Đề tài thuyết trình thứ bảy của khoá Thường huấn Linh mục, ngày 25/9/2025: Cha sở và giáo xứ, góc nhìn qua huấn thị của Thánh bộ Giáo sĩ
Toàn Nguyễn Văn, Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính
2025-09-25T04:50:32-04:00
2025-09-25T04:50:32-04:00
https://gpquinhon.org/thuong-huan/de-tai-thuyet-trinh-thu-bay-cua-khoa-thuong-huan-linh-muc-ngay-25-9-2025-cha-so-va-giao-xu-goc-nhin-qua-huan-thi-cua-thanh-bo-giao-si-7218.html
https://gpquinhon.org/uploads/news/2025/chachinh.jpg
Giáo phận Qui Nhơn
https://gpquinhon.org/uploads/banner-980x120_1.jpg
Thứ năm - 25/09/2025 04:47
CHA SỞ VÀ GIÁO XỨ:
GÓC NHÌN QUA HUẤN THỊ CỦA THÁNH BỘ GIÁO SĨ
DẪN NHẬP
Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Và gánh nặng truyền giáo của Giáo Hội chủ yếu nằm ở giáo xứ. Do đó, huấn quyền Giáo hội chỉ ra tầm quan trọng của giáo xứ trong việc hiện thực hóa Giáo hội, đồng thời khuyến khích “sự đổi mới kiên quyết hơn”. Trong nền văn minh thay đổi nhanh chóng, điều này càng cấp thiết hơn, bởi vì “lời kêu gọi xét lại và canh tân giáo xứ chưa mang lại đủ hoa trái” (Hoán cải mục vụ, số 28). Do đó, cần có một hoán cải hay cải tổ mục vụ, đây là một trong những chủ đề chính trong cho việc đổi mới sứ mệnh mục vụ của Giáo hội. Giai đoạn mới của công cuộc Loan báo Tin Mừng mà Hội Thánh được mời gọi phải thúc đẩy ngày nay, nhờ đó các cộng đoàn Kitô hữu ngày càng trở nên những trung tâm giúp mọi người gặp gỡ Đức Kitô (số 3).
Trong đường hướng đó, Huấn thị “Hoán cải mục vụ cộng đoàn giáo xứ để phục vụ sứ vụ loan báo tin mừng của Hội Thánh” của Thánh bộ Giáo sĩ là lời mời gọi Giáo hội sống “Giáo hội theo cách mới” (New Way of Being Church). Huấn thị này đề xuất một bước từ hoán cải con người sang cải tổ các cấu trúc. Khi xem xét sự hoán cải mục vụ từ con người sang cấu trúc, chúng ta nên đặc biệt chú ý đến sự hoán cải của cộng đồng. Do đó, giai đoạn từ sự hoán cải cá nhân sang cấu trúc đó không thể tách rời khỏi sự hoán cải của cộng đồng. Nói cách khác, huấn thị này là lời mời gọi trở nên truyền giáo hơn thông qua sự hoán cải cá nhân, sự hoán cải của cộng đồng và những thay đổi về cấu trúc.
Là huấn thị của Thánh bộ Giáo sĩ, nên đích đến của tài liệu này là hàng giáo sĩ đang chăm sóc mục vụ, cụ thể là các cha sở và giáo xứ. Đây là mối tương quan gắn bó có một lịch sử lâu dài, được giáo luật hướng dẫn và Huấn thị của Thánh bộ Giáo sĩ mời gọi cải tổ để Loan báo Tin Mừng trong một thời đại đang có nhiều biến chuyển.
I. CHA SỞ VÀ GIÁO XỨ: MỘT LỊCH SỬ THÚ VỊ
1. Nguồn gốc giáo xứ
Sinh ra trong môi trường Palestine, trên hết nhờ các tuyến đường và các hoạt động thương mại, Kitô giáo đã nhanh chóng lan đến các thành phố Hy Lạp-Rôma. Ban đầu là các thành phố lớn, Kitô giáo phải sống giữa những người ngoại đạo. Động từ tiếng Hy Lạp, paroikein, từ đó xuất hiện thuật ngữ “paroisse” trong tiếng Pháp và “parish” (giáo xứ) trong tiếng Anh, trước hết có nghĩa là “sống gần, sống giữa” (habiter auprès de, vivre parmi ou au milieu de). Nó cũng có thể có nghĩa là "tạm cư hay ở tạm nước ngoài” (séjourner à titre provisoire ou en pays étranger) hoặc “ở để chuyển tiếp, đi qua” (être de passage).
Thuật ngữ cuối, trong tiếng Hy Lạp thế tục, được áp dụng trong Tân Ước. Tiếp nối dân Do Thái trên đường đến miền đất hứa, các Kitô hữu xem mình như những người hành hương trên đường đến quê hương thực sự của mình và hiện đang cư trú tại một vùng đất vay mượn hoặc ở một quê hương không phải của mình. Nói tóm lại, họ là "người nước ngoài có thường trú". Văn học Kitô giáo sơ thời thường xuyên đề cập đến chủ đề này. Địa chỉ nhận thư đầu tiên của Clêmentê thành Roma như sau: "Hội thánh Chúa tại nơi cư trú (paroikousa) ở Rôma, Hội Thánh Chúa đang lưu trú tại Côrintô" (1 Clem., 2). Tuy nhiên, trong khi chờ đợi quê hương thực sự của mình, họ sống tại các thành phố như “người nước ngoài tạm trú”. Ban đầu, thuật ngữ “giáo xứ” gợi lên ý tưởng “len vào”, “chèn vào” (insertion) một địa điểm nào đó. Thư gửi Diognète, khoảng năm 180, chắc chắn là văn bản Kitô giáo thể hiện rõ nhất thực trạng này.
2. Hình thành tại các đô thị
Từ hậu bán thế kỷ II, từ paroikia được dùng để chỉ “một cộng đồng ổn định và đây là một cải tiến gần đây vì ta không tìm thấy dấu vết nào của việc sử dụng từ này trong các thư Thánh Phaolô cũng như trong Tông đồ Công vụ khi muốn diễn đạt ý tưởng này”. Cách sử dụng này, đã được chứng thực trong Martyrium Polycarpi (155), cũng có trong các tác phẩm của Denys thành Corintô, Irênê thành Lyons và Eusêbiô thành Césarée. Như thế, “Giáo xứ” (paroikia) là cộng đồng địa phương ổn định, Giáo hội ở một nơi chốn nào đó. Vì vậy, giáo xứ được trình bày như là nơi tụ họp của các Kitô hữu sống ở thành phố và vùng nông thôn phụ cận, một nơi tụ họp do một giám mục điều hành, được bao quanh bởi linh mục đoàn (presbyterium). Tuy nhiên, mọi thứ vẫn chưa được xác định rõ ràng. Vì vậy, Eusêbiô nói rằng Irênê (hậu bán thế kỷ II) là giám mục của một số “giáo xứ”. Hơn nữa, không có sự phân biệt rõ ràng giữa các khái niệm “giáo xứ” và “giáo phận”, hai thuật ngữ được sử dụng tương đương. Độ chính xác của các thuật ngữ chỉ có từ thế kỷ thứ IV.
Dần dần, sau chỉ dụ của Constantinô, khái niệm này về giáo xứ này dần mờ nhạt. Kitô hữu dần dần định cư trên thế giới. Hơn thế nữa, khi ngày càng có nhiều người theo Kitô giáo thì càng bớt khuynh hướng là chỉ có một cộng đồng Kitô giáo ở mỗi thành phố và một nhà thờ duy nhất, một tình trạng vẫn tồn tại cho đến lúc đó. Đây là lý do tại sao chúng ta phải nghĩ ra những giải pháp khác. Từ thế kỷ III, dưới thời Giáo hoàng Fabiô (236-250), Thành phố Roma được chia thành bảy khu vực do một phó tế đứng đầu, chịu trách nhiệm giúp đỡ người nghèo. Các tituli (nhà thờ có tước hiệu) hoặc nơi thờ phụng cũng được thiết lập để các linh mục cử hành Thánh lễ, ban phép Rửa tội và Giải tội.
3. Phát triển về vùng nông thôn
Công cuộc truyền giáo ở nông thôn góp phần sửa đổi mô hình mỗi thành phố một nhà thờ. Việc chăm sóc mục vụ cho các giáo dân ngày càng xa rời thành phố gây ra sự sụp đổ của mạng lưới này. Các tòa giám mục gia tăng và quy mô giáo phận giảm dần vì phải phân chia thành nhiều giáo phận. Nhưng nguyên tắc “một địa phương, một giám mục, một giáo xứ” vẫn được giữ nguyên. Tuy nhiên, từ thế kỷ IV, chúng ta thấy các cộng đồng, mặc dù dưới quyền giám mục, nhưng ông không trực tiếp điều hành. Các Công đồng Antioch (khoảng năm 10, 341, Đông phương) và Elvire (310), Arles (314) và Sardique (khoảng năm 18, 343, Tây phương) cho chúng ta biết về những nhóm Kitô hữu đang cư trú bên ngoài thành phố thuộc quyền giám mục. Ở Đông phương, để chăm sóc mục vụ cho các tín hữu sống xa trung tâm đô thị, chúng ta tiến tới việc thiết lập các giám mục không địa phận (chorévêques) hoặc giám mục vùng nông thôn (chora = nông thôn) thuộc bậc thấp hơn. Giải pháp có một chút khác biệt ở phương Tây nơi các giáo sĩ được phân công đến các cộng đồng nông thôn và nhà thờ của họ để cử hành Thánh lễ, còn rửa tội và giải tội luôn dành riêng cho tòa giám mục. Tuy nhiên, cũng không nên tin rằng vào thế kỷ IV đã có một phong trào quan trọng đi theo hướng này. Martin thành Tours, người được cho là nhà sáng lập hệ thống giáo xứ, chỉ thành lập sáu cơ sở giáo xứ như vậy. Phải đợi đến thế kỷ V, bắt đầu có sự phân cấp đầu tiên khỏi thành thị về vùng nông thôn, đánh dấu sâu sắc sự phát triển của giáo xứ. Lúc này xuất hiện mạng lưới các giáo xứ trong lãnh thổ giáo phận của một giám mục.
Những cuộc xâm lược của thế kỷ V đã thay đổi sâu sắc tình hình dân cư tại các khu vực đã được Kitô hóa. Cho đến lúc này, Kitô giáo như một hiện tượng từ đô thị ngày càng mở rộng về vùng nông thôn. Sự phát triển của giáo xứ thích ứng với những điều kiện sống mới này và vay mượn các hình thức quy hoạch không gian xã hội gặp phải trên đường đi.
Hai cạnh tranh góp phần vào sự hình thành mạng lưới các giáo xứ thôn quê: Giám mục bổ nhiệm các linh mục trong các vici (thị trấn thương mại và chợ) và castra (khu doanh trại quân sự, pháo đài); lãnh chúa, hoàng thân hoặc nhà vua thiết lập một giáo xứ trong villa của mình, trung tâm nông nghiệp nơi nông nô của ông làm việc. Trong trường hợp đầu tiên, sáng kiến thuộc về giám mục, trong khi trường hợp thứ hai, quyền lực thế tục là nguồn gốc nền tảng. Linh mục thường được lãnh chúa chọn hoặc “giới thiệu” cũng như ông đảm bảo thu nhập cho giáo xứ. Trong những điều kiện này, các mối liên kết phụ thuộc của các “linh mục” vào giám mục ngày càng mong manh. Tuy nhiên, nơi thờ tự tại các villae không có được vị thế giáo xứ trước thế kỷ VI hoặc thậm chí là thế kỷ VII. Giáo dân của các "ortoires" (nhà nguyện) này phải đến nhà thờ thành phố hoặc vicus lân cận để dự các lễ lớn.
Dần dần, giáo xứ trở thành một đơn vị gồm lãnh thổ và con người: Các vicus, castra, villa hoặc thậm chí xung quanh một tu viện. Đứng đầu giáo xứ là một linh mục điều hành với một quyền tự chủ nhất định đối với giám mục. Ở một cấp bậc khác, nó sản sinh ra Nhà thờ chính tòa trong thành phố. Tuy nhiên, giáo xứ đã không hoàn toàn khỏi quyền lực giám mục, trước hết là liên quan đến những hành vi cơ bản của đời sống Kitô giáo. Vì vậy, giám mục luôn là người thánh hiến các loại dầu dùng để thu nhận một người nào đó vào Kitô giáo khi được rửa tội. Hơn nữa, mãi cho đến thế kỷ XII, các linh mục phải xin phép giám mục hằng năm để có thể ban bí tích Rửa tội. Cuối cùng, việc xức dầu cuối cùng của bí tích Rửa tội (sau này trở thành bí tích Thêm sức) luôn dành riêng cho giám mục. Ông cũng có quyền cho các tội nhân tái hòa nhập vào Giáo hội qua bí tích Sám hối. Một số tái hòa nhập luôn được dành riêng cho giám mục. Cuối cùng, giám mục cũng là người ban các chức thánh. Cũng chính ông là người chấp nhận hay không chấp nhận những linh mục phục vụ trong các nhà nguyện do các đại điền chủ xây dựng.
Những thế kỷ tiếp theo đã phát triển và hình thành điều được áp dụng từ thế kỷ thứ V. Việc đóng thập phân và bổn phận lãnh nhận các bí tích tại nhà thờ giáo xứ, đã phân định chính xác lãnh thổ giáo xứ. Ngoài ra, việc không thể miễn nhiệm hàng giáo sĩ vào thế kỷ VI, đã góp phần giải phóng họ khỏi quyền lực của những người bảo trợ cho nhà thờ muốn điều khiển theo ý muốn của mình. Điều này cũng có tác dụng khiến giáo sĩ độc lập hơn với thẩm quyền của giám mục. Từ thế kỷ thứ VIII, cuộc cải cách dưới triều đại Carolingien cũng ảnh hưởng đến giáo xứ. Charlemagne đã tiến hành phân định lãnh thổ giáo xứ trên toàn xứ Gaule và quy định cư sở cho các linh mục trên mỗi lãnh thổ được phân định như vậy. Ông cũng bắt đóng thuế thập phân. Phải đến thế kỷ XII, thậm chí là XIII, thì biên giới các giáo xứ mới được cố định chặt chẽ. Giáo xứ có được một mức độ độc lập về mục vụ (các bí tích) và tài chánh. Chính thời đại này mà giáo xứ trở thành một đơn vị xã hội ưu thế.
4. Cuộc cải cách Grégorien (thế kỷ XI)
Cuộc cải cách Grégorien (thế kỷ XI) đã cố gắng sửa chữa những lạm dụng. Công đồng Clermont (1095), phân biệt rõ ràng giữa thiêng liêng và thế tục, và Dictatus papae (27 tuyên bố) của Giáo hoàng Grégoire VII đã giải phóng giáo xứ khỏi sự kìm kẹp của chế độ phong kiến. Vì vậy, quyền bổ nhiệm các linh mục sẽ được đưa về quyền giới thiệu ứng viên cho giám mục lựa chọn để ông ban quyền cura animarum (chữa trị linh hồn) theo giáo luật. Như vậy hạn chế được sự thâm nhập của giáo dân hoặc quyền lực thế tục vào phạm vi tôn giáo. Sự phân biệt ngày càng nhiều hơn giữa hai trật tự, trật tự thiêng liêng và thế tục cũng được áp đặt lên bình diện giáo xứ.
Phải đến giữa thế kỷ XIII mới tìm được một định nghĩa về giáo xứ của một chuyên gia giáo luật. Giám mục Henry thành Suse người đã định nghĩa nó như một lãnh thổ được xác định ranh giới rõ ràng, trong đó người dân sống dưới sự thẩm quyền của một linh mục và trong đó chỉ có luật thiêng liêng của nhà thờ được áp dụng. Định nghĩa này không chỉ làm nổi bật chiều kích lãnh thổ của giáo xứ, nhưng nó xác định một loại mối quan hệ đặc biệt giữa hàng giáo sĩ và populus (dân chúng) khi giới thiệu khái niệm về luật thiêng liêng của nhà thờ. Do đó, giáo xứ được thành lập từ những quyền và bổn phận cấu thành mối quan hệ đặc biệt giữa những con người: Quyền nhận các bí tích của tín hữu; quyền của linh mục được nhận thù lao liên quan đến việc quản trị của họ; độc quyền mục vụ của nhà thờ. Nếu khái niệm về lãnh thổ đã xuất hiện, giáo xứ vẫn đại diện và trên hết là một nhà thờ được gắn liền với một quyền lợi, nghĩa là thu nhập dành cho nhu cầu của người linh mục phụ trách nhà thờ này.
Các Công đồng lớn từ thế kỷ XII đến thế kỷ XIV không đề cập rõ ràng đến các giáo xứ, mà đề cập đến nhà thờ và những người phục vụ của nhà thờ, nhưng vẫn góp phần khẳng định quyền của giáo xứ (jus parochiale) cũng như củng cố mối liên kết đặc biệt giữa cha sở và giáo dân của một nơi chốn. Điều khoản 21 của Công đồng Lateranô lần IV (1215) xác định nhiều hơn trong lĩnh vực này:
Mọi giáo dân sau khi đến tuổi hiểu biết sẽ phải xưng tội riêng tất cả tội lỗi mình ít nhất mỗi năm một lần với cha sở của mình (proprio sacerdoti), và tùy theo nặng nhẹ, phải làm việc đền tội được áp đặt cho mình, lãnh nhận bí tích Thánh Thể ít nhất là vào lễ Phục sinh […]; nếu không, người ấy sẽ bị cấm không cho vào nhà thờ của mình khi còn sống và sẽ không được an táng theo nghi lễ Kitô giáo sau khi chết. Lệnh này được thường xuyên được công bố trong các nhà thờ, để không ai có thể bào chữa cho sự thiếu hiểu biết của mình. Nếu ai muốn xưng tội, vì lý do chính đáng, với một linh mục khác (alieno sacerdoti), trước hết người ấy phải xin phép và nhận được sự cho phép từ cha sở của mình (proprio sacerdoti), vì nếu không thì vị linh mục kia sẽ không thể tha hoặc trói buộc người ấy.
Nhiều thế kỷ trôi qua, giáo xứ càng thể hiện một mối quan hệ xã hội cụ thể: Một linh mục gắn liền với một số giáo dân cụ thể và với nhà thờ của mình cùng với một cư sở hay nhà xứ (résidence) trong khi các giáo dân thuộc về một giáo xứ cụ thể và với cha sở của riêng mình (proprius sacerdos) ngày càng được khẳng định rõ ràng hơn. Quyền giáo xứ (jus parochiale) trở thành thuật ngữ pháp lý nói về mối liên hệ của giáo xứ ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn. Thuộc về một giáo xứ được định nghĩa là: Quyền hạn của một cha sở đối với ngôi nhà thờ được trao phó cho mình và đối với giáo dân của nhà thờ ấy; những tín hữu khác không được phép vào đó để được rửa tội, xưng tội, rước lễ và an táng, chỉ trong trường hợp cần thiết.
5. Công đồng Trentô (1545-1563)
Công đồng Trentô (1545-1563) đánh dấu bước quan trọng trong sự phát triển của giáo xứ ở phương Tây. Công đồng cải cách những gì được khởi xướng trong những thế kỷ trước liên quan đến giáo xứ. Công đồng dựa cuộc cải cách Giáo hội của mình vào sự canh tân các giáo xứ thoát khỏi ảnh hưởng của các hoàng thân và được chỉ đạo bởi các linh mục cải cách, những người có cư sở tại giáo xứ và đặt dưới quyền kiểm soát và thẩm quyền của giám mục. Giáo xứ trở thành phương tiện quan trọng nhất cho hoạt động mục vụ và từ đó đời sống tôn giáo của các tín hữu trở nên sống động.
Quy tắc “một cha sở, một nhà thờ, một giáo xứ” đã được quy thành luật. “Mỗi đoàn chiên được chỉ định cha sở riêng […], mỗi người chịu trách nhiệm về đoàn chiên riêng của mình [propres brebis]” (điều IX, phiên XIV). Vì vậy, “những người […], hiện đang nắm giữ một số nhà thờ, sẽ giữ lại, chỉ giữ lại một mà thôi, một nhà thờ mà họ thích hơn cả, bỏ những nhà thờ khác…” (Sắc lệnh cải cách thứ hai, 2). Mục đích là để có được sự hỗ trợ tốt hơn cho nhiệm vụ cura animarum (23 lần trong văn bản của Công đồng Trentô), mục tiêu mà Công đồng theo đuổi. Việc thành lập các giáo xứ mới, việc phân bổ đủ thu nhập cho các giáo xứ, đòi buộc về cư sở, luôn được biện minh bởi mục tiêu này.
Công đồng không chỉ củng cố các quy tắc cư trú mà còn nhắc lại các tính chất và nghĩa vụ của cha sở. Điều XVIII (Khóa XXIV) nhắc lại rằng “rất hữu ích cho phần rỗi các linh hồn khi họ được cai quản bởi các cha sở xứng đáng và có năng lực”. Để điều này có hiệu lực, Công đồng đã thiết lập các quy tắc giới thiệu ứng viên, sự xứng hợp của họ (Sắc lệnh cải cách thứ hai, 5, Khóa VI; Chương VI, Khóa XXI; Chương XII, Khóa XXIV), đạo đức của họ (Chương VI, Khóa XXI; Chương XII, Khóa XXIV và Chương XIV, Khóa XXV), và sự chính thống của họ (Chương XII, Khóa XXIV).
Hơn nữa, các bổn phận liên quan đến việc giảng dạy Kinh Thánh, giáo lý Kitô giáo và rao giảng, thậm chí bằng tiếng phổ thông, đã được xác định (Sắc lệnh thứ hai về giảng dạy và rao giảng, Khóa V và IV, Khóa XXIV). Tương tự như vậy, mọi thứ liên quan đến việc quản lý các bí tích được làm rõ (xem các sắc lệnh cải cách của khóa VII). Theo cùng hướng đó, ý tưởng được đưa ra là cha sở phải biết đàn chiên của mình. Vì thế, hai cuốn sổ đã xuất hiện: Sổ tình trạng các Linh hồn (Liber status animarum) và Sổ đăng ký giáo xứ (Liber parochialis). Từ thế kỷ XII, trước tình trạng tử vong ở trẻ sơ sinh cao và hủ tục giết trẻ sơ sinh, các giám mục đã khuyến khích rửa tội cho trẻ sơ sinh để đảm bảo trẻ được cứu rỗi càng sớm càng tốt. Và từ thế kỷ XV, Sổ rửa tội (Liber baptismorum) dần trở nên phổ biến. Sắc lệnh Villers-Cotterêts năm 1539 bắt buộc phải làm sổ này và lưu trữ các bản sao.
II. CHA SỞ, GIÁO DÂN, GIÁO XỨ:
GÓC NHÌN GIÁO LUẬT …
Theo Giáo luật “Cha sở là chủ chăn riêng của giáo xứ được trao phó cho ngài” (c. 519); và tương tự như vậy: Giáo xứ là một cộng đoàn Kitô hữu nhất định … mà trách nhiệm mục vụ được ủy thác cho cha sở như là chủ chăn riêng của giáo xứ ấy (c. 515, §1).
1) Hoạt động của cha sở
Các văn bản trên nêu rằng cha sở là một “mục tử” (pastore) và thực hiện “chăm sóc mục vụ” (cura pastore) cho giáo xứ được giao phó cho mình. Các thuật ngữ mang một ý nghĩa chung: Mục đích để đạt được ơn cứu rỗi siêu nhiên. Hoạt động của cha sở là đem lại cho giáo dân ơn cứu rỗi, bao gồm việc giảng dạy, cử hành phụng tự, quản lý và thực hiện các công việc từ thiện, và người nhận là các tín hữu (fideli), về cơ bản nó có nghĩa là “giáo dân” (laici). Thật là hiển nhiên khi diễn giải hoạt động của cha sở đối với giáo dân và vị trí của giáo dân đối với cha sở theo sơ đồ này: Hoạt động của cha sở bao gồm việc trao cho giáo dân sự thiện cứu rỗi và địa vị của giáo dân là nhận những điều nói trên từ cha sở. Câu trả lời như vậy có chính xác và đáng chấp thuận không? Phải chăng hoạt động của cha sở chỉ là cho? Phải chăng vị trí của giáo dân chỉ là nhận? Phải thừa nhận rằng hoạt động của cha sở đối với giáo dân và thái độ của giáo dân đối với cha xứ có thể bao gồm và thường bao gồm mô hình đó: Cho - Nhận. Ví dụ, cha sở tha tội, cha sở ban xá giải, và hối nhân nhận được phép tha tội. Tương tự như vậy trong việc cử hành các bí tích khác, và trong các hoạt động khác.
2) Hoạt động của giáo dân
Hoạt động của giáo dân không chỉ bao gồm việc đón nhận những ơn cứu độ mà còn cho nữa. Họ không chỉ là thụ thể mà còn hoạt động như những người cho. Thật dễ dàng để đưa ra bằng chứng đầy đủ về học thuyết này trong Bộ Giáo luật. Văn bản chính, tổng hợp và cơ bản là điều 204, trong đó có định nghĩa về “tín hữu” nêu rằng họ là những người nắm giữ sứ mệnh của Giáo hội, nghĩa là họ là những người nắm giữ tất cả các hoạt động mà chính Giáo hội nắm giữ: “các Kitô hữu … được tham dự vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Đức Kitô theo cách thế riêng của mình, mỗi người tùy theo hoàn cảnh riêng của mình được kêu gọi thi hành sứ mạng Thiên Chúa đã ủy thác cho Giáo Hội chu toàn trên trần gian”. Định nghĩa này sau đó được giải thích trong các điều luật tiếp theo và được diễn đạt lại và áp dụng ở nhiều nơi trong Bộ Giáo luật. Ta có thể đưa ra một ví dụ ngắn gọn về tất cả những điều này.
Mọi tín hữu đều tích cực trong chức năng giảng dạy – insegnare (x. c. 211: “Tất cả mọi Kitô hữu có bổn phận và có quyền hoạt động để cho sứ điệp cứu độ của Thiên Chúa càng ngày càng được truyền đạt tới toàn thể nhân loại trong mọi thời và mọi nơi”; c. 225, §1; c. 229, §1: Để có thể sống theo giáo lý Kitô Giáo, tự rao giảng và biện hộ cho giáo lý ấy nếu cần, và để có thể góp phần mình vào việc hoạt động tông đồ, các giáo dân có nghĩa vụ và có quyền học hỏi giáo lý hợp với khả năng và hoàn cảnh của mỗi người; c. 230, §3; 759).
Và trong việc rao giảng - predicazione (x. cùng với 230, §3: Nơi nào nhu cầu Giáo Hội đòi hỏi vì thiếu thừa tác viên, các giáo dân dù không phải là thừa tác viên đọc sách hay giúp lễ, cũng có thể thay thế họ để làm một số việc, như thi hành thừa tác vụ Lời Chúa, chủ tọa các buổi cầu nguyện theo phụng vụ; c. 528, §1: “với sự hợp tác của các Kitô hữu, để Tin Mừng cũng được loan báo cho những người không còn thực hành việc sống đạo nữa hoặc không tuyên xưng đức tin chân thật”; c. 766), trong giáo lý (x. cc. 773-774; 776; 778; 780; 785) và các hình thức khác và bằng các phương tiện khác (xem cc. 781-833), thậm chí giảng dạy các khoa học thánh, cũng trong các chủng viện (xem cc. 218; 229, §3: “sau khi đã tuân giữ những quy định liên quan đến năng lực cần phải có, những giáo dân có năng cách được nhà chức trách hợp pháp của Giáo Hội ủy nhiệm để giảng dạy các thánh khoa”; c. 253).
Tất cả các tín hữu đều tích cực trong chức năng thánh hóa - santificare (ví dụ, c. 214: “Các Kitô hữu có quyền thờ phượng Thiên Chúa theo những quy định của lễ nghi riêng đã được các vị Chủ Chăn hợp pháp của Giáo Hội chuẩn y và có quyền theo một hình thức của đời sống thiêng liêng phù hợp với giáo huấn của Giáo Hội”; 230; 835, §4; 836; 840; 899, §2: “Trong bữa tiệc Thánh Thể, đoàn dân Chúa được triệu tập thành cộng đoàn dưới sự chủ tọa của Giám mục hay của linh mục dưới quyền ngài, các vị này hành động với tư cách là chính Đức Kitô, và tất cả mọi tín hữu hiện diện ở đó, dù là giáo sĩ hay giáo dân, đều góp phần tích cực tham dự, mỗi người theo thể thức riêng của mình, tùy theo sự khác biệt về cấp bậc và chức năng phụng vụ”; cc. 1173-1174)
Ít nhất theo một cách nào đó, tất cả các tín hữu đều tích cực trong chức năng quản trị - governare - bằng cách cố vấn cho cha sở (x. cc. 212, §3: “Tùy theo kiến thức, thẩm quyền và uy tín bản thân, các Kitô hữu có quyền, và đôi khi có cả bổn phận phải bày tỏ cho các vị Chủ Chăn có chức thánh biết ý kiến của họ liên quan tới lợi ích của Giáo Hội”; 228, §2 và tất cả các cơ cấu hội đồng được thành lập cho mục đích này), có thể quản lý một số cộng đồng trong những trường hợp cần thiết được thấy trước theo luật (xem cc. 230, §3; 517, §2: “Nếu vì thiếu các tư tế, Giám mục giáo phận xét thấy cần phải ủy thác cho một phó tế, hoặc cho một người không có chức tư tế, hoặc cho một nhóm người, được tham gia vào việc thi hành trách nhiệm mục vụ của một giáo xứ, thì ngài phải đặt một tư tế có các quyền và các năng quyền của một cha sở làm người điều hành trách nhiệm mục vụ”), cuối cùng cha sở có thể chỉ định giáo dân thực hiện một số chức vụ và nhiệm vụ nhất định (xem cc. 145, §1; 228, §1: “Những giáo dân nào được nhận thấy có khả năng xứng hợp thì có năng cách được các Chủ Chăn có chức thánh mời đảm nhận các giáo vụ và nhiệm vụ trong Giáo Hội mà họ có thể thi hành chiếu theo quy tắc luật định”; 230, §3; 482; 494). Hẳn nhiên, hoàn toàn dễ hiểu là tất cả các tín hữu đều tích cực trong việc thực hiện các công việc từ thiện.
Cái nhìn thoáng qua này chứng minh rõ ràng rằng các tín hữu không chỉ nhận lãnh mà còn trao ban sự thiện cứu độ. Giáo dân hoạt động do yếu tính của họ đến từ các bí tích, đặc biệt là bí tích Rửa tội và Thêm sức và có phần đóng góp riêng của họ. Cũng rất rõ ràng khi phân biệt, trong phạm vi hoạt động giảng dạy, cử hành phụng tự và quản lý có những điều đòi hỏi Bí tích Truyền chức và những điều không đòi hỏi bí tích này. Rõ ràng là giáo dân chỉ có thể thực hiện được điều sau.
3) Giáo xứ như một tác nhân thống nhất
Giáo xứ phải được quan niệm như một “cộng đoàn Kitô hữu” (c. 515, §1), như một tác nhân thống nhất, mỗi người hành động, thực hiện hành động của mình, nhưng hành động là thống nhất vì nó thuộc về chủ thể thống nhất. Hãy lấy hình ảnh dàn nhạc: Mỗi nhạc công chơi nhạc cụ của riêng mình và âm thanh của mỗi người khác nhau, nhưng âm thanh là thống nhất và thuộc về dàn nhạc như một sự kết hợp của nhiều người, nghĩa là như một chủ thể hành động thống nhất. Đây là ví dụ rõ ràng về hoạt động này, thuộc về các cá nhân, nhưng cuối cùng là của toàn thể. Các lễ nghi phụng vụ cũng vậy, trên hết là các bí tích và đặc biệt là Bí tích Thánh Thể. Trong những trường hợp này, rõ ràng là hành động được thực hiện bởi các cá nhân, vì mỗi người thực hiện phần việc của mình (trên hết là những người thực hiện một số chức năng, chẳng hạn như người đọc sách, giúp lễ, ca viên, đặc biệt là linh mục chủ trì phụng vụ), nhưng hành động, cuối cùng, là của toàn thể cộng đồng như một chủ thể hành động thống nhất (xem cc. 837, §1: “Các hoạt động phụng vụ không phải là những hoạt động riêng tư, nhưng là những cử hành của chính Giáo Hội là “bí tích hiệp nhất”, nghĩa là đoàn dân thánh được tập hợp và điều hành dưới quyền Giám mục, vì thế, các hoạt động phụng vụ liên quan đến toàn thể thân mình của Giáo Hội, biểu lộ và tác động đến thân mình ấy, nhưng các hoạt động ấy liên hệ với mỗi chi thể của thân thể ấy một cách khác nhau, tùy theo sự khác biệt của chức vị, của nhiệm vụ và của việc tham dự hữu hiệu”; c. 899). Do đó, chúng ta có thể nói: Dưới sự chủ trì của linh mục cha sở, người hoàn toàn thiết yếu, giáo xứ công bố lời Chúa (cf. c. 528, §1); cử hành Thánh Thể và các bí tích khác (cf. c. 528, §2); thực hiện các công việc bác ái (cf. c. 529, §); tự quản (mặc dù vẫn duy trì sự phân biệt giữa các cố vấn giáo dân và cha sở có thẩm quyền, cf. cc. 536-537)
Chức linh mục thừa tác của cha sở phải được thể hiện một phần theo phong cách quản trị, mang tính cá nhân và đồng thời mang tính cộng đồng từ phía cha sở, và mặt khác theo các cấu trúc cụ thể của “sự tham gia” ở cấp độ tổ chức giáo xứ. Chính xác là vì giáo xứ, giống như toàn thể Giáo hội cụ thể, được chia thành các đặc sủng, chức thánh và dịch vụ khác nhau, được phân bổ cho các thành viên tạo nên giáo xứ, nên nhiệm vụ cụ thể của cha sở là đạt được sự thống nhất trong đa dạng, khuyến khích sự hợp tác của những người điều hành khác nhau trong đời sống giáo xứ, thực sự là của tất cả các tín hữu. Sự hiệp lực này không phủ nhận và không được phủ nhận chức vụ của cha sở đòi hỏi một nghĩa vụ đúng đắn và một thẩm quyền. Cha sở phải biết cách chịu trách nhiệm về quyết định cuối cùng, quyết định này sẽ được đón nhận tốt hơn nhiều khi được đưa ra theo phong cách quản trị cộng đồng. Hội đồng Mục vụ phải thể hiện sự hiệp thông của các tín hữu, tích cực và có trách nhiệm, với cha sở, người là mục tử đích thực của toàn thể cộng đồng giáo xứ.
Trong quản trị giáo xứ, cha sở phải tìm kiếm sự cân bằng giữa việc coi trọng ơn gọi và nhiệm vụ của mỗi tín hữu, do đó, trách nhiệm của tất cả mọi người đối với lợi ích của Giáo hội nói chung và của giáo xứ nói riêng, và trách nhiệm đối với các quyết định mà cuối cùng chỉ có mình cha sở phải đưa ra. Có lẽ đáng để dừng lại ở khái niệm tham gia có tương quan với khái niệm hiệp thông và đồng trách nhiệm (di comunione e corresponsabilità).
… VÀ HUẤN THỊ HOÁN CẢI MỤC VỤ
Khái niệm truyền thống về giáo xứ và mục vụ giáo xứ không đáp ứng đầy đủ nhu cầu tôn giáo của con người đương đại. Tình hình này tạo ra nhu cầu đổi mới giáo xứ và các hình thức mục vụ giáo xứ truyền thống. Đây là mục đích chính của Huấn thị của Bộ Giáo sĩ (Hoán cải mục vụ cộng đoàn giáo xứ để phục vụ sứ vụ loan báo Tin Mừng của Hội Thánh): Chuyển đổi mục vụ của cộng đồng giáo xứ để phục vụ sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội. “Các cộng đoàn giáo xứ sẽ tìm thấy trong tài liệu này lời mời gọi ra khỏi chính mình, khi đưa ra những phương thế cải tổ, cả về mặt cơ cấu, trong tinh thần hiệp thông và cộng tác, gặp gỡ và liên kết, thương xót và quan tâm đến công cuộc loan báo Tin Mừng” (Hoán cải mục vụ, số 2).
1. Giới thiệu Huấn thị
Tài liệu này gồm 124 số được chia thành 11 chương, bắt đầu bằng phần giới thiệu và kết thúc bằng phần kết luận. Huấn thị sử dụng hai nguồn: Đầu tiên là Công đồng Vatican II và Đức Giáo hoàng Phanxicô, đặc biệt trong 41 số đầu. Huấn thị sử dụng từ “hoán cải mục vụ” trong tựa đề và dành chương đầu tiên cho điều này (Hoán cải mục vụ, số 3-5). Từ hoán cải mục vụ xuất hiện trong số 2, 3, 20, 37 (“Hoán cải mục vụ các cấu trúc”) và 42 (“Hoán cải mục vụ cộng đồng giáo xứ”). So sánh “Hoán cải truyền giáo” (số 6); “Truyền giáo là nguyên tắc chỉ đạo cho sự đổi mới” (tiêu đề chương IV); “Hoán cải tâm hồn (số 21); “từ hoán cải con người sang hoán cải các cấu trúc” (tiêu đề chương VI); “Hoán cải các cấu trúc” và “một cuộc cải cách các hoạt động mục vụ theo hướng truyền giáo” (số 35). Huấn thị nhắc lại lời kêu gọi của Đức Giáo hoàng Phanxicô về sự sáng tạo và những cách thức mới để loan báo Tin Mừng (số 1), về các giá trị mục vụ như sự gần gũi và lòng thương xót (số 2), và quan tâm đến ‘các linh hồn’ hơn là các cấu trúc (số 3).
Đặc biệt từ số 42 trở đi, Hướng dẫn bắt đầu chuyển sang một nguồn khác: Giáo luật. Trong số 180 chú thích, hơn 80 chú thích đề cập đến Bộ Giáo luật. Con số chú thích tham khảo đáng kinh ngạc đó là một dấu hiệu khác cho thấy Giáo luật thực sự là một nguồn chính.
Về cơ bản, Huấn thị muốn điều chỉnh các cấu trúc giáo xứ cho phù hợp với hoàn cảnh thay đổi; có thể nói rằng đó là aggiornamento của các cấu trúc chăm sóc mục vụ. Thông qua Huấn thị, Bộ Giáo sĩ hy vọng sẽ hướng dẫn quá trình cải cách đó theo các nguyên tắc Giáo luật. Mặc dù có nói về sáng tạo mục vụ, nhưng thực tế là gần một nửa số chú thích tham chiếu đến Giáo luật cho thấy các cân nhắc về giáo luật có trọng lượng lớn hơn. Hơn nữa, việc tập trung vào vai trò duy nhất của linh mục tạo ra ấn tượng rằng tình trạng thiếu hụt linh mục (ở phương Tây) có thể là vấn đề thực sự. Điều đó sẽ giải thích tại sao Huấn thị rất kiên quyết rằng giáo dân không thể đảm nhận vai trò của họ.
1. Cha sở: Người mục tử mang lấy mùi chiên.
Trong Thánh lễ Truyền dầu 2013, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nói: “Người chăn chiên phải mang lấy mùi chiên, làm cho cái mùi ấy thành cái mùi thực, giống các người chăn chiên ở giữa đoàn chiên. Mùi của chiên chỉ có được bằng cách sống các thực tại đời sống hàng ngày của họ (đoàn chiên), các bối rối khó khăn của họ, các niềm vui của họ, các gánh nặng và các hy vọng của họ”. Người chăn chiên thực sự không chỉ là người lãnh đạo mà còn là người bạn đồng hành, lắng nghe và chia sẻ. Ngài còn ví Giáo hội như một bệnh viện dã chiến và một người mẹ. Ngài kêu gọi mục tử hoán cải sang thái độ gần gũi hơn, mục vụ hơn, “Các linh mục của Giáo hội phải có lòng thương xót, chịu trách nhiệm với mọi người và đồng hành với họ như người Samaritanô nhân hậu, người rửa vết thương, làm sạch và nâng người lân cận của mình lên. Đây là Tin Mừng thuần túy. Chúa vĩ đại hơn tội lỗi. Các cải cách về cơ cấu và tổ chức là thứ yếu - nghĩa là, chúng đến sau. Cải cách đầu tiên phải là thái độ. Các linh mục phải là những người có thể sưởi ấm trái tim của mọi người, cùng bước với họ qua đêm đen, người biết cách đối thoại và tự mình đi vào đêm đen của mọi người, vào bóng tối, nhưng không bị lạc lối. Dân Chúa muốn có các mục tử, chứ không phải giáo sĩ như những viên chức quan liêu hoặc quan chức chính phủ”.[6]
Nhiệm vụ trước tiên của cha sở trong giáo xứ là lãnh đạo. “Lãnh đạo” là từ Hán Việt, gồm “Lãnh” (領) có nghĩa là có nghĩa là “nhận lấy, cầm đầu”, và “đạo” (導) có nghĩa là “đường đi”, “lối đi”. Vì vậy, “lãnh đạo” được hiểu là “nhận lấy việc dẫn đường” hoặc “điều khiển”, nghĩa là nhận trách nhiệm và dẫn dắt, chỉ đạo một tập thể theo một hướng đi nhất định. Chức năng này được Huấn thị khẳng định lại khi trích dẫn Giáo luật: “Cha sở là “chủ chăn riêng của giáo xứ được trao phó cho ngài”, nên do chính luật (ipso iure) ngài là đại diện giáo xứ trong mọi công việc có tính cách pháp lý” (Số 67) và xác minh rõ ràng: “Chính vì mối tương quan giữa cha sở và cộng đoàn giáo xứ phải có sự hiểu biết và gần gũi, nên giáo vụ cha sở không thể được giao cho một pháp nhân… giáo vụ cha sở không được ủy thác cho một nhóm người gồm giáo sĩ và giáo dân. Vì thế, phải tránh những tên gọi như: “nhóm lãnh đạo”, “ban lãnh đạo” hoặc những cách gọi tương tự, gợi lên một quyền hành tập đoàn trong giáo xứ (số 66).
Sự suy giảm ơn gọi đã ngăn cản việc duy trì sự hiện diện của linh mục ở bất cứ nơi nào có nhà thờ. Có lẽ do tình trạng thiếu linh mục, chủ yếu là ở phương Tây, nên một số giáo xứ được giao cho những người không có chức thánh điều hành với những danh xưng không thích hợp. Vì thế Huấn thị nhắc nhở phải “hoán cải mục vụ” về “cấu trúc giáo xứ”, cần phân định và khuyến khích các đặc sủng, mà không sợ sự đa dạng của chúng. Trái lại, bằng cách làm cho sự hiệp thông phát triển thông qua việc chấp nhận lẫn nhau các tính bổ sung, đặc biệt chú ý đến những rủi ro có thể xảy ra khi "giáo sĩ hóa" giáo dân và "thế tục hóa" giáo sĩ, hoặc thậm chí biến các phó tế thành "bán linh mục" hoặc "siêu giáo dân ": “Cha sở lo liệu việc bổ nhiệm các phó tế, các tu sĩ và giáo dân đảm nhận các trách vụ trong giáo xứ, sao cho không chỉ định họ bằng những danh xưng như “cha sở”, “cha phó”, “cha tuyên úy”, “vị điều hành”, “người điều phối”, “phụ trách giáo xứ” hay các từ ngữ tương tự vốn dành riêng cho linh mục theo luật định, vì các danh ngữ ấy có mối tương quan trực tiếp với tính thừa tác của chức linh mục. Cũng sẽ không hợp pháp và không phù hợp với căn tính ơn gọi của các tín hữu và phó tế như trên đây, khi dùng các kiểu nói như “giao phó trách nhiệm chăm sóc mục vụ một giáo xứ”, “chủ trì cộng đoàn giáo xứ” và các kiểu nói tương tự, vốn gắn liền với thừa tác vụ linh mục rõ rệt của một cha sở. Chẳng hạn, các danh ngữ như “cộng tác viên phó tế” và, đối với tu sĩ hay giáo dân, “điều phối viên của (một ngành mục vụ riêng biệt)”, “cộng tác viên mục vụ” hoặc “phụ tá mục vụ” và “phụ trách” (một ngành mục vụ) có vẻ thích hợp hơn (số 96).
Cha sở là người chăn chiên có chức vụ làm cha. Chức năng làm cha của cha sở nằm trong chức năng làm cha của Thiên Chúa và dẫn đến chức năng đó. Khi dẫn dắt mọi người đến với Chúa Cha, mục đích là để đảm bảo rằng cuối cùng họ sẽ gặp Ngài trong cõi vĩnh hằng. Các Giáo hoàng gần đây đã nhấn mạnh nhu cầu về mối quan hệ cá nhân giữa cha sở và giáo dân của mình và nhu cầu xây dựng một cộng đồng giáo xứ bao gồm tất cả mọi người, cả những người có lòng nhiệt thành tôn giáo và những người xa cách với Chúa và Giáo hội. Nhu cầu cha sở phải là người cha đối với giáo xứ và giáo dân của mình cũng xuất phát từ các điều kiện mục vụ hiện tại. Trong bối cảnh của những thách thức mục vụ hiện tại, thái độ của cha sở đối với những người dưới quyền của mình ngày càng trở nên quan trọng hơn. Khái niệm thần học về giáo xứ chỉ ra rằng thái độ của người cha là thái độ phù hợp nhất khi nói đến việc hoàn thành ơn cứu rỗi cho mỗi tín hữu và cộng đồng các tín hữu.
Chức năng làm cha của cha sở cũng được thực hiện vì lợi ích của cộng đồng tín hữu. Trong thần học, giáo xứ được so sánh với gia đình. Giáo dân là một cộng đồng những người gắn kết với nhau bằng mối quan hệ đức tin. Họ được cho là phải sống theo các nguyên tắc của Tin Mừng, và sự hiệp nhất của họ phải được thúc đẩy bởi tình yêu Kitô giáo. Trong mô hình giáo xứ như một gia đình, các thành viên của giáo xứ phải là anh chị em với nhau, và cha sở phải được coi là người cha. Mục tiêu chính của cha sở với tư cách là người cha gia đình là tập hợp các giáo dân lại với nhau và biến họ thành một cộng đồng.
Về cơ bản, Huấn thị đề cập đến việc cải cách các cơ cấu giáo xứ. Sự kết hợp của hai mối quan tâm này – cải tổ cơ cấu giáo xứ và sự cải tổ mục vụ – không rõ ràng. Do đó, từ mục vụ đôi khi được hiểu là 'liên quan đến nhu cầu của giáo dân' hoặc 'liên quan đến thực tế của giáo dân'. Nói một cách đơn giản, các cha sở nên trình bày đức tin theo cách mà đức tin đó "có hiệu quả" và "có ý nghĩa" đối với các tín hữu; họ nên điều chỉnh lời nói, cách cư xử và phong cách, hoặc tổ chức của mình. (Hoán cải các cấu trúc giáo xứ có thể là một sự điều chỉnh như vậy). Tuy nhiên, theo một cách giải thích khác, triệt để hơn, thuật ngữ 'hoán cải mục vụ' bao gồm sự cởi mở sâu sắc đối với sự thay đổi từ phía các cha sở. Hiểu theo cách đó, hoán cải mục vụ không đòi hỏi sự điều chỉnh mục vụ, chẳng hạn như cải cách các cấu trúc giáo xứ, mà là sự điều chỉnh cá nhân. Điều này đòi hỏi một sự khiêm nhường lớn, đặc biệt là từ các cha sở, để họ có thể hiểu và sống Tin Mừng trung thành hơn.
2. Giáo xứ: “Ngôi nhà giữa những ngôi nhà”.
Huấn thị mô tả giáo xứ là “Ngôi nhà giữa những ngôi nhà”: “Nguyên nghĩa của từ “giáo xứ” cho thấy rõ ý nghĩa của cơ chế này: Giáo xứ là một ngôi nhà ở giữa các ngôi nhà” (số 7). Giáo xứ là địa điểm cuối cùng của Giáo hội, theo một nghĩa nào đó, chính Giáo hội hiện diện giữa những ngôi nhà của con cái mình. Từ Hy Lạp chỉ “giáo xứ” là parokia (παροικία) phát sinh từ paroikos, chỉ người tạm trú, người ngoại quốc không có quyền định cư (sojourner). Trong tiếng Hy Lạp cổ, paroikos (πάροικος) chỉ “người láng giềng, hàng xóm", là từ ghép của para - "gần" và oikos - "nhà". Đây là cách giải thích nguyên ngữ của câu “Giáo xứ là một ngôi nhà ở giữa các ngôi nhà”.
Ngày nay, toàn cầu hóa và thế giới kỹ thuật số đã thay đổi mối liên hệ cụ thể của nó với lãnh thổ mà nó bao trùm. Do đó, giáo xứ không chỉ là một không gian địa lý nữa, mà là một không gian hiện sinh, là “lãnh thổ hiện sinh” (số 16). Chính trong bối cảnh này mà "tính linh hoạt" của giáo xứ xuất hiện, cho phép giáo xứ đáp ứng các yêu cầu của thời đại và điều chỉnh việc phục vụ của mình cho các tín hữu trong suốt chiều dài lịch sử. Giáo xứ có tính linh động cao, có thể tiếp thu những tình huống khá khác biệt tuỳ theo sự cởi mở và óc sáng tạo truyền giáo của người mục tử và của cộng đoàn. Chắc chắn giáo xứ không phải là cơ chế duy nhất loan báo Tin Mừng, nhưng nếu nó tỏ ra có khả năng tự canh tân và thích nghi không ngừng, nó vẫn tiếp tục là “Hội Thánh sống giữa các gia đình của các con trai con gái mình” (EG, số 28).
Không còn như xưa nữa, giáo xứ ngày nay gồm những giáo dân “tùy dịp” (occasionnels) chỉ đến nhà thờ vào những biến cố lớn trong đời như Rửa tội, Hôn phối và An táng; “giáo dân chuyển tiếp” (fidèles de la transmission), chỉ đăng ký cho cái các lớp học giáo lý trong một vài năm rồi sau đó không thực hành giữ lễ ngày Chúa Nhật; những “giáo dân của ký ức” (fidèles de la mémoire) gồm những người chỉ nghĩ đến ngày lễ an táng của mình được cử hành trong nhà thờ; và những giáo dân “đi lễ thường xuyên” hơn (messalisants). Mặc dù phải đối mặt với những thách thức của thời đại, giáo xứ vẫn có một vai trò quan trọng trong đời sống của Giáo hội. Cuộc khủng hoảng mà giáo xứ phải đối mặt thực ra là tình trạng thay đổi các hoàn cảnh xã hội và văn hóa mà Giáo hội cũng đã phải đối mặt trong suốt lịch sử của mình cho đến nay. Các hoàn cảnh của giáo xứ rất đa dạng và cần phải có sự phân định để luôn trung thành với sứ mệnh của mình. Các hướng dẫn do Bộ Giáo sĩ ban hành mời gọi mỗi thành viên của Giáo hội quay trở lại với bản sắc và ơn gọi truyền giáo của mình. Các hướng dẫn này cố gắng khơi dậy lòng nhiệt thành thực hiện hoán cải cách mục vụ giáo xứ trong giáo xứ và giáo phận với nhiều lựa chọn đột phá về mục vụ đã được thực hiện. Do đó, bên cạnh sự hoán cải cá nhân và cấu trúc, đặc biệt, sự hoán cải cộng đồng cũng cần thiết.
Trước thánh đố của thời đại, Huấn thị này tìm cách đáp ứng những phát triển ảnh hưởng đến các cấu trúc giáo xứ, đề cập đến “những thay đổi đáng kể về mặt xã hội và văn hóa trong những thập kỷ gần đây” (số 1) và “đặc điểm đặc biệt của thế giới đương đại của chúng ta, theo đó tính di động gia tăng và văn hóa kỹ thuật số đã mở rộng ranh giới của hiện hữu” (số 8, 10). Điều này khiến giáo xứ theo hình thức hiện tại trở nên lỗi thời: “Trước thực tế đang thay đổi nói trên đây, mặc dù rất dấn thân quảng đại, mô hình giáo xứ hiện thời không còn đáp ứng được những kỳ vọng của các tín hữu nữa” (số 16). Những phát triển này không được xem là tiêu cực mà phải nhìn nhận rằng đó là ‘dấu chỉ của thời đại’ (số 11, 13, 14) mà qua đó Chúa Thánh Thần nói với chúng ta.
Theo mong muốn của Đức Giáo hoàng, Huấn thị khuyến khích các cộng đồng Kitô giáo đưa ra lựa chọn truyền giáo theo tinh thần hoán cải mục vụ (số 5). Do đó, khi sáng tạo, họ có thể “tìm kiếm những con đường mới”, vun đắp “nền văn hóa gặp gỡ” lấy con người làm trung tâm nên thúc đẩy việc đối thoại, liên đới và cởi mở đón nhận người khác. Bởi thế, giáo xứ cần phải là “nơi chốn” đặc biệt cho sự gắn kết mọi người với nhau và nuôi dưỡng các mối tương quan cá nhân lâu bền, từ đó giúp người ta cảm nhận mình thuộc về và được yêu thương” (số 25) và trở thành động lực thúc đẩy hơn để gặp gỡ Đức Kitô (số 3). Để đạt được những mục tiêu này, giáo xứ cần có một động lực mới để khám phá lại ơn gọi của mỗi người đã chịu phép rửa tội là trở thành môn đệ của Đức Giêsu và là nhà truyền giáo của Tin Mừng. Do đó, cần phải xác định các nhãn quan cho phép đổi mới các cấu trúc giáo xứ “truyền thống” theo định hướng truyền giáo (số 20), bởi vì, đặc biệt là ngày nay, lãnh thổ không còn bị giới hạn bởi không gian địa lý, mà bởi một môi trường mà mọi người thể hiện cuộc sống của mình thông qua các mối quan hệ và phục vụ lẫn nhau: “Lãnh thổ giáo xứ không chỉ là một không gian địa lý, mà còn là bối cảnh nơi đời sống con người được thể hiện qua các mối quan hệ, qua việc phục vụ lẫn nhau và qua truyền thống lâu đời. Chính trong “lãnh thổ hiện sinh” này, mà Hội Thánh đang phải đối diện với những thách đố đang diễn ra ngay trong lòng cộng đoàn. Vì thế, bất cứ hoạt động mục vụ nào mà chỉ giới hạn trong lãnh thổ của giáo xứ đều trở nên lỗi thời, đó là điều mà chính người giáo dân nhận thấy khi giáo xứ của họ có vẻ bảo thủ chỉ biết hoài cổ thay vì bạo dạn hướng về tương lai” (số 16). Do đó, giáo xứ cần phải hướng dẫn mọi người đọc và suy ngẫm về lời Chúa thông qua nhiều cách khác nhau để công bố Tin Mừng (số 22); “giáo xứ cần phải hướng dẫn các tín hữu biết đọc và suy gẫm Lời Chúa qua nhiều phương thức khác nhau để rao truyền, truyền đạt rõ ràng và dễ hiểu để loan báo Đức Giêsu bằng lời chứng luôn luôn mới mẻ của lời loan báo tiên khởi (kerygma)” (số 21). Tất cả những điều này đòi hỏi phải suy tư không chỉ về trải nghiệm mới của giáo xứ, “nhưng còn là suy tư về thừa tác vụ và sứ vụ của linh mục, là người cùng với giáo dân, có nhiệm vụ trở thành “muối và ánh sáng trần gian” (x. Mt 5,13-14), một “ngọn đèn đặt trên đế” (Mc 4,21), soi tỏ khuôn mặt của một cộng đoàn Loan báo Tin Mừng, có khả năng đọc được các dấu chỉ của thời đại và làm chứng bằng lối sống thuyết phục theo Tin Mừng” (số 13).
Cũng như đầu và các bộ phận khác cùng làm việc trong sự hiệp nhất của thân thể, thì giáo dân, ngoài chức năng tông đồ của họ, “cũng có thể được kêu gọi theo nhiều cách khác nhau để hợp tác trực tiếp hơn trong chức năng tông đồ của Giáo phẩm. Đây là cách mà một số người cả nam lẫn nữ đã hỗ trợ Thánh Phaolô, làm việc rất nhiều trong Chúa. (So sánh Phil. 4, 3; Rom. 16, 3tt.) Hơn nữa, họ có khả năng đảm nhận từ Giáo phẩm một số chức năng giáo hội, được thực hiện vì mục đích thiêng liêng" (Lumen Gentium, số 33) Huấn thị không đi chệch khỏi điều này: Trách nhiệm cuối cùng đối với việc chỉ đạo giáo xứ thuộc về cha sở, một linh mục đã được thụ phong; đồng thời, giáo dân được kêu gọi tham gia. Đây không phải là vấn đề về lòng quý trọng, mà là vấn đề thực tế là chúng ta, các linh mục và giáo dân, cùng chia sẻ trách nhiệm đối với Giáo hội của Đức Kitô.
Là Thân thể của Chúa Kitô, Giáo hội vẫn không thay đổi về bản chất của mình qua các thời đại. Tuy nhiên, là một phần hữu hình của Giáo hội, chúng ta được kêu gọi nhiều lần để đáp ứng với những thay đổi của thời đại. Chúng ta phải tự hỏi mình nhiều lần làm thế nào chúng ta có thể mang Đức Kitô đến với mọi người. Chúng ta nhớ lại lý do tồn tại của chính mình, "đó là đem Tin Mừng đến với dân chúng bằng việc thông truyền đức tin và cử hành các Bí tích" (số 7). Giáo xứ, với tư cách là một Giáo hội địa phương và là một cộng đồng tín hữu cụ thể, thực hiện sứ mệnh này thông qua sự tham gia của mỗi thành viên.
Để “hoán cải mục vụ” được triệt để, Huấn thị nên nói thêm về “sự tự do tinh thần, sự tách biệt, sự nghèo khó và sự khiêm nhường. Những đức tính này được chứng thực rộng rãi trong các truyền thống tinh thần của Giáo hội nhưng lại ít được chứng thực trong giáo huấn của giáo quyền và trong thực hành của giáo hội. Giáo sĩ của Giáo hội Công giáo Rôma không được biết đến vì sự sẵn sàng lắng nghe, sự cởi mở với cái mới hoặc kỹ năng đối thoại của họ. Các tín hữu của họ không được biết đến vì sự tự do tinh thần và sự tách biệt của họ khỏi ‘kiểu làm việc của tôi’”.
LỜI KẾT
Mối quan hệ cá nhân giữa cha sở và giáo dân của mình và nhu cầu xây dựng một cộng đồng giáo xứ bao gồm tất cả mọi người, cả những người có lòng nhiệt thành tôn giáo và những người xa cách với Chúa và Giáo hội. Nhu cầu cha sở phải là người cha đối với giáo xứ và giáo dân của mình cũng xuất phát từ các điều kiện mục vụ. Trong bối cảnh của những thách thức mục vụ hiện tại, thái độ của cha sở đối với những người dưới quyền của mình ngày càng trở nên quan trọng hơn. Khái niệm thần học về giáo xứ chỉ ra rằng thái độ của người cha là thái độ phù hợp nhất khi nói đến việc hoàn thành ơn cứu rỗi cho mỗi tín hữu và cho cộng đồng các tín hữu. Cha sở là người chăn chiên có chức vụ làm cha và giáo xứ phải là ngôi nhà chung, ngôi nhà giữa những ngôi nhà, là công cụ hữu hiệu của lòng bác ái không giới hạn, vì nhu cầu vô hạn của giáo dân, của những người hàng xóm vốn ít ỏi, của những người ở xa vốn đông đảo.
Cùng với việc hoán cải mục vụ, “cách thức mới để trở thành Giáo hội … đòi hỏi một giáo hội học khác, một giáo hội học phi tập trung Giáo hội theo nghĩa là nó biến trung tâm của đời sống và thờ phượng của Kitô hữu không phải là Giáo hội mà là Triều đại Thiên Chúa. Kiểu cách mạng Copernicus này trong giáo hội học coi mục tiêu và mục đích của sứ mệnh truyền giáo của Giáo hội không phải là sự mở rộng về mặt địa lý và thể chế của Giáo hội (plantatio ecclesiae), mà là một dấu hiệu rõ ràng và công cụ hiệu quả cho sự hiện diện cứu rỗi của Triều đại Thiên Chúa, triều đại của công lý, hòa bình và sự sống, mà Giáo hội là một hạt giống”.
Cuối cùng, Huấn thị này nhấn mạnh tính cấp bách của việc đổi mới để làm chứng cho Đức Kitô được chiếu sáng trên thế gian. Điều ấy có nghĩa là giáo xứ “phải luôn là một nơi của sáng tạo, sống tương quan và tình mẫu tử. Chính ở nơi đây khả năng sáng tạo được thể hiện. Và khi một giáo xứ phát triển theo hướng này, giáo xứ sẽ đạt được điều mà Đức Phanxicô gọi là một “giáo xứ đi ra” (số 123). “Giáo hội không phải là về chính mình, nhưng đến từ Đức Kitô và được mô phỏng theo Đức Kitô (và hướng về Chúa Cha). Theo quan điểm đó, Lumen Gentium nói rằng các cấu trúc và bí tích của giáo hội không phải là vĩnh cửu mà thuộc về thế giới đang qua (LG 48) là rất phù hợp; thực sự, bất cứ điều gì cũng nên thay đổi nếu mục đích là để cho ơn cứu rỗi được phục vụ tốt hơn. Hoán cải có nghĩa là định hướng lại sâu sắc về Thiên Chúa, Đức Kitô, Chúa Thánh Thần và những gì được đại diện, tức là sự cứu rỗi. Khi kết hợp với thuật ngữ mục vụ, nó có nghĩa là: Một sự định hướng lại sâu sắc về Thiên Chúa, Đức Kitô, Chúa Thánh Thần, và ơn cứu rỗi dựa trên mối quan tâm đối với các tín hữu”.
Tham khảo GILLES ROUTHIER (2001), “La paroisse: naissance et évolution d'une institution”, trong Serge Courville và Normand Séguin (chủ biên), La paroisse. Québec, Les Presses de l'Université Laval (coll.
“Atlas historique du Québec”).
Cựu Ước bản dịch Bảy Mươi dùng động từ này 7 lần và 2 lần trong Tân Ước. Danh từ paroikos được dùng 4 lần trong Tân Ước và được dịch là khách lạ (étranger), di dân (émigré), hay tạm trú (séjournant). Và parokia, từ đó phát sinh ra “paroisse”, được dùng 2 lần.
LECLERCQ, H. (1938), “Paroisses rurales”, trong Dictionnaire d’archéologie chrétienne et de liturgie, Paris, Letouzey et Ané, col. 2108.
Tham khảo F. Coccopalmerio, “Il Parroco "pastore" della parrocchia”, trong Quaderni di diritto ecclesiale, 6 (1993), tr. 6-21.
Thierry Blot, Le curé, pasteur, des origines à la fin du XXe siècle. Étude historique et juridique, Tequi, 2000, tr. 596
ANTONIO SPADARO, “A Big Heart Open to God: An Interview with Pope Francis”, America Magazine (September 30th, 2013), https://www.americamagazine.org/faith/2013/09/30/big-heart-open-god-interview-pope-francis; https://www.vatican.va/content/francesco/en/speeches/2014/december/documents/papa-francesco_20141222_curiaromana.html.
Một số nhà thờ miền thôn quê ở phương Tây không có linh mục coi sóc nên để bảo tồn nhà thờ và duy trì sinh hoạt của giáo dân, một gia đình trẻ tình nguyện đến sống tại nhà xứ. Họ làm công việc chuyên môn theo ngành nghề của mình để kiếm thu nhập. Mỗi ngày Chúa Nhật họ đón tiếp mọi người đến nhà thờ, gặp gỡ nhau để chia sẻ đời sống đức tin.
CÉLINE BÉRAUD, “La paroisse et le métier de prêtre. Les mutations récentes”, trong Anne Bozon, Philippe Guignet và Marc Vénard (dir.), La paroisse urbaine. Du Moyen Age à nos jours, Paris, Ed. du Cerf, “Histoire religieuse de la France”, 2014, tr. 478.
JOS MOONS, SJ, “Pastoral conversion according to the Congregation for the clergy: The pastoral conversion of the Parish community in the service of the evangelizing mission of the Church”, Encounter, 13:1 (January – June 2022), tr. 8-25.
PETER PHAN, In Our Tongues. Perspectives from Asia on Mission and Inculturation , New York 2003, tr. 14.
JOS MOONS, SJ, “Pastoral conversion according to the Congregation for the clergy: The pastoral conversion of the Parish community in the service of the evangelizing mission of the Church”, Encounter, 13:1 (January – June 2022), tr. 8-25.
Tác giả: Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính