
GIÁO HỌ BIỆT LẬP TRÀ CÂU
(Bổn mạng : Mẹ Hồn Xác Lên Trời)
I. VỊ TRÍ
Giáo họ biệt lập Trà Câu là một giáo họ ở vùng cực Nam tỉnh Quảng Ngãi, bao gồm địa bàn thị xã Đức Phổ. Trung tâm sinh hoạt của giáo họ là nhà thờ Trà Câu, thôn Đông Quang, xã Phổ Văn, thị xã Đức Phổ (theo địa danh cũ).
II. ĐỊA LÝ
Ngày 10 tháng 1 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 867/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Quảng Ngãi (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 2 năm 2020). Theo đó: Thành lập thị xã Đức Phổ trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Đức Phổ.
Địa hình thị xã Đức Phổ khá phức tạp, đa dạng, bị chia cắt mạnh, núi và đồng bằng xen kẽ, một số nhánh núi của dãy Trường Sơn chạy ra tận bờ biển. Có 3 dạng địa hình:
Vùng Bắc sông Trà Câu có địa hình tương đối bằng phẳng, là vùng trọng điểm sản xuất lúa. Vùng Nam sông Trà Câu đến núi Dâu có núi và đồng bằng xen kẽ, có nhiều sông, suối, địa hình phức tạp, chia cắt mạnh, độ dốc giảm từ Tây sang Đông, thường bị ngập úng vào mùa mưa. Vùng Nam núi Dâu đến đèo Bình Đê chủ yếu là đồi núi và có một số dãy núi chạy suốt ra bờ biển, có một ít đồng bằng nhỏ hẹp nằm cạnh các suối và xen kẽ với núi, không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.
Sông Trà Câu được coi là một trong những con sông lớn của tỉnh Quảng Ngãi, số còn lại chỉ là sông suối nhỏ với đặc điểm chung là diện tích lưu vực hẹp, sông nhỏ, lòng dốc. Sông Trà Câu bắt nguồn từ vùng Đông Nam huyện Ba Tơ, đoạn trên gọi là sông Ba Liên hay sông Vực Liêm, chảy theo hướng Tây Tây Bắc đến Đông Đông Nam rồi đổ ra cửa biển Mỹ Á. Cửa biển Mỹ Á là chỗ ghe thuyền ra vào tránh bão, trao đổi hàng hóa và dịch vụ nghề cá. Cá, mắm từ cửa Mỹ Á theo đường ghe kinh, ngược dòng Trà Câu đến với vùng trung du và thượng nguồn, phía Minh Long, Ba Tơ:
Nắng đò ngang nắng về Mỹ Á
Lộng gió nồm nam thuyền cá quay về
Anh với em nặng mối tình quê
Thương nhau chung thủy như đôi ghe chung buồm.
Ở cực Nam của thị xã Đức Phổ có cửa Sa Huỳnh là nơi thông ra biển của đầm Nước Mặn. Luồng tàu thuyền vào cửa Sa Huỳnh có hướng đi dích dắc qua một cửa biển hẹp, địa hình đáy luồng dẫn biến động thay đổi về độ sâu. Sa Huỳnh là nơi giao lưu buôn bán sầm uất giữa nguồn và biển, giữa Mộ Đức và Đức Phổ, giữa Quảng Ngãi với Bình Định. Sa Huỳnh là nơi sản xuất muối lớn nhất của tỉnh Quảng Ngãi.
Muối Sa Huỳnh ba năm còn mặn
Cá Sa Huỳnh có vạn nào hơn.
Đức Phổ có bờ biển khá dài và có hai cửa biển, thuận lợi cho ngư nghiệp phát triển. Ngư nghiệp xưa nay được xem là một thế mạnh của thị xã. Từ xưa, nghề cá luôn đóng một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế của nhân dân Đức Phổ. Thủy sản là một ngành kinh tế mũi nhọn của Đức Phổ. Đức Phổ luôn đứng đầu về sản lượng thủy sản so với các huyện khác, có số tàu thuyền cao nhất.
Địa bàn thị xã Đức Phổ từng có lớp cư dân cổ là chủ nhân của nền Văn hóa Sa Huỳnh. Lớp cư dân này sống ở ven biển bằng nghề chài lưới và một số ít làm ruộng. Văn hóa Sa Huỳnh là một nền văn hóa được xác định ở vào khoảng năm 1000 TCN đến cuối thế kỷ II. Nền văn hóa Sa Huỳnh là một trong ba cái nôi cổ xưa về văn minh trên lãnh thổ Việt Nam, cùng với Văn hóa Đông Sơn và Văn hóa Đồng Nai tạo thành tam giác văn hóa của Việt Nam thời kỳ đồ sắt. Ngày 29 tháng 12 năm 2022, Di tích khảo cổ Văn hóa Sa Huỳnh được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam công nhận là di tích quốc gia đặc biệt. Tiếp theo là cư dân Chămpa, lớp cư dân này tiếp tục sống ở ven biển và co cụm lại theo từng xóm nhỏ. Một số nơi trong thị xã ngày nay còn rải rác một số mộ của người Chăm xưa. Cuối cùng là cư dân Việt định cư trên địa bàn thị xã Đức Phổ từ khá sớm (thế kỷ XV - XVI). Họ sống chủ yếu bằng nghề nông, ngư nghiệp, diêm nghiệp, buôn bán, mang đặc trưng của văn hóa vùng ven.
Đặc biệt xung quanh đầm An Khê là nơi tập trung các di chỉ về Văn hóa Sa Huỳnh và về người Chăm. Đầm An Khê là đầm nước lớn nhất tỉnh Quảng Ngãi, nằm ở vùng ven biển Sa Huỳnh, giáp ranh giữa 2 phường Phổ Khánh và Phổ Thạnh. Khu vực chung quanh đầm là những di chỉ rất có giá trị của nền văn hóa Sa Huỳnh. Theo các nhà nghiên cứu, đầm An Khê là mắt xích quan trọng nhất trong quá trình phát sinh, phát triển và lan tỏa của văn hóa Sa Huỳnh trong quá khứ. Nơi đây là nguồn cung cấp nước ngọt cho sinh hoạt, khai thác thủy sản và sản xuất nông nghiệp của cộng đồng cư dân Sa Huỳnh cổ. Vì vậy, cụm di tích khảo cổ và không gian sinh tồn của văn hóa Sa Huỳnh tại khu vực đầm An Khê là những yếu tố không thể thiếu trong việc nhận diện văn hóa Sa Huỳnh.
Không chỉ có những di chỉ văn hóa Sa Huỳnh, quanh khu vực đầm An Khê cũng đang tồn tại nhiều di chỉ về người Chăm cổ. Cách đầm An Khê không xa là Vũng Bàng, một vũng biển thuộc khu phố Thạnh Đức 1, phường Phổ Thạnh. Trên bờ biển, phía Tây Bắc có tảng đá cao chừng 2m, mặt đá phía Nam (ngang 1,2m, dọc 1,5m), hơi nghiêng và khá phẳng, trên đó có khắc 10 dòng chữ Chăm cổ, vẫn còn nhìn khá rõ. Tiếp liền Vũng Bàng, về phía Tây Bắc (Đông Nam đầm An Khê) là con đường lát đá cổ băng qua một ngọn núi gọi là núi Bồ, từ đó lại có con suối đổ ra biển. Dọc theo con suối có khoảng 10 giếng cổ mà các nhà nghiên cứu xác định là giếng của người Chăm. Phía Bắc đầm An Khê, tại khu phố Phú Long (phường Phổ Khánh) còn có vết tích của một cây cầu bằng đá, gọi là cầu đá Phú Long, công trình của người Chăm cổ. Bia đá, con đường lát đá, cầu đá cùng với sự xuất hiện những giếng Chăm với mật độ khá dày, cho phép chúng ta hình dung về một khu vực cư trú của người Chăm cổ.
III. ĐÔI DÒNG LỊCH SỬ
1. Giai đoạn hình thành
Dưới thời Đức cha Francisco Pérez (1691-1728), năm 1723 cha Felipe de la Concepcion, dòng Phanxicô, đã xây tại Sa Huỳnh một nhà thờ dâng kính thánh Phêrô Alcantara. Trong danh sách nhà thờ, nhà nguyện năm 1747 do cha Jakob Graff thống kê phần Dòng Tên phụ trách trong tỉnh Quảng Ngãi có 20 họ đạo, trong số đó có Sa Huỳnh (San-hinh) thuộc giáo họ biệt lập Trà Câu hiện nay.
Theo báo cáo của Đức cha Cuenot Thể năm 1850, lúc bấy giờ Quảng Ngãi có 5.040 tín hữu, gồm có hai địa sở (Paroeciae): Nam Quảng Ngãi (Meridionalis) và Bắc Quảng Ngãi (Septentrionalis). Địa sở Nam Quảng Ngãi gồm 10 họ đạo, trong số đó có Trà Câu với 56 giáo dân. Không có tên Sa Huỳnh.
Trong cuộc bách hại dưới triều Tự Đức năm 1859, tại tỉnh Quảng Ngãi có ông Cả Bảy họ Trà Câu và ông Cả Sáu họ Chợ Mới đã bị bắt giam và chết trong ngục, còn 20 người khác bị lưu đày lên rừng thiêng nước độc. Đầu năm 1862, cha Gioakim Đặng Đức Tuấn đang ẩn trốn ở Nga Mân, thì bị bắt giải lên huyện Mộ Đức. Vào thời điểm ấy, Nga Mân thuộc châu Đức Phổ, huyện Mộ Đức, thuộc địa bàn địa sở Trà Câu sau này.
Năm 1884, cha Constant Fourmont, Quyền đại diện của Đức cha Van Camelbeke Hân đã rửa tội được 52 tân tòng, những người này sẽ tạo thành hạt nhân của một cộng đoàn tín hữu mới có tên là Mỹ Trang.
Năm 1885, Trà Câu có 230 giáo dân. Được tin Văn Thân bách hại ở Bàu Gốc, Phú Hòa và Phường Chuối, khoảng 80 giáo dân Trà Câu kéo nhau vào Gia Hựu. 15 ngày sau, số giáo dân Trà Câu nầy cùng chịu sát hại với giáo dân Gia Hựu tại cánh đồng Phú Trăng, Hội Đức. Số giáo dân Trà Câu ở lại, một số chạy trốn trên núi, một số chối đạo, một số bị Văn Thân dìm xuống nước tại vực Ô Rô, sông Thoa, cách nhà thờ Trà Câu cũ (thôn Tập An Bắc) khoảng 1km, từ đó vực Ô Rô còn được gọi là vực Đạo. Năm 1887, ông Cả Phó, người được một gia đình lương dân nuôi giấu trong lúc Văn Thân bách hại, cùng với số giáo dân sống sót, dần dần gầy dựng lại họ đạo.
Sau năm 1885, khi phong trào theo đạo nở rộ, các họ đạo quanh vùng Trà Câu được thành lập: Phước Lộc (Phước Thới 1897), Vạn Lý (1901), Hoa Thịnh và Diên Trường (1902). Trong số các họ đạo đó, Mỹ Trang ở xã Phổ Cường có nhiều thuận lợi nên được chọn làm trung tâm của vùng Trà Câu. Nhà nguyện và nhà vuông được dựng lên tại đó và có cha phó đến ở thường xuyên.
Các cha phó Bàu Gốc đặc trách vùng Trà Câu gồm có: cha Giacôbê Lê Kim Dung ở tại Mỹ Trang (1907-1910); cha Phêrô Giảng ở tại Trà Câu (1910), qua đời do trận bão đầu tháng 11-1910 làm sập nhà vuông Trà Câu đè chết cùng với 2 người giúp việc; cha Phanxicô Xaviê Vĩ ở tại Mỹ Trang (1912-1915), cha Gioan Baotixita Nguyễn Văn Hậu ở tại Mỹ Trang (1915-1921), cha Simon Dương Văn Vận ở tại Mỹ Trang (1921).
Dưới thời cha Vĩ, các họ đạo phía Nam địa sở Bàu Gốc không theo kịp mức độ đạo đức của Trà Câu, là một họ đạo bao gồm một số gia đình Công giáo kỳ cựu và tiếp tục là mô hình về lòng đạo đức và sự siêng năng trong việc giữ đạo.
2. Thành lập địa sở Trà Câu
- Từ năm 1921 đến năm 1961
Năm 1921, các họ đạo của Bàu Gốc: Trà Câu, Phước Lộc (Phước Thới), Vạn Lý, Hoa Thịnh, Mỹ Trang, Diên Trường được tách khỏi Bàu Gốc để thành lập địa sở Trà Câu. Số giáo dân của địa sở Trà Câu được phân bố trong 6 họ đạo ấy là 391 người.
Cha Simon Dương Văn Vận đang làm cha phó Trà Câu ở tại Mỹ Trang được bổ nhiệm làm cha sở tiên khởi của địa sở Trà Câu. Cha dời cư sở từ Mỹ Trang về Trà Câu, thôn Tập An Bắc, xã Phổ Văn, và phục vụ tại đó cho đến năm 1923.
Năm 1924, cha Giuse Nguyễn Tý được bổ nhiệm làm cha sở Trà Câu kế nhiệm cha Vận. Trong những năm qua, địa sở Trà Câu có vẻ đi thụt lùi. Tuy nhiên, với số 55 người lớn chịu phép rửa tội năm 1936 tại họ đạo An Tây, có lẽ địa sở đang phục hồi. Theo thống kê năm 1933, địa sở Trà Câu có 515 tín hữu.
Cha Tý làm cha sở Trà Câu cho đến năm 1937. Sau cha Tý có các cha sở : cha Phêrô Nguyễn Ninh (1937-1941), cha Simon Huỳnh Sánh (1941-1943), cha Phêrô Nguyễn Vĩnh Lưu (1943-1945).
Theo thống kê của địa phận Qui Nhơn, năm 1942 địa sở Trà Câu có 595 giáo dân trong 7 họ đạo.
Từ năm 1945 đến 1949, địa sở Trà Câu không có cha sở và được các cha sở Bàu Gốc kiêm nhiệm: cha Phêrô Trịnh Hoài Ân (1945-1946), cha Gioakim Bùi Vĩnh Mười (1947-1949).
Năm 1950, cha Phêrô Lê Đức Châu được bổ nhiệm về làm cha sở Trà Câu cho đến năm 1952. Tiếp theo là các đời cha sở: cha Antôn Hoàng Liên Mầu (1952-1956), cha Phaolô Trương Đắc Cần (1956-1957), cha Giacôbê Nguyễn Hữu Thiên (1957-1958).
Ngày 11 tháng 01 năm 1958, cha Thêôphanô Nguyễn Văn Bích được bổ nhiệm làm cha sở Trà Câu. Lúc bấy giờ địa sở Trà Câu có khoảng 400 giáo dân trong 6 họ đạo. Sau khi nhận địa sở, cha dành thời gian đầu tiên để đi thăm các họ đạo. Ngày 27 tháng 5 năm 1959, trên đường đi chủ sự cuộc rước Thánh Thể tại Đà Nẵng, Đức cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi, Giám mục giám quản Tông tòa Địa phận Qui Nhơn, đã ghé Trà Câu để chủ sự lễ rửa tội cho 272 người với sự hiện diện của hơn hai ngàn tín hữu.
Song song với việc canh tân đức tin, cha Thêôphanô Bích hướng dẫn bà con cách canh tác ruộng vườn đem lại nhiều hiệu quả. Từ đó, tạo được cảm tình của một số bà con lương dân, đồng thời hoạt động Công giáo tiến hành được phát triển, nhiều người xin gia nhập đạo. Sức chứa của nhà thờ Trà Câu mái tranh vách đất quá cũ kĩ không đủ cho nhu cầu.
Cha Thêôphanô vận động các ân nhân quen biết cùng với công sức của bà con giáo dân, một quần thể gồm nhà thờ, nhà vuông, hang đá Đức Mẹ, trường Trung học Đăng Khoa, khu ký túc xá, được xây dựng trên khu đất triền đồi tại một vị trí mới thuộc thôn Đông Quang, xã Phổ Văn, bên đường Quốc lộ I, với diện tích ban đầu 3.000m², sau khi mở rộng, san lấp hoàn thành với tổng diện tích là 17.000m². Nhân dịp đi cử hành thánh lễ Giáng Sinh tại trường Kim Thông, Quảng Ngãi, ngày 26 tháng 12 năm 1960, trên đường về, Đức cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi đã làm phép nhà thờ Trà Câu mới được xây dựng.
Nhà thờ (32m x 10m, cao 12m), nhà vuông và hang đa Đức Mẹ được khánh thành trong khoảng thời gian 3 tháng cuối năm 1959. Trường Đăng Khoa khai giảng niên khóa đầu tiên năm 1960-1961. Đây là một trường trung học ở trong vùng đủ cho các lớp cao nhất của bậc trung học. Học sinh từ Tam Quan, Ba Tơ, Mộ Đức tập trung về học ở Đăng Khoa.
Qua hoạt động Công giáo tiến hành, họ đạo Ba Tơ heo hút nơi rừng sâu núi thẳm cũng gia tăng số giáo dân từ 70 người lên 150 người vào năm 1960.
- Từ năm 1961 đến năm 1975
Theo quyết định của Hội đồng Giáo phận họp tại Tòa Giám mục Qui Nhơn ngày 06 tháng 02 năm 1961, địa sở Trà Câu được tuyên bố là một trong số 49 giáo xứ chính thức theo giáo luật (Paroecia) của Giáo phận Qui Nhơn (lúc ấy chưa chia tách Giáo phận Đà Nẵng).
Tháng 3 năm 1966, cô nhi viện Rods được khởi công xây dựng tại Đức Phổ và khánh thành ngày 25 tháng 9 năm 1966. Cô nhi viện này được thành lập do sáng kiến của gia đình đại úy Rod, người Mỹ. Ông là cố vấn quân sự tại quận Đức Phổ và tử trận tại Trà Câu. Vợ ông muốn lập cô nhi viện này để kỷ niệm. Bà dùng tiền của gia đình và đi lạc quyên nơi các nhà hảo tâm tại Hoa Kỳ rồi gửi tiền về cha Thêôphanô Bích để nhờ cha xây dựng. Khi công trình xây dựng hoàn thành, cha giao cho các nữ tu dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn phụ trách: Sr. Anna Colette Phùng Thị Diệu, Sr. Maria Macta Nguyễn Thị Lựu, Sr. Mađalêna Émilienne Trần Thị Xuân Mai. Cơ sở Cô nhi viện nầy có thể thu nhận 150 em, gồm 2 nhà ngủ (40m x 15m), nhà ăn, nhà học, nhà chơi, nhà điều hành, phòng cha tuyên úy. Cha Bích còn lập trại dưỡng lão do chính cha điều hành.
Theo lịch giáo phận Qui Nhơn, năm 1965, giáo xứ Trà Câu có 5.037 giáo dân trong 16 họ đạo. Kể từ mùa mưa năm 1965, chiến tranh xảy ra trên diện rộng, giáo dân Trà Câu bắt đầu di cư ra thị xã Quảng Ngãi và vào thị trấn Đức Phổ. Trà Câu ngập tràn khói lửa chiến tranh và gần như tan tác sau trận chiến khốc liệt vào tháng 6.1966. Toàn bộ cơ sở nhà thờ, trường trung học Đăng Khoa, ký túc xá…bị sụp đổ hoàn toàn. Năm 1967, cha Bích cất một nhà thờ tạm tại quận lỵ Đức Phổ, nơi có một số giáo dân Trà Câu tạm cư. Cha sở thường xuyên ở lại đây với giáo hữu.
Chiến tranh tiếp diễn, năm 1969, một số giáo dân giáo xứ Trà Câu cùng với giáo dân các giáo xứ Châu Me, Bàu Gốc, Cù Và, Châu Ổ, Tân Lộc, Phú Hòa, và một số giáo dân thuộc tỉnh Phú Yên di cư vào Cam Ranh lập thành giáo xứ Nghĩa Phú (Quảng Nghĩa - Phú Yên) giáo phận Nha Trang.
Tháng 4 năm 1971, cha Thêôphanô Nguyễn Văn Bích, dẫn đoàn dân Trà Câu đang tạm cư tại Đức Phổ và thị xã Quảng Ngãi vào lập nghiệp ở Bình Tuy, lập thành giáo xứ Hiệp Đức, giáo phận Phan Thiết. Một số khác chạy vào Cây số 30, Võ Đắc, Căn cứ 2…
3. Giai đoạn thuộc giáo xứ Bàu Gốc
Khi hòa bình vãn hồi, một số ít giáo dân Trà Câu trở về quê, tuy nhiên các cơ sở của giáo xứ đều bị trưng dụng, nhà xứ được dùng làm cơ quan của xã, nhà thờ bị san bằng… Mọi sinh hoạt đức tin của số ít giáo dân ở Trà Câu được sự chăm sóc của cha sở Bàu Gốc. Nhưng vì giáo dân sống rải rác, quá xa nhà thờ Vĩnh Phú, nên các sinh hoạt tôn giáo rất khó khăn.
Tháng 5 năm 2016, cha Tađêô Lê Văn Ý, cha sở Bàu Gốc, bắt đầu mượn nhà giáo dân tại thị trấn Đức Phổ dâng lễ Chúa Nhật cho giáo dân từ Đức Phổ đến Sa Huỳnh. Để phục hồi giáo xứ Trà Câu, từ ngày 25 tháng 6 năm 2016, theo cách thức của cha sở tiền nhiệm là cha Grêgôriô Văn Ngọc Anh, cha Ý và anh chị em giáo dân Trà Câu đã làm đơn xin chính quyền giao lại khuôn viên đất nhà thờ và nhà xứ Trà Câu trước đây tại thôn Đông Quang, xã Phổ Văn, huyện Đức Phổ, với diện tích hơn 16.000 m2 để xây lại nhà thờ và các cơ sở vật chất. Sau nhiều lần điều đình, ngày 21 tháng 01 năm 2020 chính quyền quyết định cấp cho giáo họ một khu đất mới gần đó với diện tích 5.000m2 sau khi đã đổ đất san lấp mặt bằng.
Sau khi được cấp đất, tháng 6 năm 2020 cha Ý tiến hành xây dựng bờ tường xung quanh khuôn viên. Ngày 24 tháng 2 năm 2022 chính thức khai móng xây dựng nhà thờ. Ngày 19 tháng 7 năm 2023, Đức cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi đến chủ sự thánh lễ cung hiến và khánh thành nhà thờ Trà Câu, đồng thời bổ nhiệm cha Phêrô Nguyễn Thanh Tú làm cha phó biệt cư, ở tại nhà thờ Trà Câu. Trước khi xây dựng nhà thờ Trà Câu, từ năm 2016, hằng tuần cha dâng thánh lễ tại tư gia. Từ khi nhà thờ Trà Câu được khánh thành, hằng ngày có khoảng 20-30 người tham dự thánh lễ, ngày Chúa nhật hơn trăm người, với ca đoàn khoảng 12 người. Nhờ có nhà thờ mới, một số người bỏ đạo lâu năm đã trở lại, một số lương dân xin theo đạo và cha Ý đã tháo gỡ các ngăn trở hôn nhân cho một số gia đình.
Sau thời gian tạm ở trong phòng thánh, cha Tú đã xin ân nhân giúp đỡ và đã xây dựng ngôi nhà xứ khang trang phía sau nhà thờ cùng với đài Đức Mẹ, cả hai được khánh thành ngày 15 tháng 8 năm 2024. Ngoài ra cha còn đổ bê tông đoạn đường dài 61m rộng 3,5m nối từ đường công cọng vào khuôn viên nhà thờ, công trình hoàn thành ngày 14 tháng 1 năm 2025. Ngày 8 tháng 5 năm 2025 cha hoàn thành công trình xây dựng đài Thánh Giuse. Tại Sa Huỳnh, cha đến dâng lễ vào những dịp lễ giỗ của các gia đình.
4. Thành lập giáo họ biệt lập Trà Câu
Để chuẩn bị cho việc tái lập giáo xứ Trà Câu, ngày 11 tháng 10 năm 2025, Đức cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi đã ký văn thư thành lập giáo họ biệt lập Trà Câu tách ra từ giáo xứ Bàu Gốc và văn thư bổ nhiệm cha Phêrô Nguyễn Thanh Tú làm cha quản nhiệm. Chiều ngày 17 tháng 10, Đức cha Matthêô về nhà thờ Trà Câu chủ sự thánh lễ kính trọng thể Thánh Phanxicô Isidore Gagelin Kính, Tử đạo của giáo phận, đồng thời công bố hai văn thư trên. Cùng đồng tế với Đức cha có cha Tổng Đại diện, quý cha, với sự hiện diện của quý nữ tu và anh chị em giáo dân.
Nhà thờ Trà Câu (cũ) bằng mái tranh vách đất nằm giữa xóm đạo thuộc thôn Tập An Bắc, xã Phổ Văn, cách đường quốc lộ và nhà thờ Trà câu (mới) khoảng 1.500m. Nhà thờ nầy cũng bị tàn phá vào năm 1966 trong trận chiến khốc liệt tại đây.
Sa Huỳnh được nhà khảo cổ người Pháp M. Vinet phát hiện lần đầu tiên vào năm 1909 khi ông tìm thấy bên đầm An Khê (một đầm nước ngọt ở Sa Huỳnh, Đức Phổ, Quảng Ngãi) một số lượng lớn quan tài bằng chum (khoảng 200 chiếc). Người ta gọi Di tích khảo cổ đó là Kho Chum Sa Huỳnh (Dépot à Jarres Sa Huỳnh). Các cuộc khai quật vào nhiều năm khác nhau tại di tích gò Ma Vương hay còn gọi là Long Thạnh Đức Phổ nơi được xem là có niên đại sớm nhất của nền văn hóa Sa Huỳnh, đã đem lại những đánh giá xác đáng và quan trọng về nguồn gốc và quá trình hình thành, phát triển văn hóa Sa Huỳnh. Nền văn hóa Sa Huỳnh đã được các nhà khảo cổ trên thế giới nghiên cứu từ đó đến nay và ngày càng sáng tỏ nhiều điều về đời sống của các tộc người thời tiền sơ sử ở miền Trung Việt Nam.
Xem ADRIEN LAUNAY, Histoire de la Mission de Cochinchine 1658-1823. Documents historiques II, 1728-1771, P. Téqui, Paris 1924, tr. 189.
Xem Mémorial Mission de Quinhon, No 58, 31 Octobre 1909, tr. 151.
AMEP, Rapport annuel de Cochinchine Orientale 1884.
Hậu duệ của ông Cả Phó có các linh mục và nữ tu gốc Trà Câu mang họ Trần trong mục linh mục, tu sĩ xuất thân từ giáo xứ Trà Câu. Trong số con của ông Cả Phó có ông Câu Tình, một thầy thuốc Bắc. Gia đình ông Câu Tình ở Trà Câu như một dưỡng đường của các linh mục trong địa phận.
Xem AMEP, Rapport annuel de Cochinchine Orientale 1911.
Xem AMEP, Rapport annuel de Cochinchine Orientale 1913.
Compte-rendu 1940, trang 23.
Xem AMEP, Rapport annuel de Cochinchine Orientale 1921.
Xem MISSION DE QUINHON, Mémorial, Nouvelle serie, No 27, Septembre 1923, tr. 199.
Xem AMEP, Rapport annuel de Cochinchine Orientale 1936.
Xem MISSION DE QUINHON, Compte-rendu et état de la Mission de septembre 1932 à septembre 1933, Imprimerie de Quinhon, Quinhon 1933, tr. 17.
Xem Bản thông tin địa phận Qui Nhơn, số 11, tháng 5 và 6 năm 1959, tr. 13.
Xem Bản thông tin địa phận Qui Nhơn, số 19, tháng 11-12 năm 1960, tr. 14.
Xem Bản thông tin địa phận Qui Nhơn, số 22, tháng 5 và 6 năm 1961, tr. 13.
THÊÔPHANÔ NGUYỄN VĂN BÍCH, Hành trình cuộc đời, Hồi ký, Müchen 2012, tr. 146.
Bản Thông tin địa phận Qui Nhơn số 50, 1966, tr. 38.
THÊÔPHANÔ NGUYỄN VĂN BÍCH, Sđd, tr. 147.
Xem Bản thông tin Địa phận Qui Nhơn, số 54, tháng 12, tr. 38-39.
THÊÔPHANÔ NGUYỄN VĂN BÍCH, Sđd, tr. 163.