Kỳ 3, phần 3: Bông hồng tử đạo bị lãng quên

Thứ sáu - 17/01/2025 23:55
 III. INÊ TỬ ĐẠO VÃN: THIÊN TRƯỜNG CA QUỐC NGỮ ĐẦU TIÊN
 

1. Văn học “Nôm ngữ” và “Quốc ngữ” trong Giáo lý và nền “đạo đức bình dân”:
 
Chúng ta vẫn biết, sinh hoạt đức tin của Dân Chúa chủ yếu là được xây dựng và đinh hướng trên nền tảng mạc khải là Thánh Kinh, Thánh Truyền, được ứng dụng, chuyển tải qua Phụng vụ, Giáo lý, Kinh nguyện, các thực hành đạo đức bình dân... Riêng bà con giáo dân Công Giáo Việt Nam rất ưa chuộng việc thực hành đạo đức bình dân (kính Đức Mẹ, Các Thánh, Lần hạt Mân Côi, đọc Hạnh Các Thánh…). Chính vì thế, từ ngoài Bắc đến trong Nam, trong làng “văn hóa đức tin Công giáo”, đã xuất hiện nhiều tác phẩm bằng chữ Nôm và chữ Quốc ngữ mà mục đích là để chuyển tải, giáo lý, kinh nguyện, các sứ điệp, đề tài thuộc nền “đạo đức bình dân” cho các cộng đoàn giáo dân thực hiện hay để trình bày, giới thiệu nét đẹp và chân giá trị của Kitô giáo cho mọi người chung quanh. 

Trong những “tiếp cận ban đầu” với nền văn hóa, văn học Việt Nam, chắc chắn, các thừa sai đối diện với những thách đố của “Chữ HÁN” hoặc “Chữ Nôm”, một thứ chữ mà người Việt Nam chúng ta đã vận dụng từ chữ Hán để ký âm tiếng Việt; và loại chữ này, cho dù không phổ cập và phổ thông trong toàn xã hội, nhưng đã chiếm một vị trí và vai trò không thể phủ nhận trong nền văn hóa và văn học Việt Nam suốt nhiều thế kỷ cho đến khi được thay thế bởi chữ Quốc ngữ, thứ chữ dựa trên mẫu tự La tinh của người Tây[49].
 
 Chúng ta có thể tóm tắt vấn đề “Văn học Công giáo” về “Nôm ngữ” và “Quốc ngữ” dưới khía cạnh “tác giả” và “tác phẩm” liên quan đến lịch sử hay công cuộc truyền giáo tại Việt Nam thời thế kỷ 17-18 như sau:
 
1.1 Tác giả và tác phẩm bằng chữ Nôm trong buổi đầu truyền giáo: 
 
 Thừa sai Dòng Tên MAJORICA (1591-1656) với nhiều tác phẩm, tiêu biểu có: Thiên Chúa Thánh giáo Khải mông;  linh mục LỮ Y ĐOAN (1613-1678) với tác phẩm trường thi diễn ca Kinh Thánh: Sấm Truyền Ca; Thầy giảng GIOAN THANH MINH (1588-1663) với các tác phẩm về Hạnh Các Thánh; Thầy PHANXICÔ (một tu sĩ Phật giáo trở lại Công giáo) với tác phẩm Cảm tạ niệm từ (hay Phục dĩ Chí tôn)[50]
 
1.2 Tác giả và tác phẩm bằng Quốc ngữ (theo mẫu tự La tinh): 
 
 Việc hình thành chữ Quốc ngữ (theo hệ thống mẫu tự La tinh) là một tiến trình qua nhiều giai đoạn[51]. Chúng ta chỉ dừng lại ở vài cột mốc chính: Thừa sai Dòng Tên ALEXANDRE DE RHODES (1593-1660) cùng với sự hỗ trợ tất yếu của những Kitô hữu Việt Nam ưu tú, năm 1651 đã xuất bản tại Rôma hai tác phẩm Quốc ngữ đầu tiên: “Tự điển Việt - Bồ - La” và “Phép Giảng Tám ngày”, một kết quả “tập đại thành” từ những đóng góp, thiết dựng của các thừa sai Dòng Tên khác hoạt động tại Đàng Trong cũng như Đàng Ngoài như: Francesco Buzomi (1576-1647?), Francisco Pina (1585-1625),
Christoforo Borri (1583-1632), Girolamo Majorica (1591-1656), Gaspar Luiz (1586-1647), Antonio Fontes (1592-1655), Gaspar d’Amaral (1594-1646), Antonius Barbosa (1594-1647)[52]… Tiếp đến, Đức cha Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine (1741-1799)  biên soạn cuốn Tự điển Việt- La (Anamitico-Latinum) năm 1772 (chưa kịp xuất bản). Sau đó, Đức cha Taberd (1794-1840) nhuận chính lại công trình của Đức Giám Mục Pigneau de Béhaine (Tự điển Anamitico-Latinum 1772), năm 1838, tại Begale Ấn Độ, đã xuất bản hai cuốn: Tự điển Việt-La (Anamicico-Latinum) Tự điển La-Việt (Latino-
Anamiticum). Đặc biệt, trong cuốn Tự điển La-Việt đã xuất hiện thi phẩm trường ca “Inê Tử đạo vãn” của linh mục Laurent Huỳnh Lâu bằng tiếng Quốc ngữ và 3 thứ tiếng Tây thông dụng: Anh, Pháp, La tinh[53].

 
2. “Inê Tử đạo vãn”: trường thi quốc ngữ đầu tiên:
 
2.1. “Inê Tử đạo vãn”: được viết bằng ngôn ngữ nào: “Nôm ngữ” hay “Quốc ngữ”?
 
Có một điều chắc chắn không cần bàn cải: cho tới hôm nay, chưa có một dấu vết gì, một chứng tích hay chứng từ nào cho thấy tác phẩm trường thi “Inê Tử đạo vãn” được viết bằng “Nôm ngữ”! Trong khi đó, tác phẩm này lại xuất hiện bằng chữ Quốc ngữ cách đường hoàng, chính thức, trong một tác phẩm Tự điển La tinh – Quốc ngữ (Latino-Anamiticum) thuộc hàng chuẩn mực đầu tiên và sánh vai với ba ngôn ngữ khác: Anh, Pháp, La tinh. Chính vì thế, một lần nữa, chúng ta cần khẳng định một lần dứt khoát: INÊ TỬ ĐẠO VÃN LÀ MỘT TÁC PHẨM TRƯỜNG THI QUỐC NGỮ.

Sở dĩ nói “một lần nữa, chúng ta cần khẳng định…”, vì thật ra, trong giới nghiên cứu “Văn học Công Giáo”, có một số tác giả khi luận bàn chuyên đề hay đề cập thoáng qua về tác phẩm “Inê Tử đạo vãn” lại cho rằng tác phẩm này là thơ Nôm mà không hề chứng minh luận điểm này được căn cứ vào đâu! Xin đan cử một số tác giả với lập trường như thế: học giả NGUYỄN ĐÌNH KHIÊM[54], linh mục Tiến sĩ NGUYỄN ĐỨC THÔNG[55], nhà nghiên cứu LÊ ĐÌNH BẢNG[56], nhà phê bình văn học BÙI CÔNG THUẤN[57]… Có một “sự thật khá trớ trêu” là những tác giả trên khi cho rằng “Inê Tử đạo vãn” là tác phẩm “thơ Nôm” nhưng hầu hết lại căn cứ trên một “văn bản Quốc ngữ duy nhất” được in trong Tự điển Taberd Latino-Anamiticum 1838!
 
Trong khi đó, các nhà nghiên cứu sau đây đã đồng thanh xác nhận : INÊ TỬ ĐẠO VÃN là một tác phẩm bằng chữ Quốc ngữ thuộc hàng “Thi ca tiên khởi của nền Văn học Quốc ngữ”.
 
  • VÕ LONG TÊ, trong loạt bài nghiên cứu chuyên sâu rất giá trị được viết bằng tiếng Pháp, phổ biến năm 1967 trong Tập san của Hội Nghiên cứu Đông Dương BSEI: “Góp phần nghiên cứu một trong những truyện thơ Công giáo đầu tiên bằng quốc ngữ: Inê Tử đạo vãn”58.
 
  • NGUYỄN KHẮC XUYÊN: Bài khảo cứu “Chữ quốc ngữ năm 1838”: “Nơi phần II của bài chuyên luận này tác giả đã giới thiệu thi phẩm ‘Inê tử đạo vãn’ và khẳng định về nguồn gốc (bài vãn dựa trên cuộc đời của một nhân vật Việt Nam nhưng được hư cấu thêm), về thời điểm sáng tác (khoảng 1828), in ấn (1838)…”[59].
 
  • LM. ĐỖ QUANG CHÍNH: Trong tác phẩm “Tản mạn lịch sử Giáo Hội Công giáo Việt Nam” có hai lần nhắc đến cha Laurent Huỳnh Lâu:
  • Lần thứ nhất: cha Laurent Huỳnh Lâu là anh ruột và là tác giả của thi phẩm “Inê tử đạo vãn”, thiên trường ca được sáng tác để lưu niệm và vinh danh người em gái tử đạo là Inê Huỳnh Thị Thanh[60].
  • Lần thứ hai: Liệt kê những nhân vật làm cho hoàn hảo và phổ biến chữ quốc ngữ, trong đó có cha Laurent Huỳnh Lâu: 
 
“Tiếp đến là những vị làm cho hoàn hảo và phổ biến thứ chữ mới này hầu hết là các thừa sai Paris và người Việt Nam (nếu chỉ tính đến cuối thế kỷ 19): Francois Deydier (16341693), Pierre Langlois (1640-1700), Loren Huỳnh Lâu (1656-1732)[61], Marin Labbé (16481723), Pigneau de Béhaine (1741-1799), Bảo Lộc Nghị (cùng cọng tác với Bigneau de Béhaine), Felippe do Rosario Bỉnh (1759-1833), Jean-Louis Taberd (1794-1840), Philiphê Phan Văn Minh (Thánh tử đạo, 1815-1853), Petrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898)[62]… 
 
  • GS. NGUYỄN VĂN TRUNG & ĐỖ NHƯ THẮNG: Nhận xét và đánh giá bài nghiên cứu của VÕ LONG TÊ: “Góp phần nghiên cứu một trong những truyện thơ Công giáo đầu tiên bằng chữ quốc ngữ”: 
 
“Trong bài này, tác giả dựa vào chính văn bản để xác định tác giả, thời điểm sáng tác. Sau đó tác giả nhận xét thi phẩm này về mặt văn học và sử học: về văn học, so với văn học cũ chịu ảnh hưởng văn học cổ điển Trung Quốc thì thi phẩm này đã chứng tỏ mở ra một đường hướng văn học mới viết bằng chữ quốc ngữ và chịu ảnh hưởng của Kitô giáo. Về mặt lịch sử, bài vãn là chứng tích của một thời kỳ lịch sử: nó cho thấy tình hình tôn giáo ở nước ta vào thế kỷ XVIII, diễn tiến cuộc cấm đạo và cuộc tử đạo của nhân vật chính”[63].
 
2.2. Một số yếu tố khác xác nhận “Inê Tử đạo vãn” là thi ca Quốc ngữ:
 
 --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
TÊ, trong Văn học tập san, tập XVII, số 1 năm 1968. Thực ra đây là bản dịch từ bài của ông viết bằng tiếng Pháp in trên Tập san của Hội nghiên cứu Đông Dương BSEI (loại mới, số 4, đệ tứ tam cá nguyệt 1967, tr. 305-336).

 
          Chúng ta biết, vào năm 1651, thừa sai Dòng Tên – Alexandre de Rhodes, đã xuất bản tại Rôma hai tác phẩm quốc ngữ (đầu tiên): “Tự điển Việt – Bồ - La” và sách Giáo lý “Phép giảng tám ngày”. Nếu tính từ thời điểm đó (1651) cho tới năm chị Anê Huỳnh Thị Thanh tử đạo (1700), thì chữ quốc ngữ đã đi được chặng đường “một thế kỷ rưỡi”.
Như vậy, có thể nói được, với “khoảng thời gian” 150 năm đó, cùng với những tiện dụng trong việc sử dụng và phổ biến, đặc biệt, trong môi trường mục vụ của Giáo Hội Công giáo, chữ quốc ngữ đã trở thành một “công cụ ngôn ngữ thiết thực và phù hợp để trao đổi thư tín và để giảng dạy”[64].

Thật vậy, nếu các thừa sai Dòng Tên đã có công khai phá, mở đường và thiết dựng những nền tảng vững chắc trong việc La tinh hóa ngữ âm tiếng Việt bằng mẫu tự La tinh[65] để dễ dàng trong việc loan báo Tin mừng, thì các thừa sai của Hội truyền giáo Paris đã kế thừa xuất sắc trong việc chuẩn hóa và hoàn thiện quốc ngữ[66], để trở thành công cụ hãn hữu cần thiết trong mọi lãnh vực của nhịp sống đức tin: giáo dục đào tạo chủng sinh, phổ biến văn bản sách phụng vụ, giáo lý, kinh nguyện; dễ dàng tiếp cận tiếng La tinh để hiệp thông với Giáo Hội; trao đổi thông tin và sáng tác[67]

 Điều này được khẳng định chắc chắn với biến cố Đức cha Pigneau de Béhaine, vị mục tử chăm sóc đoàn chiên Đàng Trong lúc bấy giờ, đã ra tay biên soạn cuốn tự điển Việt – La (Anamitico-Latinum)[68] từ năm 1772-1773, một cột mốc được đánh giá là “thời chuẩn hóa chữ quốc ngữ” để vị mục tử kế tục sự nghiệp ngài, ĐC J.L. Taberd “hoàn thiện chữ quốc ngữ” với việc nhuận chính và xuất bản hai cuốn tự điển Việt – La (Anamitico-Latinum) La – Việt (Latino-Anamiticum)69 năm 1838 trên thủ bản của “tự điển gốc 1772”.
 
Qua đó, chúng ta có thể khẳng định rằng: tác phẩm trường thi Quốc ngữ “Inê tử đạo vãn” đã xuất hiện trong hoàn cảnh và vào giai đoạn mà chữ Quốc ngữ bằng mẫu tự La tinh đã được hoàn thiện khá chuẩn mực về mặt ngôn ngữ và đã được khẳng định dứt khoát về giá trị ứng dụng và thực hành trên các lãnh vực văn hóa, văn học cũng như mục vụ. Thời của “Inê vãn”, có thể nói được, chính là  thời kỳ “quốc ngữ lên ngôi”; vì thế, tác phẩm này chính là một khúc “trường thi quốc ngữ” vào hạng “tiên khởi” của văn học Việt Nam!
 
 
3. Tác giả của Inê Tử đạo vãn (Cả bản chính và các bản dịch ngoại ngữ):
 
 Trước khi bàn đến ai thực sự là tác giả chắp bút để viết lên khúc trường thi tử đạo “Inê vãn”, một tác phẩm thi ca bằng chữ quốc ngữ được phổ biến chính thức năm 1838 qua một tác phẩm giá trị và đầy khả tín đó là cuốn Tự điển La - Việt (LatinoAnamiticum) 1838 của J.L. Taberd, chúng ta nên đọc lại những chứng từ của thừa sai Louvet liên quan đến việc sáng tác và lưu hành “Inê vãn”:
 
“Một nhà thơ Công giáo đã viết về những đau khổ của bà bằng những vần thơ rất đẹp; và cho đến ngày nay, câu chuyện cảm động về cái chết của chị Anê và các bạn đồng hành của bà vẫn được đọc lên trong các trường học, hoặc hát vào buổi tối trong những buổi họp mặt gia đình.”[70].
 
Qua khẳng định trên cùng với những chứng từ chắc chắn về cuộc tử đạo của chị
Anê như đã trưng dẫn (trong phần II), và với những điều được phản ảnh qua chính các câu thơ dệt nên khúc “trường thi tử đạo Inê”, chúng ta có thể tập chú vào mấy điểm sau đây như những gợi mở để đi tới những xác nhận đúng đắn:
 
3.1. Tác giả phải là nhân vật có quan hệ mật thiết với nhân vật chính “Inê” (Agnès, Anê):
 
 Vì “Inê vãn” không là một “tác phẩm hư cấu” mà là “một chuyện kể”, một “ký sự” về một “nhân vật có thật” trong một “câu chuyện có thật”, nên tác giả phải là người trong cuộc, là người đã theo dõi, chứng kiến, cảm nhận… tất cả bằng trái tim, bằng sự cảm phục và lòng yêu thương vô bờ. Chính vì thế, ngoài người anh cả Laurent Huỳnh Lâu, không ai có được những điều kiện và tiêu chí để làm “tác giả” của bài “vãn” đặc biệt này.  Những chia sẻ của thừa sai Gouge là một bằng chứng rất hiển nhiên cho khẳng định này: Cha Laurent và bà rất thương yêu nhau. Người ta không so ví được niềm vui của Cha Laurent về cái chết hết sức vinh quang của người em gái vô cùng thánh thiện của ngài.” (Cha Estréchy, V.K.H.T.G.H.N., tập 725, tr. 66)[71].

Phải chăng để làm bật nổi khía cạnh “chính mình” là tác giả của “Inê tử đạo vãn”, nên khi chuyển ngữ bài vãn này sang 3 ngoại ngữ Anh, Pháp và La tinh, cha Laurent Huỳnh Lâu đã dùng “đại từ danh xưng ngôi thứ nhất”: TÔI
 
Câu 544-545: 
 
  • Việt:           Chép làm một bổn để đời
                  Truyền cho thiên hạ người người học theo.
 
  • La tinh:      Descriptam ejus vitam posteris nuncupo
                  Ut Agnetis virtuti quisque accedere conetur 
 
 
  • Anh:          I have written her life to preserve it to posterity,             
That  all may arrive to imitate her.
 
  • Pháp:        J’ai écrit sa vie pour la conserver à la postérité,
                  Afin que chacun s’efforce de l’imiter.
 
Nếu đọc văn mạch từ câu 520 – 555, khi cha Laurent cùng với giáo dân đến đưa xác em gái ra khỏi nhà giam để về lo hậu sự, sau đó, những câu kết thúc là để trình bày lý do ngài viết lại câu chuyện của Anê là cốt để lưu danh hậu thế mẫu gương đức tin  cao đẹp của người em gái thân yêu, thì “yếu tố tác giả” của cha Laurent Huỳnh Lâu hoàn toàn hợp lý! Những lời thơ mang âm sắc đó, nội dung đó, hoàn toàn chỉ thích hợp cho mỗi mình cha Laurent, người đã chứng kiến, đồng hành và lo lắng cho em gái từ khi ngồi tù cho đến khi hoàn tất cuộc hành trình hy tế!
 
3.2. Tác giả phải là một linh mục thông thái vượt trội, bản lĩnh và uy tín…
 
 Thế nhưng sẽ có vấn nạn: liệu cha Laurent có khả năng để sáng tác nên những vần thơ đó không? Để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta hãy lắng nghe các thừa sai đương thời nói về cha Laurent:
 
  • Cha Laurent là một linh mục giảng dạy xuất sắc và thông thạo tiếng La tinh: 
 
“Trong lúc đó, Cha Lô-răng, người Đàng Trong, đang ở Kinh thành; một vài Kitô hữu đến thăm ngài đã xin ngài nói với họ về Hiến Chế, và đưa ngài đến một ngôi nhà mà ở đấy họ thường tụ họp để thực hành việc đạo. Ở đấy đang có khoảng 300 người. Vị linh mục người Đàng Trong ấy, rất có khiếu ăn nói, đã trao đổi với họ suốt đêm về chủ đề mà họ muốn nghe; hiệu quả từ lời ngài nói đã bảo đảm với họ Hiến Chế là hoàn toàn rất thật; họ không nên nghi ngờ; ngài đã đọc hết từ đầu đến cuối; ngài biết tiếng la-tinh và không thể nhầm lẫn trong những việc như thế; tất cả các lễ nghi được nhắc đến chắc chắn là đã bị lên án, và đó là kết quả của những cuộc tranh luận lớn từ hai phe và một xem xét qua quá trình nhiều năm. Là người Đàng Trong, và bằng kinh nghiêm mà biết rõ sự gắn bó của người dân với các lễ nghi và tập quán truyền đời từ tổ tiên họ, hẳn là ngài hy vọng Đức Giáo Hoàng đã có thể tìm ra một phương cách nào đó làm thỏa mãn cho cả hai phe tranh luận; nhưng sau khi xem xét cặn kẽ mọi sự, Đức Thánh Cha và các Hồng Y đã nhận định là những lễ nghi ấy không thể tương hợp với Kitô giáo được, và thế là ngài phải cấm đối với các Kitô hữu; các Kitô hữu phải hết lòng tuân phục mệnh lệnh, mà Đức Thánh Cha, thủ lĩnh Hội Thánh và Đại diện Chúa Giêsu Kitô, không bao giờ lên án hoặc cấm đoán điều gì đối với đạo, ngoài những gì có nguy cơ làm hại đến phần rỗi các linh hồn” (THƯ ĐỨC CHA LABBÉ GỬI BAN GIÁM ĐỐC CHỦNG VIỆN TRUYỀN GIÁO, V.K.H.T.G.H.N., tập 726, tr. 548, 12 tháng 5 năm 1717)[72].  
 
  • Cha Laurent thông thạo tiếng Anh:
 
“ … Cha Lô-răng, người Đàng Trong, phiên dịch cho nhà vua với người Anh lúc bấy giờ đang đến vương quốc, đã về Kinh thành; sau khi ngài bỏ lại chiếc thuyền của mình mà không hề lo sợ gì, một viên quan và mấy người lính, đang lục soát mấy chiếc thuyền, nhìn thấy chiếc thuyền lạ ấy, liền lục soát nó; do tìm thấy trong mấy chiếc hòm của Cha Lôrăng mấy thứ ngài dành để cử hành Thánh lễ, họ liền mang đến cho viên chỉ huy, và người này cho bắt Cha Lô-răng; sau đó Cha Antoine, Cha Cappony và con cũng bị bắt. Cha Antoine nói với viên chỉ huy và đưa tiền cho ông ta hòng ngăn ông ta không bẩm báo với nhà vua, viên chỉ huy nói để được miễn không bẩm báo với nhà vua, thì ông ta không thể; nhưng ông ta nói rất nhẹ nhàng; ông ta còn nói thêm là cũng phải cho tiền quân lính để lấy lòng họ nữa. Sau khi được bẩm báo, nhà vua ra lệnh tháo gông cho Cha Lô-răng, vì là người thông dịch đối với người Anh, cho công khai đốt hết các đồ lễ của ngài, và nói với ngài là nếu còn bắt gặp ngài có những thứ liên quan đến đạo, thì sẽ cho phân thây ngài cùng với bà con họ hàng của ngài.” (thư cha Sennemand gửi Đức Tthánh Cha Clêmentê XI ngày 20 tháng 1 năm 1712, V.K.H.T.G.H.N., tập 727, tr. 71.)[73].
 
Tất cả những chi tiết đó đủ để chúng ta khẳng định rằng: cha Laurent không những có khả năng để sáng tác khúc trường thi “Inê tử đạo vãn” mà chắc chắn chính là người đã chuyển ngữ bài vãn này sang 3 ngôn ngữ Tây phương: La, Anh, Pháp. Vì quả thật, theo các sử liệu để lại, vào thời đại mà cha Laurent đang hoạt động mục vụ tại Đàng Trong, không thấy có một thừa sai hay linh mục Việt Nam nào có đầy đủ các kiến thức và thông thạo các ngoại ngữ La tinh, Anh, Pháp như cha Laurent.
 
Cũng có một số nhà nghiên cứu (NGUYỄN KHẮC XUYÊN?...) thì cho rằng chính thánh linh mục tử đạo PHILIPPHÊ PHAN VĂN MINH (1815-1853) là tác giả của “Inê tử đạo vãn”[74]; vì vị linh mục này là một cọng tác viên của Đức cha Taberd trong việc soạn thảo hai cuốn Tự điển Anamitico-Latinum và Latino-Anamiticum 1838 tại Bengale, và là người thông thạo La tinh, Hán Nôm và quốc ngữ…, nên chính ngài đã sáng tác, chuyển ngữ tác phẩm này sang tiếng Anh, Pháp, La tinh rồi đưa vào tự điển 1838... 
 
 Về mặt lịch sử, thì thánh linh mục Philipphê Phan Văn Minh sinh và sống cách xa chị Anê Huỳnh Thị Thanh trên một thế kỷ. Khi chị Anê chịu tử đạo (1700) thì cha Phan Văn Minh chưa ra đời. Ngài sinh năm 1815 và tử đạo năm 1853. Cả hai lại cách biệt về không gian: chị Anê Thanh ở Nha Trang, miền Trung trong khi cha Minh ở Mỏ Cày Miền Nam… Cả không gian và thời gian đều ngăn cách như thế nên gán cho linh mục Philipphê Minh là tác giả của Inê tử đạo vãn là chuyện khó thuyết phục và không hợp lý chút nào. Chỉ có thể, vì tác phẩm này đã được lưu hành rộng rãi (như chứng từ của LOUVET) nên rất có thể, cha Minh đã đọc được, đã tâm đắc và đã chọn in vào Tự điển Latini-Anamiticum 1838 để như một cách giới thiệu tác phẩm thi ca Việt Nam cho thế giới. Ngài có công quảng bá và khẳng định giá trị đạo đức và văn học của trường thi “Inê tử đạo vãn” chứ không thể là tác giả của tác phẩm này! Có khả năng, chính thánh linh mục Philipphê Minh là người chuyển ngữ “Inê tử đạo vãn” sang 3 ngôn ngữ Anh, Pháp, La tinh. Tuy nhiên, ít thấy những chứng từ minh nhiên và đầy đủ về khả năng ngoại ngữ xuất chúng của thánh Philipphê Minh, nhất là khả năng về La tinh và Anh ngữ. Vì thế, lập trường hay giả thuyết “linh mục Laurent Huỳnh Lâu là tác giả thi phẩm ‘Inê tử đạo vãn’ và cũng chính là người chuyển ngữ tác phẩm này sang 3 thứ tiếng Anh, Pháp và La tinh xem ra đáng thuyết phục nhất!
 
Tuy nhiên, chúng ta đừng quên, “vãn là một loại hình văn chương, văn học bình dân, yếu tố “tác giả” không là lựa chọn ưu tiên của những người chọn thể loại văn chương này đế sáng tác. Mục đích của các tác giả của những thi phẩm này chỉ để cho bàn dân thiên hạ ngâm nga, thưởng thức, loan truyền…


 4. “Inê tử đạo vãn”: thời điểm xuất hiện và giá trị lan tỏa:
 
4.1 “Inê tử đạo vãn”: một loại hình văn chương thuộc “văn học dân gian”:
 
Theo cách hiểu chung chung, “Vãn” là một loại “thơ cổ”. Riêng nhà nghiên cứu Giáo sư Nguyên Văn Trung, trong bài khảo luận đứng chung tên với tác giả Đỗ Như Thắng, lại xếp “Vãn” vào loại “Văn học dân gian”, và “Inê vãn” thuộc loại văn chương này: “Một bộ phận văn học dân gian được phổ biến rộng rãi trong giới Công giáo là vãn và tuồng. Chúng đã được lưu truyền khá lâu (như bài “Inê tử đạo vãn” kể sự tích một nhân vật Việt Nam có thực được in trong Tự điển Latinh-Annam của Taberd từ năm 1838)”[75]. Trong một chỗ khác của bài viết này, tác giả lại khẳng định: “Về nội dung: vì vãn, tuồng đạo thuộc văn học dân gian không rõ ai là tác giả, cho nên khi sưu tầm, chúng tôi chỉ chú trọng vào nội dung tác phẩm có liên quan đến đạo”[76]. Sau đó, khi nhắc đến “Đặc điểm” của vãn và tuồng, tác giả cũng đã nhấn mạnh đến yếu tố “bình dân”, nét đặc trưng của “văn học dân gian”: 
 
“Vãn, tuồng đạo thường đơn sơ giản dị gần gũi với tâm hồn của quần chúng. Tính cách bình dân này thể hiện ngay nơi việc lựa chọn thể loại văn học để sáng tác, ngôn ngữ để sử dụng. Bởi đa số những người theo đạo đầu tiên ở nước ta thường thuộc tầng lớp dưới của xã hội, để giúp họ hiểu rồi sống đạo, các vị thừa sai, các thầy giảng… dùng vãn (vốn là lối văn vần bình dân), tránh sử dụng ngôn ngữ văn chương bóng bẩy quá mà thiên về việc dùng những lời lẽ nôm na dễ thuộc, dễ nhớ… để họ ngâm nga khi lao động, lúc nghỉ ngơi hay trong giờ nguyện gẫm”[77].
 
  1. 4.2 “Inê Tử đạo vãn” được sáng tác và lan tỏa trong sinh hoạt đức tin Công giáo:
 
 
Dựa theo các kết luận nghiên cứu của hai tác giả ĐỖ QUANG CHÍNH và NGUYỄN ĐỨC THÔNG[78]: Inê tử đạo vãn chính là tác phẩm quốc ngữ được sáng tác và lưu hành trong giai đoạn hệ thống chữ viết này đã phát triển và kiện toàn; và có thể nói được, nó nằm trong khoảng thời gian của hai cuốn Tự điển về quốc ngữ quan trọng: Cuốn Anamitico-Latinum 1772 của Đức cha Pigneau de Béhaine và hai cuốn Tự điển Anamitico-Latinum & Latino-Anamiticum 1838 của Đức cha Taberd, mà theo ngôn ngữ của nhà nghiên cứu NGUYỄN ĐỨC THÔNG, đó là giữa “Lần chỉnh sửa thứ nhất (1772) và “Lần chỉnh sửa thứ hai” (1838).

Dựa theo các chứng từ cuộc tử đạo của chị Anê Huỳnh Thị Thanh: tử đạo năm 1700 và cuộc đời cũng như hoạt động mục vụ của cha Laurent Huỳnh Lâu (1656-1732), thì chúng ta có thể khẳng định: tác phẩm trường thi “Inê tử đạo vãn” xuất hiện sau năm 1700 (tức năm chị Anê tử đạo) và trước năm 1732 (tức năm cha Laurent Huỳnh Lâu qua đời).

Chắc chắn, một đàng do cái chết tử vì đạo của chị Anê mang dáng đứng hào hùng của một người phụ nữ, người mẹ Công giáo giữa thời bách hại, và một đàng, câu chuyện đó, lời chứng đó đã được dệt thành những vầng thơ “vãn” bằng chữ quốc ngữ, một thứ chữ với những vầng thơ lục bát… vừa hấp dẫn, vừa bình dân lại vừa văn minh đang chi phối xã hội lúc bấy giờ, nên “Inê vãn tử đạo” đã có sức lan tỏa và chinh phục rộng rãi các cộng đoàn tín hữu bình dân cũng như giới Công giáo tinh hoa lúc bấy giờ.  Để khẳng định điều này, chúng ta cần đọc lại chứng từ trong tác phẩm của linh mục sử gia Louvet (đã trích dẫn ở trên): “… Một nhà thơ Công giáo đã viết về những đau khổ của bà bằng những vần thơ rất đẹp; và cho đến ngày nay, câu chuyện cảm động về cái chết của chị Anê và các bạn đồng hành của bà vẫn được đọc lên trong các trường học, hoặc hát vào buổi tối trong những buổi họp mặt gia đình…” (x. LOUVET sđd, tr. 336).
 
4.3 “Inê tử đạo vãn”: khẳng định giá trị của quốc ngữ trên trường quốc tế: 
 
Phải chăng chính vì sự “nổi tiếng” của thiên trường ca tử đạo này mà “ban biên soạn” Tự điển Taberd đã quyết định đưa tác phẩm này vào trong cuốn Tự điển LatinoAnamiticum 1838.

Như chúng ta đã nói ở trên về cuốn “Tự điển Taberd I (Anamitico-Latinum), đó là trong phần dẫn nhập của cuốn Tự điển này có phần cắt nghĩa tóm tắt về các thể thơ An Nam (Compendium versificationis Anamiticæ), ban biên soạn đã giới thiệu các bài thơ, văn tế mẫu. Phải chăng, “Inê tử đạo vãn” được giới thiệu như một tác phẩm tổng hợp các loại hình thơ, văn tế, như một “bài mẫu tiêu biểu”, nhưng vì tác phẩm này quá dài (561 câu), nên thay về đặt ở phần “tóm tắt” (Compendium) nầy của cuốn Tự điển I, ban biên soạn đã mang sang đặt ở phần phụ lục của cuốn Tự điển II (LatinoAnamiticum) với thứ tiếng Anh, Pháp, La tinh và Việt ngữ (quốc ngữ)!

Vả lại, chính trong cuốn “Tự điển II” mới có phần tự vựng bốn thứ tiếng: Anh,
Pháp, La tinh và Việt ngữ. Do đó, tác phẩm “Inê tử đạo vãn” đã được dịch sang 3 thứ tiếng Anh, Pháp, La tinh, vừa để khẳng định sự phong phú và đầy đủ của chữ quốc ngữ vừa giới thiệu và quảng bá vẻ đẹp của nền thi ca Việt Nam.
 
Kết: Có còn không tâm thức “không kể đàn bà con nít…”!
 
Cách đây 2000 năm, tâm thức chung của dân tộc Israel và cũng là xu hướng chung của thế giới đó là “trọng nam khinh nữ” mà có lẽ một lối nói được Tin Mừng Matthêô sử dụng hai lần trong hai lần “phép lạ hóa bánh ra nhiều” là một thí dụ điển hình: “Không kế đàn bà con nít!” (Mt 14,21; 15,38).

Tâm thức này hình như cũng chưa được gột rửa hết trong não trạng của một số dân tộc, cộng đồng mà Giáo Hội Công giáo tại Việt Nam chúng ta có thể là một trong số đó! Sở dĩ nói “hình như”, vì không biết vì lý do gì mà trong số 117 vị thánh Tử đạo Việt Nam lại chỉ có mỗi một vị thánh nữ: Anê Lê Thị Thành; trong khi suốt chiều dài lịch sử bách hại của Giáo Hội Công giáo Việt Nam đã có hàng trăm, hàng ngàn những nữ giáo dân, những nữ tu… đã đổ máu làm chứng đức tin! Sở dĩ nói “hình như” vì trong khi các hồ sơ của các vị tôi tớ Chúa tử đạo như các nữ tu Mến Thánh giá Anê Soạn, Anna Trị, nữ giáo dân Huỳnh Thị Lưu vẫn còn “nằm im” trong văn khố thì chúng ta lại đang hồ hỡi tiến hành các hồ sơ của những “vị đàn ông”: linh mục F.X. Trương Bữu Diệp, Đức Hồng y F.X. Nguyễn Văn Thuận, các Đức cha Lambert de la Motte, Fr. Pallu, Jean Cassaigne… Vâng toàn đàn ông!

Và sở dĩ nói “hình như” vì chân dung của một nữ giáo dân, Anê Huỳnh Thị Thanh, một người mẹ anh hùng tử đạo rành rành, qua chứng từ lịch sử “chắc như bắp”, qua thiên anh hùng ca quốc ngữ vào hạng có một không hai… mà hình như chẳng có ai hay, chẳng được ai biết! Phải chăng vì cái tâm thức chết tiệt “không kể đàn bà con nít”!  Thế nhưng, trong hàng ngũ “những người nghèo của Gia-vê” (Anawim) hay những “người nghèo của Tin Mừng Tám mối phúc thật” chắc chắn phải “kể đàn bà và con nít”! Riêng Giáo Hội thì không ngừng hô hoán: “ưu tiên lựa chọn người nghèo”. Chúng ta thử nghe một đoạn trong “Văn Kiện Chung Kết” của Thượng Hội Đồng Giám Mục thứ XVI:
 
“Việc ưu tiên chọn lựa người nghèo là điều tiềm ẩn trong đức tin Kitô học. Người nghèo có sự hiểu biết trực tiếp về Chúa Kitô đau khổ. (x. EG 198), điều này làm cho họ trở thành những sứ giả của ơn cứu độ được đón nhận như một quà tặng, và là những chứng nhân cho niềm vui Tin Mừng. Giáo Hội được kêu gọi trở nên nghèo với người nghèo, thường là thành phần chiếm đa số các tín hữu, và lắng nghe họ, cùng nhau học cách nhận ra các đặc sủng mà họ được Chúa Thánh Thần ban cho, và coi họ là những chủ thể của việc loan báo Tin Mừng”[79].
 
Tuyên bố như thế, nhưng không phải lúc nào Giáo Hội cũng thực hành như những gì mình tuyên bố. Thượng Hội Đồng đã “xét mình” và đã nhận ra:
 
“Chúng ta làm chứng cho Tin Mừng khi chúng ta cố gắng sống những mối tương quan tôn trọng phẩm giá bình đẳng và hỗ tương giữa nam và nữ. Trong tiến trình Thượng Hội đồng, những sự bày tỏ thường xuyên về đau khổ của phụ nữ từ mọi khu vực và mọi lục địa, cả giáo dân lẫn tu sĩ, cho thấy chúng ta thường không tôn trọng như nói trên”[80].
 
Chắc chắn nữ giáo dân tử đạo Anê Huỳnh Thị Thanh đang hạnh phúc trên quê trời không cần chúng ta công nhận hay khám phá, học biết về ngài để tôn vinh ngài như một thần tượng. Quả thật điều đó chẳng “Kitô giáo” hay chẳng “Phúc âm” chút nào! Tuy nhiên, trong cuộc lữ hành Năm Thánh 2025 này, chúng ta được gọi mời tiến bước trong một cuộc “hành hương đạo đức đến bất kỳ địa điểm thánh nào của Năm Thánh” (Sắc lệnh ban ân xá của  Tòa Ân giải tối cao). Việc tìm hiểu, học hỏi và cầu nguyện với vị tử đạo “bị lãng quên” này nào chẳng phải như Giáo Hôi tuyên bố… “như thể  thực hiện một cuộc hành hương đến với Chúa Kitô hiện diện trong họ” (Sắc lệnh ban ân xá của  Tòa Ân giải tối cao). Và dĩ nhiên, ngoài việc nhận lãnh hồng ân nhờ lời nguyện giúp cầu thay của “Bông hồng tử đạo bị lãng quên” này, chúng ta sẽ có được điều mà ba trăm năm trước, khi chắp bút cho những vầng thơ ca tụng người em gái, người giáo dân, người mẹ tử đạo, cha Laurent Huỳnh Lâu đã ước mong:
 
Bia vàng tạc chữ chí linh, 
Để truyền sách ấy nối dòng đời sau, Inê là hiệu làm đầu. 
Hiền kia thánh nọ xem làu bổn căn, 
Giáo nhơn học lấy làm lòng, 
Giữ trong mười giới thì thông lẽ mầu. (Inê tử đạo vãn)
 
 
(Viết xong ngày 15.01.2025)
 
 
[49] LM. TRĂNG THẬP TỰ (Chủ biên), Hướng đến 400 năm văn học Công giáo Việt Nam (1632-2032), sđd, GS.
TRẦN VĂN TOÀN, “Chữ Quốc ngữ và chữ Nôm – Tự vị Taberd và di sản văn hóa Việt Nam”, tr. 558-569.
[50] LM. GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, Giáo Hội và Văn học Nghệ thuật, Nxb Tôn giáo 2024, tr. 17-25.
[51] X. PHẠM THỊ KIỀU LY, Lịch sử chữ Quốc ngữ (1615-1919), Nxb Văn học 2024, tr. 86-88: CHỮ QUỐC NGỮ: Các giai đoạn sáng tạo – Tổng quan các nghiên cứu liên quan.
[52] NGUYỄN THANH QUANG – LINH MỤC VÕ ĐÌNH ĐỆ, Một số vấn đề chữ Quốc ngữ, Nxb Khoa học xã hội 2020, tr. 296-316, bài viết: Không có ông tổ duy nhất của chữ Quốc ngữ. 
[53] LM. GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, Giáo Hội và Văn học Nghệ thuật, sđd, tr. 25-30.
[54] LM. TRĂNG THẬP TỰ (Chủ biên), Hướng đến 400 năm văn học Công giáo Việt Nam (1632-2032), sđd, PHẠM ĐÌNH KHIÊM, bài “Nhìn qua những chặng đường thi ca Công giáo Việt Nam”, tr. 143: “Đây là một thiên trường ca với 563 câu thơ nôm lục bát kể chuyện tử đạo của bà Inê (Agnès) xảy ra năm 1700 do lệnh cấm đạo của chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725).”
[55] SĐD, bài “Văn học Công giáo chữ Nôm thế kỷ XVII của tác giả LINH MỤC ĐA MINH NGUYỄN ĐỨC THÔNG, tr. 315: “Cuối thế kỷ XVII bước vào thế kỷ XVIII, nền văn học chữ Nôm lại được chứng kiến một tác phẩm có tầm vóc thế giới, Inê Tử đạo vãn của Loren Huỳnh Lâu”.
[56] BÙI CÔNG THUẤN, Văn học Công giáo Việt Nam đương đại, sđd, tr. 134: “Căn cứ vào những nguồn tư liệu đáng tin cậy, trong cuốn “Văn học Công giáo Việt Nam, những chặng đường” trang 134, Lê Đình Bảng cho biết: Inê Tử đạo vãn là một thiên trường ca bi trang với 564 câu thơ Nôm lục bát và song thất lục bát phức hợp nội dung kể chuyện bà Inê Thanh chết rủ tù vì đạo năm 1700 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) ở Đàng Trong…”
[57] BÙI CÔNG THUẤN, Văn học Công giáo Việt Nam đương đại, sđd, bài “Inê Tử đạo vãn, những vấn đề nhìn từ văn bản, tr. 457: “Bài vãn dài 562 câu lục bát Nôm, có xen kẻ những “cáo trạng” viết bằng chữ Hán, thể tự do…”. 64 LM. TRĂNG THẬP TỰ (Chủ biên), Hướng đến 400 năm văn học Công giáo Việt Nam (1632-2032), sđd, NGUYỄN VĂN TRUNG – ĐỖ NHƯ THẮNG, Bước đầu giới thiệu và tìm hiểu Vãn – Tuồng đạo, tr. 685: VÕ LONG
[59] SĐD, tr. 685.
[60] ĐỖ QUANG CHÍNH, Dòng Tên trong xã hội Đại Việt, Nxb An Tôn & Đuốc Sáng 2007 (in tại Việt Nam 2008), tr. 283 (phần bài viết và 2 Ghi chú: 281, 282).
[61] Về năm chết của Laurent Huỳnh Lâu, tác giả Đỗ Quang Chính để năm 1712. Tuy nhiên, theo tài liệu của linh mục sử gia Launay (MEP) thì ghi rõ ngài qua đời năm 1732: “M. Laurent mort à Hué ou dans les environs vers la fin de l’année 1732” (x. LAUNAY, vol. II, tr. 42-43). Vì thế từ nay xin thống nhất theo mốc thời gian này: 1732.
[62] ĐỖ QUANG CHÍNH, Dòng Tên trong xã hội Đại Việt, sđd, tr. 454.
[63] LM. TRĂNG THẬP TỰ (Chủ biên), Hướng đến 400 năm văn học Công giáo Việt Nam (1632-2032), sđd, tr. 685.
[64] PHẠM THỊ KIỀU LY, Lịch sử chữ Quốc ngữ (1615-1919), sđd, tr. 262.
[65] X. ĐỖ QUANG CHÍNH, SJ., Lịch sử hình thành chữ quốc ngữ 1620-1659, Nxb Tôn giáo 2008, tr. 22-178. Trong tác phẩm này, tác giả chỉ tóm tắt tiến trình hình thành chữ quốc ngữ trong giai đoạn của Dòng Tên, tức giai đoàn hình thành với 3 cột mốc chính: Dọn đường (1620-1648); chính thức hình thành (1651); chuẩn bị lấy đà để phát triển (1659).
[66] Theo nhà nghiên cứu LINH MỤC TIẾN SĨ NGUYỄN ĐỨC THÔNG CSSR trong bài khảo luận “Văn học Công giáo từ 1620 đến nay” thì giai đoạn hoàn chỉnh chữ quốc ngữ được đánh dấu với hai cột mốc chính: năm 1772: Lần chỉnh sửa thứ nhất và năm 1838: Lần chỉnh sửa thứ hai. Đây là hai cột mốc ra đời của hai pho tự điển: Tự điển của Bigneau de Béhaine (1772) và Tự điển của Taberd (1838). (x. ỦY BAN VĂN HÓA/HĐGMVN/TÀI LIỆU HỘI THẢO, Bốn trăm năm hình thành & phát triển chữ quốc ngữ trong lịch sử loan báo Tin mừng tại Việt Nam, tr. 278-280).
[67] PHẠM THỊ KIỀU LY, Lịch sử chữ Quốc ngữ (1615-1919), sđd, tr. 262-270.
[68] SĐD, tr. 278-287: Từ điển biên soạn dưới sự chỉ đạo của Pigneau de Béhaine.
69 SĐD, tr. 287-291: Hai từ điển của Taberd (1838).
[70] LOUIS-EUGÈNE LOUVET, La Cochinchine Religieuse, sđd, tr. 336.
[71] ADRIEN LAUNAY, Histoire de La Mission de Cochinchine, sđd, tr. 465 Ghi chú 1.
[72] 78 SĐD, tr. 605-606.
[73] SĐD, tr. 536.
[74] LM. TRĂNG THẬP TỰ (Chủ biên), Hướng đến 400 năm văn học Công giáo Việt Nam (1632-2032), sđd, NGUYỄN VĂN TRUNG – ĐỖ NHƯ THẮNG, Bước đầu giới thiệu và tìm hiểu Vãn – Tuồng đạo, tr. 685: “Chữ quốc ngữ năm 1838” của Nguyễn Khắc Xuyên, đăng trong tạp chí Văn Lang số 4 tháng 12 năm 1992 ở CA – USA.”
[75] SĐD, tr. 676.  
[76] SĐD, tr. 677-678.
[77] SĐD, tr. 681-682.
[78] Xem lại hai Ghi chú số 72 & 73 nói về các giai đoạn hình thành và phát triển chữ quốc ngữ.
[79] ĐẠI HỘI THƯỜNG LỆ LẦN THỨ XVI CỦA THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC, HƯỚNG ĐẾN MỘT HỘI THÁNH HIỆP HÀNH: HIỆP THÔNG, THAM GIA, SỨ VỤ, Văn kiện chung kết ngày 26.10.2024, linh mục Lê Công Đức PSS chuyển ngữ (để tham khảo), số 19.
[80] SĐD, số 52.
 
THƯ MỤC SÁCH VÀ TƯ LIỆU THAM KHẢO
(Theo thứ tự Ghi chú)
 
  1. THÁNH LÊÔ CẢ, Bài đọc II Kinh Sách lễ Giáng Sinh.
 
  1. NHẬT THÙY, Chúc mừng Giáng Sinh, vì sao nói “Merry Christmas” thay vì “Happy Christmas”?, website Báo điện tử VTC News - Đọc báo tin tức trong ngày hôm nay, đăng ngày 23/12/2024).
 
  1. ĐGH PHANXICÔ, Tông huấn Gaudete et exsultate” (Hãy Vui mừng hoan hỉ).
 
  1. NGUYỄN THỪA HỶ (Tuyển dịch, giới thiệu và bổ chú), Việt Nam thế kỷ XVII, XVIII, XIX, Nxb Khoa Học Xã Hội 2020.
 
  1. MICHEL TRƯƠNG, đăng trên trang web của HĐGMVN ngày 20.8.2021, link: LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH HỘI THỪA SAI PARIS.
 
  1. ADRIEN LAUNAY, Histoire de La Mission de Cochinchine, vol. I, II, Paris, 1923.
 
  1. NGUYỄN HỮU TRỌNG, Nguồn gốc hàng giáo sĩ Việt Nam, Nxb Tôn giáo 2023
 
TẠ THANH MINH KHÁNH, bài viết “Người nữ thời cấm đạo”, đăng ngày 22.6.2018 trên website của Giáo phận Ban Mê Thuột: http://gpbanmethuot.com/giao-duc-kitogiao/nguoi-nu-thoi-cam-dao-43110.html.
 
  1. HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM, GIÁM MỤC PHÊRÔ NGUYỄN VĂN KHẢM CHỦ BIÊN, Hạnh Các Thánh Tử đạo Việt Nam, Nxb Tôn giáo 2018.
 
  1. P. LAMBERT DE LA MOTTE, Ký sự giản lược cuộc hành trình của các thừa sai tông tòa do Tòa Thánh trực tiếp sai tới các vương quốc Trung Hoa, Đàng Ngoài, Đàng Trong, Lào, đảo Hải Nam, AMEP, vol. 121.
 
  1. TÒA GIÁM MỤC GIÁO PHẬN NHA TRANG, Kỷ yếu Giáo phận Nha Trang, 60 năm hình thành & phát triển – 1957-2017, Nxb Tôn giáo 2017.
 
  1. ĐÀO QUANG TOẢN, Lịch sử Giáo phận Đàng Trong, Nxb Tôn giáo 2023.
 
  1. PHAN KHOANG, Việt sử: xứ Đàng Trong, Nxb Khoa học xã hội 2016.
 
  1. BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian, Nxb An Tôn & Đuốc sáng 2017.
 
  1. L. TABERD, (TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC HỌC), Dictionarium AnamaticoLatinum, Nxb Văn Học (VH) 2018.
 
  1. HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM, ỦY BAN VĂN HÓA, Tài liệu hội thảo, 25&26.10.2019, “Bốn trăm năm hình thành & phát triển chữ quốc ngữ trong lịch sử loan báo Tin Mừng tại Việt Nam, tr. 344-351.
 
  1. NGUYỄN VĂN SÂM, Văn học Nam Hà (Văn học Đàng Trong thời phân tranh), Nxb Lửa Thiêng 1972, tr. 231-244.
 
  1. J.L. TABERD, Dictionarium Latino-Anamiticum, Nxb Marshman 1838.
 
  1. TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, Đất & Tên qua dấu thăng trầm, xuất bản lưu hành nội bộ năm 2023
 
  1. TRẦN THUẬN, Đàng Trong lịch sử và văn hóa, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2021.
 
  1. BÙI CÔNG THUẤN, Văn học Công giáo Việt Nam đương đại, Nxb Hội nhà văn 2022.
 
  1. LM. TRĂNG THẬP TỰ (Chủ biên), Hướng đến 400 năm văn học Công giáo Việt Nam (1632-2032), Quyển I.
 
  1. NGUYỄN HỮU TRỌNG, Nguồn gốc hàng giáo sĩ Việt Nam, Nxb Tôn giáo 2023.
 
  1. ĐỨC ÔNG VINH SƠN TRẦN NGỌC THỤ, Giáo hội Việt Nam những thời kỳ bị bách hại và những sắc chỉ cấm đạo, website catholic.org.tw
 
  1. CAO THẾ DUNG, Việt Nam Công giáo sử tân biên (1533-2000), Quyển II, Cơ sở truyền thông Dân Chúa xuất bản 2002.
 
  1. LOUIS-EUGÈNE LOUVET, La Cochinchine Religieuse, Tập I, Paris 1885.
 
  1. LM. GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, Giáo Hội và Văn học Nghệ thuật, Nxb Tôn giáo 2024.
 
  1. PHẠM THỊ KIỀU LY, Lịch sử chữ Quốc ngữ (1615-1919), Nxb Văn học 2024.
 
  1. NGUYỄN THANH QUANG – LINH MỤC VÕ ĐÌNH ĐỆ, Một số vấn đề chữ Quốc ngữ, Nxb Khoa học xã hội 2020.
 
  1. ĐỖ QUANG CHÍNH, Dòng Tên trong xã hội Đại Việt, Nxb An Tôn & Đuốc Sáng 2007 (in tại Việt Nam 2008).
 
  1. ĐỖ QUANG CHÍNH, SJ., Lịch sử hình thành chữ quốc ngữ 1620-1659, Nxb Tôn giáo 2008.
 
  1. ĐẠI HỘI THƯỜNG LỆ LẦN THỨ XVI CỦA THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC, HƯỚNG ĐẾN MỘT HỘI THÁNH HIỆP HÀNH: HIỆP THÔNG, THAM GIA, SỨ VỤ, Văn kiện chung kết ngày 26.10.2024, linh mục Lê Công Đức PSS chuyển ngữ (để tham khảo), số 19.

 
 
 

Tác giả: Giuse Trương Đình Hiền

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

  Ý kiến bạn đọc

Chúng tôi trên mạng xã hội

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây