Chuyện "Nhà thờ Xuân Phong" hay “Chuyện cắc cớ trong trường ca cứu độ”

Thứ tư - 29/10/2025 05:21
 
 Có những chuyện, mà cứ sự thường theo quan niệm hay lý luận của con người, không thể làm hay không được làm. Đơn giản, vì đó là những chuyện “không hay”, “không đẹp”, thậm chí, “gây gương mù gương xấu”! Thế nhưng, thật “cắc cớ”, những chuyện như thế lại cứ “điềm nhiên xảy ra”, không phải tình cờ đột xuất trong một biến cố, sự kiện nhỏ nhoi bình thường, mà trong cả một chương trình vĩ đại, có một không hai, vô tiền khoáng hậu; và nhất là do chính Thiên Chúa, Đấng toàn năng, toàn thánh… thực thi.

Thật vậy, có chương trình nào vĩ đại và quan trọng hơn “Chương trình Cứu độ” của Thiên Chúa, chương trình “Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người”! Thế mà, ai cũng biết, để chuẩn bị cho chương trình cao cả này, Thiên Chúa đã chọn một dân riêng nhỏ bé thuộc vùng Tiểu Á: dân Israel; và trong dân ưu tuyển này, Ngài đã chọn một dòng tộc để Con Thiên Chúa mặc xác phàm nhân loại có tổ có tông như bao con người trên dương thế. Điều cắc cớ ở đây chính là trong dòng tộc của Đấng Cứu Thế, mà theo bảng Gia phả của Tin Mừng Matthêô (Mt 1,1-16), có 5 người phụ nữ, thì hết 4 người có ý lịch, có thể nói được “không ra gì”: 4 người phụ nữ thuộc hàng tổ tông của Đấng Cứu Thế đó là:

 
  1. Bà Ta-ma: “Giuđa sinh Pe-ret và De-rac do bà Ta-ma” (Mt 1,3).
  2. Bà Ra-kháp: “San-môn sinh Bô-át do bà Ra-kháp” (Mt 1,5a).
  3. Bà Rút: “Bô-át sinh Ô-vết do bà Rút” (Mt 1,5b).
  4. Bà Bat-se-va: “Vua Đa-vit sinh Sa-lô-môn do vợ của U-ri-gia” (Mt 1,6).
 
Chúng ta có thể tóm tắt về “câu chuyện không hay” liên quan đến những người phụ nữ này theo các trình thuật của Thánh Kinh Cựu ước[1]:
 
  • Bà Ta-ma: theo sách Sáng Thế chương 38 (St 38), Ta-ma là người dâu cả của ông Giuđa (Con Gacob), là người Canaan. Vì chồng chết không con lại bị cha chồng là Giuđa không thành toàn việc thừa kế dòng tộc nên đành đóng vai “gái điếm” gài cha chồng là Giuđa ngủ với mình để có con trai nối dòng… Rõ ràng đây là một “câu chuyện loạn luân” của một cô “gái điếm bất đắc dĩ” và là người “dân ngoại”!
 
  • Bà Ra-kháp: Theo sách Giosuê (Gs 2; 6,22-23), bà một “gái điếm thứ thiệt” và là dân ngoại, đã tương kế tựu kế cứu giúp các điệp viên Do Thái tránh thoát khỏi cuộc truy lùng của “cảnh sát Giêricô” để nhờ đó bà và những người thân được cứu thoát trong cuộc chiếm thành Giêricô của đội quân Israel do Giosuê lãnh đạo. 
 
  • Bà Rút: Theo sách Rút, về mặt “luân thường đạo lý” bà Rút không có gì đáng trách, nhưng lại được khen ngợi: là con dâu thảo hiền. Tuy nhiên, bà Rút là “dân ngoại đạo” vì là người Mo-áp. Tổ mẫu của Đấng Cứu Thế mà không thuộc hàng ngũ “Dân Chúa”, dòng tộc Abraham, Isac, Giacop… thì cũng là chuyện lạ!
 
  • Bà Bat-se-va: Theo sách Các Vua cũng như sách Samuel (2 Sm 11-12; 1 Vua 1), bà Bat-se-va, một người thuộc dân Khết (cũng là dân ngoại đạo), là vợ của U-ri-gia, một danh tướng trong quân đội của vua Đa-vít. Điểm nhấn của “chuyện tình Đa-vít – Bat-se-va” chính là Salomon: đứa con nối dòng Đa-vít để từ đó Đấng Cứu Thế sinh ra đời với “lý lịch hợp pháp” là “Con Vua Đa-vít”, cho dù cái giá phải trả là cái tội “ngoại tình phản bội của Bat-se-va” và “giết người” của Đa-vít.
 
Quả thật, trong “trường ca cứu độ” những người phụ nữ “dân ngoại” trên đã trở thành những “mắc xích” quan trọng làm nên biến cố quan trọng và vĩ đại nhất của lịch sử loài người: Đức Kitô. Khi mang dòng máu “lai tạp”, vừa là dân ngoại vừa tội lỗi trong thân phận con người Emmanuel, Đức Kitô là dấu chỉ cụ thể của “Ơn Cứu Độ cho muôn người”…

 
Sở dĩ nói dài về “câu chuyện cắc cớ trong trường ca cứu độ” như trên là để thuyết minh cho một câu chuyện hiện thực khác liên quan đến một ngôi nhà thờ, tạm gọi là “vô danh tiểu tốt” thuộc giáo hạt Gò Thị, Giáo phận Qui Nhơn, tức nhà thờ giáo họ Xuân Phong, một đơn vị mục vụ vừa được Đức cha Matthêô quyết định thành lập “Giáo họ biệt lập”.

Về lịch sử cũng như tiến trình xây dựng của ngôi nhà thờ nầy xin được trích dẫn nguồn từ trang mạng của Giáo phận Qui Nhơn như sau:

 
  • Thời điểm hình thành cộng đoàn giáo họ Xuân Phong: trước năm 1885 (Thời Văn Thân):
 
“Năm 1885, khi phong trào Văn Thân nổi dậy tàn sát các tín hữu, phần lớn giáo dân di tản về Qui Nhơn để thoát nạn, trừ một số tín hữu ở lại và bị tàn sát. Sau khi cơn bách hại chấm dứt, tháng 7 năm 1887 giáo dân hồi cư và xây dựng lại địa sở. Những họ đạo cũ như Gò Thị, Gò Dài, Xuân Phong, Mỹ Cang, đều tăng số giáo hữu hơn năm 1885. Khi xếp Xuân Phong vào số các họ đạo cũ, tức là Xuân Phong đã có trước đó lâu rồi.”[2]
 
  • Thời điểm xây dựng nhà thờ mới Xuân Phong: 1890 (sau thời Văn Thân):
 
“Truyền tụng kể rằng giáo họ Xuân Phong đã có một nhà thờ mái tranh vách đất, không biết được cất từ lúc nào, có lẽ sau khi có họ đạo Xuân Phong. Nhà thờ này do thầy Y, thầy thuốc Bắc, xây dựng. Qua thời gian, nhà thờ này bị xiêu vẹo không còn đứng vững được. Vì vậy, một ngôi nhà thờ mới kiên cố đã được xây dựng … Theo sổ sách còn lưu lại tại nhà thờ Xuân Phong, nhà thờ được xây dựng năm 1890…”[3].
 
  • Người đặc trách xây dựng: Ông Chánh Đảnh (hay Câu Đảnh):
 
“… ngôi nhà thờ mới kiên cố đã được xây dựng, do tiền của và công khó của ông Chánh tổng Đảnh và đồng thời cũng là ông Câu họ Xuân Phong. Trong chính quyền dân sự, ông giữ chức Chánh tổng, tức là người đứng đầu một tổng gồm một số làng xã trong một địa phương. Trong đời sống đạo, ông giữ chức Câu họ, tức là người đứng đầu Ban chức việc của họ đạo.”[4].
 
  • Vật tư xây dựng và phong cách kiến trúc:
 
“Ngôi nhà thờ được xây dựng bằng gạch Hời[5] và vôi với kích thước 21m x 11m theo kiến trúc Tây phương cổ. Mặt tiền quay về phía Tây với 3 ngọn tháp, từ xa nhìn thấy có dáng dấp như ngôi đền Angkor Wat của người Khmer. Bên ngoài lớp vữa được dát những mảnh sứ vỡ lấy từ các chén bát xưa kiểu Trung Quốc. Vì vậy, vào những đêm trăng sáng, hay lúc bình minh và hoàng hôn, những mảnh sứ ấy phản chiếu áng sáng và trở nên óng ánh khiến cho 3 ngọn tháp như một quần thể sao trời nhấp nháy, rất đẹp. Nội thất nhà thờ bằng gỗ quý, chạm trổ tinh vi. Cung thánh được trang trí hoa văn xinh đẹp.”[6].
 
  • Về nguồn kinh phí để xây dựng: Theo trang mạng của Giáo phận Qui Nhơn thì có các truyền thuyết như sau:
 
  1. Tài sản cá nhân của ông chánh Đảnh: giàu có và quảng đại, noi gương việc phục vụ Giáo Hội của tổ tiên là thánh Trùm Cả Anrê Nguyễn Kim Thông: 
 
“Ông còn là con cháu của Thánh Trùm Cả Anrê Nguyễn Kim Thông. Theo gia phả, mẹ ông là cháu nội Thánh Anrê Kim Thông, bác ông là cha Phaolô Châu, cháu họ Thánh Anrê Kim Thông, và là Tôi Tớ Chúa tử đạo. Là người vị vọng trong dân, giàu có và có lòng nhiệt thành đối với đạo, ông đã bắt chước ông cố ngoại của mình là Thánh Anrê Kim Thông để đem tiền của ra phục vụ đạo Chúa tại quê hương là họ đạo Xuân Phong.”[7].
 
  1. Tiền do ông chánh Đảnh thắng cược số với người Hoa: 
 
“Ngoài ra, theo người giáo dân Xuân Phong kể lại, thời bấy giờ tại cửa vạn Gò Bồi có nhiều người Hoa sinh sống và làm ăn buôn bán. Lâu lâu họ tổ chức một giải xổ số rất lớn. Năm ấy ông Chánh tổng Đảnh may mắn trúng một con số cử nhân gì đó với số tiền rất lớn, đến độ ông phải cho người ra Gò Bồi “kiệu” bạc về.”[8].
 
  1. Tiền do trúng vàng: 
  
“Người ta còn đồn rằng ông đã tình cờ đào được trong khuôn viên nhà thờ một buồng cau bằng vàng của Hời (tức người Chăm). Ông đã dùng số tiền ấy và tài sản của mình xây nhà thờ Xuân Phong, để giáo dân hằng ngày có nơi đọc kinh cầu nguyện.”[9].
 
  1. Tiền do đánh bạc với thầy chùa:
 
Truyền thuyết này được một “đấng bậc” rất uy tín kể lại: 
 
Hồi đó ông chánh Đảnh thuộc hạng “có máu mặt trong vùng”. Nhưng để có số tiền lớn xây dựng nhà thờ Xuân Phong, ông nghĩ, phải chơi trò “hên xui” bằng cách đánh bạc! Gần Bình Lâm cách đó không xa, có một ngôi chùa, và vị sự trụ trì chùa Bình Lâm này cũng rất phóng khoáng và có mối giao tình bạn hữu với ông chánh Đảnh; nhất là cũng “đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu” trong việc “hên xui” qua trò đen đỏ! Thế là đôi bên thường xuyên “ngủ ngồi”… Rất may cho ông Chánh Đảnh, kể từ khi khởi công xây dựng nhà thờ Xuân Phong, ngày nào ông cũng “đỏ” trong khi đó vị thầy chùa Bình Lâm lúc nào cũng “đen”. Và thế là việc thi công nhà thờ Xuân Phong cứ thế mà êm xuôi trót lọt từ “khởi sự cho đến hoàn thành”; không nợ nần vướng mắc, không dang dở khó khăn. Vì thế, mỗi lần vị thầy chùa Bình Lâm này đi ngang qua nhà thờ Xuân Phong đều chỉ trỏ cho bạn bè hay những người đồng hành: “Cái nhà thờ Xuân Phong đó là do tiền của tui đấy”!   Rồi sau khi nhà thờ xây dựng xong, máu đỏ đen vẫn thôi thúc và hấp dẫn; ông Chánh Đảnh và thầy chùa Bình Lâm cứ tiếp tục… Thế nhưng, kể từ ngôi nhà thờ Xuân Phong hoàn tất, cũng là những ngày liên tiếp ông Chánh Đảnh thua liểng xiểng…

Thật ra, cái “câu chuyện cắc cớ trong trường ca cứu độ” mà người viết nhắm tới chính là truyền thuyết này. Thật vậy, để xây dựng chương trình cứu độ Thiên Chúa thường làm những “chuyện cắc cớ” (như câu chuyện 4 người phụ nữ mà chúng ta vừa nói với nhau lúc đầu). Vì thế, để xây dựng Giáo Hội (Ecclesia) hay để xây dựng một ngôi nhà thờ (ecclesia) là dấu chỉ của Hội Thánh, Thiên Chúa dùng tiền “đánh bạc” của một ông câu quảng đại và một thầy chùa phóng khoáng thì có gì là “không phải đạo”!

Nhưng nói là nói vậy để chúng ta cùng nhìn mọi sự kiện, mọi biến cố, mọi con người trong lăng kính “lịch sử cứu rỗi”, chứ không nhằm hô hào hay khuyến khích chuyện bài bạc đỏ đen đâu nhé!

 
(Huế ngày 29/10/2025).
 
 
 
 

[1] X. LM. GIUSE NGUYỄN CÔNG ĐOAN, SJ, Những Khuôn mặt Phụ nữ trong Gia phả Đức Kitô (Mt 1,1-16), website Nhng
Khuôn Mt Ph N Trong Gia Ph Đức Giêsu Kitô (Mt 1,1-16) - Dòng Tên-Dòng Chúa Giêsu
[2] X. WEBSITE GIÁO PHẬN QUI NHƠN, Lược sử Giáo họ Xuân Phong
[3] SĐD
[4] SĐD
[5] SĐD: Ông Câu Đảnh thuê người san lấp mặt bằng và lên Bình Lâm đào gạch Hời đưa về xây. Theo lịch sử, vùng đất Bình Định ngày nay là của vương quốc Chămpa. Thủ đô là thành Đồ Bàn (gần Đập Đá ngày nay). Người Chăm cũng xây dựng thành Thị Nại (tại thôn Bình Lâm hiện nay) trên bờ Tây đầm Thị Nại, tại hạ nguồn sông Kôn để bảo vệ kinh đô Đồ Bàn. Năm 1471 vua Lê Thánh Tôn đánh bại vua Chăm, phá hủy thành Đồ Bàn và thành Thị Nại. Từ đó thành Thị Nại trở thành một phế tích với rất nhiều gạch Hời, người ta đến lấy mang về xây dựng các công trình tôn giáo và công cộng, chẳng hạn như nhà thờ cũ Gò Thị, nhà thờ và nhà xứ Nam Bình (hiện nay vẫn còn). Riêng ngôi tháp cổ vẫn còn tồn tại mặc dù không nguyên vẹn có lẽ vì người ta sợ đụng chạm đến thần linh.
[6] SĐD
[7] SĐD
[8] SĐD
[9] SĐD
 
 
 
 
  

Tác giả: Trương Đình Hiền

 Tags: suy tư

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây