực của việc cử hành phụng vụ.”
4.2. Giáo hội thánh thiện
Giáo hội có đặc tính thánh thiện vì Thiên Chúa, Đấng Thánh là tác giả của Giáo hội. Trong Bài giảng Trên Núi (Mt 5-7), Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ hãy nên thánh, hãy nên hoàn thiện: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Tuy nhiên, không thấy chỗ nào trong Cựu ước gọi Thiên Chúa là hoàn thiện.[12] Ý tưởng này có lẽ được suy ra từ những câu liên quan đến sự thánh thiện của Thiên Chúa: “Các ngươi hãy nên thánh vì Ta là Đấng Thánh” (Lv 19,2; x. 20,26; 21,8), hoặc “Các ngươi phải sống trọn hảo với Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi” (Đnl 18,13).
Sự thánh thiện của Giáo hội được bày tỏ qua các hoa trái của ân sủng Thánh Thần làm trổ sinh nơi các tín hữu. Hoa trái ấy là: “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gl 5,22-23). Sự thánh thiện của Giáo hội còn được thể hiện trong việc thực hành các lời khuyên Phúc âm.
4.3. Giáo hội Công giáo
Các Giáo hội địa phương cũng có đặc tính công giáo nhờ sự hiệp thông với Giáo hội Rôma. Theo sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, hạn từ “công giáo” có nghĩa là “phổ quát,” “toàn diện,” “toàn vẹn”… Giáo hội là công giáo vì trong Giáo hội có Chúa Kitô hiện diện: “Ở đâu có Chúa Kitô Giêsu, ở đó có Giáo hội công giáo.” Giáo hội là công giáo vì Giáo hội “tự bản chất là được sai đi, vì Giáo hội bắt nguồn từ chính sứ mạng của Chúa Con và sứ mạng của Chúa Thánh Thần, theo ý định của Chúa Cha.” Đó là “một ân huệ và ơn gọi riêng của Giáo hội, là căn tính của Giáo hội. Giáo hội hiện hữu là để rao giảng Tin mừng.” Trong Ad Gentes, công đồng Vaticanô II đã nói rõ:
Thiên Chúa đã quyết định đi vào lịch sử loài người theo một cách thức mới và mang tính chung quyết, bằng cách sai Con của Ngài mặc lấy xác phàm, để nhờ Người, Ngài giải thoát nhân loại khỏi quyền lực tối tăm và Satan (x. Cl 1,13; Cv 10,38), đồng thời trong Người, Ngài hòa giải trần gian với chính mình (x. 2 Cr 5,19)… Bằng con đường nhập thể đích thực, Con Thiên Chúa đã đến để làm cho loài người được thông phần vào bản tính Thiên Chúa, vốn giàu sang, Người đã trở nên nghèo khó vì chúng ta (x. Pl 2,6-11). Con Người đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người (Mt 20,28)… Để hoàn tất chương trình cứu độ, Chúa Kitô đã cử Chúa Thánh Thần đến để thực hiện công trình cứu độ trong các tâm hồn và làm cho Giáo hội tăng triển thêm mãi… Qua mọi thời đại, Chúa Thánh Thần hợp nhất toàn thể Giáo hội ‘trong tình hiệp thông và qua thừa tác vụ, ban phát ơn thánh và đặc sủng khác nhau’, Ngài nên như linh hồn sống động và đổ vào tâm hồn các tín hữu cũng chính tinh thần truyền giáo đã tác động nơi Chúa Kitô… Vì thế, vâng lệnh Chúa Kitô đồng thời được ân sủng và tình yêu Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Giáo hội thực thi sứ mệnh, nhờ gương mẫu đời sống, lời giảng dạy, các bí tích và những phương thế trao ban ân sủng khác, dẫn đưa tất cả đến với đức tin… (AG, số 3-5).
Vì thế, đặc tính “công giáo” của Giáo hội phát xuất từ nơi Thiên Chúa, như Thánh công đồng đã dạy: “Đặc tính phổ quát này như một trang sức tăng thêm nét đẹp cho Dân Thiên Chúa, là tặng phẩm Chúa ban, nhờ đó Giáo hội Công giáo luôn nỗ lực cách hữu hiệu để cho toàn thể nhân loại cùng với gia sản phong phú của con người được thu phục dưới quyền Chúa Kitô Thủ lãnh, trong sự hợp nhất với Thần Khí của Người. Nhờ đặc tính công giáo ấy, mỗi phần tử thực thi những đóng góp riêng của mình cho các phần tử khác và cho toàn thể Giáo hội, để tất cả và từng người được tăng triển nhờ cùng chia sẻ mọi sự và cùng hợp lực đạt đến tình trạng viên mãn trong tình hiệp nhất. Như thế, Dân Thiên Chúa không chỉ được quy tụ từ các dân tộc khác nhau, nhưng nơi chính mình cũng bao gồm nhiều chức vụ khác nhau” (LG, số 13).
4.4. Giáo hội Tông truyền
Trước hết, Giáo hội có đặc tính tông truyền vì được đặt nền tảng các Tông đồ (x. Ep 2,20). Kinh Tiền Tụng các Thánh Tông đồ I trong Sách Lễ Rôma đã quảng diễn tư tưởng này như sau: “Lạy Chúa là Mục Tử hằng hữu, Chúa không bỏ rơi đoàn chiên Chúa, nhưng nhờ các Thánh Tông đồ, Chúa luôn che chở giữ gìn để đoàn chiên được hướng dẫn nhờ các vị lãnh đạo Chúa đã đặt làm mục tử nhân danh Con Chúa coi sóc đoàn chiên.”
Thứ đến, Giáo hội có đặc tính tông truyền vì “nhờ các vị kế nhiệm Thánh Phêrô và các Tông đồ, Giáo hội vẫn giữ nguyên nguồn gốc của mình trong sự hiệp thông đức tin và sự sống” (GLHTCG, số 863). Hơn nữa, Giáo hội có đặc tính tông truyền vì “tự bản tính, Giáo hội là được sai đi” (AG, số 2).
III. LINH MỤC VÀ CÁC TƯƠNG QUAN HIỆP THÔNG
Trước khi về trời, Chúa Giêsu - Linh mục Thượng Phẩm đời đời, đã để lại lệnh truyền cho các môn đệ: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20).
Tông huấn Pastores Dabo Vobis đã phác họa hình ảnh của người mục tử qua ba tiêu chuẩn: “linh mục - con người của mầu nhiệm, con người của sự hiệp thông, và con người của sứ vụ”: “Linh mục là tôi tớ của Giáo hội xét như là mầu nhiệm, bởi vì linh mục thực thi những dấu chỉ Giáo hội và bí tích nói lên sự hiện diện của Chúa Kitô Phục Sinh. Linh mục là tôi tớ của Giáo hội xét như là hiệp thông, bởi vì trong sự hiệp nhất với Giám mục và mối liên kết chặt chẽ với linh mục đoàn, linh mục xây dựng sự hiệp nhất của cộng đoàn Giáo hội trong sự hòa điệu của nhiều ơn gọi, nhiều đặc sủng và nhiều hình thức phục vụ khác nhau. Cuối cùng, linh mục là tôi tớ của Giáo hội xét như là sứ vụ, bởi vì linh mục làm cho cộng đoàn trở thành cộng đoàn loan báo và làm chứng về Tin mừng” (PDV, số 16).
1. LINH MỤC - CON NGƯỜI CỦA MẦU NHIỆM
Công đồng Vaticanô II đã khẳng định: “Ý nghĩa cao cả nhất của phẩm giá con người chính là được mời gọi hiệp thông với Thiên Chúa. Ngay từ lúc bắt đầu hiện hữu, con người đã được mời gọi đối thoại với Thiên Chúa: quả thật, con người hiện hữu chính là nhờ Thiên Chúa, và nếu con người không được tình yêu Thiên Chúa gìn giữ, thì con người sẽ không hiện hữu. Con người sẽ không sống cách sung mãn thể theo chân lý được, nếu con người không nhìn nhận Ngài cách tự do và không tín thác vào Đấng tạo dựng nên mình” (GS, số 19).
Linh mục cũng như bao con người khác, bằng xương bằng thịt và vốn mang thân phận bất toàn, khiếm khuyết; tuy nhiên, nhờ ân sủng của Thiên Chúa, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, qua Bí tích Truyền Chức thánh, các linh mục được nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô và tham dự vào quyền bính của Ngài (x. PO, số 2). Vì thế, cội nguồn căn tính hiệp thông của linh mục, cũng như bất kỳ căn tính nào của người Kitô hữu, bắt nguồn từ mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi (x. PDV, số 21): “Chính trong lòng Giáo hội xét như là mầu nhiệm hiệp thông giữa Thiên Chúa Ba Ngôi trong nỗi day dứt thi hành sứ vụ mà mọi căn tính Kitô hữu được mạc khải và đồng thời căn tính loại biệt của linh mục và của thừa tác vụ linh mục cũng được mạc khải. Quả vậy, linh mục, nhờ vào sự thánh hiến đã lãnh nhận qua bí tích Truyền Chức thánh được sai đi bởi Chúa Cha, nhờ Chúa Giêsu Kitô, và một cách đặc biệt được nên đồng hình dạng với Ngài, Đấng là Đầu và Mục Tử của dân Ngài, để sống và hoạt động, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần, nhằm phục vụ Giáo hội và cứu độ thế giới” (PDV, số 12).
1.1 Linh mục - con người của cầu nguyện
Căn tính của linh mục thể hiện trước hết trong đời sống cầu nguyện. Vì thế, cầu nguyện là hơi thở và là điều không thể thiếu trong đời sống và sứ vụ của linh mục. Nhân chuyến viếng thăm các anh em linh mục, phó tế và chủng sinh tại nhà thờ chính tòa Tổng giáo phận Brindisi, nam Italia vào ngày 15.6.2008, trong bài huấn dụ, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã nói:
Anh em linh mục thân mến, để cuộc sống anh em trở thành một niềm tin mạnh mẽ và đầy sức sống, như anh em đã biết, chúng ta cần nuôi dưỡng đời sống ấy bằng sự chuyên cần cầu nguyện. Vì thế, anh em hãy trở thành mẫu gương về cầu nguyện, trở thành thầy dạy cầu nguyện. Cần xếp đặt cho ngày của anh em có những giờ nguyện gẫm, trong đó, theo gương Chúa Giêsu, anh em chuyện vãn với Chúa Cha. Tôi biết rằng thật không dễ trung thành với giờ hẹn hằng ngày với Chúa, nhất là nhịp sống ồ ạt ngày nay với bao nhiêu công việc bận rộn ngày càng gia tăng. Nhưng chúng ta phải xác tín rằng giờ phút cầu nguyện là điều quan trọng nhất trong đời sống linh mục, đó là lúc ơn thánh của Chúa hoạt động hữu hiệu nhất, mang lại sự phong phú cho sứ vụ linh mục. Cầu nguyện là công tác phục vụ đầu tiên phải mang lại cho cộng đoàn và vì thế, những lúc cầu nguyện phải chiếm ưu tiên thực sự trong đời sống chúng ta. Tôi biết rằng bao nhiêu điều đang đè nặng chúng ta: đối với tôi, đó là những cuộc tiếp kiến, các hồ sơ phải nghiên cứu, các cuộc gặp gỡ,… Nhưng nếu chúng ta không kết hiệp trong nội tâm với Thiên Chúa, thì chúng ta chẳng có thể mang lại cho tha nhân điều gì. Vì vậy, Thiên Chúa là ưu tiên số một và chúng ta phải luôn dành thời gian cần thiết để hiệp thông trong kinh nguyện với Chúa chúng ta.
Thánh Kinh đã ghi lại nhiều tấm gương cầu nguyện cho các linh mục. Trước hết, Abraham, cha của các kẻ tin (x. St 17,4-5; Rm 4,11.16), cầu nguyện trong cơn thử thách đức tin. Ông đã xác tín sự trung thành đối với Thiên Chúa khi sẵn sàng dâng Ixaác làm của lễ toàn thiêu (x. St 22,1-19), hay khi đàm đạo với ba vị khách trong lều (x. St 18,1-15), can thiệp cho thành Sôđôma qua lời chuyển cầu xin Chúa khoan dung (x. St 18,16-33) và cầu nguyện cho cả vua Avimeléc, vua Gơra, kẻ đã sai người đến bắt bà Xara (x. St 20,1-18). Thứ đến, Môsê đã đàm đạo với Thiên Chúa, Đấng đã gọi ông từ giữa bụi cây bốc cháy (x. Xh 3,1-6), “mặt giáp mặt, như hai người bạn với nhau” (Xh 33,11). Bên cạnh đó, Đavít cũng là con người của cầu nguyện: cầu nguyện trong mọi hoàn cảnh (x. Sách các Vua; Tv)… Sau cùng, mẫu gương cầu nguyện được thể hiện cách trọn vẹn nơi Chúa Giêsu Kitô. Trong một ngày sống và hoạt động, dù tất bật với công việc giảng dạy, giáo huấn, và ngay cả những khi thử thách, Chúa Giêsu, Đấng “vốn không có chỗ tựa đầu” (Lc 9,58) vẫn dành thời giờ cầu nguyện. Ngài thường lui vào nơi vắng vẻ để cầu nguyện cùng Chúa Cha (x. Mc 1,35). Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo dạy rằng: “Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu làm cho lời cầu nguyện Kitô giáo trở thành lời cầu xin hữu hiệu. Người là mẫu gương cho chúng ta; Người cầu nguyện trong chúng ta và cùng với chúng ta. Bởi vì tâm hồn của Chúa Con không tìm điều gì khác ngoài điều làm đẹp lòng Chúa Cha, thì làm sao tâm hồn các nghĩa tử lại chỉ gắn bó với các hồng ân hơn là với Đấng ban hồng ân?” (số 2740). Lời cầu nguyện hữu hiệu là kinh Lạy Cha vì đó là lời kinh chính Chúa Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện (x. Mt 6,9-13; Lc 11,2-4). Trong vườn Cây Dầu, trước khi bước vào cuộc Khổ Nạn, Ngài sấp mặt xuống và thầm thĩ với Chúa Cha rằng: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Cảm động và ý nghĩa hơn nữa là lời cầu nguyện của Đấng trước khi trút hơi thở cuối cùng trên thập giá dành cho các tội nhân, những kẻ đã thóa mạ, kết án và đóng đinh Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
Như thế, tương quan hiệp thông đầu tiên mà người linh mục cần phải gắn kết, đó là với Thiên Chúa. Một trong những cách thế để tỏ lộ lòng yêu mến Thiên Chúa và tôn thờ Ngài là việc cử hành phụng vụ. Tông thư Desiderio Desideravi đã khẳng định: “Phụng vụ là nguồn mạch đầu tiên của sự hiệp thông thần linh, trong đó Thiên Chúa chia sẻ sự sống của chính Người cho chúng ta. Phụng vụ cũng là trường học đầu tiên của đời sống thiêng liêng. Phụng vụ là món quà đầu tiên mà chúng ta phải trao cho các Kitô hữu hợp nhất với chúng ta trong đức tin và lòng nhiệt thành cầu nguyện.” Và “linh mục thông phần cách đặc biệt vào việc cử hành phụng vụ nhờ ân sủng của Bí tích Truyền Chức thánh, và điều này thể hiện trong vai trò chủ sự. Như tất cả các phận vụ khác, đây không phải là một bổn phận do cộng đoàn giao cho linh mục, nhưng là hệ quả của việc tuôn đổ Thánh Thần trên linh mục trong lễ truyền chức, để trao tác vụ này cho ngài. Linh mục cũng được đào tạo nhờ việc chủ sự trong cộng đoàn phụng vụ” (DD, số 56). Đức Phanxicô cũng nhấn mạnh điều này trong bài phát biểu khai mạc hội nghị chuyên đề về chức linh mục tại Vatican vào ngày 17.2.2022 như sau: “Sự thân mật với Chúa sinh ra từ lời cầu nguyện, đời sống thiêng liêng, sự gần gũi cụ thể với Thiên Chúa qua việc lắng nghe Lời Chúa, cử hành Thánh lễ, về sự tĩnh lặng của việc tôn thờ trong Bí tích Thánh Thể, về sự dâng mình cho Đức Mẹ, về sự đồng hành khôn ngoan của một vị linh hướng, về Bí tích Hòa giải, nếu không có những ‘sự gần gũi’ cụ thể này, thì nói một cách ngắn gọn, một linh mục chỉ là một người lao công mệt mỏi… Một linh mục cầu nguyện không gì khác hơn là một Kitô hữu đã hiểu sâu sắc ân huệ mà mình lãnh nhận trong Bí tích Rửa tội. Một linh mục cầu nguyện là một người con luôn nhớ rằng mình là con, và mình có người Cha hằng yêu thương mình…” Như cành nho gắn liền với cây nho (x. Ga 15,1-8), linh mục như những “kho tàng chứa đựng trong chiếc bình sành dễ vỡ” (2 Cr 4,7) với những yếu đuối và tội lỗi, cần thiết lập và sống mối tương quan với Chúa, để Chúa chiếm trọn con người như lời Thánh Phaolô Tông đồ: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
1.2 Linh mục - con người của đối thoại
“Bầu khí của đối thoại phải là tình bạn. Hơn nữa, phải là sự phục vụ” (PDV, số 74). Linh mục được mời gọi để “gặp gỡ thật sự và cá vị với Chúa Giêsu qua Thánh lễ hằng ngày, kinh Thần vụ, lần chuỗi, các việc đạo đức, viếng Thánh Thể, nguyện ngắm, các cử hành phụng vụ và đọc những kinh mình ưa thích (x. PDV, số 74), một cuộc đối thoại tín thác với Chúa Cha và một kinh nghiệm sâu thẳm về Chúa Thánh Thần” (PDV, số 72) để không còn cảm thấy đơn độc, khó khăn. Ađam và Evà sau khi hái trái cây biết lành biết dữ đã lẩn trốn, tự mình cắt đứt tương quan hiệp thông và đối thoại với Thiên Chúa (x. St 3,10). Còn với hai môn đệ trên đường Emmau, sau những hụt hẫng và thất vọng, hai ông đã có niềm vui, vì có Chúa đồng hành. “Lòng họ bừng cháy” (Lc 24,32) khi họ được bước đi và đàm đạo với Chúa Giêsu, từ đó họ mở ra tương quan với người khác: “Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó…hai ông thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh” (Lc 24,33-35).
Như thế, đối thoại với Thiên Chúa sẽ giúp người linh mục mở ra các tương quan hiệp thông khác: với Giám mục, linh mục đoàn và giáo dân (kể cả lương dân).
2. LINH MỤC - CON NGƯỜI CỦA HIỆP THÔNG
Sự hiệp nhất của các linh mục phải phản ánh sự hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong Tông huấn Pastores Dabo Vobis, đã viết: “Do bởi chức linh mục phát sinh từ nơi thẳm sâu mầu nhiệm khôn tả của Thiên Chúa, nghĩa là từ tình yêu của Chúa Cha, từ ân sủng của Chúa Giêsu Kitô và từ ơn hiệp nhất của Chúa Thánh Thần, người linh mục qua bí tích được hội nhập vào sự hiệp thông với Giám mục và với các linh mục khác, để phục vụ Dân Thiên Chúa là Giáo hội và để dẫn dắt mọi người đến với Chúa Kitô, đúng như lời cầu nguyện của Ngài: ‘Lạy Cha rất thánh, xin Cha gìn giữ chúng con trong danh Cha mà Cha đã ban cho Con để chúng nên một như chúng ta… Lạy Cha, cũng như Cha, Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, xin cho chúng cũng ở trong chúng ta, để cho thế gian tin rằng Cha đã sai Con’ (Ga 17,11-21)” (PDV, số 12).
Linh mục là người của mọi người, là người “làm dâu trăm họ” nên linh mục cần xây dựng các tương quan hiệp thông.
2.1. LINH MỤC - CỘNG SỰ VIÊN CỦA GIÁM MỤC
Thánh Công đồng đã dạy: “Tất cả các linh mục, cùng với Giám mục, đều tham dự vào chức Tư tế và tác vụ duy nhất của Chúa Kitô, và chính tính cách duy nhất trong thánh chức và sứ mệnh đòi hỏi phải có sự hiệp thông phẩm trật giữa các linh mục và hàng Giám mục, các linh mục biểu lộ mối hiệp thông đó rõ nét hơn mỗi khi cử hành phụng vụ, và công khai thể hiện khi đồng tế với các Giám mục trong cử hành Thánh Thể.”
2.1.1. Về phía Giám mục
Thánh Augustino (354-430) đã để lại câu nói thời danh: “Cho anh em, tôi là Giám mục (mục tử); cùng với anh em, tôi là Kitô hữu.” Giám mục là nguyên lý và nền tảng hữu hình cho sự hợp nhất của Giáo hội địa phương được trao phó cho thừa tác vụ Giám mục của ngài. Vì thế, Giám mục sẵn sàng tạo bầu khí đối thoại thân tình với các linh mục trong giáo phận. Thánh công đồng đã dạy: “Chính vì sự hiệp thông trong cùng một chức tư tế và cùng một tác vụ, các Giám mục hãy đón nhận các linh mục như anh em và bạn hữu, đồng thời ân cần quan tâm đến những thiện ích vật chất và nhất là thiêng liêng của các linh mục. Thật vậy, vì phải đảm nhận trọng trách thánh hóa các linh mục, nên các Giám mục phải hết sức chú tâm đến việc đào tạo liên tục các linh mục của mình. Các ngài phải sẵn sàng lắng nghe, hơn nữa phải trao đổi ý kiến và đối thoại với các linh mục về những vấn đề cần thiết cho công việc mục vụ và ích lợi cho giáo phận” (PO, số 7).
Trong diễn văn nói về thiên chức linh mục tại Hội nghị quốc tế vào ngày 17.2.2022, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: “Giám mục là một người cha, chứ không phải là một giám thị trường học, người trông coi. Giám mục phải cố gắng cư xử theo cách gần gũi, bởi nếu không, ngài sẽ tạo ra sự xa cách đối với các linh mục đoàn, hoặc ngài chỉ tiếp cận với những người đầy tham vọng. Giám mục, dù ngài là ai đi chăng nữa, thì vẫn cư xử với mọi linh mục và đối với mọi Giáo hội địa phương như một mối dây liên kết giúp phân định thánh ý Thiên Chúa. Chính Giám mục chỉ có thể là một công cụ của sự phân định thánh ý Thiên Chúa nếu ngài cũng biết lắng nghe thực tế của các linh mục và của dân Chúa được ủy thác cho ngài chăm sóc.”
2.1.2. Về phía các linh mục
Trong bài diễn văn của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Hội nghị “Hướng tới một nền thần học nền tảng về chức linh mục”, ngài trình bày cho các học giả về bốn “hình thức gần gũi”: gần gũi với Chúa, gần gũi với Giám mục, gần gũi giữa các linh mục và gần gũi với dân chúng. Sự gần gũi thứ hai được Đức Thánh Cha Phanxicô nói đến là sự gần gũi của linh mục với Giám mục của mình. Thật vậy, “được thiết lập trong Bí tích Truyền Chức thánh, người linh mục được nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu (alter Christus) và là những cộng sự viên của hàng Giám mục trong việc chu toàn tốt đẹp sứ mệnh tông đồ đã được Chúa Kitô ủy thác.” Thánh công đồng khuyên các linh mục ý thức về “thánh chức sung mãn mà các Giám mục đã lãnh nhận, nên phải tôn trọng nơi các ngài quyền bính của Chúa Kitô, vị Mục Tử tối cao. Vì thế, các linh mục cần liên kết với Giám mục của mình trong tình yêu thương và lòng vâng phục chân thành.”
Có thể nói, vâng phục là căn tính của linh mục. Thánh Inhaxio Loyola đã nói: “Sự vâng phục là của lễ toàn thiêu mà trong đó toàn thể con người, không giữ lại một chút gì, được hiến dâng trong ngọn lửa bác ái co Tạo Hóa và Thiên Chúa…” Thế nhưng, vâng phục thế nào khi “chủ nghĩa duy chủ thể của ngôi vị vẫn được bảo vệ một cách khốc liệt, chủ nghĩa này có khuynh hướng vây kín ngôi vị trong cá nhân chủ nghĩa, để rồi không có những tương quan đích thực giữa người với người” (PDV, số 7). Chúng ta đang sống trong một thế giới mà cái tôi lên ngôi, con người được xem là trung tâm, là cái rốn của vũ trụ, còn Thiên Chúa “bị đẩy ra khỏi vị thế trung tâm,” hơn bao giờ hết, sự vâng phục cần được lưu tâm. Bởi đó, Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh rằng: “Vâng phục không phải là một thuộc tính kỷ luật nhưng là dấu hiệu sâu xa nhất của những mối dây liên kết chúng ta trong sự hiệp thông. Vâng phục có nghĩa là học cách lắng nghe, và ghi nhớ rằng không ai ‘sở hữu’ thánh ý của Thiên Chúa, và điều đó chỉ được hiểu nhờ phân định. Vì thế, vâng phục là chăm chú lắng nghe thánh ý Thiên Chúa, được phân định đúng đắn trong một mối liên kết, một tương quan với những người khác.” Trong ngày thụ phong, các ứng viên linh mục đặt hai tay của mình vào trong lòng bàn tay của Giám mục để hứa vâng phục ngài và các đấng kế vị. Chính qua sự vâng phục Đấng bản quyền giáo phận, linh mục khám phá ra căn tính của đời linh mục là “vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập giá” (Pl 2,8). Đồng thời, người linh mục gợi lại hình ảnh của Chúa Kitô, như là Tôi Tớ, đến để làm theo ý Đấng đã sai Ngài (x. Ga 6,38) và đến để phục vụ (x. Mt 20,28), ngõ hầu mưu ích cho phần rỗi các linh hồn. Hơn nữa, các linh mục còn thúc đẩy sự hiệp thông giữa Giám mục và các tín hữu: “Họ có thể nhân danh Giám mục thông truyền ý ngài cho các tín hữu và ngược lại họ có thể thông đạt ý các tín hữu cho Giám mục. Họ là những tác nhân hiệp thông và hiệp nhất trong việc xây dựng Thân thể Chúa Kitô, giúp các tín hữu đồng hành với nhau, cùng nhau tiến bước giữa lòng Hội thánh.”
Như thế, sự vâng phục Giám mục nơi người linh mục tỏ lộ qua sự tôn trọng và trung thành trong lời nói và hành động, qua việc chấp nhận các bài sai và thực thi tích cực sứ vụ mà giáo phận và Giám mục trao phó, là một hành vi xuất phát từ tình yêu thực sự nhằm phục vụ vì lợi ích của Giáo hội, Thân Thể Chúa Kitô, mà trong đó, linh mục chính là hiện thân của Người.
2.2. HIỆP THÔNG TRONG LINH MỤC ĐOÀN
Thánh công đồng đã viết: “Khi gia nhập hàng linh mục qua Bí tích Truyền Chức Thánh, tất cả các linh mục đều đã được liên kết với nhau bằng tình huynh đệ do bí tích; nhưng khi được chỉ định phục vụ dưới quyền vị Giám mục trong một giáo phận, các ngài qui tụ cách đặc biệt thành một linh mục đoàn duy nhất. Tuy giữ những chức vụ khác nhau, nhưng các ngài vẫn thi hành cùng một tác vụ linh mục để phục vụ con người…và cùng hướng về mục đích duy nhất là xây dựng Thân Thể Chúa Kitô.”
2.2.1. TÌNH HUYNH ĐỆ LINH MỤC
Chính từ sự hiệp thông với Giám mục mở ra tương quan hiệp thông trong linh mục đoàn: “Tất cả các thành viên của linh mục đoàn đều được liên kết với nhau bằng những mối dây đặc biệt của đức ái tông đồ, của thừa tác vụ và tình huynh đệ: ngay từ thời xa xưa, ý nghĩa này đã được diễn đạt trong nghi thức phụng vụ, khi các linh mục hiện diện cùng với Giám mục chủ phong đặt tay trên vị tiến chức, cũng như khi các ngài hòa chung tâm tình cử hành Thánh lễ đồng tế.” Thánh công đồng còn nói đến các cuộc gặp gỡ, giao lưu qua hoạt động thể thao, vui chơi, tụ họp trong tình huynh đệ để thư giãn nghỉ ngơi, vừa gắn kết tình anh em linh mục, tình bạn hữu chân chính, đồng thời vừa tỉnh đưỡng phục hồi thể xác lẫn cả tinh thần: “Các con hãy đến nơi thanh vắng và nghỉ ngơi một chút” (Mc 6,31). Lời mời này cũng được áp dụng cho các linh mục mọi thời (x. PO, số 8): “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20). Với các anh em linh mục dòng sống và làm việc trong một Giáo hội địa phương, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong Tông huấn Pastores Dabo Vobis, mời gọi thông phần vào cùng một linh mục đoàn duy nhất, hiệp thông với Giáo hội, tham gia chân tình vào sự vận hành của giáo phận và đường hướng mục vụ của Giám mục (x. PO, số 8).
2.2.2. ĐỨC ÁI MỤC VỤ
Tình huynh đệ linh mục không chỉ giới hạn trong một nhóm nhỏ, nhưng được thể hiện như là hình thức đức ái mục tử (x. PDV, số 23): “Tình huynh đệ linh mục không loại trừ một ai; dầu vậy, trong lựa chọn theo tinh thần Tin mừng, linh mục có thể và phải dành ưu tiên cho người nào đang cần giúp đỡ và cần khích lệ nhất. Tình huynh đệ ấy dành một sự quan tâm đặc biệt đối với các linh mục trẻ, duy trì một thái độ đối thoại chân tình và huynh đệ với những linh mục thuộc lứa tuổi trung bình hoặc cao niên cũng như đối với những linh mục nào vì lý do này hay lý do khác đang phải đương đầu với những khó khăn…” (PDV, số 74).
Với các linh mục cao niên, Thánh công đồng khuyên các linh mục trẻ hôm nay biết tôn trọng tuổi tác và kinh nghiệm của họ, trao đổi bàn hỏi với các ngài về các vấn đề mục vụ, những vấn đề có liên quan đến việc chăm sóc phần rỗi các linh hồn. Đồng thời các linh mục lớn tuổi cũng đón nhận các linh mục trẻ như là những người học trò, những người em và giúp đỡ họ trong những công tác mục vụ. Cũng trong tinh thần đó, các linh mục sẵn lòng đón tiếp, chia sẻ và quan tâm đến các vị đau yếu, phiền muộn, lao lực, cô đơn và cả những vị bị bách hại, hay đang đương đầu với những khó khăn,… thì “tình huynh đệ ấy cũng không bỏ rơi họ nhưng ngược lại dõi theo họ với một sự chú tâm còn huynh đệ hơn” (PDV, số 74), bởi lẽ “chẳng có vị thánh nào không có quá khứ, cũng chẳng tội nhân nào không có một tương lai” (Thánh Augustino) (x. PO, số 8).
2.3. LINH MỤC VÀ GIÁO DÂN
“Linh mục là anh em giữa những người anh em” (PDV, số 74). Linh mục vừa là hiện thân của Chúa Kitô, vừa là mục tử giữa đàn chiên. Vì thế, linh mục là dấu chỉ hữu hình cho sự hiệp nhất dân thánh Chúa. Quả vậy, “tùy phận vụ đã lãnh nhận, các linh mục nhân danh Giám mục, tụ họp gia đình Thiên Chúa như một cộng đoàn huynh đệ duy nhất, và dẫn đưa họ đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, trong Chúa Thánh Thần” (PO, số 6).
Bởi thế, linh mục mang trong mình phận vụ kiến tạo sự hiệp thông trong cộng đoàn trong cùng một đức tin và một tình yêu, “hiệp nhất nên một” (Gc 17,11) vì “anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau…vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời…và vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Kitô” (Mt 23,8-10):
Việc hiệp thông với các tín hữu đòi hỏi các linh mục phải coi mình như những người cùng với các tín hữu xây dựng dân Chúa, những người được thánh hiến tận căn để lo việc phát triển cộng đoàn, những người hoạt động bằng một đức ái mục tử đích thực: được chọn giữa loài người, nên được đặt lo việc Thiên Chúa vì ích lợi của loài người. Do đó, các linh mục phải kiên trì cầu nguyện cho các tín hữu của mình, hết lòng khuyên bảo họ yêu mến Thiên Chúa là Cha chung; phải biết rõ thực trạng của họ như Chúa Kitô Mục Tử biết các chiên của mình; phải biết sống giữa họ như những người anh em ở giữa các anh em mình, phải đồng tiến với họ trên con đường đức tin, trổi vượt và nêu gương sáng cho họ về đời sống Kitô hữu; phải hiệp cùng cộng đoàn làm chứng xác thực về sự trung tín của người Kitô hữu để những người ‘ở xa’ và còn chưa tin Đức Kitô nhận ra được ý nghĩa của sự trung tín đó; phải cảnh giác đừng làm cho mình xa lạ với dân chúng do một lối sống, dù mình không muốn, nhưng lại đặt mình vào một giai cấp xã hội khác.
Với anh chị em giáo dân được ủy thác cho mình, đức ái mục tử được thể hiện qua việc yêu thương người nghèo, người bệnh tật, đau khổ, sống cùng, sống với và sống vì đoàn chiên: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Theo gương Thầy Giêsu, Đấng đến “không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28), linh mục “là thầy dạy Lời Chúa, thừa tác viên các Bí tích và là người lãnh đạo cộng đoàn” luôn ở giữa dân chúng và mặc lấy “phong cách của Chúa, một phong cách gần gũi, trắc ẩn, dịu dàng, và chạnh lòng xót thương, dẫn đến việc bước đi không phải như một thẩm phán nhưng như người Samaritano nhận ra những vết thương của dân mình” vì “yêu thương người khác là một sức mạnh thiêng liêng kéo chúng ta vào sự hiệp nhất với Thiên Chúa” (EG, số 272). Các linh mục nhận ra những nỗi bận tâm của anh chị em để cùng hiệp thông với Giáo hội và tha nhân, để rồi ân cần chăm sóc các thanh thiếu niên, những người sống đời hôn nhân, các bậc phụ huynh và các nam nữ tu sĩ (x. PO, số 6), “thành thật nhìn nhận và khích lệ phẩm giá và vai trò riêng của giáo dân trong sứ mệnh Giáo hội. Các ngài cũng phải thành thật kính trọng sự tự do chân chính mà mọi người có quyền được hưởng trong xã hội trần gian. Các ngài phải sẵn lòng lắng nghe giáo dân, cứu xét các nguyện vọng của họ trong tinh thần huynh đệ, nhìn nhận kinh nghiệm và khả năng chuyên môn của họ trong các lãnh vực khác nhau của hoạt động nhân sinh, để cùng với họ có thể nhận biết những dấu chỉ của thời đại” (PO, số 9).
Với anh chị em lương dân, Thánh công đồng khuyên các linh mục: “Sau hết các ngài phải đặc biệt coi sóc tất cả những người chưa nhận biết Chúa Kitô là Đấng Cứu Chuộc mình” (PO, số 9). Ngay những trang đầu của Thánh Kinh Tân ước, lòng thương xót của Thiên Chúa cũng được tỏ lộ cho dân ngoại với sự xuất hiện ngôi sao lạ bên Đông Phương. Từ ánh sao lạ này, các nhà chiêm tinh đã đến gặp gỡ Hài Nhi Giêsu, sấp mình thờ lạy và dâng những lễ vật quí giá nhất (x. Mt 2,1-12). Trong thời gian rao giảng công khai, nhiều lần Ngài còn đi về phía dân ngoại, và chữa lành nhiều bệnh tật trên dân (x. Mt 8,5-17; Mt 15,21-28; Ga 4,1-42;…). Chúa Kitô, vị Mục Tử nhân lành, tước hiệu này diễn tả việc Ngài tự nguyện phục vụ, sẵn sàng hiến dâng mạng sống mình “để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Người linh mục cũng họa lại hình ảnh của Chúa Giêsu, không chỉ phục vụ đàn chiên mình phụ trách, mà còn “còn có những chiên khác không thuộc về ràn này, tôi cũng phải đưa chúng về” (Ga 10,16). Vì thế, Thánh công đồng mời gọi các linh mục “quan tâm đến các dự tòng và tân tòng, cần được hướng dẫn từng bước để hiểu biết và thực hành nếp sống Kitô hữu” (PO, số 6).
Với anh chị em di dân (đến và đi), sự hiện diện của họ cũng đặt ra những thách đố cho các mục tử. Chúa Giêsu được xem là người di dân đầu tiên từ cõi trời xuống trần gian qua biến cố nhập thể và nhập thế (x. Ga 1,1-18; Pl 2,6-11), cho đến khi thực thi sứ vụ rao giảng (x. Mt 2,13-15; 8,18). Ngài là hiện thân của di dân, đã đồng hành với con người trong suốt thời gian rao giảng công khai và mọi ngày cho đến tận thế (x. Mt 28,19-20). Các linh mục được mời gọi đến với anh chị em di dân bằng việc đồng hành, lắng nghe những thao thức, “chữa trị những vết thương, xoa dịu chúng bằng dầu ủi an, băng bó chúng bằng Lòng Thương xót, và chữa lành chúng bằng tình liên đới và sự kính trọng có tính bổn phận…Chúng ta hãy mở cặp mắt mình ra để nhìn thấy những nỗi khốn cùng của thế giới này, những vết thương của anh chị em mà họ đang bị thách đố trong việc lắng nghe tiếng kêu cứu của họ.”
3. LINH MỤC - CON NGƯỜI CỦA SỨ VỤ
Mục đích của chức linh mục thừa tác là phục vụ Giáo hội, phục vụ dân Chúa, nghĩa là phục vụ chức tư tế cộng đồng: “Như Công đồng ghi nhận, ‘ân huệ thiêng liêng mà các linh mục đã lãnh nhận ngày thụ phong chuẩn bị cho các linh mục không phải đi vào một sứ vụ hạn hẹp và gò bó, nhưng đi vào một sứ vụ cứu độ có tầm cỡ phổ quát, ‘cho đến tận cùng bờ cõi trái đất’; thật ra bất cứ thừa tác vụ linh mục nào cũng thông phần vào những chiều kích phổ quát của sứ vụ được Chúa Kitô giao phó cho các Tông đồ” (PDV, số 18). Vì thế, người linh mục sẽ thi hành sứ vụ nhân danh Chúa Kitô (in persona Christi). Do sự thiếu hụt ơn gọi tại các quốc gia cần lắm các linh mục sẵn sàng nhận lấy bất kỳ sứ mạng nào cần thiết vì lòng yêu mến Chúa: “Do bởi chính bản chất của thừa tác vụ, các linh mục cần phải được thấm nhuần và thôi thúc bởi một tinh thần thừa sai xâu sa và bởi ‘tinh thần công giáo thực sự sẽ giúp các linh mục quen vượt khỏi những ranh giới riêng của giáo phận mình, quốc gia mình và lễ chế mình để rồi đáp ứng nhu cầu của Giáo hội toàn cầu, sẵn sàng tận đáy lòng rao giảng Tin mừng cho đến tận cùng bờ cõi trái đất” (PDV, số 18). Khi ý thức được như thế về sự hiệp thông liên Giáo hội, cùng với sự dấn thân quảng đại, điều đó có thể dẫn đến việc phân phối giáo sĩ một cách công bằng (x. PDV, số 74).
KẾT LUẬN
John Donne (1572-1631), văn hào nước Anh, đã có câu nói thời danh: “Không ai là một hòn đảo.” Chúng ta có sống là sống cho, sống với, sống vì người khác. Trước hết, linh mục là con người của đối thoại. Cuộc đối thoại ý nghĩa và tuyệt vời được thể hiện nơi hy lễ dâng trên bàn thờ mỗi ngày. Chính qua cử hành phụng vụ, linh mục được kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa Ba Ngôi. Vì thế, Mẹ Têrêsa Calcutta đã ghi lại trong phòng thay áo lễ của linh mục rằng: “Xin cha dâng Thánh lễ này như Thánh lễ đầu tiên, như Thánh lễ cuối cùng và như Thánh lễ duy nhất chỉ một lần trong đời.” Do đó, có thể nói linh mục là sáng kiến của Thiên Chúa, và ơn gọi linh mục là mầu nhiệm.
Thứ đến, linh mục là con người của hiệp thông. Trong tình huynh đệ, linh mục mở ra tương quan hiệp thông với Giám mục của mình, hiệp thông với anh em linh mục và hiệp thông với dân chúng. Trong Tông huấn Pastores Dabo Vobis, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết: “Tự căn rễ, thừa tác vụ được phong ban mang ‘bản chất cộng đồng’ và chỉ có thể được hoàn thành như là ‘công trình tập thể’. Thừa tác vụ linh mục trước hết là sự hiệp thông, sự hợp tác thiết yếu và có trách nhiệm vào thừa tác vụ của Giám mục, trong việc chăm lo cho Giáo hội hoàn vũ và cho Giáo hội đặc thù và, cùng với Giám mục, làm thành một linh mục đoàn duy nhất trong khi phục vụ Giáo hội ấy.” (PDV, số 17).
Sau cùng, linh mục là con người của sứ vụ. Đức Thánh Cha Phanxicô, trong bài phát biểu kết thúc hội nghị với chủ đề “Các Mục Tử và Người Tín Hữu Giáo Dân Được Mời Gọi Cùng Nhau Tiến Bước” từ 16-18/2/2023, đã tỏ bày: “Tôi ước ao biết bao rằng, tất cả chúng ta có thể ấp ủ trong trí óc và tấm lòng của chúng ta về Giáo hội! Một Giáo hội hướng tới sứ mệnh, nơi mọi người hiệp lực và cùng nhau bước đi loan báo Tin mừng. Một Giáo hội gắn kết chúng ta lại với nhau qua việc chúng ta là Kitô hữu đã được rửa tội, chúng ta thuộc về Chúa Giêsu. Một Giáo hội được đánh dấu bởi tình huynh đệ giữa giáo dân và các mục tử, khi tất cả cùng làm việc với nhau mỗi ngày trong mọi lĩnh vực của đời sống mục vụ, vì tất cả họ đều đã được rửa tội. Tôi khuyến khích anh chị em cổ võ trong các Giáo hội của mình tất cả những gì anh chị em đã nhận được trong những ngày này, để cùng nhau tiếp tục canh tân Giáo hội và hoán cải truyền giáo,” và cùng nhau đi làm vườn nho cho Chúa (x. Mt 20,1-16).
x. Từ Điển Công Giáo Phổ Thông A-K, Nguyên Tác: Pocket Catholic Dictionary của John A. Hardon, s.j (New York: Image Books, 1985), tr. 338.
Công Đồng Vaticanô Ii, Hiến Chế Lumen Gentium: Chú Thích Sơ Khởi, số 2.
Frederick William Danker, ed., A Greek-English Lexicon of the New Testament and Other Early Christian Literature, Third edition (BDAG) (Chicago: University of Chicago Press, 2000).
x. Cv 2,42; Rm 15,26; 1 Cr 1,9; 10,16ab; 2 Cr 6,14; 8,4; 9,13; 13,13; Gl 2,9; Ep 3,9; Pl 1,5; 2,1; 3,10; Plm 6; Dt 13,16; 1 Ga 1,3.6-7.
x. Đgh. Gioan phaolô ii, Tông Huấn Christifideles Laici, số 18.
x. Công Đồng Vaticanô Ii, Hiến Chế Lumen Gentium, số 4.
Công Đồng Vaticanô Ii, Hiến Chế Lumen Gentium, số 2.
Công Đồng Vaticanô Ii, Sắc Lệnh Unitatis Redintegratio, số 1.
Năm 1908, mục sư Paul Wattson đang coi sóc một nhà thờ Anh giáo ở Graymoor, New York, đưa ra sáng kiến cử hành một tuần Tám Ngày cầu nguyện cho sự hiệp nhất Kitô giáo với sự hỗ trợ của các Giám mục Anh giáo và Công giáo, trong đó có Đức Hồng Y William O’Connell của Boston. Tuần Tám Ngày bắt đầu vào ngày 18 tháng Giêng, lúc bấy giờ là lễ Ngai Tòa Thánh Phêrô ở Rôma, và kết thúc vào ngày 25 tháng Giêng, lễ Thánh Phaolô Trở Lại.
Năm sau, mục sư Wattson và toàn thể cộng đoàn Anh giáo của ngài gia nhập Giáo hội Công giáo, và vào năm tiếp theo, tức là năm 1910, cựu mục sư Wattson đã thụ phong linh mục. Sáng kiến cử hành một tuần Tám Ngày cầu nguyện cho sự hiệp nhất Kitô giáo lan tràn nhanh chóng, và vào năm 1916, ĐGH Bênêđíctô XV, cổ vũ sáng kiến này trong toàn thể Giáo hội và tuần Tám Ngày này chính thức mang tên Tuần Cầu Nguyện cho Hiệp Nhất Kitô giáo. https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/lich-su-tuan-cau-nguyen-cho-su-hiep-nhat-kito-giao-31810, cập nhật ngày 26/01/2018.
Công Đồng Vaticanô Ii, Sắc Lệnh Unitatis Redintegratio, số 2.
đgh. Phanxicô, Tông Thư Desiderio Desideravi, số 65.
Luke Leuk Cheung, The Genre, Composition and Hermeneutics of James (Carlisle, PA: Paternoster, 2003), 181.
x. Công Đồng Vaticanô Ii, Hiến Chế Lumen Gentium, số 39.
Công Đồng Vaticanô Ii, Sắc Lệnh Ad Gentes, số 2.
đgh. phaolô vi, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, số 14.
đgh. Phanxicô, Tông Thư Desiderio Desideravi, số 30.
Công Đồng Vaticanô Ii, Sắc Lệnh Presbyterorum Ordinis, số 7.
x. Công Đồng Vaticanô Ii, Hiến Chế Lumen Gentium, số 23.
Công Đồng Vaticanô Ii, Sắc Lệnh Presbyterorum Ordinis, số 2.
Công Đồng Vaticanô Ii, Sắc Lệnh Presbyterorum Ordinis, số 7.
timothy m. Dolan, Linh Mục cho Ngàn Năm Thứ Ba, bản dịch của Lm. Trần Đình Quảng (Hà Nội: Nxb. Tôn Giáo, 2009), tr.112.
Cẩm Nang cho Thượng Hội Đồng Giám Mục về Tính Hiệp Hành 4.3, cập nhật ngày 24.10.2021.
x. Lm. Hà Văn Minh, Linh Mục Hồng Ân cho Nhân Loại: Suy Tư Thần Học về Chức Linh Mục Thừa Tác (Hà Nội: Nxb. Tôn Giáo, 2010), tr. 34.
Công Đồng Vaticanô Ii, Sắc Lệnh Presbyterorum Ordinis, số 8.
Công Đồng Vaticanô Ii, Sắc Lệnh Presbyterorum Ordinis, số 8.
Thánh Bộ Rao Giảng Tin Mừng cho Các Dân Tộc, Chỉ Nam Linh Mục, số 5h.
đgh. Phanxicô, Tông Sắc Misericordiae Vultus (11/4/2015), số 15.