Bài giảng của Đức Thánh Cha - Lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời (2/11)

Thứ bảy - 01/11/2025 10:05
 

Đức Phanxicô, Bài giảng lễ Cầu cho các hồng y và giám mục đã qua đời (04/11/2024) - Xin nhớ đến con

Đức Phanxicô, Bài giảng lễ Cầu cho các tín hữu đã qua đời (02/11/2023) - Ký ức và hy vọng

Đức Phanxicô, Bài giảng lễ Cầu cho các hồng y và giám mục đã qua đời (04/11/2021) - Nghệ thuật chờ đợi Chúa

Đức Phanxicô, Bài giảng lễ Cầu cho các hồng y và giám mục đã qua đời (05/11/2020) - Giá trị của đức tin

Đức Phanxicô, Bài giảng lễ Cầu cho các tín hữu đã qua đời (02/11/2019) - Căn tính, nơi chốn và niềm hy vọng

Đức Phanxicô, Bài giảng lễ Cầu cho các hồng y và giám mục đã qua đời (04/11/2019) - Niềm tin vào sự phục sinh

Đức Phanxicô, Bài giảng lễ Cầu cho các hồng y và giám mục đã qua đời (03/11/2018) - Chuẩn bị đón Tân Lang với tình yêu


Đức Phanxicô, Bài giảng lễ Cầu cho các hồng y và giám mục đã qua đời (04/11/2024) - Xin nhớ đến con

“Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23,42). Đó là những lời cuối cùng được thưa lên với Chúa Giêsu, lời này được thưa lên bởi một trong hai người bị đóng đinh cùng với Người. Những lời ấy không phải của một trong các môn đệ đã từng theo Chúa Giêsu trên các nẻo đường xứ Galilê và cũng không phải là các môn đệ đã cùng chia sẻ tấm bánh với Người trong Bữa Tiệc Ly. Trái lại, người đã thưa những lời ấy với Chúa là một kẻ tội lỗi, một người chỉ gặp Người vào giây phút cuối cùng của cuộc đời, và chúng ta thậm chí còn không biết tên người ấy.

Tuy nhiên, trong Tin mừng, những lời cuối cùng của “người ngoài cuộc” này lại mở ra một cuộc đối thoại đầy chân thật. Ngay khi Chúa Giêsu bị “liệt vào hàng tội nhân” (Is 53,12) như lời ngôn sứ Isaia đã tiên báo, một tiếng nói bất ngờ vang lên, rằng: “Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” (Lc 23,41). Quả thật là như thế. Người thốt lên những lời ấy tượng trưng cho hết thảy chúng ta; mỗi người trong chúng ta đều có thể đặt mình vào vị trí của ông. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn cả là chúng ta có thể lấy lời khẩn cầu của ông làm lời cầu nguyện cho chính mình: “Lạy Giêsu, xin nhớ đến con.” “Xin giữ con trong ký ức của Chúa.” “Xin đừng quên con.”

Chúng ta hãy suy niệm về từ “nhớ”. “Nhớ” (tiếng Ý: ricordare) có nghĩa là “dẫn trở về trái tim (cor)”, nghĩa là mang vào trong trái tim. Người cùng chịu đóng đinh với Chúa Giêsu ấy đã biến nỗi đau tột cùng của mình thành một lời cầu nguyện: “Lạy ông Giêsu, xin mang tôi trong trái tim của ông.” Những lời ấy không phát xuất từ tuyệt vọng hay thất bại, nhưng là tiếng nói của hy vọng. Người tội nhân này, kẻ đang chết như một người môn đệ Chúa trong những giây giờ phút cuối cùng, chỉ ước mong một điều duy nhất: tìm được một trái tim biết đón nhận. Đó là điều duy nhất ông còn quan tâm, khi thấy mình hoàn toàn bất lực trước cái chết. Và Chúa đã lắng nghe lời cầu xin của người tội lỗi này, ngay cả trong giờ cuối cùng - như Người vẫn luôn làm như thế. Trái tim của Đức Kitô - một trái tim mở ra, chứ không khép lại - bị đâm thâu bởi đau khổ, nhưng được mở ra để cứu độ thế gian. Khi chính Người đang hấp hối, Người vẫn mở trái tim ra với tiếng kêu của một kẻ đang hấp hối. Chúa Giêsu chết với chúng ta, bởi vì Người đã chết cho chúng ta.

Bị đóng đinh dù vô tội, Chúa Giêsu vẫn đã đáp lại lời cầu xin của một người chịu đóng đinh vì tội lỗi của mình: ‘Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng’ (Lc 23,43). Việc Chúa nhớ đến rất hữu hiệu vì đó là hành động giàu lòng thương xót. Kẻ bị kết án được cứu chuộc; người lạ trở thành bạn đồng hành; một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi trên thập giá sẽ dẫn đến an bình vĩnh cửu. Điều này khiến chúng ta suy nghĩ: Tôi đã gặp gỡ Chúa Giêsu thế nào? Hay đúng hơn, tôi có để Chúa Giêsu gặp gỡ tôi không? Tôi có để cho mình được gặp gỡ, hay tôi khép kín trong ích kỷ, trong đau khổ, trong sự tự mãn? Tôi có ý thức mình là tội nhân, để cho phép Chúa đến gặp tôi, hay tôi tự cho mình là công chính, và nói: “Chúa không cần phục vụ con. Xin đi chỗ khác”?

Chúa Giêsu luôn nhớ đến những người bị đóng đinh bên cạnh Người. Lòng cảm thương của Người, cho đến hơi thở cuối cùng, làm cho chúng ta nhận ra rằng có nhiều cách khác nhau để “nhớ” về những con người và những sự việc. Chúng ta có thể nhớ đến lỗi lầm, việc còn dang dở, bạn bè hay kẻ thù. Anh chị em thân mến, hôm nay, trước khung cảnh Tin mừng này, chúng ta hãy tự hỏi: Chúng ta mang người khác trong lòng mình như thế nào? Chúng ta nhớ đến những người đã từng đồng hành với mình trong cuộc đời ra sao? Tôi có phán xét họ không? Tôi có chia rẽ không? Hay tôi biết đón nhận họ trong lòng mình?

Anh chị em thân mến, khi hướng lòng mình về Trái Tim Thiên Chúa, con người hôm nay cũng như mọi thời đại đều có thể tìm thấy niềm hy vọng cứu độ, cho dù “bọn ngu si coi họ như đã chết rồi” (Kn 3,2). Toàn thể lịch sử đều được ghi khắc trong trí nhớ của Chúa. Trí nhớ ấy chính là sự gìn giữ trong yêu thương. Người là Đấng phán xét đầy cảm thông và thương xót. Chúa ở gần chúng ta như một vị Thẩm phán, nhưng là vị Thẩm phán gần gũi, cảm thông và thương xót. Đó là ba thái độ của Chúa. Với ba thái độ này, chúng ta tự hỏi chính mình là: Tôi có gần gũi với người khác không? Tôi có một trái tim cảm thông không? Tôi có biết xót thương không? Với niềm xác tín ấy, hôm nay chúng ta cầu nguyện cho các hồng y và giám mục đã qua đời trong mười hai tháng qua. Ngày tưởng niệm này trở thành lời cầu bầu cho những người anh em thân yêu của chúng ta. Là những phần tử được tuyển chọn trong Dân Thiên Chúa, các ngài đã được thanh tẩy trong cái chết của Đức Kitô (x. Rm 6,3) để được sống lại với Người. Các ngài là những mục tử và gương mẫu cho đoàn chiên của Chúa (x. 1 Pr 5,3). Đã từng bẻ bánh ban sự sống nơi trần gian, giờ đây xin cho các ngài được ngồi vào bàn tiệc của Chúa trên trời. Các ngài đã yêu mến Giáo hội, mỗi người theo cách riêng của mình, nhưng tất cả đều yêu mến Giáo hội. Chúng ta cùng cầu xin cho các ngài được hoan hỷ trong sự hiệp thông vĩnh cửu với các thánh. Với niềm hy vọng vững vàng, chúng ta cùng hướng nhìn về phía trước, mong được chung hưởng niềm vui với các ngài trên Thiên Đàng. Và giờ đây, tôi mời anh chị em cùng tôi lặp lại ba lần lời cầu xin ấy: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhớ đến chúng con!” “Lạy Chúa Giêsu, xin nhớ đến chúng con!” “Lạy Chúa Giêsu, xin nhớ đến chúng con!”

WHĐ (04/11/2024)

 

Đức Phanxicô, Bài giảng lễ Cầu cho các tín hữu đã qua đời (02/11/2023) - Ký ức và hy vọng

Cử hành thánh lễ hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ về hai điều: ký ức và niềm hy vọng.

Ký ức về những người đã đi trước chúng ta, đã sống trọn kiếp người và đã hoàn tất cuộc đời trần thế; ký ức về những người đã làm điều tốt cho chúng ta: trong gia đình, trong tình bạn... Và cũng là ký ức về những người đã không thể làm được nhiều điều tốt, nhưng nay được ghi nhớ trong ký ức của Thiên Chúa, trong lòng thương xót của Người. Đó là mầu nhiệm của lòng thương xót bao la của Thiên Chúa.

Và rồi là niềm hy vọng. Hôm nay là một ngày của ký ức, nhưng là để hướng về phía trước, để nhìn vào hành trình của chúng ta, con đường chúng ta đang đi. Chúng ta đang bước đi đến một cuộc gặp gỡ – với Chúa và với mọi người. Chúng ta cần xin Chúa ban cho ân sủng của niềm hy vọng: một niềm hy vọng không bao giờ làm chúng ta thất vọng, một đức tính thần học sống động, giúp ta bước đi mỗi ngày, vượt qua những khó khăn và tìm thấy lối thoát. Luôn tiến về phía trước – luôn tiến bước. Niềm hy vọng phong nhiêu ấy, tôi gọi là “đức cậy của căn bếp”, vì nó gần gũi, giản dị, luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng ta trong mọi hoàn cảnh. Niềm hy vọng không bao giờ làm thất vọng: chúng ta sống trong sự giằng co giữa ký ức và hy vọng.

Tôi muốn chia sẻ một điều đã chạm đến tôi ngay khi bước vào nghĩa trang này. Tôi nhìn vào tuổi của những người đã ngã xuống: phần lớn chỉ từ 20 đến 30 tuổi. Những cuộc đời bị cắt ngắn, những số phận không có tương lai. Và tôi nghĩ đến các bậc cha mẹ, những người mẹ đã nhận được lá thư: “Thưa bà, tôi trân trọng thông báo rằng con trai bà đã hy sinh như một anh hùng.” Và bà trả lời trong nước mắt: “Vâng, là anh hùng, nhưng người ta đã lấy mất con tôi.” Biết bao giọt nước mắt, biết bao cuộc đời bị chấm dứt quá sớm! Và tôi không thể không nghĩ đến các cuộc chiến ngày nay. Điều ấy vẫn đang xảy ra, biết bao người, trẻ và không còn trẻ – trong các cuộc chiến trên thế giới, ngay cả những cuộc chiến gần chúng ta, ở châu Âu hay nơi khác – bao nhiêu người chết! Sự sống bị hủy diệt, mà người ta dường như không còn ý thức.

Hôm nay, khi tưởng nhớ những người đã khuất, gìn giữ ký ức về họ, và giữ vững niềm hy vọng, chúng ta hãy xin Chúa ban hòa bình, để con người không còn giết nhau trong chiến tranh nữa. Biết bao người vô tội thiệt mạng, biết bao binh sĩ hy sinh cuộc đời mình. Tại sao lại như thế? Chiến tranh luôn là một thất bại, luôn luôn là thất bại. Không có chiến thắng nào là trọn vẹn. Có thể một bên thắng bên kia, nhưng dưới đó vẫn là thất bại – là cái giá phải trả. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các linh hồn đã qua đời, cho tất cả – cho tất cả mọi người: Xin Chúa đón nhận họ hết thảy. Và chúng ta cũng hãy cầu xin Chúa thương xót chúng ta, ban cho chúng ta niềm hy vọng – niềm hy vọng để tiếp tục bước đi, và niềm hy vọng được gặp lại họ tất cả bên Chúa, khi Người gọi chúng ta về. Amen.

WHĐ (02/11/2023)

 

Đức Phanxicô, Bài giảng lễ Cầu cho các hồng y và giám mục đã qua đời (04/11/2021) - Nghệ thuật chờ đợi Chúa

Trong Bài đọc I, chúng ta nghe thấy lời mời gọi này: “Thật tốt đẹp khi một người biết thinh lặng đợi chờ ơn cứu độ của Đức Chúa” (Ac 3,26). Thái độ ấy không phải là điểm khởi đầu, mà là đích đến của một hành trình. Thật vậy, tác giả đã đạt tới điều này vào cuối một cuộc hành trình, một cuộc hành trình đầy khó khăn giúp cho ông lớn lên. Ông học được vẻ đẹp của việc tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng không bao giờ thất tín với những lời hứa của Người. Tuy nhiên, lòng tín thác nơi Thiên Chúa không sinh ra từ sự hứng khởi nhất thời; nó không phải là cảm xúc hay xúc động thoáng qua. Trái lại, nó được hình thành qua kinh nghiệm và trưởng thành nhờ kiên nhẫn, giống như trường hợp của ông Gióp, người đã đi từ “nghe nói về Thiên Chúa” đến một sự hiểu biết sống động và mang tính kinh nghiệm. Và để điều này xảy ra, cần có một sự biến đổi nội tâm lâu dài, qua thử thách của đau khổ, dẫn đến việc hiểu biết cách làm thế nào để chờ đợi trong im lặng, nghĩa là, với sự kiên nhẫn tin tưởng, với một tâm hồn nhu mì. Sự kiên nhẫn này không phải là sự cam chịu, bởi vì nó được nuôi dưỡng bởi sự mong đợi Chúa, Đấng chắc chắn sẽ đến và không làm thất vọng.

Anh chị em thân mến, thật quan trọng biết bao khi học nghệ thuật chờ đợi Chúa! Để chờ đợi Ngài một cách nhu mì, tự tin, xua đuổi những bóng ma, sự cuồng tín và tiếng ồn ào; giữ gìn, đặc biệt là trong những lúc thử thách, một sự thinh lặng tràn đầy hy vọng. Đây là cách chúng ta chuẩn bị cho thử thách cuối cùng và lớn lao nhất của cuộc đời, cái chết. Nhưng trước hết là những thử thách của khoảnh khắc hiện tại, là thập giá chúng ta đang mang, và chúng ta cầu xin Chúa ban ơn để biết chờ đợi ở đó, ngay tại đó, cho ơn cứu độ của Ngài sắp đến.

Mỗi người chúng ta cần trưởng thành trong điều này. Trước những khó khăn và vấn đề của cuộc sống, thật khó để kiên nhẫn và giữ bình tĩnh. Sự bực bội xảy ra và thường là sự chán nản ập đến. Vì vậy, có thể xảy ra trường hợp chúng ta bị cám dỗ mạnh mẽ bởi sự bi quan và cam chịu, nhìn mọi thứ đều đen tối, và trở nên thói quen với giọng điệu chán nản và phàn nàn, giống như giọng điệu của tác giả thánh đã nói ở phần đầu: "Vinh quang của tôi và sự mong đợi của tôi nơi Chúa đã mất" (câu 18). Trong nghịch cảnh, ngay cả những ký ức đẹp đẽ của quá khứ cũng không thể an ủi chúng ta, bởi vì đau khổ khiến tâm trí chìm đắm trong những khoảnh khắc khó khăn. Và điều này làm tăng thêm sự cay đắng; nó dường như là cuộc sống là một chuỗi bất hạnh liên tục, như tác giả thừa nhận: “[Tôi] xin nhớ đến nỗi khốn cùng của con và cuộc đời con vất vưởng nuốt cay ngậm đắng” (câu 19).

Tuy nhiên, tại điểm này, Chúa tạo ra một bước ngoặt, ngay tại thời điểm mà, trong khi vẫn tiếp tục đối thoại với Ngài, dường như chúng ta đã chạm đến đáy vực thẳm. Trong vực thẳm, trong nỗi thống khổ của sự vô nghĩa, Thiên Chúa đã đến gần để cứu chúng ta ngay khoảnh khắc đó. Và khi nỗi cay đắng lên đến đỉnh điểm, hy vọng đột nhiên lại nở rộ lần nữa. Thật tệ khi bước vào tuổi già với một trái tim cay đắng, với một trái tim thất vọng, với một trái tim chỉ trích những điều mới mẻ, điều đó rất khó khăn. “Nhưng tôi nhớ lại điều này”, người cầu nguyện trong Sách Ai Ca nói, “và vì thế tôi có hy vọng” (câu 21). Khôi phục hy vọng trong khoảnh khắc cay đắng. Giữa nỗi buồn, những ai bám víu vào Chúa thấy rằng Ngài mở khóa đau khổ, mở nó ra, biến nó thành một cánh cửa cho hy vọng đi vào. Đó là một kinh nghiệm vượt qua, một hành trình đau đớn mở ra sự sống, một loại lao động tâm linh rằng trong đêm tối đưa chúng ta trở lại với ánh sáng lần nữa.

Sự thay đổi này không phải vì các vấn đề đã biến mất, không phải, mà bởi vì khủng hoảng đã trở thành một cơ hội bí ẩn để thanh lọc nội tâm. Thực tế, sự thịnh vượng thường khiến chúng ta mù quáng, hời hợt, kiêu ngạo. Đây chính là con đường mà sự thịnh vượng dẫn chúng ta đến. Mặt khác, việc vượt qua nghịch cảnh, nếu được sống trong hơi ấm của đức tin, bất chấp sự khắc nghiệt và nước mắt, sẽ cho phép chúng ta được tái sinh, và chính chúng ta thấy mình khác biệt so với quá khứ. Một giáo phụ của Giáo hội đã viết rằng “không gì, hơn đau khổ, dẫn đến việc khám phá ra những điều mới mẻ” (Thánh Gregory thành Nazianzus, tập 34). Nghịch cảnh đổi mới chúng ta, bởi vì nó loại bỏ nhiều sự lãng phí và dạy chúng ta nhìn xa hơn, vượt ra ngoài bóng tối, để tận mắt chứng kiến rằng Chúa thực sự cứu rỗi chúng ta và Người có quyền năng biến đổi mọi thứ, thậm chí ngay cả cái chết. Người để chúng ta vượt qua những nút thắt không phải để bỏ rơi chúng ta, nhưng để đồng hành với chúng ta. Vâng, bởi vì Thiên Chúa đồng hành với chúng ta, đặc biệt là trong đau khổ, giống như một người cha giúp con mình lớn lên tốt đẹp bằng cách ở gần con trong những khó khăn, mà không thay thế con. Và trước khi những giọt nước mắt xuất hiện trên khuôn mặt chúng ta, cảm xúc đã làm đỏ mắt Thiên Chúa Cha. Tôi muốn nói rằng Người khóc trước. Nỗi đau buồn vẫn là một điều bí ẩn, nhưng trong điều bí ẩn này, chúng ta có thể khám phá trong một cách mới mẻ tình phụ tử của Thiên Chúa, Đấng đến thăm chúng ta trong những khó khăn của chúng ta, và đến để nói, với tác giả của sách Ai Ca: “ĐỨC CHÚA xử tốt e với ai tin cậy Người, với ai hết lòng tìm kiếm Chúa” (câu 25).

Hôm nay, trước mầu nhiệm cái chết cứu chuộc, chúng ta hãy cầu xin ân sủng để nhìn nghịch cảnh bằng con mắt khác. Chúng ta hãy cầu xin sức mạnh để biết sống thế nào trong sự thinh lặng hiền lành và tin tưởng, chờ đợi ơn cứu độ của Chúa, không than vãn, không càu nhàu, không để mình buồn phiền. Điều tưởng chừng như một hình phạt sẽ hóa ra là một ân sủng, một minh chứng mới cho tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Biết chờ đợi trong thinh lặng – không huyên thuyên, trong thinh lặng – vì ơn cứu độ của Chúa là một nghệ thuật, trên con đường tới sự thánh thiện. Chúng ta hãy vun trồng nó. Nó thật quý giá trong thời đại chúng ta đang sống: giờ đây, hơn bao giờ hết, không cần phải la hét, gây náo loạn, hay trở nên cay đắng; điều cần thiết là mỗi người chúng ta phải làm chứng cho đức tin của mình bằng cuộc sống của chúng ta, đó là một sự chờ đợi ngoan ngoãn và hy vọng. Đức tin là thế này: một sự chờ đợi ngoan ngoãn và hy vọng. Người Kitô hữu không làm giảm bớt sự nghiêm trọng của đau khổ, không, nhưng họ hướng mắt lên Chúa và dưới những đòn giáng xuống của nghịch cảnh, họ tin tưởng vào Người và cầu nguyện: họ cầu nguyện cho những người đau khổ. Họ hướng mắt về Thiên Đàng, nhưng tay họ luôn dang rộng trên mặt đất, để phục vụ tha nhân một cách cụ thể. Ngay cả trong những lúc buồn bã, tăm tối: họ vẫn phục vụ.

Trong tinh thần này, chúng ta cầu nguyện cho các Hồng y và Giám mục đã rời xa chúng ta trong năm qua. Một số vị đã qua đời vì Covid-19, trong những hoàn cảnh khó khăn, khiến nỗi đau của các ngài thêm chồng chất. Xin cho những người anh em của chúng ta giờ đây được nếm trải niềm vui của lời mời gọi trong Tin mừng mà Chúa dành cho các tôi tớ trung thành của Người: “Hãy đến, hỡi những người Cha Ta chúc phúc, để thừa hưởng Vương quốc đã dọn sẵn cho các con từ thuở tạo thiên lập địa” (Mt 25:34).

WHĐ (04/11/2021)

 

Đức Phanxicô, Bài giảng lễ Cầu cho các hồng y và giám mục đã qua đời (05/11/2020) - Giá trị của đức tin

Tin Mừng hôm nay (Ga 11,17–27) thuật lại lời tuyên bố long trọng của Đức Giêsu về chính mình: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống; và ai sống mà tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (cc. 25–26). Ánh sáng rạng ngời của những lời này xua tan bóng tối của niềm thương đau sâu thẳm do cái chết của Ladarô. Bà Matta đón nhận lời ấy và, với một lời tuyên xưng đức tin vững vàng, nói rằng: “Thưa Thầy, con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” (c. 27). Lời của Đức Giêsu khiến niềm hy vọng của Matta vượt khỏi tương lai xa xăm để trở nên hiện tại sống động: sự sống lại đã ở gần bên, hiện diện nơi chính con người Đức Kitô.

Hôm nay, mạc khải của Đức Giêsu cũng chất vấn chúng ta: chúng ta cũng được mời gọi tin vào sự sống lại, không phải như một ảo ảnh xa vời, nhưng như một thực tại đã hiện diện và đang âm thầm hoạt động trong cuộc đời ta. Tuy nhiên, đức tin vào sự sống lại không hề phủ nhận hay che lấp nỗi bàng hoàng rất con người của chúng ta trước cái chết. Chính Chúa Giêsu, khi thấy nước mắt của hai chị em Ladarô và những người chung quanh, cũng không giấu được xúc động; Thánh Gioan kể rằng: “Người liền bật khóc” (Ga 11,35). Ngoại trừ tội lỗi, Người hoàn toàn là một trong chúng ta: Người cũng đã cảm nghiệm nỗi đau mất mát, vị đắng của nước mắt khi chia ly người thân yêu. Tuy thế, điều đó không làm lu mờ ánh sáng chân lý tỏa rạng từ mạc khải của Người, mà việc Ladarô sống lại chính là một dấu chỉ lớn lao.

Vì thế, hôm nay, Chúa lại lặp lại với chúng ta: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống” (c. 25). Người mời gọi chúng ta một lần nữa thực hiện bước nhảy vọt của đức tin, để ngay từ bây giờ bước vào ánh sáng của sự phục sinh: “Ai sống mà tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết. Con có tin điều ấy không?” (c. 26). Khi chúng ta dám thực hiện bước nhảy ấy, cách chúng ta suy nghĩ và nhìn nhận mọi sự sẽ được biến đổi. Đôi mắt đức tin, vượt lên trên những gì hữu hình, có thể “nhìn thấy Đấng vô hình” (x. Dt 11,27). Từ đó, mọi biến cố xảy ra đều được nhìn nhận và đánh giá trong ánh sáng của một chiều kích khác: chiều kích của vĩnh cửu.

Trong sách Khôn Ngoan, chúng ta bắt gặp một cái nhìn khác về cái chết của người công chính. Cái chết sớm của họ không được xem như một bất hạnh, nhưng được hiểu dưới ánh sáng của đức tin: “Người công chính đẹp lòng Thiên Chúa, nên được Thiên Chúa yêu thương. Và họ sống giữa những kẻ tội lỗi, nên được Thiên Chúa dời đi nơi khác. Người đã cất họ đi, kẻo trí khôn họ bị thói gian ác biến đổi, hay tâm hồn họ bị tật xảo trá phỉnh lừa” (Kn 4,10–11). Nhìn bằng con mắt đức tin, cái chết của họ không còn là sự bất hạnh, nhưng là một hành động quan phòng của Thiên Chúa, Đấng có những tư tưởng không giống như tư tưởng loài người. Chính tác giả sách Thánh đã nhắc nhở rằng: Vì tuổi thọ đáng kính, không phải bởi sống lâu, cũng không do số tuổi. Đối với con người, sự khôn ngoan còn quý hơn tóc bạc, sống không tỳ ố đã là sống thọ (Kn 4,8–9). Những kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa dành cho những người được Người tuyển chọn thường bị con người thế gian, những kẻ chỉ biết nhìn trong giới hạn của trần thế, bỏ qua và không hiểu được. Vì thế, Kinh thánh nói về họ rằng: “Quân vô đạo thấy người khôn ngoan chết, mà không hiểu Đức Chúa định đoạt về họ thế nào, và tại sao Người đem họ đến nơi yên ổn” (Kn 4,17).

Khi chúng ta cầu nguyện cho các Đức Hồng y và Giám mục đã qua đời trong năm vừa qua, chúng ta xin Chúa giúp mình biết đọc đúng “dụ ngôn của cuộc đời họ”. Chúng ta khẩn cầu Người xua tan nỗi sầu khổ thất vọng mà đôi khi ta vẫn cảm thấy, khi nghĩ rằng cái chết là chấm dứt tất cả. Cảm xúc đó tuy rất con người, bắt nguồn từ nỗi sợ chết vốn có nơi mọi người, nhưng lại xa rời đức tin. Chính vì thế, trước mầu nhiệm của cái chết, người tín hữu cũng cần được hoán cải không ngừng. Mỗi ngày, chúng ta được mời gọi từ bỏ hình ảnh tự nhiên về cái chết như là sự tiêu diệt hoàn toàn của con người; được mời gọi vượt qua thế giới hữu hình vốn quen thuộc, vượt khỏi những cách suy nghĩ thường tình, để trao phó trọn vẹn bản thân cho Chúa, Đấng phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống; và ai sống mà tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25–26).

Anh chị em thân mến,

Khi được đón nhận trong đức tin, những lời này làm cho lời cầu nguyện của chúng ta dành cho các anh chị em đã qua đời mang trọn ý nghĩa Kitô giáo. Chính đức tin giúp chúng ta có cái nhìn thực tế và sâu xa về cuộc đời họ: để nhận ra ý nghĩa và giá trị của những việc lành họ đã thực hiện, sức mạnh của họ, lòng tận tụy của họ, cũng như tình yêu quảng đại, vô vị lợi mà họ đã sống. Đức tin cũng giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa của một cuộc đời không hướng về quê hương trần thế, nhưng khát vọng tìm đến quê hương tốt đẹp hơn, quê hương trên trời (x. Dt 11,16). Những lời cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, được dâng lên trong niềm tín thác rằng họ đang được sống cùng Thiên Chúa, không chỉ mang lại lợi ích cho họ, mà còn ích lợi lớn lao cho chính chúng ta trên hành trình trần thế này. Những lời cầu ấy gieo vào lòng chúng ta một cái nhìn đúng đắn về sự sống, giúp ta hiểu được ý nghĩa của những thử thách phải chịu để được vào Nước Thiên Chúa, mở rộng tâm hồn ta ra với tự do đích thực, và thôi thúc ta không ngừng tìm kiếm những của cải vĩnh cửu.

Như lời Thánh Tông đồ Phaolô nói: “Vậy, chúng tôi luôn mạnh dạn, và điều chúng tôi thích hơn, đó là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa. Nhưng, dù còn ở trong thân xác hoặc đã lìa bỏ thân xác, chúng tôi chỉ có một tham vọng là làm đẹp lòng Người” (2 Cr 5,8–9). Cuộc đời của người tôi tớ Tin Mừng được định hình bởi khát vọng làm đẹp lòng Chúa trong mọi sự. Đây là tiêu chuẩn của mọi quyết định, của từng bước đi trong hành trình phục vụ. Chính vì thế, chúng ta tưởng nhớ với lòng biết ơn chứng tá của các vị hồng y và giám mục đã qua đời, những người đã trung tín với thánh ý Thiên Chúa. Chúng ta cầu nguyện cho các ngài và quyết tâm noi gương trung tín của các ngài trong sứ vụ. Xin Chúa tiếp tục tuôn đổ trên chúng ta Thần Khí khôn ngoan của Người, nhất là trong những lúc chúng ta bị thử thách. Khi hành trình trở nên gian nan, Người vẫn không bỏ rơi chúng ta, nhưng luôn ở giữa chúng ta, trung tín với lời hứa của Người: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).

WHĐ (06/11/2020)

 

 

Đức Phanxicô, Bài giảng lễ Cầu cho các tín hữu đã qua đời (02/11/2019) - Căn tính, nơi chốn và niềm hy vọng

Việc cử hành thánh lễ cho mọi tín hữu đã qua đời trong một hang toại đạo - đây là lần đầu tiên trong đời tôi bước vào một hang toại đạo, một điều thật bất ngờ - nói với chúng ta nhiều điều. Chúng ta có thể nghĩ về cuộc sống của những người đã phải ẩn náu, những người có thói quen chôn cất người chết và cử hành Thánh Thể tại đây. Đó là một thời kỳ đen tối trong lịch sử, nhưng vẫn chưa được vượt qua; nó vẫn còn tiếp diễn cho đến hôm nay. Ở nhiều nơi khác, vẫn còn những “hang toại đạo” như thế, nơi người ta phải giả vờ tổ chức tiệc hay sinh nhật để có thể cử hành thánh lễ, vì điều ấy bị cấm đoán. Ngay hôm nay cũng vậy, có rất nhiều Kitô hữu bị bách hại, thậm chí nhiều hơn cả những thế kỷ đầu tiên. Hình ảnh những hang toại đạo, những cuộc bách hại và những Kitô hữu ấy, cùng với các bài đọc hôm nay, khiến tôi suy nghĩ về ba từ khóa: căn tính, nơi chốn và niềm hy vọng.

Căn tính của những người đã quy tụ nơi đây để cử hành Thánh Thể và ngợi khen Chúa cũng chính là căn tính của các anh chị em chúng ta hôm nay, ở nhiều quốc gia nơi việc làm Kitô hữu bị xem là tội phạm, bị cấm đoán, bị tước mất mọi quyền căn bản. Vẫn là cùng một căn tính ấy. Và căn tính đó là điều chúng ta vừa nghe: Tám Mối Phúc Thật. Căn tính của người Kitô hữu chính là đây: các Mối Phúc. Không có căn tính nào khác. Nếu bạn sống theo những điều này, thì bạn là Kitô hữu. “Nhưng tôi thuộc về hội đoàn này, phong trào kia…” - tất cả những điều ấy có thể tốt đẹp, nhưng chỉ là thứ phụ thuộc, không thể thay thế cho thực tại này. Căn cước của bạn chính là đây (ngài chỉ vào Sách Tin Mừng). Nếu bạn không có căn cước này, thì mọi phong trào hay tổ chức mà bạn tham gia đều vô ích. Hoặc bạn sống theo Tin Mừng này, hoặc bạn không phải là Kitô hữu. Rất đơn giản. Chính Chúa đã nói như thế. “Nhưng điều đó khó lắm, tôi không biết làm thế nào để sống như vậy...” Có một đoạn khác trong Tin Mừng giúp chúng ta hiểu rõ hơn: đó là chương 25 của Tin Mừng Mátthêu. Đoạn ấy sẽ là ‘bản giao ước’, tức tiêu chuẩn phán xét cuối cùng. Với hai đoạn Tin Mừng này - Tám Mối Phúc và bản giao ước - nếu chúng ta sống theo đó, chúng ta thể hiện căn tính Kitô hữu của mình. Không có điều này, sẽ không có căn tính thật. Chỉ còn lại một hình thức giả vờ là Kitô hữu, nhưng không phải thực sự là Kitô hữu.

Đây là căn tính của người Kitô hữu. Từ thứ hai: “nơi chốn.” Những người đã đến đây để ẩn náu, tìm sự an toàn, và cũng để chôn cất người thân đã qua đời; cũng như những người hôm nay phải cử hành Thánh Thể trong âm thầm, tại những quốc gia nơi điều ấy bị cấm đoán... Tôi nhớ đến một nữ tu ở Albania, trong thời kỳ cộng sản, khi việc ban các bí tích bị nghiêm cấm đối với các linh mục. Nữ tu ấy đã lén lút cử hành bí tích Rửa Tội cho người dân. Các tín hữu biết rằng chị có thể làm phép Rửa, nên các bà mẹ mang con nhỏ đến với chị. Tuy nhiên, chị không có ly hay chén để đựng nước. Thế là chị dùng chiếc giày của mình, múc nước từ con sông và làm phép Rửa cho các em nhỏ. Nơi chốn của người Kitô hữu là mọi nơi. Chúng ta không có một vị thế đặc ân nào trong đời sống. Một số người lại muốn có điều đó - họ trở thành những “Kitô hữu hạng đặc biệt”, nhưng như thế họ có nguy cơ chỉ còn lại chữ “đặc biệt” mà đánh mất chữ “Kitô hữu”.

Vậy đâu là nơi chốn của người Kitô hữu? Kinh thánh nói: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa” (Kn 3,1). Nơi chốn của người Kitô hữu là ở trong tay Thiên Chúa, ở bất cứ nơi nào Người muốn đặt ta. Đôi tay của Thiên Chúa ấy là những bàn tay mang thương tích, chính là bàn tay của Con Một Người, Đấng đã muốn mang các vết thương ấy về trời để trình diện trước Chúa Cha và chuyển cầu cho chúng ta. Nơi chốn của người Kitô hữu là trong lời chuyển cầu của Đức Giêsu trước Chúa Cha. Trong tay Thiên Chúa. Và ở đó, chúng ta được an toàn - dù có xảy ra bất cứ điều gì, kể cả thập giá. Căn tính của chúng ta (Đức Thánh Cha chỉ vào Sách Tin Mừng) cho chúng ta biết rằng chúng ta sẽ được chúc phúc khi bị bách hại, khi người ta nói xấu hay chống đối ta. Nhưng nếu chúng ta ở trong tay Thiên Chúa, những bàn tay mang thương tích vì tình yêu, thì chúng ta được an toàn. Đó là nơi chốn của chúng ta.Và hôm nay, chúng ta có thể tự hỏi: “Tôi cảm thấy an toàn nhất ở đâu? Trong tay Thiên Chúa, hay trong những điều khác - những thứ bảo đảm tạm bợ mà chúng ta ‘thuê mượn’ - nhưng rồi cuối cùng sẽ tan biến, vì chẳng có nền tảng vững chắc nào?”

Những Kitô hữu này, với “căn cước Kitô hữu” ấy, đã và đang sống trong bàn tay Thiên Chúa, chính là những con người của niềm hy vọng. Và đây là từ thứ ba gợi lên hôm nay: hy vọng. Chúng ta đã nghe điều ấy trong bài đọc thứ hai: thị kiến sau cùng, nơi mọi sự được đổi mới, được tái tạo, và đó chính là quê hương thật mà tất cả chúng ta đang hướng đến. Và để bước vào đó, không cần điều gì lạ lùng, không cần những thái độ cao siêu, phức tạp; điều duy nhất cần có là xuất trình căn cước của mình: “Tốt lắm, con có thể đi tiếp.” Niềm hy vọng của chúng ta ở trên trời; niềm hy vọng ấy neo chặt tại đó, và chúng ta đang nắm chặt sợi dây neo ấy trong tay, giữ cho mình vững vàng bằng cách hướng mắt về bờ bên kia của dòng sông, nơi ta sẽ đến.

Căn tính: Các Mối Phúc và chương 25 Tin Mừng Mátthêu, chính là thẻ căn cước của người Kitô hữu. Nơi chốn: nơi an toàn nhất là trong bàn tay Thiên Chúa, những bàn tay mang thương tích vì tình yêu. Niềm hy vọng: tương lai vĩnh cửu, nơi mỏ neo đã cắm chặt ở bờ bên kia, còn ta thì nắm chặt sợi dây nối liền ấy. Điều quan trọng là luôn giữ chặt lấy sợi dây ấy! Nhiều khi, ta chỉ thấy sợi dây, không thấy mỏ neo, cũng chẳng thấy bờ bên kia, nhưng hãy cứ nắm chặt lấy sợi dây ấy, và chắc chắn ta sẽ đến đích an toàn.

WHĐ (02/11/2019)

 

Đức Phanxicô, Bài giảng lễ Cầu cho các hồng y và giám mục đã qua đời (04/11/2019) - Niềm tin vào sự phục sinh

Các bài đọc hôm nay nhắc chúng ta nhớ rằng: chúng ta đến trong thế gian này là để được nâng lên; chúng ta không sinh ra để chết, nhưng để sống lại. Như Thánh Phaolô viết trong bài đọc thứ hai: “Quê hương chúng ta ở trên trời” (Pl 3,20); và như chính Đức Giêsu nói trong Tin Mừng: “Ai tin vào Con thì được sống đời đời, và Ta sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết” (x. Ga 6,40). Chính niềm xác tín về sự phục sinh cũng đã thúc đẩy Giuđa Macabêô trong bài đọc thứ nhất làm “một việc cao quý và tốt đẹp” (2 Mcb 12,43). Hôm nay, chúng ta có thể tự hỏi: tư tưởng về sự phục sinh tác động thế nào trên tôi? Tôi đáp lại lời mời gọi được sống lại của mình ra sao?

Sự trợ giúp đầu tiên đến với chúng ta từ chính Đức Giêsu, Đấng trong Tin Mừng hôm nay nói: “Ai đến với Ta, Ta sẽ không loại ra ngoài” (Ga 6,37). Đó là lời mời gọi của Người: “Hãy đến cùng Ta” (x. Mt 11,28). Đến với Đức Giêsu, Đấng hằng sống, để được “tiêm ngừa” chống lại sự chết, chống lại nỗi sợ rằng mọi sự sẽ chấm dứt. Đến với Đức Giêsu, điều này thoạt nghe có vẻ là một lời khuyên thiêng liêng chung chung, thậm chí tầm thường. Nhưng chúng ta hãy thử cụ thể hóa bằng vài câu hỏi. Hôm nay, khi xử lý các hồ sơ nơi văn phòng, tôi có đến gần Chúa không? Tôi có biến chúng thành dịp để trò chuyện với Người không? Trong những người tôi gặp gỡ, tôi có mời Đức Giêsu tham dự vào không? Tôi có mang họ đến với Người trong lời cầu nguyện không? Hay tôi đã làm mọi việc chỉ nghĩ đến bản thân mình, chỉ vui khi mọi sự thuận lợi và than phiền khi gặp trắc trở? Nói cách khác, tôi đã sống ngày hôm nay trong thái độ “đến cùng Chúa”, hay chỉ xoay quanh chính mình? Và tôi đang hướng về đâu? Tôi có chỉ tìm cách tạo ấn tượng tốt, bảo vệ vai trò, thời khóa biểu và thời gian rảnh của mình? Hay tôi thực sự đến cùng Chúa?

Lời Đức Giêsu gây ấn tượng mạnh: “Ai đến với Ta, Ta sẽ không loại ra ngoài.” Như thể Người muốn nói rằng: người Kitô hữu nào không đến với Người thì sẽ tự bị loại ra. Đối với người tin, không có con đường trung lập. Chúng ta không thể vừa thuộc về Đức Giêsu, vừa quay quanh chính mình. Ai thực sự thuộc về Đức Giêsu thì sống trong một chuyển động liên lỉ ra khỏi bản thân để hướng về Người.

Chính đời sống con người là một hành trình không ngừng đi ra: từ cung lòng mẹ đến khi được sinh ra, từ tuổi thơ đến thiếu niên, từ thiếu niên đến trưởng thành, và cứ thế cho đến ngày ta rời khỏi thế gian này. Hôm nay, khi chúng ta cầu nguyện cho các hồng y và giám mục đã rời bỏ cõi đời này để gặp gỡ Chúa Phục Sinh, chúng ta không thể quên “cuộc đi ra” quan trọng và khó khăn nhất, là cuộc đi ra khỏi chính bản thân mình. Chỉ khi ra khỏi chính mình, chúng ta mới mở được cánh cửa dẫn đến cùng Chúa.

Chúng ta hãy khẩn cầu ơn này: “Lạy Chúa, con muốn đến cùng Chúa, trên những nẻo đường và cùng với những bạn đồng hành mỗi ngày. Xin giúp con biết ra khỏi chính con để tiến về cùng Chúa, vì chính Chúa là sự sống.”

Tôi muốn gợi lên một suy tư thứ hai về mầu nhiệm Phục Sinh, được rút ra từ bài đọc thứ nhất và “việc cao quý” mà Giuđa Macabêô đã thực hiện cho những người đã qua đời. Sách Thánh nói rằng ông làm thế “vì tin tưởng rằng những ai chết trong lòng đạo đức thì sẽ được phần thưởng rực rỡ dành sẵn cho họ” (2 Mcb 12,45). Quả thật, lòng đạo đức, lòng đạo hạnh, luôn được Thiên Chúa ân thưởng dồi dào. Lòng đạo đức hướng về tha nhân mở ra cánh cửa bước vào cõi vĩnh hằng. Cúi mình xuống phục vụ những người túng thiếu chính là đang đi trên con đường dẫn tới Thiên Đàng. Nếu, như Thánh Phaolô nói, “đức mến không bao giờ mất đi” (1 Cr 13,8), thì tình yêu chính là nhịp cầu nối liền đất với trời. Chúng ta có thể tự hỏi: tôi có đang bước đi trên cây cầu ấy không? Tôi có để lòng mình rung động trước cảnh khổ của người khác không? Tôi có biết khóc với những ai đang đau khổ không? Tôi có cầu nguyện cho những người chẳng ai còn nhớ đến họ không? Tôi có giúp đỡ người không thể đáp trả gì cho tôi không? Đây không chỉ là những cảm xúc thoáng qua hay những hành vi bác ái nhỏ lẻ; nhưng là những câu hỏi về sự sống, những câu hỏi về Phục Sinh.

Sau cùng, tôi muốn chia sẻ một suy tư thứ ba về mầu nhiệm Phục Sinh. Tôi lấy ý này từ Linh Thao của Thánh Inhaxiô Loyola, trong đó ngài gợi ý rằng: trước khi đưa ra bất kỳ quyết định quan trọng nào, ta hãy tưởng tượng mình đang đứng trước mặt Thiên Chúa vào ngày tận cùng. Đó là giây phút cuối cùng và tất yếu mà mọi người đều phải đối diện. Khi nhìn mọi chọn lựa của đời sống dưới ánh sáng ấy, chúng ta sẽ biết hướng đi đúng đắn, vì đó là hướng về Phục Sinh – ý nghĩa và cùng đích của đời người. Cũng như việc ra đi được định hướng bởi đích đến, và mùa gặt đánh giá hạt giống được gieo, thì đời sống cũng chỉ được phán xét đúng đắn khi ta khởi đi từ cùng đích của nó. Thánh Inhaxiô viết: “Hãy tưởng tượng tôi đang đứng trước mặt vị Thẩm phán của tôi trong ngày sau hết, và suy xét xem lúc ấy tôi muốn mình đã chọn điều gì trong vấn đề hiện tại; vậy thì ngay bây giờ, tôi sẽ chọn lối sống mà khi ấy tôi sẽ muốn mình đã sống theo” (Linh Thao, số 187).

Đó là một bài tập thiêng liêng hữu ích: nhìn thực tại bằng đôi mắt của Chúa chứ không chỉ bằng ánh nhìn hạn hẹp của riêng ta; hướng về tương lai, về sự sống lại, chứ không chỉ dừng lại nơi ngày hôm nay chóng qua; chọn lựa những gì mang “hương vị của vĩnh cửu”, vị ngọt của tình yêu.

Mỗi ngày tôi có biết ra khỏi chính mình để đến cùng Chúa không? Tôi có cảm thông và thực hành lòng thương xót đối với những người đang túng thiếu không? Tôi có đưa ra những quyết định quan trọng trong sự hiện diện của Thiên Chúa không? Chúng ta hãy để cho ít là một trong ba câu hỏi này đánh động lòng mình. Nhờ đó, chúng ta sẽ trở nên hòa hợp hơn với ước muốn mà Đức Giêsu bày tỏ trong Tin Mừng hôm nay: rằng Người “không để mất một ai trong những kẻ Chúa Cha đã ban cho Người” (x. Ga 6,39). Giữa muôn vàn tiếng nói trần thế dễ khiến ta quên đi ý nghĩa của cuộc sống, chúng ta hãy tập để tâm hồn mình nên đồng điệu với thánh ý của Đức Giêsu, Đấng đã sống lại và hằng sống. Như thế, chúng ta sẽ biến đời mình hôm nay thành một bình minh của sự phục sinh.

WHĐ (04/11/2019)

 

Đức Phanxicô, Bài giảng lễ Cầu cho các hồng y và giám mục đã qua đời (03/11/2018) - Chuẩn bị đón Tân Lang với tình yêu

Trong dụ ngôn Tin mừng hôm nay, chúng ta nghe rằng các trinh nữ, cả mười người, “ra đón chàng rể” (Mt 25,1). Đối với tất cả chúng ta, cuộc đời là một lời mời gọi không ngừng đi ra: ra khỏi cung lòng mẹ, khỏi mái nhà nơi ta chào đời, từ tuổi thơ đến tuổi trẻ, từ tuổi trẻ đến trưởng thành, cho đến ngày ta ra khỏi thế gian này. Đối với những người phục vụ Tin Mừng, cuộc sống cũng là một chuyển động liên lỉ: ra khỏi mái ấm gia đình để đến nơi mà Giáo hội sai đi, từ sứ vụ này đến sứ vụ khác. Chúng ta luôn luôn đang lên đường, cho đến khi hoàn tất chuyến hành trình sau cùng của mình.

Tin mừng chỉ cho chúng ta thấy ý nghĩa của cuộc lữ hành liên lỉ ấy: đó là hành trình đi ra để gặp Tân Lang. Chính vì thế mà đời sống con người được ban cho: để đáp lại tiếng gọi vang lên giữa đêm tối, như Tin mừng nói, và tiếng gọi ấy sẽ vang dậy trong giờ lâm chung của chúng ta: “Kìa Tân Lang đã đến, hãy tiến ra đón Người!” (Mt 25,6). Cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, Tân Lang, Đấng “đã yêu thương Hội thánh và hiến mình vì Hội thánh” (Ep 5,25), đem lại ý nghĩa và hướng đi cho đời sống chúng ta. Đó chính là tất cả, không gì hơn nữa. Đó là điểm kết thúc soi sáng toàn bộ hành trình trước đó. Cũng như hạt giống được đánh giá bởi mùa gặt, cuộc hành trình của đời người được định hình bởi cùng đích cuối cùng của nó.

Nếu đời sống chúng ta là một hành trình để gặp Tân Lang, thì đó cũng là thời gian được ban cho để lớn lên trong tình yêu. Mỗi ngày sống là một sự chuẩn bị cho tiệc cưới, là thời kỳ đính ước dài lâu. Chúng ta hãy tự hỏi: “Tôi có đang sống như một người đang chuẩn bị để gặp Tân Lang không?” Trong sứ vụ của mình, giữa bao cuộc họp, công việc và học hành, chúng ta không bao giờ được đánh mất sợi chỉ xuyên suốt gắn kết toàn bộ tấm thảm cuộc đời, đó là niềm mong đợi Tân Lang đến. Trung tâm của tất cả chỉ có thể là một con tim đang yêu mến Chúa. Chỉ khi ấy, thân thể hữu hình của sứ vụ chúng ta mới được nâng đỡ bởi linh hồn vô hình. Ở đây, chúng ta bắt đầu hiểu lời Thánh Tông đồ nói trong bài đọc thứ hai: “Chúng ta mới không chú tâm đến những sự vật hữu hình, nhưng đến những thực tại vô hình. Quả vậy, những sự vật hữu hình thì chỉ tạm thời, còn những thực tại vô hình mới tồn tại vĩnh viễn” (2 Cr 4,18).Vì thế, chúng ta đừng để ánh nhìn của mình dừng lại nơi những sự trần thế, nhưng hãy vượt lên trên chúng. Quả thật, người ta nói đúng: những điều thật sự quan trọng trong cuộc sống lại là những điều mắt chúng ta không thể thấy được. Điều quan trọng nhất trong đời sống, chính là lắng nghe tiếng của Tân Lang. Tiếng ấy mời gọi chúng ta nhận ra Chúa đang đến mỗi ngày, và biến mọi hoạt động của chúng ta thành sự chuẩn bị cho tiệc cưới của Người.

Tin mừng hôm nay nhắc chúng ta về điều duy nhất thật sự cần thiết đối với các trinh nữ đang chờ đợi tiệc cưới. Điều đó không phải là y phục của họ, cũng không phải là những chiếc đèn, nhưng là dầu được giữ trong những bình nhỏ.

Ở đây, chúng ta thấy một đặc điểm đầu tiên của dầu: nó không gây ấn tượng. Nó ẩn kín, không phô bày, nhưng nếu thiếu nó, sẽ không có ánh sáng. Điều này gợi cho chúng ta điều gì? Rằng trong cái nhìn của Chúa, điều quan trọng không phải là bề ngoài, nhưng là tấm lòng (x. 1 Sm 16,7). Tất cả những gì thế gian mải miết đuổi theo rồi khoe khoang - vinh dự, quyền lực, vẻ bề ngoài, vinh quang, tất cả đều qua đi và chẳng để lại gì. Sự thoát ly khỏi những vẻ hào nhoáng bề ngoài của trần thế là điều thiết yếu để chuẩn bị cho Nước Trời. Chúng ta cần phải nói “không” với nền “văn hóa tô vẽ bề ngoài”, một nền văn hóa khiến chúng ta quá bận tâm đến diện mạo bên ngoài của mình. Thay vì chăm chút cho vẻ bề ngoài mau qua, chúng ta cần thanh luyện và gìn giữ tâm hồn, con người nội tâm của mình, điều quý giá trong mắt Thiên Chúa.

Cùng với đặc tính đầu tiên của dầu - không phải để gây ấn tượng, nhưng là điều không thể thiếu - còn có một đặc tính khác: dầu hiện hữu là để được tiêu hao. Chỉ khi bị đốt cháy, nó mới tỏa ra ánh sáng. Đời sống chúng ta cũng vậy: nó chỉ rực sáng khi được tiêu hao, khi ta dấn thân phục vụ. Bí quyết để sống chính là sống để phục vụ. Phục vụ là tấm vé thông hành cần xuất trình nơi ngưỡng cửa của tiệc cưới vĩnh cửu. Ở ngưỡng cửa của cõi đời đời, điều còn lại của cuộc sống không phải là những gì ta đã tích lũy, nhưng là những gì ta đã trao ban (x. Mt 6,19–21; 1 Cr 13,8). Ý nghĩa của cuộc sống được tìm thấy trong cách chúng ta đáp lại lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa, và câu trả lời ấy được dệt nên bằng tình yêu chân thực, sự tự hiến và tinh thần phục vụ. Phục vụ tha nhân luôn có giá trị, vì nó đòi ta phải tiêu hao chính mình, để cho mình được cháy đi vì người khác. Trong sứ vụ của chúng ta, ai không sống để phục vụ thì cũng không xứng đáng để sống. Ai bám víu vào sự sống mình quá chặt, thì sẽ đánh mất nó.

Đặc tính thứ ba của dầu được nêu rõ trong Tin mừng: dầu phải được chuẩn bị. Dầu cần được dự trữ từ trước và mang theo bên mình (x. Mt 25,4.7). Tình yêu chắc chắn là tự phát, nhưng không phải là bộc phát. Chính vì thiếu sự chuẩn bị mà những cô trinh nữ bị loại khỏi tiệc cưới đã cho thấy sự khờ dại của mình. Giờ đây là thời điểm của sự chuẩn bị: ngay tại đây, ngay lúc này, mỗi ngày, tình yêu cần được tích lũy và nuôi dưỡng. Chúng ta hãy xin ơn để hằng ngày làm mới lại tình yêu thuở ban đầu của mình với Chúa (x. Kh 2,4), kẻo ngọn lửa ấy tàn lụi. Thật là một cám dỗ lớn khi để mình chìm vào một cuộc sống không còn tình yêu, một cuộc sống trở nên như chiếc bình rỗng, như ngọn đèn đã tắt. Nếu chúng ta không đầu tư cho tình yêu, chính cuộc đời sẽ bóp nghẹt nó. Những ai được mời dự tiệc cưới của Thiên Chúa không thể bằng lòng với một đời sống tĩnh tại, phẳng lặng và tẻ nhạt - một đời sống thiếu hăng say, chỉ biết tìm những thỏa mãn nhỏ nhoi, phần thưởng chóng qua. Một cuộc sống đơn điệu, chỉ biết chu toàn bổn phận mà không hiến dâng chính mình, thì không xứng đáng với Tân Lang.

Khi chúng ta cầu nguyện cho các hồng y và giám mục đã qua đời trong năm vừa qua, chúng ta hãy nài xin lời chuyển cầu của tất cả những người đã sống một cuộc đời âm thầm khiêm hạ, biết kiên nhẫn chuẩn bị mỗi ngày để gặp Chúa. Noi gương các chứng nhân ấy, những người đang ca ngợi Thiên Chúa và bao quanh chúng ta trong muôn vàn số đông, chúng ta đừng chỉ bằng lòng với một cái nhìn thoáng qua về ngày hôm nay rồi dừng lại ở đó. Trái lại, chúng ta hãy hướng mắt nhìn xa hơn, về bữa tiệc cưới đang chờ đợi chúng ta. Một đời sống cháy bỏng khát vọng tìm kiếm Thiên Chúa và được tôi luyện trong tình yêu sẽ được chuẩn bị sẵn sàng để bước vào phòng tiệc của Tân Lang – và ở đó, mãi mãi.

W

 

Tác giả: WHĐ (03/11/2018)

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

  Ý kiến bạn đọc

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây