Thưa với bạn đọc, viết về người cha, làm thơ về tình phụ tử là rất khó, bởi hình ảnh cha gắn liền với sự nghiêm khắc roi vọt, với những lời dạy răn đe, và rất ít có sự gần gũi (vì con rất sợ cha, nên không dám gần). Ai trong chúng ta cũng có nhiều kỷ niệm về cha (nói cho đúng là có nhiều ấn tượng về cha), những lần được ăn món lươn bầm nấu bằng roi vì một lỗi lầm nào đấy; có khi là những trận “chửi”: “ông…mày” như tát nước vào ruộng, vuốt mặt không kịp cho bớt sự xấu hổ; và nếu không may mắn có một người cha hay say xỉn, thì hàng ngày, con còn được thưởng thức những màn múa võ cổ truyển của cha “thượng cẳng chân, hạ cẳng tay” lên khắp người con…Huhu!!
Thế nhưng đọc bài thơ Nhật ký về cha, ta lại thấy ấm áp vô cùng tình phụ tử, quý giá vô cùng tình yêu thương con dành cho cha, và hơn thế cha chính là người “khơi con đường thánh” cho con.
Nhật ký về cha
(Cát Đen)
Tên cha là tuổi thơ con
Đường trần vạn nẻo lo toan mọi bề
Non xanh còn giữ lời thề
Sao cha đành nỡ trở về bụi tro.
Gió sương gầy guộc co ro
Lục bình thờ thững mặc cho sóng đời
Dạt trôi, đường thánh ai khơi
Vàng son, lụa gấm mục rồi ích chi.
Đêm đêm nhật ký con ghi
Những lời cha dạy thầm thì nhớ thương
Trời đông áo rách, chỉ sờn
Tình cha ấm áp sắt son tạc lòng.
Nhớ cha thầm gọi ước mong
Cha về con lại hiền ngoan rạng ngời
Niềm tin cha bước lên trời
Lòng con có Chúa xuân thời nở hoa.
Lục bát Ca dao thường là những lời một mạc, chân tình. Vì Ca dao là thơ điệu nói bình dân, nên tình và ý thơ tác động trực tiếp đến người nghe. Sẽ có rất nhiều tràng pháo tay nếu tình ý thơ mới mẻ, độc đáo, nói được đúng tiếng lòng của người nghe. Vần và nhạc trong ca dao chỉ là phương tiện chuyển tải tình ý, không là đối tượng thơ văn. Cho nên nếu bạn đọc thấy một vài vần chưa thật “ngọt” về nhạc luật, thì đó là đặc điểm của ca dao điệu nói.
Bài thơ Nhật ký về cha là lời tâm tình của con với cha, là ghi nhật ký hàng ngày hình ảnh sống động của cha trong tâm thức, là tỏ lộ tình yêu vô bờ bến cùa con với cha.
Tên cha là tuổi thơ con
Đường trần vạn nẻo lo toan mọi bề
Non xanh còn giữ lời thề
Sao cha đành nỡ trở về bụi tro.
Hai câu thơ đầu mở ra không-thời gian rất rộng, ngược về quá khứ tuổi thơ, vươn tới tương lai “đường trần vạn nẻo”. Tình cha bao trùm đời con, vì thế con không thể thiếu cha, vậy mà “Sao cha đành nỡ trở về bụi tro”. Một nỗi tiếc thương, mất mát vô hạn. Tứ thơ “trở về bụi tro” mượn ý Kinh thánh để nói đến cái chết. Con người được Thiên Chúa dựng nên từ bùn đất, chết là trở về bụi tro. Nói theo ngôn ngữ dân gian Việt: Chết là hết, vĩnh viễn không còn gì, không mang theo được gì; con không còn thấy cha, không còn nương tựa nhờ cậy gì được nơi cha. “Con có cha như nhà có nóc”, giờ cha không còn, căn nhà không có nóc ấy làm sao chịu đựng được nắng mưa giông bão. Con cần cha nhưng sao cha “Sao cha đành nỡ”, lời thơ là lời xót thương cho cả cha và con. Người sống ở trần gian này phải bất lực trước cái chết. Sống là đi về cõi chết (Being toward Death-Soren Kierkegaard).
Tứ thơ “Non xanh còn giữ lời thề” làm người đọc ngạc nhiên. Bởi vì những lời thề non hẹn biển là của lứa đôi yêu nhau. Tình phụ tử có bao giờ là lời thề? Lứa đôi thề nguyền rằng, dù nước biển có cạn, núi kia có mòn, thì tình yêu lứa đôi vẫn vẹn nguyên. Có lẽ nhà thơ Cát Đen muốn mượn hình ảnh mênh mông của biển, mượn cái hùng vĩ của núi, mượn cái chân lý vĩnh cửu (biển không bao giờ cạn, núi không bao giờ mòn) để nói về tình phụ tử và tầm vóc người cha đối với mình, và vì thế khi cha không còn nữa, thì nỗi tiếc thương của con với cha cũng mênh mông như biển, tầm vóc cha hiện lên hùng vĩ như núi. Khổ thơ thể hiện được một cách mới lạ tình cảm của con với cha. Sự mới lạ ấy kết thành từ sự rộng mở không-thời gian vượt ra ngoài không gian gia đình, không gian làng thôn; từ sự giao thoa văn hóa của văn chương bác học phương đông (thề non hẹn biển) với cội nguồn tư tưởng và văn minh phương Tây là Kinh thánh, hòa trộn trong cách nói dân dã ca dao, tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa quen vừa lạ đến ngạc nhiên.
Cái thế giời quen thuộc ấy là hình ảnh người cha vừa cụ thể, vừa sống động.
Gió sương gầy guộc co ro
Lục bình thờ thững mặc cho sóng đời
Dạt trôi…
… Trời đông áo rách, chỉ sờn
Những hình ảnh vừa rất thực, vừa là ẩn dụ, khắc họa được nỗi bất hạnh vô bờ của những con người nghèo khó, dạt trôi bất định. Họ vừa chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt (trời đông áo rách, chỉ sờn), vừa đối mặt với hiện thực nghèo đói thê thảm (gầy guộc, co ro, áo rách, chỉ sởn…). Thực ra đó là cuộc sống của nhà thơ cùng với người cha của mình. Lúc sinh thời, cha con đã phải chịu bao nhiêu nhó khăn, nhưng trong tình cảnh tưởng như làm đóng băng tình người như vậy, tình cha lại sưởi ầm tất cả: “Trời đông áo rách, chỉ sờn/ Tình cha ấm áp sắt son tạc lòng”.
“Lục bình thờ thững trôi dạt” (dề lục bình trôi trên sông quê) là một hình ảnh dân dã, nhưng cũng là một tứ thơ hàm chứa nhiều nghĩa. Có thể nhà thơ từng ở bên sông, từng nhìn thấy những dề lục bình trôi trên sông, và mặc dù trong bài thơ không có dòng sông nào được miêu tả cụ thể, nhưng người đọc vẫn thấy hiện lên trong tâm tưởng mình dòng sông của ký ức. Và vì thế, thơ trở nên gần gũi. “lục bình thờ thững trôi dạt” cũng là nỗi xót thương cho những thân phận khó nghèo ở thôn quê, sóng đời trôi dạt không biết về đâu. “Thờ thững” là một từ ghép rất lạ. “Thờ thững” là “lững thững-thờ ơ”. Cả không gian thôn quê là bầu khí “thờ ơ vô cảm”, tù đọng, trôi đi chậm chạp, không biết về đâu. Và người con mất cha ấy (tác giả Cát Đen) những tưởng rồi đây sẽ lại nối tiếp cái số phận nghiệt ngã “Gió sương gầy guộc co ro…/ Dạt trôi…/… Trời đông áo rách, chỉ sờn” của cha mình.
Nhưng không. Điều kỳ diệu của tình cha, sự lớn lao trong tầm vóc của người cha là đã mở con đường thánh cho con.
Dạt trôi, đường thánh ai khơi
Vàng son, lụa gấm mục rồi ích chi…
… Đêm đêm nhật ký con ghi
Những lời cha dạy thầm thì nhớ thương…
… Niềm tin cha bước lên trời
Lòng con có Chúa xuân thời nở hoa.
Con đường thánh ấy là lời cha dạy về sự chọn lựa Nước Trời. Trần gian dù “Vàng son, lụa gấm” rồi cũng mục nát nào có ích chi; đời khó nghèo bất định như dề lục bình dạt trôi nào có hề gì, và dù mùa đông có gầy guộc co ro thì “Lòng con có Chúa xuân thời nở hoa.” Tứ thơ “xuân thời nở hoa” là một tứ thơ đẹp cả về nghệ thuật và tư tưởng.
Cả bài thơ là những hình ảnh bi đát: “trở về bụi tro; Gió sương gầy guộc co ro/ Lục bình…/ Trời đông áo rách, chỉ sờn”, nhưng kết bài thơ là hình ảnh mùa xuân nở hoa với niềm hân hoan bất tận. Tư tưởng thơ phát triển về phía niềm tin, về phía sự sống, về niềm hoan lạc hạnh phúc: “… Niềm tin cha bước lên trời/ Lòng con có Chúa”. Cha trở về cát bụi nhưng không phải là mất, là hư vô mà là “lên trời”. Và nhờ cha, cha đặt Chúa trong lòng con, cha xứng đáng được về Nước Chúa; và hạnh phúc của con ngay tại trần gian này là, Chúa ở trong con, “lòng con có Chúa”. Hơi ấm của tình phụ tử, ánh sáng của đức tin, ân sủng Cứu rỗi, và niềm hạnh phúc vĩnh cửu làm cho bài thơ thăng hoa trong lòng người đọc.
Hình ảnh người cha rất đỗi quen thuộc bỗng trở nên mới lạ. Quen thuộc ở cuộc sống khó nghèo, nhưng mới lạ ở chỗ chính người cha đã mở con đường thánh cho con; quen thuộc như ta đã từng gặp trong cuộc đời thánh Giuse nhưng mới lạ ở chỗ, từ bụi tro hư vô, cha đã lên trời. Cả cuộc đời ấy cha không một lời than thở, nhưng những gì con nhìn thấy ở cha, học được ở cha đã hun đúc lên tâm hồn con, chí hướng con: “Đêm đêm nhật ký con ghi/ Những lời cha dạy thầm thì nhớ thương”. Có lẽ khó có cách diễn đạt tình phụ tử nào sâu nặng hơn bằng sự ghi nhớ lời dạy của cha, đêm đêm ghi nhật ký tiếng lòng mình nói với cha như thơ Cát Đen.
Về tư tưởng và nghệ thuật, bài thơ hướng người đọc nhìn lên, vượt qua không-thời gian, vượt qua thân phận cát bụi trong thế giới mục nát này, để bước vào mùa xuân vĩnh cửu. Dù cuộc sống có khó khăn thế nào, thì “Lòng con có Chúa xuân thời nở hoa”. Bài thơ cũng chia sẻ một bài học quý giá về vai trò của người cha với con là, cha là người mở ra “con đường thánh” cho con. Trần gian dù “vàng son, lụa gấm” rồi cũng mục nát, trái lại con người dù “trở về cát bụi” vẫn có thể lên trời khi “lòng con có Chúa”. Và mùa xuân Nước Trời mới thật là mùa xuân vĩnh cửu.
Có lẽ cần phải đọc và suy gẫm nhiều, trải nghiệm nhiều mới cảm nhận được cái mới, cái hay và những giá trị tâm linh của bài thơ này. Mời bạn đọc tiếp tục hành trình thi ca và tư tưởng.
--- Tháng 10/ 2024---