Kỳ 2, phần 2: Bông hồng tử đạo bị lãng quên

Thứ năm - 16/01/2025 23:12
II. CUỘC TỬ ĐẠO CỦA CHỊ ANÊ HUỲNH THỊ THANH: BÔNG HỒNG TỬ ĐẠO BỊ LÃNG QUÊN
 
 Trước khi bàn về cuộc tử đạo của chị Anê Huỳnh Thị Thanh năm 1700, có lẽ sẽ không là một dư thừa khi chúng ta dành một chút thời gian để nhìn lại bối cảnh tổng quát về những cuộc bách hại tại Việt Nam vào cuối thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 18, đặc biệt, về nguyên nhân và hệ lụy của cuộc bách hại này.
 
  1. Tổng quan về lịch sử bách hại Công giáo tại Việt Nam:
 
 Chuyên đề về lịch sử bách hại, cấm đạo tại Việt Nam đã được nhiều tác giả đạo đời, đông tây, trong cũng như ngoài Kitô giáo nghiên cứu chuyên sâu và rộng khắp. Ở đây chỉ xin được trích lại những dữ liệu nghiên cứu của Đức ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ trong bài viết “Giáo Hội Việt Nam những thời kỳ bị bách hại và những sắc chỉ cấm đạo” (thời Trịnh – Nguyễn) để có một cái nhìn tổng thể; nhất là lịch sử và tiến trình xuất hiện các chỉ dụ cấm đạo tại Việt Nam trong thế kỷ 17-18:
 

 
1.1. Trong Nam, dưới thời các chúa Nguyễn (1615-1778): 8 Sắc chỉ
 
  • Chúa Sãi (Nguyễn Phước Nguyên, 1615) Sắc chỉ năm 1625.
  • Chúa Thượng (Nguyễn Phước Lan, 1635-1648) Sắc chỉ năm 1639 và 1644.
  • Chúa Hiền Vương (Nguyễn Phước Tần, 1648-1687) Sắc chỉ năm 1663 và 1665.
  • Chúa Ngãi Vương (Nguyễn Phước Trân, 1687-1691) Sắc chỉ năm 1691.
  • Chúa Minh Vương (Nguyễn Phước Chu, 1691-1725) Sắc chỉ năm 1700.
  • Chúa Võ Vương (Nguyễn Phước Khoát, 1725-1765) Sắc chỉ năm 1725.
 
 Cuộc bách hại dữ nhất vào năm 1665 là vì có người vu khống cho rằng: tượng ảnh Thánh Giá là hình ảnh vua Bồ Ðào Nha, do đó người theo đạo tức khắc là con dân của đế quốc Bồ. Chúa Hiền Vương nổi giận trục xuất hết mọi vị Thừa sai và sát hại dân lành, nhất là vào hai tháng giêng và tháng hai năm 1665: lần đầu tiên tung ba thiếu nữ (Gioana, Maria và Luxia) cho voi giầy chà!
 
1.2. Ngoài Bắc, dưới thời các chúa Trịnh (1627-1786): 17 Sắc chỉ
 
  • Chính Trịnh Tráng (1627-1658): 5 Sắc chỉ: năm 1629 lần đầu tiên tại Bắc Việt và các năm 1632, 1635, 1638, 1643.
  • Chúa Trịnh Tạc (1658-1682): 3 Sắc chỉ: năm 1658, 1663, 1669.
  • Chúa Trịnh Căn (1682-1709): 1 Sắc chỉ: năm 1696.
  • Chúa Trịnh Cương (1709-1729): 4 Sắc chỉ: năm 1709, 1712, 1721, 1722.
  • Chúa Trịnh Giang (1729-1740): 1 Sắc chỉ: năm 1736.
  • Chúa Trịnh Doanh (1740-1767): 2 Sắc chỉ: năm 1754, 1765.
  • Chúa Trịnh Sâm (1767-1782): 1 Sắc chỉ: năm 1773.…[36] (Hết trích)
 
  1. Nguyên nhân bách hại:
 
 “Bách hại” là câu chuyện dài muôn thuở của Hội Thánh Chúa Kitô như một “định mệnh” gắn liền giữa Hội Thánh và mầu nhiệm Vượt Qua của chính Chúa Kitô, Đấng sáng lập Hội Thánh, như Hiến chế Lumen Gentium khẳng định: “Cội nguồn và sự tăng triển của Giáo Hội được biểu thị bằng máu và nước chảy ra từ cạnh sườn rộng mở của Đức Giêsu chịu đóng đinh (x. Ga 19,34), và được tiên báo qua lời Chúa nói về cái chết của Người trên Thập Giá: “Phần tôi, khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32: bản Hy Lạp) (GH 3) (…). “Khi đang lữ hành trên trần gian, khi bước theo lối đường Người đi trong đau thương và bách hại, chúng ta kết hợp với những đau khổ của Người như thân thể kết hợp với đầu, cùng chịu thương khó với Người để được vinh hiển với Người” (x. Rm 8,17) (GH 7).

 
Bản chất hay căn tính Giáo Hội là như thế. Tuy nhiên, khi lữ hành giữa nhân loại, khi hội nhập vào một đất nước, một dân tộc, một nền văn hóa… Giáo Hội luôn phải đương đầu hay đón nhận những thách đố, loại trừ, bách hại… mang những cách thế hay đặc tính riêng, khách quan (do tự người ta) hoặc chủ quan (do tự chính mình); và đó chính là những yếu tố dẫn đến những nguyên do bách hại.
 
  1.  
  2. Thừa sai Sennemand giải trình 3 lý do bách hại cho ĐGH Clêmentê XI:
 “Trong số các lý do dẫn đến sự khăng khăng ấy của nhà vua, thì có: 
 
    •  
    • Lý do thứ nhất là ông ta yêu thích và quý trọng đạo thờ bụt thần, là đạo của tất cả tổ tiên ông ta và cũng là đạo cổ xưa nhất trong vương quốc. Tuy có nhiều sư sãi và chùa chiền trong vương quốc, nhưng vẫn có nhiều nhà sư người Trung Hoa trong cung điện của ông ta; ông ta cho xây nhiều ngôi chùa khác rất lớn và rất đẹp; ông ta rộng tay chi tiêu để mang từ Trung Hoa về những gì đẹp nhất dành cho các bụt thần.
 
    •  
    • Lý do thứ hai, đó là ông ta khinh khi đạo của chúng ta qua những gì chúng ta tin, và những gì bị đạo chúng ta cấm đoán: 
    • 1o Về việc đạo chúng ta tin một Chúa Ba Ngôi. Đã có lần ông ta vừa cười vừa nói, khi người ta bắt được các Kitô hữu, tại nhà thờ của Cha Pierre, thì các Kitô hữu khóc thương Chúa của họ bằng khóc thương ba người chết, cho nên phải có nhiều dây để trói cả ba người đó lại; ông ta còn nói với một vị quan lớn, từ chối giẫm lên các ảnh tượng, rằng vị quan ấy kính sợ một Thiên Chúa mà quan ấy không nhìn thấy và chẳng bao giờ nhìn thấy, chẳng làm được gì cho quan ấy vì ở quá xa; trong khi đó lại không sợ nhà vua mà quan ấy nhìn thấy, đang nói với ông, và sắp giết chết ông; ông đã từ bỏ đạo của nhà vua và của vương quốc, để đi theo một thứ đạo do các Cố tây tạo ra; 
    • 2o Về việc đạo cấm đoán, cụ thể: cấm thờ kính cha mẹ sau khi các ngài qua đời, không được cầu xin với các ngài không được cúng tế cho các ngài, cấm xua trừ ma quỉ và cấm không được có nhiều thê thiếp, trong khi không có một đạo nào khác cấm.
 
    • Lý do thứ ba: ông ta sợ có nhiều Kitô hữu ở nơi đây, những người mà châu Âu đến bắt tay với họ và chiếm lấy vương quốc. Chính ông chú của nhà vua, quan nội tả, chủ mưu gây ra cuộc bách hại, đã gieo điều ấy vào trong đầu nhà vua và, do không xin được nhà vua cho phép giết hết các thừa sai để cùng lúc làm biến mất đạo, đã cho bắt giam các ngài, đóng gông trên cổ, xích cùm vào chân, để làm cho các ngài chết dần chết mòn. Nhưng chính ông ta lại chết do bị xuất huyết não bốn hoặc năm tháng sau khi nổ ra cuộc bách hại, mặc dầu toàn bộ các sư sãi đã hết lời khấn vái.”[37].
 
    1. Những lý do theo nhận định của cha Nguyễn hữu Trọng trong tác phẩm “Nguồn gốc hàng giáo sĩ Việt Nam”:
 
“Sau khi vạch mặt kẻ xúi giục chính là ma quỷ, vốn ghen tị với việc mở rộng triều đại của Thiên Chúa, họ đưa ra những lý do đơn giản: người giáo hữu gây ra hạn hán hay lũ lụt. Phần lớn các lý do này đến từ những người cảm thấy mình bị thietj thòi trước đạo lý mới: nhà sư thấy chùa vắng vẻ, cung phi bị đe dọa sa thải, thái giám bị mất việc làm, kẻ xấu nết thấy nạn nhân thoát khỏi tay mình. Có những lý do khác đến từ sự bất cẩn của giáo hữu, họ đã khiêu khích người ngoại giáo, đập phá các tượng thần của những người này. Nhưng lý do thông thường nhất đưa đến sự thù nghịch của các chúa ở Đàng Trong cũng như Đàng Ngoài đối với các nhà truyền giáo và người giáo hữu, đó là họ bị thua trận trong cuộc chiến chống lại nhau, hoặc họ bị thất vọng vì người Bồ Đào Nha không trợ giúp như họ mong đợi, qua trung gian các nhà truyền giáo.
 
Có lẽ tất cả những lý do này giải thích tại sao vào thời kỳ này các cuộc bách hại còn nhẹ tay và số người tử đạo còn ít so với các cuộc bách hại ở thé kỷ 19, vốn rất tàn bạo và phổ biến vì có thêm lý do chính trị”[38].
 
    1. Một số các nguyên do khác:
          Chúng ta có thể điểm thêm một vài lý do khác:
 
  • Một cách khẳng định quyền uy của các triều đại phong kiến: Muốn tất cả phải răm rắp tùng phục như một “uy quyền tối thượng” (Thiên tử).
  • Một tư duy hẹp hòi từ sự kém hiểu biết và tinh thần bất bao dung: Não trạng “triết lý Khỗng Nho” là ưu việt, Phật giáo là chân chính số một[39]…, không còn tôn giáo nào, tín ngưỡng nào, văn hóa nào sánh bằng…
  • Một chọn lựa “bắt chước” cách hành xử của các triều đại phong kiến Tàu[40] và Nhật: các thông tin về sự bách hại từ hai đất nước này đã ảnh hưởng không nhỏ trên cách hành xử của các vua chúa thời Lê-Trịnh-Nguyễn-Tây Sơn…
  • Một tâm lý sợ hãi và mê tín dị đoan trước những xúi xiểm, xu nịnh của các bề tôi dốt nát, hẹp hòi, đố kỵ, cố chấp…[41].
  • Một nền thần học, giáo lý còn cứng nhắc, chưa hội nhập văn hóa, nhất là trong lãnh vực “văn hóa Á Đông” (Đặc biệt, với nghi lễ thờ kính tổ tiên, hay với những “phạm húy” trong từ ngữ kinh sách…)[42].
           
 Về cuộc bách hại năm 1698 và 1700 thời chúa Nguyễn Phúc Chu, xin xem thêm “Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian”[43].
 
  1. Cuộc tử đạo của chị Anê Huỳnh Thị Thanh: Bông hồng tử đạo bị lãng quên:
 
    1. Chứng từ về cuộc tử đạo của chị Anê qua thi phẩm “Inê tử đạo vãn”:
 
Đây chính là nội dung cốt lõi của khúc vãn trường thi “Inê tử đạo vãn”. Chúng ta cần đọc lại một vài trích đoạn trọng tâm nhất liên quan đến cuộc tử đạo của chị Anê Thanh:
 
3.1.1. Từ câu 143-160: Cuộc tra khảo của quan và niềm tin bất khuất của chị Anê:
 
Bay mà bỏ đạo Chúa trời,
Trở về đạo Phật, giày nơi ảnh này,
Thì tao thứ tội cho bay;
Chẳng thì tao giết bổ thây oan mình.  Nước nầy Chúa thánh thần minh.
Nào ai giữ đạo thiên sinh bao giờ, 
Chúa trời bay thật đạo vơ, 
Bỏ đi tao đặng thứ tha dong tình Chẳng thì tao giết bổ mình. 
Phước đâu chẳng thấy, tội tình nhuốc nha.
Inê đặt gối trình qua :
Chúng tôi giữ đạo Chúa cha nhân từ, 
Thật đàng công chính chẳng tư
Tôi đâu dám bỏ công phu ngãi người.
Mặc ông tha giết hai lời ;
Tôi thà chịu chết, cõi trời nên công. 
Giết tha thì mặc lượng ông, 
Kim thạch là lòng chẳng chậy mỗ phân…
 
3.1.2. Từ câu 173-194: Cha Laurent nghe tin em gái bị án tử muốn “đồng tử cùng em” nhưng chị Anê khuyên cha hãy sống để chăm sóc cho đoàn chiên:
 
Nầy đoạn Loren về sau.
Nghe tin em đã chịu âu tử hình, 
Viếng em an ủi tâm tình,
Mới toan liều mình chịu với cùng em.
Đồng sinh đồng tử cho êm!
Tôi xin trọn ngãi Chúa thêm sức cùng.
Anh em dốc chí một lòng. 
Sinh tử đạo đồng em hỡi Inê! 
Từ rày ta một đặng về, 
Anh sao em vậy chớ hề tới lui. 
Inê lòng lại ngùi ngùi, 
Khuyên cha, cha hãy nghe tôi kẻo lầm, 
Nước nầy đạo Chúa ngăn cầm, 
Ngày sau giáo hữu mê tâm nguôi lòng, 
Cha mà toan chịu tử đồng, 
Ắt là bổn đạo lạt lòng ngãi nhơn, 
Chẳng bằng ở lại thì hơn,
Giữ gìn xem sóc mọi nơi linh hồn; 
Trước là dạy dỗ cháu con,

Anh em thơ dại thì còn có cha:
Cho nên ý Chúa nhiệm xa, 
Dong thầy chẳng bắt, sao cha chẳng bàn?...
 
3.1.3. Từ câu 245-260: Cùng với bức thư của “Đức thầy” (Đức cha Pérez)[44] khuyên “ở lại chăm sóc mục vụ cho bổn đạo”, cha Laurent chấp nhận những lời van xin của em gái:
 
Inê thưa thốt chường lời:
Xin cha nghe lịnh Đức thầy bề trên. 
Nầy lời bổn đạo lại khuyên.
“Cha chớ xa miền bỏ chúng mồ côi, 
Xin cha ở lại cùng tôi, 
Cầu xin Chúa để cha tôi lại cùng.” 
Inê can gián hết lòng.

Thương em cha thác uổng công chăng là, 
Ấy lời thế luận gần xa;
Em quì trăm lạy xin cha nhậm lời.
Loren lòng động ngùi ngùi,
Thảm thương mọi nỗi em ôi anh về.
Anh giã Duminh Inê, 
Rày em ở lại, anh về cho an, 
Đêm ngày cầu nguyện dưới bàn, 
Xin hai em đặng làm quan cõi trời…
 
3.1.4. Từ câu 340-363: Chị Anê bị tra khảo lần hai và kiên vững tuyên xưng đức tin, sẵn sàng bị giam vào ngục và bỏ đói cho chết:
 
Bay mà bỏ đạo Chúa trời,
Trở về đạo Phật đạp nơi hình nầy, 
Thì tao thứ tội dong bay,  
Chẳng thì tao giết bổ thây oan mình.
Inê thưa thốt phân minh :

Đạo này thờ Chúa thiên sinh tạo đời, 
Có công sinh đất dựng trời, 

Tạo thành nhơn vật, mọi nơi thế nầy. 
Chúng ta phải giữ đạo ngay. 

Phật người thiên trước cõi tây chẳng thờ. 
Ảnh nầy hình Chúa tôi xưa,
Khi nào thờ phượng bây giờ đạp đi;
 
Tôi xin chịu chết chẳng nề,
Trả công ơn Chúa công kia ngãi nầy,
Ơn ông lượng rộng xét suy, 
Đỗi nào tôi chịu, làm chi nữa là. 

Quan trên trấn thủ truyền ra,
Ông nghè mới dạy chớ tha loài nầy.
Bắt vào cầm ngục chớ chây,
Cấm cho ăn uống, truyền vây giữ gìn.
Đứa nào nhịn đói chẳng đang.
Đam [đem] ra phạm ảnh xử xong cho về.
Đứa nào lòng cứng chẳng nghe,
Thì cầm cho chết bỏ thây ra ngoài.

 
3.1.5. Từ câu 510-524: Chị Anê qua đời và cha Laurent cùng giáo dân rước xác chị:
 
Tứ tuần lục nhựt đến kỳ, 
Duminh còn khỏe Inê gây mòn, 
Gượng mà kêu Chúa hơi don, 
Mượn em kêu giúp kẻo non hơi rày,
Làm thinh thôi mới chắp tay, 

Để qua trên ngực Chúa rày rước đi. 
Giữa ngày bảo lụt đang thì, 
Bỗng liền tạnh nắng tư vi như tờ.

Tin cho dòng họ thân sơ, 
Ai ai đều đến táng đưa xác người, 
Hay tin bổn đạo tới nơi.

Loren đi trước các người đi sau, 
Xin quân mở cữa cho mau,

Quân quan xem thấy mọi nơi chói lòa, 
Tức thì đam [đem] xác người ra,…

 
3.1.6. Từ câu 540-561: Cha Laurent cảm tạ hồng ân tử đạo của em gái và sáng tác bài vãn để nêu gương nhân đức rạng ngời của em cho dòng tộc cũng như cho toàn thể Dân Chúa:
 
Linh hồn tới chốn lưu li,
Thanh nhàn tự tại oai nghi rỡ ràng.
Công danh ghi tạc bia vàng, 

Trong đời có một nên gương trong trời.
Chép làm một bổn để đời,
Truyền cho thiên hạ người người học theo. 
Thấy thì hầu đả cheo leo,
Đội ơn Chúa cả giúp nghèo cho an. 
Chẳng qua thiên vận tuần hoàn, 
Bỉ thôi lại thới, vui hơn khắp nhà. 
Cầu xin cùng Chúa giúp ta, 

Giữ gìn mười giái kẻo sa địa hình, 
Hạnh nầy thì đã phân minh, 
Xem cho tường tận dâng kinh nguyện cầu. 
Phép trong lẽ đạo nhiệm mầu,

Ai mà học đặng mới hầu thơm danh.
Bia vàng tạc chữ chí linh, 
Để truyền sách ấy nối dòng đời sau,
Inê là hiệu làm đầu. 

Hiền kia thánh nọ xem làu bổn căn, 
Giáo nhơn học lấy làm lòng, 
Giữ trong mười giái thì thông lẽ mầu.
 
3.2. Những chứng từ của các thừa sai về cuộc tử đạo của chị Anê:
 
 Nếu chỉ dừng lại nơi các chứng từ của cha Laurent Huỳnh Lâu viết về cuộc tử đạo của em mình là Anê Huỳnh Thị Thanh thì độc giả thời nay có thể cho là mang tính “chủ quan”. Tuy nhiên, những gì được ghi trong “Inê tử đạo vãn” lại hoàn toàn trùng khớp với các chứng từ của các thừa sai đương thời.
 Và sau đây là các chứng từ của các thừa sai về cuộc tử đạo của chị Anê Huỳnh Thị Thanh:
 
3.2.1. Chứng từ của thừa sai Forget trong thư gởi Đức cha Laneau cuộc bách hại tại Ninh Hòa – Nha Trang trong khoảng thời gian 1691-1700:
 
“Người ta không hề bách hại tại Nha-ru (Ninh Hòa); nhưng người ta bắt đầu bách hại rất nhiều ở Nha Trang; và nếu quan lưu thủ không đến để kết thúc việc ấy, thì con không biết điều gì sẽ xảy ra; đã có rất đông những người chối đạo và giao nộp tượng ảnh cùng các tràng hạt của họ; tuy nhiên đã có một người hai lần chịu đau khổ một cách quả cảm, và chứng tỏ rất sẵn sàng chịu đau khổ cho đến chết; nhưng các Kitô hữu kiên cường như thế, như lời ngôn sứ đã nói, “như những quả ô-liu còn sót lại trên cây sau khi cây đã bị đánh đi đánh lại nhiều lần”[45].
 
3.2.2. Chứng từ của thừa sai De Sennemand gởi cho Ban Giám đốc chủng viện thừa sai: về cuộc “Bách hại tại Đàng Trong năm 1700”[46]:
 
“Cuộc bách hại này khởi đầu ngày 13.03.1700. Trước tiên, nhà vua sai lính đi khắp vương quốc để bắt tất cả các cha. Các cha tại kinh đô lúc đó là năm người: ba cha dòng Tên là cha Antoine Arnedo, cha Joseph Candone, cha Pierre Belmonte, và hai cha của chúng tôi là cha Langlois và cha De Cappony (Tức linh mục Hội Tha Sai Paris). Họ là những người bị bắt đầu tiên.
 
Tiếp theo đó người ta đến Hội An, là nơi nằm giữa vương quốc. Tại đây, người ta bắt giữ cha Nicolas de Fonseca, linh mục triều giáo phận Macao và là đại diện phân nhiệm (Vicaire de Vara), cha Mauro người Đàng Trong và tôi (Pierre de Sennemand). Chúng tôi bị dẫn về triều đình với các người khác.
 
Sau đó, người ta tới Nha Ru nằm phía cuối cùng vương quốc. và người ta bắt cha Féret, cha D’Estréchy, và theo lời vài người kể lại, thầy Charles Gouge từ Xiêm la sang để chịu chức thánh. Rồi người ta vào Đồng Nai là miền tận cùng của vương quốc, người ta bắt cha Pirès dòng Tên. Cha này và các cha khác tại Nha Ru không hề bị dẫn đi nơi nào cả. Đức cha (Pérez), cha Forget, cha Ausiès, cha Laurent người Đàng Trong, và cha Christophe (Cordeiro) dòng Tên, thì không hề thấy xuất hiện. (…).
 
Còn về những nguyên nhân cuộc bắt đạo này, chúng tôi chẳng biết gì chắc chắn. Chúng tôi biết rõ rằng các sư sãi thường xuyên ca thán với nhà vua rằng chùa chiền của họ gần như bị bỏ hoang. Chúng tôi còn biết rõ rằng nhiều quan lại cũng hay kể cho nhà vua chuyện Nhật Bản (cấm đạo). Chúng tôi còn biết rõ rằng nhà vua này là người rất sùng đạo Phật. Nhưng để biết đúng nguyên nhân cuộc bách hại thì chúng tôi chưa biết chút nào”[47].
 
3.2.3. Chứng từ của thừa sai Estréchy về các vị tử đạo tại Đàng Trong do cuộc bách hại năm 1700:
 

“Sau đây là danh sách những người đã chịu đau khổ vì Chúa Giêsu Kitô trong vương quốc này, vào năm 1700, đầu thế kỷ thứ 18. Tất cả họ là người Đàng Trong: 15 người đàn ông và 3 người đàn bà đều đã chết vì bị bỏ đói. An-tôn Ki, Vinh-sơn Luc, Ta-đê-ô Vou, Phaolô Lo…. Lô-răng HOANH, 32 tuổi; An-tôn AN, 69 tuổi; Anê THANH, em gái của Cha  Laurent; I-nha-xi-ô Lu, Agata Cu, Phê-rô Tam… Phao-lô KIEN, chưởng cơ 5 cơ đội lính; Mi-ca-e VAN, lính, dòng dõi quý tộc, 30 tuổi; Bêna-đô GAN, lính; An-rê BÉ, thiếu niên cắt cỏ cho voi… Gioan HUONG, em trai Cha Manuy-en, vừa qua đời năm ngoái; Gioan BÉ và một phụ nữ con không biết tên; THAY, quan viên, chết rũ tù…"48".
 
3.2.4. Chứng từ của thừa sai Gouge trong thư gởi thừa sai Braud: về việc chị Anê bị bắt cùng với một số linh mục thừa sai và giáo dân vào ngày 8.12.1700 tại Nha Trang:
 

“Buổi tối ngày 8, mọi sự đã sẵn sàng, người ta thông báo với chúng con là sáng mai đến tìm chúng con tại nhà những người giám sát chúng con, vì thế chúng con phải cẩn thận để không bỏ lỡ. Người ta đưa chúng con đi, gông đóng trên cổ, các viên cai đội đi đằng trước chúng con, và bốn chúng con theo sau họ. Dọc đường có thêm một người em trai và một người em gái của Cha Laurent, cùng một cậu trai trẻ có họ hàng với ngài, cũng đã từng là học trò của ngài, thế là chúng con tăng lên bảy người. Mỗi một chúng con có một người lính đi kèm, một tay nắm lấy đầu chiếc gông, một tay nắm chuôi gươm còn để nguyên trong vỏ. Cứ vậy mà người ta đưa chúng con đến trình diện đại quan Thouang, sau đó người ta cho chúng con ngồi xuống đất, dịch sang bên một chút, trong lúc người ta giải quyết một vài vụ việc khác. Tiếp đến người ta lần lượt gọi tên từng người, và đọc bản án nhà vua ban hành, ra lệnh cho các Kitô hữu nào không chịu giẫm đạp các ảnh tượng, đều bị đưa vào một nơi đã được chỉ định, để bị giam đói cho đến chết cùng với các linh mục. Một người viết mướn đến chỗ chúng con để truyền đạt cho chúng con bản án ấy bằng cách nhắc lại từng lời và từng mức phạt cụ thể”[49].
 
3.2.5. Chứng từ của thừa sai De Sennemand trong thư gởi các Giám mục đại diện Tông tòa: về cuộc làm chứng oai hùng của chị Anê Huỳnh Thị Thanh:
 

“Con sẽ kể lại với quý Đức Cha một vài tình tiết đặc biệt trong câu chuyện về bà Anê, em gái của Cha Laurent. Người phụ nữ trẻ trạc 30 tuổi ấy có hai đứa con: một 7 tuổi và một khác 10 tuổi, chị ấy đang ở nhà một mình với hai con. Khi chị bị bắt, chồng chị đang có việc phải đi xa. Hai người con thấy mẹ bị bắt thì cứ đi theo mẹ khắp nơi, việc này khiến chị bối rối hơn cả lo cho bản thân và không biết phải làm sao. Cuối cùng, sau khi đến nhà tù, chị quyết định cho chúng tiền để ra chợ mua trái cây, và trong lúc đó, chị đi vào nhà tù. Hai đứa trẻ, sau khi ra chợ và sử dụng hết số tiền mẹ cho, liền quay về tìm mẹ ở chỗ chúng đã rời đi, và không tìm thấy nên chúng bắt đầu khóc la khiến mọi người thương cảm, và đánh động đến lòng dạ của chính những người lính, cho đến khi những người họ hàng với hai đứa trẻ, sau khi được thông báo, đến tìm và dắt chúng ra Kinh thành.

Mấy hôm sau, người chồng trên đường trở về, lòng đau như cắt và không thể chịu đựng hơn được nữa, nên cùng hai con đi gặp vợ; anh vừa nói chuyện vừa khóc nấc lên, đồng thời chỉ cho vợ thấy hai đứa con. Vợ anh, nhẫn nại chờ cho chồng nói hết, mới trả lời một cách quả cảm: “Chồng em ơi, em xin anh thôi đừng phiền não nữa. Anh hỏi em tại sao em lại ở đây. Vâng! đó chỉ là nhờ ơn Chúa mà thôi, và là hạnh phúc lớn nhất, vinh dự cao cả nhất có thể xảy đến cho em, cho anh và cho các con nữa. Vậy sao anh lại run sợ? Em xin anh một lần nữa hãy ngừng khóc lóc và chỉ chăm lo cho hai con của chúng ta mà thôi, nuôi dạy chúng biết kính sợ Chúa, tin rằng em sẽ nhớ đến anh và các con trên thiên đàng, nơi mà em hy vọng sớm nhận được triều thiên tử vì đạo.” Câu trả lời hết sức lạ lùng ấy đã an ủi và khích lệ người chồng rất nhiều, đến nỗi anh không còn buồn sầu và làm cho vợ đổi ý nữa, anh còn động viên chị hơn nữa, bằng cách nói với chị là vì chị đã đến đấy rồi, và anh đã thấy chi rất quyết tâm và hoàn toàn phó thác vào Chúa, nên ngày nào anh cũng sẽ cầu nguyện để chị bền vững đến cùng, còn anh thì lo chăm sóc các con và không nói năng gì thêm nữa, vì sợ làm chị đau lòng hoặc sao nhãng việc cầu nguyện và nói chuyện với Chúa.”[50].

 
3.2.6. Chứng từ của thừa sai Gouge trong thư gởi thừa sai Braud: về việc chị Anê có lòng thương xót với những kẻ làm khổ mình trong ngục và sự tự hào của cha Laurent về nhân đức anh hùng của em gái:
 

“Bà đã xin Cha Laurent, anh bà, đem một nghìn đồng đến cho mấy người lính đã canh gác bà đang lúc bà bị đeo gông, và khi trao cho tiền cho mấy người lính, Cha Laurent nói lại là do bà bảo, nên tất cả họ gần như muốn khóc. Bà đã sống suốt cuộc đời mình rất đạo đức; Cha Laurent và bà rất thương yêu nhau. Người ta không so ví được niềm vui của Cha Laurent về cái chết hết sức vinh quang của người em gái vô cùng thánh thiện của ngài.” (Cha Estréchy, V.K.H.T.G.H.N., tập 725, tr. 66)[51].
 
3.2.7. Chứng từ của thừa sai Gouge trong thư gởi thừa sai Braud: về việc chị Anê kết thúc của lễ hy sinh vào sáng ngày lễ Chúa Giáng Sinh (25.12.1700) và cuộc an táng chị sau đó:
 

“Ngày 25, ngày sinh nhật Đấng Cứu Độ, vào lúc 4 giờ sáng, bà Anê, còn gọi là bà Bouy, người em thân yêu của Cha Laurent, hoàn thành hy tế của mình và bay lên với Thầy chí thánh, mà thánh danh dịu dàng của Người được bà thốt lên cho đến hơi thở cuối cùng]52].
 
Phần thi hài bà Anê Bouy, Cha Laurent, anh bà, vì không có nhà ở đây, nên bà Mien đã nói hoặc xin ngài cho đưa về nhà bà; (…). Khi một loạt sự những cố như thế trôi qua, Cha Laurent bỏ nơi đây để đi đến Phú Yên hoặc Quảng Nghĩa tìm Đức Cha Bugie và Cha Ausiès. Thân nhân của bà Anê đã đưa thi hài của bà về Nha Trang, ở đấy họ canh giữ thi hài bà và chờ vị thừa sai trở lại.”[53].

 
3.2.8. Chứng từ được thừa sai L.E. Louvet lược tóm trong tác phẩm: Cochinhine Religieuse:
 

“Ngoại trừ các binh lính bị chém đầu, tất cả các vị tử đạo trong thời kỳ này đều phải chịu đựng cực hình kinh khiếp với tất cả sự ghê rợn của nó. Nhưng, giữa những người tử đạo anh hùng của giáo đoàn Đàng Trong, không ai để lại một kỷ niệm sống động cho bằng một phụ nữ tên là Anê, người đã dũng cảm chịu đựng thử thách này cùng với một số thân nhân của bà.

Một nhà thơ Công giáo đã viết về những đau khổ của bà bằng những vần thơ rất đẹp; và cho đến ngày nay, câu chuyện cảm động về cái chết của chị Anê và các bạn đồng hành của bà vẫn được đọc lên trong các trường học, hoặc hát vào buổi tối trong những buổi họp mặt gia đình.

Anê là em gái của cha Laurent, vị linh mục bản xứ mà tôi đã nhắc đến ở trên. Bị bắt cùng với linh mục này, có một người anh khác của bà tên thánh Đa Minh, và một người anh em họ tên là Anrê, cả bốn người đã bị kết án chết đói vì không chối đạo, và bị giam chặt trong một ngục tối cùng với các thừa sai Gouges và Destréchy, những người đồng nghiệp của chúng tôi, cũng bị quan tòa kết án cùng một hình phạt.”[54].
 
Khi đối chiếu những chứng từ “rõ như ban ngày” trên của các thừa sai đương thời với những gì được cha Laurent diễn đạt lại bằng lời thơ “vãn”, chúng ta hoàn toàn được thuyết phục để xác tín rằng: “Inê tử đạo vãn” chính là thiên trường ca của người anh dành cho em gái vì cuộc tử đạo anh hùng của người em thân yêu. Và đó lại là nội dung, chủ đích và nét đặc trưng xưa nay của thể loại thơ “vãn”, một loại hình thơ cổ dùng để cảm thương, tán thán, trân trọng dành cho một người thân lìa thế. Cha Laurent cảm khái về em gái Anê Thanh tử đạo với “Inê tử đạo vãn” hay Ngọc Hân công chúa buồn thương tiếc xót phu quân Quang Trung Nguyễn Huệ ra đi với “Ai tư vãn” đều có chung một phong cách, một nội dung, một chủ đích!

Thật ra, tiêu đích quan trọng mà bài khảo luận này nhắm đến không phải để biện minh cho các lập trường liên quan đến vấn đề chị Anê có phải là một Kitô hữu Đàng Trong chịu tử đạo năm 1700, là em ruột của cha Laurent không? Chị có phải là một giáo dân tử đạo thật không hay chỉ là một “chuyện hư cấu trong thơ”? Và cha Laurent cũng vậy; là linh mục phục vụ Dân Chúa, tài ba xuất chúng trong chuyên môn kiến thức và đầy nhân ái sâu nặng cảm tình với những người thân… hay chỉ là một nhân vật huyền thoại hư cấu trong văn chương nghệ thuật? Những vấn nạn này đã được giải đáp cách thỏa đáng phần nào với bao nhiêu chứng từ cụ thể, minh bạch và chắc chắn trong kho tàng sử liệu trong và ngoài Giáo Hội như đã nêu.

 Đúng vậy, điều quan trọng nhắm đến chính là làm sống lại một gương mẫu chứng nhân của một “nữ giáo dân anh hùng” mà gần như hơn 300 năm qua vẫn còn bị lớp bụi thời gian phủ lấp, nếu không muốn nói, là một “bông hồng tử đạo bị lãng quên”! Chị Anê Huỳnh Thị Thanh và chứng từ tử đạo của chị phải là một mẫu gương đáng để Giáo Hội Việt Nam trân trọng và thế hệ con cháu hôm nay noi theo bắt chước. 

Cùng với chủ đích mang tính đạo đức và hiếu nghĩa đó, cũng cần phải nêu bậc giá trị văn hóa, văn chương của khúc trường ca “Inê tử đạo vãn” trong hành trình hình thành, xây dựng, củng cố và kiện toàn chữ Quốc ngữ. Và đây chính là nội dung hay vấn đề thứ ba của thiên khảo luận này.


 
 

[36] ĐỨC ÔNG VINH SƠN TRẦN NGỌC THỤ, Giáo hội Việt Nam những thời kỳ bị bách hại và những sắc chỉ cấm đạo, website catholic.org.tw
 
[37] ADRIEN LAUNAY, Histoire de La Mission de Cochinchine, sđd, tr. 537.
[38] NGUYỄN HỮU TRỌNG, Nguồn gốc hàng giáo sĩ Việt Nam, sđd, tr. 74-75.
[39] X. CAO THẾ DUNG, Việt Nam Công giáo sử tân biên (1533-2000), Quyển II, Cơ sở truyền thông Dân Chúa xuất bản 2002, Phật giáo và những nguyên nhân Minh Vương diệt đạo, tr. 848-856.
[40] SĐD, tr. 830-831.
[41] X. ADRIEN LAUNAY, Histoire de La Mission de Cochinchine, sđd, tr. 441.
[42] X. CAO THẾ DUNG, Việt Nam Công giáo sử tân biên (1533-2000), Quyển II, sđd, tr. 793-798.
[43] BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian, sđd, tr. 153-155.
[44] Đây là thời Đức cha FRANCISCO PÉREZ làm Đại diện Tông tòa Đàng Trong (1691-1728). Về ĐC Pérez và khái quát về về hiện tình mục vụ của Giáo phận Tông tòa Đàng Trong, xin xem “Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian”, sđd, từ trang 151- 159.
[45] ADRIEN LAUNAY, Histoire de La Mission de Cochinchine, sđd, tr. 397.
[46] X. ĐÀO QUANG TOẢN, Lịch sử Giáo phận Đàng Trong, sđd, tr. 98-109.
[47] ADRIEN LAUNAY, Histoire de La Mission de Cochinchine, sđd, p. 440-441. 48 SĐD, tr. 480-481.
[48] SĐD, tr. 461.
[49] SĐD, tr. 468-469.
[50] SĐD, tr. 465, ghi chú 1.
[51] SĐD, tr. 465.
[52] SĐD, tr. 466-467.
[53] LOUIS-EUGÈNE LOUVET, La Cochinchine Religieuse, Tập I, Paris 1885, tr. 336.

Tác giả: Giuse Trương Đình Hiền

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

  Ý kiến bạn đọc

Chúng tôi trên mạng xã hội

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây