Trang mới   https://gpquinhon.org

Tật xấu người Việt qua tục ngữ

Đăng lúc: Thứ bảy - 03/05/2014 19:05
Tật xấu người Việt qua tục ngữ
(làm trai cứ nước hai mà nói)

 
Nguyễn Đức Dân

Kho tàng tục ngữ Việt phản ánh triết lý, xã hội văn hóa  người Việt. Những ưu điểm, phẩm chất cao đẹp của dân tộc ta được bộc lộ trong tục ngữ. Tay có ngón ngắn ngón dài, người có năm bảy hạng, nên có những quan điểm sống trái ngược nhau. Do vậy TN cũng là tấm gương phản chiếu những tật xấu, nhân sinh quan của một bộ phận người Việt. 

Quanh năm sống trong  lũy tre làng, với phương thức sản xuất cá thể, đi sau con trâu và cái cầy chìa vôi cả bao đời không đổi với cây lúa phát triển từ từ, người nông dân thấy mình là trung tâm. Những điều này tạo ra ở một bộ phận người Việt, trước hết là nông dân, những tật xấu về tính cách và suy nghĩ được đọng lại trong TN.

Trước hết đó là tính cá nhân, vị kỷ, chỉ biết vơ vén cho mình, cho gia đình, họ hàng, với lối sống khôn lỏi, ranh vặt khôn sống mống chết, khôn ăn người dại người ăn. Và tạo ra những vây cánh họ tộc, trong họ ngoài làng, một người làm quan cả họ được nhờ. Người Việt trọng miếng ăn, đánh mõ không bằng gõ thớt, muốn ăn trước người, còn khó khăn, nguy hiểm đùn cho người khác, ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau. Của chùa, của người thì bồ tát mặc sức xài xả láng, còn của mình thì lạt buộc. Điều gì cá nhân không hưởng lợi thì không làm: Ôm rơm rặm bụng. Việc chung sẽ có người khác lo, tội gì ăn cơm nhà, vác tù và hàng tổng, chỉ tổ lắm thóc, nhọc xay. Ấy vậy nên cha chung không ai khóc.  Lối sống vô cảm cháy nhà hàng xóm bình chân như vại, sống chết mặc bay, tiền thày bỏ túi cũng sinh ra từ tính cá nhân, ích kỷ.

Muốn sống yên ổn trong một xã hội nhiều tai bay vạ gió con người phải thu mình lại,  tránh những vạ miệng, nói năng nước đôi, người khôn ăn nói nửa chừng, để cho kẻ dại nửa mừng nửa lo, làm trai cứ nước hai mà nói hoặc mũ ni che tai, việc ai chẳng biết. Có lối sống an phận lão giả an chi, nhẫn nhục im lặng ngậm miệng ăn tiền, cam chịu thân hèn không dám động đến  những người  quyền chức, còn do miệng quan trôn trẻ, lươn lẹo khó lường. Thấp cổ bé họng, nhưng muốn sống an toàn nên sẵn sàng lo lót, chạy chọt. Trong bức tranh dân gian Đông Hồ Đám cưới chuột nổi tiếng, họ nhà chuột biết đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn nên cũng phải lo lót quà cáp cho mèo để được đầu xuôi đuôi lọt. Dẫu nghề nào cũng “ăn”, cũng  “tham nhũng vặt” thợ may ăn giẻ, thợ vẽ ăn hồ, thợ bồ ăn nan, thợ hàn ăn thiếc… nhưng nghề làm quan thì hết biết: quan thấy kiện như kiến thấy mỡ. Nghề làm quan kiếm ăn dễ nhất, “khủng” nhất, tham nhũng lớn nhất khiến bà mẹ phải thốt lên con ơi mẹ bảo con này//cướp đêm là giặc cướp ngày là quan. Quan mới hay bới chuyện. Vô phúc mới lôi nhau lên quan. Vô phúc đáo tụng đình, tụng đình rình vô phúc, bởi nén bạc đâm toạc tờ giấy. Dân gian châm biếm về “lẽ phải” khi quan xử kiện: Họ lôi nhau lên quan. Một người lo lót 5 nén bạc. Ra công đường, người này bị xử thua. Tức quá, anh này xòe 5 ngón tay ra hiệu quan  đã “ăn” 5 nén bạc. Quan xòe hai bàn tay 10 ngón ra nói: nó phảibằng hai” mày (!). Kiện những chức sắc là chuyện con kiến mà kiện củ khoai. Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã mà. 

Ông chánh án Lương Quang xử vụ 5 công an đánh chết người phân trần “Chúng tôi chịu rất nhiều áp lực…chúng tôi phải biết chọn giải pháp nào để giải quyết cho an toàn. Trong cuộc sống có những việc biết lẽ ra như thế này nhưng người ta không làm như thế mà làm khác một chút để bảo đảm mối quan hệ cho tốt” (dẫn NLĐ, 5.4.2014). Ông đã nói huỵch toẹt không cần xử theo công lý mà xử theo kiểu đánh chó phải ngó chủ, gió chiều nào che chiều ấy, cốt sao được an toàn. Và cũng là lối sống phù thịnh, chẳng ai phù suy. Ai chẳng may gặp rủi ro, thất thế thì người ta nhờ gió bẻ măng, thừa cơ đục nước béo cò, giậu đổ bìm leo dìm cho chết luôn.

Coi mình là trung tâm, cái gì của mình cũng hơn, và thiên lệch đến vô lý ta về ta tắm ao ta… dù đục ao nhà vẫn hơn. Mình là nhất nên không thích và cũng không có khả năng hợp tác, nhất là khi quyền hành nắm trong tay. Hậu quả là lắm thày thối ma, lắm cha con khó lấy chồng. Tự cao đấy nhưng cũng lại tự ti đấy: văn mình, vợ người. Từ đây, sinh lối sống hưởng thụ, hám của lạ. 

Anh em sinh đôi của tính ích kỷ, cá nhân là bệnh háo danh, dẫu là hư danh. Trạng Quỳnh từng được người làng cầu cạnh giúp họ trở nên ông nọ bà kia, với cuộc đời một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp.  Sinh thói trọng hình thức, rồi nạn mua quan bán tước. Có cầu ắt có cung. Hình thành những người hành nghề “chạy” (chạy chức, chạy quan, chạy bằng cấp, chạy huân chương, chạy danh hiệu) và những người làm giả tất tần tật mọi thứ, tạo ra một xã hội đầy rẫy những giá trị giả. Háo danh nên chỉ thích được khen, khó chịu cả với những lời chê hợp lý. Người Việt chỉ sợ mang tiếng chứ không sợ làm điều xấu. Trong các từ điển tiếng  Việt, chỉ có cụm từ (sợ) 
mang tiếng, (sợ) mất mặt mà không thấy (sợ) cái xấu. Còn công việc thì lại  đùn đẩy nhau trách nhiệm, biên chế càng phình lên thì công việc càng rối và bê trễ, lắm sãi không ai đóng cửa chùa. Đáng sợ nhất là thói kèn cựa con gà tức nhau tiếng gáy, trâu buộc thì ghét trâu ăn, quan võ thì ghét quan văn dài quần và thậm chí không ăn thì đạp đổ.

Một xã hội mà tính cá nhân, đố kỵ nổi trội lại rất háo danh và coi trọng hình thức  sẽ không có chỗ đứng cho những người tài, muốn đóng góp cho đất nước luôn vươn tới những tầm cao mới.

 
Tác giả bài viết: Ts. Nguyễn Đức Dân
Nguồn tin: ngonnguviet.blogspot.com
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

 

   

LƯỢT XEM TRANG

  • Đang truy cập: 19
  • Khách viếng thăm: 16
  • Máy chủ tìm kiếm: 3
  • Hôm nay: 7219
  • Tháng hiện tại: 142624
  • Tổng lượt truy cập: 12286884