Đề tài thuyết trình thứ sáu của khoá Thường huấn Linh mục, ngày 25/9/2025: Phát huy vai trò của giáo dân trong công việc mục vụ giáo xứ
Toàn Nguyễn Văn, Lm. Phaolô Võ Đình Hoài
2025-09-25T04:34:45-04:00
2025-09-25T04:34:45-04:00
https://gpquinhon.org/thuong-huan/de-tai-thuyet-trinh-thu-sau-cua-khoa-thuong-huan-linh-muc-ngay-25-9-2025-phat-huy-vai-tro-cua-giao-dan-trong-cong-viec-muc-vu-giao-xu-7217.html
https://gpquinhon.org/uploads/news/2025/chahoaii.jpg
Giáo phận Qui Nhơn
https://gpquinhon.org/uploads/banner-980x120_1.jpg
Thứ năm - 25/09/2025 04:33
PHÁT HUY VAI TRÒ GIÁO DÂN
TRONG CÔNG VIỆC MỤC VỤ GIÁO XỨ
Dẫn nhập:
Gần đây trên mạng xã hội xuất hiện một đoạn video thuyết giảng của một sư thầy Phật giáo và nó đã gây hoang mang lẫn phẫn nộ của không chỉ những người theo đạo Công Giáo mà cả những tín hữu Phật giáo. Trong phần thuyết giảng, vị sư thầy này đã so sánh vai trò của người tín hữu theo đạo Công Giáo và người tín hữu theo Phật giáo như sau: “những người theo đạo Phật đều có khả năng thành Phật, còn những người tín hữu theo đạo Công Giáo không có khả năng thành Chúa được đâu. Những ai tu theo đạo Phật sẽ thành Phật, còn những người Kitô hữu dù có đi tu cách mấy, họ cũng chỉ là những con chiên mà thôi”. Dĩ nhiên, những lời phát biểu trên đây có thể xuất phát từ sự thiếu hiểu biết về hình ảnh ẩn dụ mà Kinh Thánh dùng để nói về mối tương quan giữa con chiên và người chủ chăn (Cf. Ga 10,1-18). Tuy nhiên, hàm ý ẩn sau sự so sánh này, rõ ràng vị sư thầy thuyết giảng đang có thái độ hả hê khi cố ý hạ thấp vai trò của người tín hữu Công Giáo, đồng thời làm tăng giá trị của những người theo Phật giáo.
Suy nghĩ nhiều hơn về vai trò của người giáo dân trong lòng Giáo Hội, không khó để chúng ta nhận ra: đã từng có một thời, người giáo dân được ví như “con chiên” theo cách hiểu của vị sư thầy nọ, nghĩa là một thành phần thụ động, không có chính kiến, luôn bị dẫn dắt và sai khiến bởi kẻ khác. Tình trạng này càng trở nên nặng nề dưới thời kỳ giáo sĩ trị, thời kỳ mà Giáo Hội quá nhấn mạnh đến tầm quan trọng của các chức tư tế thừa tác, không chỉ trong lãnh vực phụng vụ, mà còn trong lãnh vực quản trị và lãnh đạo cộng đoàn, từ đó bỏ qua năng lực, sự sáng tạo và vai trò của người giáo dân trong đời sống của Giáo Hội.
Kể từ Công đồng Vaticanô II, một làn gió mới đã được thổi vào trong đời sống Giáo Hội thông qua việc nhìn nhận và nâng cao vai trò của giáo dân trong mọi lĩnh vực hoạt động mục vụ. Đặc biệt hiến chế Lumen Gentium đã làm nổi bật bản chất và nhiệm vụ của người giáo dân qua khái niệm “Dân Chúa”. Xét về bản chất, mọi tín hữu đều bình đẳng với nhau qua phép rửa tội và nhờ đó họ trở thành một thân thể với Chúa Kitô và được thông phần vào chức năng tư tế, ngôn sứ và vương đế của Chúa Kitô (Lumen Gentium số 32). Về nhiệm vụ, họ cũng mang trong mình sứ mạng của toàn thể Giáo Hội là làm cho ý định cứu độ của Thiên Chúa ngày càng lan tới tất cả mọi người ở mọi nơi và mọi thời đại.
Tính đến nay, Công Đồng Vaticano II đã trải qua thời gian hơn 60 năm, tuy nhiên không phải tất cả mọi người đều nhận ra vai trò lớn lao của người giáo dân trong hoạt động của Giáo Hội. Cách riêng trong sinh hoạt nơi cộng đoàn giáo xứ, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, người giáo dân còn tỏ ra thụ động và thiếu sáng tạo khiến cho cộng đoàn mất đi sức sống và hoạt động mục vụ kém hiệu quả. Chính vì lẽ đó, đã xuất hiện rất nhiều những lời kêu gọi giáo dân hãy ý thức về vai trò của mình trong sinh hoạt mục vụ, gọi là hoạt động tông đồ giáo dân. Trong số những lời kêu gọi này, vào năm 2020, bộ giáo sĩ đã ra một huấn thị với tựa đề “ Cải tổ mục vụ cộng đoàn giáo xứ để phục vụ sứ vụ loan báo Tin Mừng của Hội Thánh”. Dựa vào đường hướng “một Giáo Hội mở cửa và đi ra” của đức cố Giáo hoàng Phanxicô, bộ giáo sĩ đã mong muốn Giáo Hội có một sự thay đổi thực sự qua việc cải tổ trong cách thức mục vụ và cơ cấu tổ chức của mình để công cuộc truyền giáo được hiệu quả hơn.
Trong nội dung của đề tài này, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu một hướng cải tổ mục vụ nơi giáo xứ thông qua việc nhìn nhận và phát huy vai trò của giáo dân. Đây chắc chắn không phải là một đề tài mới mẻ bởi nó đã được nhắc tới nhiều trong các văn kiện của Giáo Hội và cũng rất gần gũi với công việc mục vụ của hầu hết các cha nơi cộng đoàn giáo xứ. Tuy nhiên, đây là cơ hội để mỗi người chúng ta, khi cùng nhau suy gẫm về bản chất cũng như sứ vụ của người giáo dân, biết áp dụng cho phù hợp với hoàn cảnh nơi cộng đoàn của mình, trả lại vị trí vốn có của người giáo dân, đồng thời phát huy vai trò lớn lao của họ.
I. Bản chất và sứ mạng của giáo dân.
1. Giáo dân - Dân thiên Chúa
Danh từ “giáo dân” khiến cho chúng ta liên tưởng đến một khái niệm lớn hơn mà Công Đồng Vaticanô II thường gọi là Dân Thiên Chúa. Ngay từ lúc đầu, Israel được sánh ví là Dân Thiên Chúa vì Thiên Chúa đã tuyển chọn và can thiệp trực tiếp vào trong lịch sử của dân tộc này. Ngài đã tuyển chọn họ cách nhưng không giữa muôn dân như sách Đệ Nhị Luật đã khẳng định: “không phải vì các ngươi đông hơn các dân khác hết thảy mà Giavê đã đem lòng quyến luyến các ngươi, và đã chọn các ngươi: thật ra, các ngươi là dân ít người hơn mọi dân. Nhưng vì Giavê đã yêu mến các ngươi và vì Người đã giữ lời thề Người đã tuyên thệ với cha ông các ngươi: chính vì thế mà với bàn tay mạnh Giavê đã đem các ngươi ra khỏi nhà tôi mọi, khỏi tay Pharaô, vua Ai Cập” (Đnl 7,7-8). Vì tình thương này, Thiên Chúa chăm sóc Israel với tình phụ tử và gọi họ bằng “con” (x. Xh 4,20; Hs 11,1); rồi Thiên Chúa đã ký kết giao ước với họ trên núi Sinai để đặt Israel làm Dân riêng của Người (Đnl 29,9-12).
Từ khi được thiết lập, Giáo Hội đã luôn ý thức mình là dân mới của Thiên Chúa (x. Rm 9,25-29; 11,1-5; Gl 6,16). Nếu ngày xưa, dân Israel được thiết lập từ giao ước Sinai, thì nay dân mới của Thiên Chúa được phát sinh từ giao ước mới, được đóng ấn bằng máu của con Chiên vượt qua là Đức Kitô. Thánh Phêrô kết luận như sau: “Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người… xưa anh em chưa phải là một dân, nay anh em đã là Dân của Thiên Chúa” (1Pr 2,9-10). Theo vị Tông đồ này, Giáo Hội không những là một dân tộc đích thực, nhưng còn là dân tộc duy nhất của Thiên Chúa vì được xây dựng trên viên đá góc tường duy nhất là Đức Kitô (Cf. 1Pr 2,4-5).
Thời kỳ đầu, Giáo Hội giữ liên lạc mật thiết với dân Do Thái nên danh xưng “Dân Thiên Chúa” là một cách gọi rất quen thuộc. Sau này, Công Đồng Vaticanô II đã tiếp nhận và khai triển hình ảnh này khi nói về Giáo Hội. Khi được gọi là Dân Thiên Chúa, Công đồng muốn nêu bật sự kiện Giáo Hội bén rễ vào cả trong lịch sử cứu độ lẫn trong lịch sử loài người: Giáo Hội cùng mang thân phân với con người, và sống trong tầm tác động của ảnh hưởng hỗ tương với loài người. Giữa Giáo Hội và các nền văn hóa bao giờ cũng có một mối quan hệ hỗ tương, với kết quả là “Giáo Hội có thể được phong phú thêm và thực sự đang được giàu có thêm nhờ đà tiến hóa của cuộc sống xã hội nhân loại” (GS 44). Nhưng vì là dân Thiên Chúa, nên vượt lên trên chiều kích xã hội lịch sử, Giáo Hội còn mang chiều kích siêu nhiên. Nói cách khác, khi hiện diện ở giữa thế gian, Giáo Hội vừa là đối tượng của xã hội học mà cũng vừa là đối tượng của thần học: cả hai phải đi đôi với nhau.
Như vậy, những ai thuộc về Giáo Hội phải mang trong mình những đặc điểm sau:
- Họ là dân của Thiên Chúa: Thiên Chúa không phải là của riêng một dân tộc nào, nhưng Người tạo cho mình một dân tộc; “một giống nòi được tuyển chọn, một hoàng tộc chuyên lo tế tự, một dân thánh” (1Pr 2,9).
- Người ta trở nên thành viên của dân này không phải do huyết thống nhưng “được sinh ra từ trên “bởi nước và Thánh Thần” (Ga 3,3-5), nghĩa là nhờ tin vào Đức Kitô và nhờ Phép Rửa.
- Dân này có vị thủ lãnh (Đầu) là Đức Kitô.
- Dân này mang trong mình thân phận của những người con tự do của Thiên Chúa: Chúa Thánh Thần ngự trong tâm hồn họ như trong một đền thờ.
- Luật của họ là giới răn mới: phải yêu thương nhau như chính Chúa Kitô đã yêu thương chúng ta (Ga13,34).
- Sứ mạng của dân này là làm muối đất và ánh sáng thế gian (Mt 5,13-16); là hạt giống tốt giúp toàn nhân loại hiệp nhất, hy vọng và cứu độ.
- Cuối cùng, cứu cánh của Dân là “Nước Thiên Chúa được khai nguyên trên trần gian và ngày càng lan rộng, cho đến khi được chính Người hoàn tất trong vinh quang”
2. Địa vị của giáo dân trong cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội.
Để phục vụ Dân Thiên Chúa một cách hiệu quả, Chúa Kitô đã thiết lập các chức vụ khác nhau trong Giáo Hội gồm các giám mục, linh mục và phó tế. Bên cạnh đó, hiến chế tín lý về Giáo Hội cũng không quên đề cập đến một một bậc sống khác của những người Kitô hữu được gọi là giáo dân. Công đồng định nghĩa bậc sống này như sau:
Danh hiệu giáo dân ở đây được hiểu là tất cả những Kitô hữu không có chức thánh hoặc bậc tu trì được Giáo Hội công nhận; nghĩa là những Kitô hữu đã được nhập hiệp vào Thân Thể Chúa Kitô nhờ Phép Rửa, đã trở nên Dân Thiên Chúa và tham dự vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa Kitô theo cách thức của họ; họ là những người đang thực hiện sứ mệnh của toàn dân Kitô giáo trong Giáo Hội và trên trần gian theo phận vụ riêng của mình. (Lumen Gentium, số 31)
Thời xưa, những người có chức thánh thường gồm những thành phần có học và trí thức, còn giáo dân thì xem ra thuộc thành phần kém hiểu biết hơn, thế nên giáo dân chỉ đóng giữ một vai trò thụ động và được gọi là “Giáo Hội thụ huấn” tương ứng với “giáo hội chủ huấn” là những người có chức thánh trong vai trò lãnh đạo. Công đồng Vaticanô II đã thay đổi hoàn toàn quan niệm này. Dù là người có chức thánh hay là giáo dân, tất cả đều được kêu gọi bình đẳng trong địa vị và hợp nhất với nhau. Thánh Phaolô Tông đồ đã diễn tả ý tưởng này như sau: “ví như trong một thân thể, chúng ta có nhiều chi thể, nhưng mọi chi thể không có cùng một nhiệm vụ; Cũng vậy, chúng ta tuy nhiều người song là một thân thể trong Chúa Kitô, nên mỗi người chúng ta là chi thể của nhau” (Rm 12,4-5). Vì thế, tuy trong Giáo Hội, tất cả không cùng đi một đường, nhưng tất cả vẫn cùng được mời gọi nên thánh và đồng thừa hưởng đức tin trong sự công chính của Thiên Chúa (Cf. 2P 1,1).
Nếu như các phần tử có chức thánh do ơn gọi đặc biệt của mình, đảm nhận sứ mệnh chính yếu là các thừa tác vụ thánh, thì phẩm tính đặc thù của giáo dân được công đồng xác định là “mang tính trần thế”: “vì ơn gọi riêng, giáo dân có bổn phận tìm kiếm Nước Thiên Chúa bằng cách làm các việc trần thế và xếp đặt chúng theo ý Thiên Chúa. Họ sống giữa trần gian, nghĩa là giữa tất cả cũng như từng công việc và bổn phận trần thế, giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội; tất cả những điều đó như dệt thành cuộc sống của họ” (Lumen Gentium, số 31).
3. Nền tảng thần học cho sứ mạng của giáo dân
Là những người được quy tụ trong cộng đoàn Dân Thiên Chúa, giáo dân tạo thành một thân thể duy nhất của Chúa Kitô dưới quyền của một Đầu duy nhất. Vì thế họ được kêu gọi dùng hết sức lực và khả năng đã được nhận lãnh từ Thiên Chúa để phát triển và thánh hóa Giáo Hội. Qua các bí tích mà họ lãnh nhận, giáo dân được kêu mời làm cho ý định cứu độ của Thiên Chúa ngày càng lan tới tất cả mọi người ở mọi nơi và mọi thời đại. Hợp tác với phẩm trật, giáo dân có thể lãnh nhận một sứ mệnh mà Công đồng Vaticanô II gọi là “thừa tác vụ” (Sc 29; AG 15, GE 7). Tuy nhiên, giáo dân không cần phải được “ủy nhiệm” của phẩm trật để làm việc tông đồ, bởi đã nhận được “năng quyền” từ bí tích Thánh tẩy và Thêm sức: “họ có quyền hạn và nhiệm vụ ‘từ bởi chính Chúa (AA 3a) vì “Ngài làm cho họ trở thành chứng nhân và ban cho họ cả cảm thức đức tin lẫn ơn ngôn ngữ (Cf. Cv2,17-18; Kh 19,10).
Qua bí tích rửa tội mà Kitô hữu nhận lãnh, giáo dân được hiệp thông vào ba chức vụ của Chúa Kitô: tư tế, ngôn sứ và vương đế (Lumen Gentium 34-36). Nền tảng cho mọi hoạt động tông đồ của Giáo dân đều phát xuất từ ba chức vụ này.
Nhiệm vụ tư tế và phụng tự: Trước hết, là những người đã lãnh nhận bí tích Rửa tội, giáo dân đã được thánh hiến cho Chúa Kitô và được Thánh Thần xức dầu, nên họ được mời gọi và được ban ơn cách lạ lùng để Thánh Thần sinh hoa trái nơi họ ngày càng phong phú hơn. Thực vậy, nếu họ chu toàn trong Thánh Thần mọi hoạt động, kinh nguyện và công cuộc tông đồ, đời sống hôn nhân và gia đình, công ăn việc làm thường ngày, việc nghỉ ngơi thể xác và tinh thần; nếu họ kiên trì đón nhận những thử thách của cuộc sống, tất cả đều trở nên hiến lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu Kitô (Cf. 1 P 2,5). Như thế, khi thực hiện chức năng là tư tế, người giáo dân được mời gọi dâng hiến chính đời sống mình như của lễ sống động cho Thiên Chúa. Ngoài ra, họ còn tham dự tích cực vào phụng vụ, đặc biệt là Thánh Lễ, bằng việc kết hợp của lễ đời mình với của lễ Đức Kitô trên bàn thờ.
Nhiệm vụ ngôn sứ và chứng nhân: trong vai trò là ngôn sứ, giáo dân được mời gọi loan báo Lời Chúa bằng lời nói, việc làm và chứng tá đời sống. Ngoài ra, họ còn là những người bảo vệ và truyền đạt chân lý đức tin, chống lại những gì đi ngược lại với thánh ý Thiên Chúa. Để thực hiện được điều đó, Công đồng Vaticanô xác nhận: Gia đình là môi trường hoạt động và là trường học tuyệt diệu cho việc tông đồ giáo dân… Nơi gia đình, vợ chồng tìm thấy ơn gọi riêng của mình là làm chứng cho nhau và cho con cái lòng tin và tình yêu của Chúa Kitô. Gia đình Kitô giáo lớn tiếng loan truyền sức mạnh của nước Thiên Chúa và niềm cậy trông vào một đời sống hạnh phúc. Như thế bằng gương lành và lời chứng, gia đình Kitô giáo thuyết phục thế gian về tội lỗi đồng thời soi sáng cho những ai đang kiếm tìm chân lý. Họ phải khéo léo tìm hiểu sâu xa hơn chân lý Chúa mạc khải và tha thiết nài xin Thiên Chúa ban ơn khôn ngoan cho mình (Cf. Lumen Gentium, số 35).
Nhiệm vụ vương đế: Chúa Kitô là vua trên các vua, là Chúa trên các chúa, thế nhưng Người đã hạ mình vâng lời cho đến chết (Cf. Ph 2,8-9) và Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người (Mc 10,45). Cũng vậy, giáo dân khi tham dự vào chức vụ vương đế của Chúa Kitô không phải để thống trị kẻ khác và bắt người khác phục vụ cho mình, nhưng để phục vụ mọi người. Hơn nữa, là những người thuộc về Thiên Chúa, giáo dân cũng được mời gọi thực thi chức năng vương đế của mình khi trở nên là những con người tự do, nghĩa là biết làm chủ bản thân và vượt thắng những cám dỗ của tội lỗi và sự dữ.
Trong mối tương quan với xã hội, giáo dân cũng được mời gọi tham gia vào việc xây dựng một xã hội công bằng, bác ái và bảo vệ phẩm giá con người. Khi các thể chế và cảnh sống của thế giới gây nên dịp tội, giáo dân phải góp sức làm cho các thế chế và cảnh sống đó trở nên lành mạnh để chúng phù hợp với các tiêu chuẩn của đức công bình và làm cho những giá trị luân lý thấm nhập vào văn hóa và các công trình của loài người. Nhờ vậy cánh đồng thế giới mới được chuẩn bị kỹ càng hơn để đón nhận hạt giống Lời Thiên Chúa, và sứ điệp hòa bình thấm nhập vào thế gian (Cf. Lumen Gentium, số 36).
Cả ba chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương đế của giáo dân không hề tách biệt mà chúng bổ túc cho nhau. Một Kitô hữu sống trọn vẹn với sứ vụ của mình khi biết kết hợp với Chúa Kitô với tư cách là tư tế; biết làm chứng cho Chúa bằng việc rao giảng (ngôn sứ) và biết phục vụ tha nhân như chính Chúa Kitô (vương đế).
II. Giáo dân tham gia vào sứ mạng của Giáo Hội
Phải công nhận rằng Vaticanô II là một Công đồng quan tâm đặc biệt tới vấn đề tông đồ của giáo dân, cũng như đã dành nhiều nỗ lực cho việc xác định lại sứ mệnh của giáo dân trong Giáo Hội và trong thế giới. Nói như thế không có nghĩa là trước đây, Giáo Hội chưa từng ý thức đến sự hiện diện và vai trò của giáo dân trong sinh hoạt của Giáo Hội. Giáo Hội được thiết lập vì các tín hữu là con cái mình, và ngay từ đầu, giáo dân không những là đối tượng cho hoạt động của các Tông đồ, mà còn là những cộng tác viên đắc lực của các ngài. Tuy nhiên trước thời điểm Công đồng Vaticanô II ra đời, địa vị của giáo dân vẫn chỉ được xem như một ngoại lệ do ơn sủng đặc biệt hay riêng tư nào đó; và như vậy sự có mặt của họ chưa bao giờ được nhìn nhận như một hàng riêng biệt. Hơn nữa, với ý niệm hầu như tiêu cực, Giáo luật đã không quan tâm đến việc đề cao và công nhận giá trị của người giáo dân. Đàng khác, mối liên hệ giữa thần quyền và thế quyền trong bối cảnh lịch sử của Giáo Hội càng làm cho tình trạng lệ thuộc của giáo dân vào hàng Giáo Phẩm và Giáo sĩ trở nên nặng nề hơn.
Công đồng Vaticanô II đã nỗ lực xét lại quan niệm tổng quát về sự liên lạc giữa Giáo Hội và các tín hữu. Công Đồng xác nhận rằng người giáo dân phải được đánh giá như cộng tác viên đích thực trong sứ mệnh duy nhất của Giáo Hội là cứu độ mọi người. Đây là một thành quả nổi bật của Công Đồng trong việc nhìn nhận địa vị và vai trò của giáo dân trong Giáo Hội. Từ nay, sứ mạng của Giáo Hội cũng chính là sứ mạng của giáo dân. Qua Sắc Lệnh Về Tông Đồ Giáo Dân, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu giáo dân được mời gọi tham gia vào sứ mạng của Giáo Hội như thế nào.
1. Ơn gọi làm tông đồ giáo dân
Giáo Hội được khai sinh là để làm cho nước Chúa Kitô rộng mở trên khắp hoàn cầu, hầu làm vinh danh Thiên Chúa Cha; tức là làm cho mọi người tham dự vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Tất cả các hoạt động của Giáo Hội hướng về mục đích này gọi là việc tông đồ, công việc mà Giáo Hội thực hiện nhờ tất cả các chi thể, tùy theo những cách thức khác nhau.
Trong Giáo Hội có nhiều tác vụ khác nhau nhưng đều cùng chung một sứ mệnh. Chúa Kitô đã trao phó cho các Tông đồ và những người kế vị các ngài nhiệm vụ nhân danh và lấy quyền Người để giảng dạy, thánh hóa và cai quản. Còn về phần giáo dân, vì họ tham dự thực sự vào nhiệm vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa Kitô, nên họ chu toàn phần việc của mình trong sứ mệnh của toàn dân Thiên Chúa trong Giáo Hội và ở giữa trần gian. Vì bản chất riêng biệt của người giáo dân là sống giữa đời và làm việc đời nên chính họ được Thiên Chúa mời gọi để một khi tràn đầy tinh thần Kitô giáo, họ làm việc tông đồ giữa đời như men trong bột. Họ sẽ thi hành việc tông đồ trong các cộng đoàn mà họ sống: trong gia đình, ở môi trường xã hội, môi trường giới trẻ, hay trong lãnh vực quốc gia hoặc quốc tế. Nhờ hoạt động tông đồ, họ loan báo Phúc Âm cho người khác, hoặc thánh hóa họ.
Giáo dân có bổn phận và quyền làm tông đồ không phải do một sự ủy nhiệm nào, mà là do chính việc kết hợp với Chúa Kitô là Đầu. Họ được chính Chúa chỉ định làm việc tông đồ, vì phép Rửa tội tháp nhập họ vào Nhiệm Thể Chúa Kitô; phép Thêm sức làm cho họ nên mạnh mẽ nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Việc tông đồ được thực thi nhờ đức tin, đức cậy và đức ái, là những nhân đức mà Chúa Thánh Thần đổ đầy tâm hồn mọi phần tử của Giáo Hội. Vì vậy, hết mọi tín hữu đều có bổn phận rất cao cả là hoạt động để mọi người trên khắp hoàn cầu nhận biết và đón nhận Phúc Âm cứu độ của Chúa.
2. Các môi trường hoạt động tông đồ
Giáo dân thi hành việc tông đồ trong môi trường Giáo Hội cũng như giữa đời. Trong cả hai lãnh vực này, nhiều môi trường hoạt động tông đồ khác nhau được khai mở. Sắc lệnh Tông đồ giáo dân đã liệt kê những môi trường chính yếu sau đây cho công việc tông đồ của giáo dân:
Các cộng đoàn trong Giáo Hội: trước hết Giáo xứ phải được kể là một môi trường cộng đoàn kiểu mẫu trong Giáo Hội, vì đó là nơi qui tụ đủ mọi hạng người thành một cộng đoàn và đem họ vào tinh thần đại đồng của Giáo Hội. Nơi cộng đoàn giáo xứ, giáo dân nên tập thói quen cộng tác chặt chẽ với các linh mục của mình để hoạt động tông đồ. Họ cũng nên có thói quen trình bày với cộng đoàn Giáo Hội những vấn đề riêng của mình hay của cả thế giới hoặc những vấn đề liên quan tới phần rỗi mọi người để cùng nhau góp ý kiến, nghiên cứu và giải quyết.
Ngoài ra, giáo dân còn phải luôn nuôi dưỡng ý thức về mối tương quan của mình với giáo phận, vì giáo xứ được ví như tế bào của giáo phận. Họ phải luôn mau mắn đáp lại tiếng gọi của Chủ Chăn và tùy sức tham gia những sáng kiến chung của giáo phận. Hơn nữa, giáo dân cũng nên mở rộng sự cộng tác của mình trong lãnh vực liên xứ, liên giáo phận, quốc gia hay quốc tế. Đặc biệt phải coi những công cuộc truyền giáo như việc của chính mình, bằng cách đóng góp về vật chất hay cả về nhân sự.
Giới trẻ hoạt động tông đồ: Trong xã hội ngày nay, giới trẻ làm thành một sức mạnh rất quan trọng bởi khả năng sáng tạo, lòng nhiệt thành và sự năng động của họ. Qua các mối tương quan và phương tiện truyền thông, giới trẻ có tầm ảnh hưởng lớn lao đến suy nghĩ cũng như cách sống của người khác, và cũng chính họ là đối tượng rất dễ bị lôi cuốn bởi những trào lưu của xã hội. Là nhân tố quan trọng và là tương lai của Giáo Hội, Công Đồng mời gọi giới trẻ thấm nhuần lòng hăng say và nhiệt huyết bằng một tinh thần của Chúa Kitô: sẵn sàng ra đi loan báo Tin Mừng. Khi đó, họ trở nên những tông đồ đầu tiên và trực tiếp của giới trẻ dành cho người trẻ tùy theo môi trường họ đang sống. Để thực hiện công việc này, người lớn cần quan tâm để tạo cuộc đối thoại thân hữu với giới trẻ, vì cuộc đối thoại cho phép cả hai vượt qua sự ngăn cách về tuổi tác, giúp hiểu biết nhau và thông truyền cho nhau sự phong phú riêng của mỗi giới.
Môi trường xã hội: Làm tông đồ trong môi trường xã hội là cố gắng đem tinh thần Kitô giáo thấm nhuần vào trong não trạng, phong tục, luật lệ và cơ cấu của cộng đoàn nơi họ sống. Đó là bổn phận và trách nhiệm của người giáo dân mà không ai có thể làm thay họ cách đầy đủ được. Người giáo dân chu toàn sứ mệnh này trước tiên bằng đời sống hòa hợp với đức tin, để nhờ đó họ trở thành ánh sáng thế gian; bằng đời sống lương thiện; bằng đời sống bác ái huynh đệ; bằng cuộc sống ý thức về vai trò của mình trong việc xây dựng xã hội với lòng quảng đại Kitô giáo.
Trên bình diện quốc gia và quốc tế: Trên bình diện quốc gia, giáo dân được mời gọi tận tâm đối với quốc gia và trung thành chu toàn những nhiệm vụ công dân. Tuy nhiên họ phải cảm thấy bị bó buộc phải cổ võ cho công ích thực sự, cũng như phải lên tiếng để bảo vệ cho bất cứ những gì là chân thật và công bằng, thánh thiện và đáng yêu quý ( Cf. Ph 4,8). Giáo Hội cũng mời gọi những người công giáo có khả năng đừng ngại tham gia việc nước và làm chính trị, miễn là họ đã được huấn luyện đầy đủ về đức tin và giáo lý, vì nhờ thi hành nhiệm vụ cách tốt đẹp, họ có thể đóng góp vào công ích và đồng thời mở đường cho Phúc Âm.
Trên bình diện quốc tế, người giáo dân cần phải ý thức tới mối tương quan của mình với các dân tộc trên thế giới. Cần phải nhớ rằng dù ở đâu, trong nước hay nước ngoài, họ cũng vẫn là sứ giả lưu động của Chúa Kitô và họ phải sống đúng danh hiệu đó.
3. Các hình thức hoạt động tông đồ.
Có hai hình thức hoạt động tông đồ được Công Đồng Vaticanô II nêu ra cho mọi hoạt động tông đồ giáo dân: hình thức cá nhân và tập thể.
Việc tông đồ cá nhân: đây là hoạt động rất hiệu quả ở bất cứ nơi nào và thời nào. Mọi người giáo dân, dù thuộc thành phần nào đi chăng nữa, dù không có cơ hội hay khả năng để cộng tác trong các hội đoàn, đều được kêu gọi làm những công việc tông đồ mang tính cá nhân. Trong mọi hoàn cảnh, họ có thể làm chứng cho sự hiện diện sống động của Chúa Kitô bằng đức tin, đức cậy và đức ái. Cùng với lời nói, họ có thể rao giảng về Chúa Kitô; cắt nghĩa và phổ biến giáo lý của Người. Những việc làm đạo đức cá nhân như lời cầu nguyện, ăn năn sám hối và chấp nhận những đau khổ trong cuộc sống để trở nên giống Chúa Kitô, cũng có sức mạnh ảnh hưởng tới mọi người và đem lại ơn cứu độ cho toàn thế giới.
Trong những hoàn cảnh đặc biệt, nơi mà miền tự do của Giáo Hội bị cản trở trầm trọng, việc tông đồ cá nhân càng trở nên cần thiết hơn. Khi gặp những hoàn cảnh khó khăn như thế, giáo dân tùy vào khả năng và phận sự của mình, có thể dạy giáo lý cho những người chung quanh, huấn luyện cho những người ấy biết sống đạo và khuyến khích họ năng lãnh nhận các bí tích. Những việc làm này đòi hỏi sự hy sinh, liều mất tự do và đôi khi ngay cả mạng sống của mình. Tuy nhiên lịch sử cho thấy, Thiên Chúa đã không ngừng cho xuất hiện trong Giáo Hội những người giáo dân can đảm phi thường giữa những cơn bách hại để thực thi việc tông đồ.
Việc tông đồ tập thể: Người Kitô hữu được mời gọi hoạt động tông đồ trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, tuy nhiên họ nên nhớ rằng: con người tự bản chất đã có xã hội tính, và Thiên Chúa đã vui lòng tập hợp những người tin vào Chúa Kitô thành dân Thiên Chúa (Cf. 1P 2,5-10) và kết hợp họ thành một thân thể (Cf. 1Cor 12,12). Vậy hình thức tông đồ tập thể là cách thức người giáo dân cùng nhau thi hành sứ mạng tông đồ trong Giáo Hội, không phải với tư cách cá nhân riêng lẻ mà là theo nhóm, hội đoàn hay tổ chức, nhằm phục vụ Giáo Hội và xã hội một cách hiệu quả, hiệp nhất và có tổ chức.
Có nhiều hội đoàn tông đồ khác nhau: có những hội đoàn thực thi việc tông đồ phổ quát của Giáo Hội; có những hội đoàn nhằm mục đích loan báo Phúc Âm và thánh hóa bằng các phương thức chuyên biệt; có những hội đoàn nhằm làm chứng cho Chúa Kitô bằng việc từ thiện và bác ái… Các hội đoàn tự nó không phải là cứu cánh, nhưng nhằm giúp Giáo Hội chu toàn sứ mệnh đối với trần gian. Giá trị tông đồ của các hội đoàn nằm ở chỗ: hoạt động phù hợp với mục tiêu của Giáo Hội, đồng thời giúp cho các hội viên hay cho cả hội đoàn sống tinh thần Phúc Âm và làm chứng cho Chúa Kitô.
Ngoài những hội đoàn đã tồn tại và hoạt động lâu nay trong Giáo Hội, người giáo dân cũng có quyền lập các hội đoàn, điều khiển hội đoàn miễn là phải giữ mối liên lạc cần thiết với giáo quyền. Ở đây cần phải lưu ý tránh việc phân tán lực lượng và làm yếu đi sinh hoạt của cộng đoàn do việc thành lập thêm những hội đoàn mới. Ngoài ra, cũng không nên cố giữ lại những hội đoàn không còn ích lợi hoặc giữ lại những phương thế xã hội đã lỗi thời. Cũng không phải luôn luôn thích hợp khi du nhập một cách bừa bãi những hình thức hội đoàn của các nước khác.
III. Những cách thức phát huy vai trò tông đồ giáo dân trong môi trường giáo xứ.
Qua những gì đã phân tích ở trên, chúng ta nhận ra vị trí và vai trò hết sức quan trọng của Giáo Dân trong đời sống của Giáo Hội. Tuy nhiên thực tế cho thấy không phải lúc nào vai trò của giáo dân cũng được nhìn nhận một cách đúng mức và không phải bất cứ hoạt động tông đồ giáo dân nào cũng mang lại kết quả tích cực. Nếu không được đào tạo, hướng dẫn và đồng hành thì thật khó cho giáo dân sống đúng bản chất và ơn gọi của mình giữa lòng Giáo Hội và xã hội. Trong phần này, chúng ta cùng nhau đưa ra những phương thức để phát huy vai trò của họ trong môi trường cơ bản nhất của Giáo Hội là giáo xứ.
1. Củng cố đời sống thiêng liêng – nền tảng cho hoạt động tông đồ.
Công việc tông đồ thì khác với công việc trần thế. Việc tông đồ phải được phát xuất từ trong đức tin, đức cậy và đức ái theo mẫu gương của Chúa Kitô và dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Do đó, nếu không có đời sống thiêng liêng, mọi hoạt động tông đồ sẽ trở nên khô cứng và chỉ còn là “những công việc xã hội” mà thôi. Bước đầu tiên để phát huy hoạt động tông đồ của giáo dân là trang bị cho họ một đời sống thiêng liêng và luân lý Kitô giáo. Phải tạo mọi điều kiện để huấn luyện giáo dân thành những con người thấm nhuần đức tin sống động và đức cậy vững vàng. Họ phải trở nên những con người của cầu nguyện; phải được nung đúc bằng tinh thần can đảm, yêu thương và tự chủ; phải mang trong mình tinh thần hy sinh khi noi theo cuộc tử nạn của Chúa Giêsu để thực thi công việc tông đồ. Vì lòng nhiệt thành, họ phải tự nguyện tận hiến bản thân để “gia tăng tình yêu Thiên Chúa và tha nhân bằng việc thi hành nhiệm vụ hằng ngày” (Lumen Gentium, số 41).
Trong môi trường giáo xứ, có nhiều cách thức để củng cố đời sống thiêng liêng cho giáo dân như:
- Tổ chức các giờ cầu nguyện chung trong giáo xứ: chầu Thánh Thể, lần hạt Mân Côi, đọc kinh gia đình, suy niệm Lời Chúa…
- Mời gọi giáo dân siêng năng tham dự Thánh lễ, lãnh nhận các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể và bí tích hòa giải.
- Tổ chức các khóa học lời Chúa, tĩnh tâm định kỳ, giúp mọi người có một cách sống đạo “từ bên trong” để có sức mạnh ra đi hoạt động tông đồ.
2. Đào tạo – huấn luyện giáo dân thành những tông đồ trưởng thành
Một thực tế là nhiều giáo dân rất nhiệt thành nhưng còn thiếu kiến thức về giáo lý, thần học hay kỹ năng tổ chức. Do đó trước khi được sai đi hoạt động tông đồ, người giáo dân cần phải được huấn luyện và trang bị những vốn kiến thức cũng như những khả năng chuyên biệt. Sở dĩ phải đòi hỏi như thế vì họ cần tiến bộ liên tục trong đời sống đức tin và phải thích nghi trong những hoàn cảnh khác nhau của thực tại. Họ cần được huấn luyện vững chắc về giáo lý, ngay cả về thần học, luân lý, triết học tùy theo tuổi tác, hoàn cảnh và khả năng. Ngoài ra để việc giao tế với người khác được tốt đẹp, họ cần được đào tạo để phát huy những giá trị nhân bản đích thực, nhất là cách sống chung thân thiện, cộng tác và đối thoại với mọi người.
Trong môi trường giáo xứ, việc đào tạo có thể được thực hiện thông qua nhiều hình thức:
Mở lớp đào tạo về Kinh Thánh, học hỏi giáo lý của Hội Thánh, kỹ năng truyền thông và mục vụ.
Khích lệ giáo dân tham gia vào sinh hoạt các hội đoàn, nơi mà họ tìm thấy môi trường được rèn luyện và học hỏi.
Đào tạo ban chức việc, giáo lý viên, người lãnh đạo cộng đoàn… để họ có đủ khả năng chia sẻ trách nhiệm mục vụ và truyền thụ đức tin cho người khác.
3. Mời gọi giáo dân tham gia vào các sinh hoạt của giáo xứ.
Giáo xứ là một “cộng đoàn đức tin”, là “ngôi nhà chung” của mọi Kitô hữu. Tại đây, mỗi người được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và các bí tích, được nâng đỡ bởi tình hiệp thông huynh đệ. Sức sống của một giáo xứ không chỉ đến từ sự hiện diện của linh mục, mà còn tùy thuộc rất nhiều vào sự tham gia tích cực của cộng đoàn giáo dân. Tuy nhiên, thực tế cho thấy: có những người giáo dân chỉ hiện diện trong danh sách của giáo xứ mà không hề tham gia vào trong sinh hoạt của cộng đoàn. Những lôi cuốn của đời sống xã hội khiến cho họ cảm thấy xa lạ trong chính cộng đoàn của mình. Vì thế, việc mời gọi tất cả mọi thành phần trong giáo xứ tham gia vào sinh hoạt của cộng đoàn vừa là phương thức chăm lo mục vụ, vừa là lời mời gọi sự cộng tác của họ trong hoạt động tông đồ. Nơi cộng đoàn giáo xứ, người giáo dân có thể tham gia sinh hoạt trong những lãnh vực sau đây:
Tham gia vào đời sống phụng vụ
Thánh lễ là “nguồn mạch và đỉnh cao” của đời sống Kitô hữu. Vì thế, việc tham dự Thánh lễ, nhất là thánh lễ ngày Chúa nhật là bổn phận căn bản, và cũng là nguồn mạch mang lại những ích lợi thiêng liêng cho giáo dân. Khi tham dự thánh lễ cách sốt sắng, họ được nuôi dưỡng đức tin và nhờ đó họ có đủ khả năng làm chứng về niềm tin cho mọi người.
Ngoài việc tham dự, giáo dân còn góp phần làm cho các buổi cử hành phụng vụ thêm sốt sắng và sinh động qua việc thực thi các vai trò: ca đoàn, đọc sách Thánh, giúp lễ, dâng của lễ, dẫn lễ, trang trí cung thánh. Đồng thời, các giờ cầu nguyện chung như chầu Thánh Thể, lần hạt Mân Côi, giờ kinh liên gia cũng là môi trường giúp cộng đoàn thêm gắn bó và bền vững trong đời sống đức tin.
Tham gia các hội đoàn và ban ngành
Trong giáo xứ, các hội đoàn là môi trường giúp giáo dân được huấn luyện, nâng đỡ đức tin và cùng nhau thi hành sứ vụ tông đồ. Hội Legio Mariae, Gia trưởng, Hiền mẫu, Caritas, Giới trẻ, Thiếu Nhi Thánh Thể… mỗi hội đoàn đều có linh đạo riêng, nhưng cùng chung mục tiêu là giúp hội viên đào sâu đức tin của mình, đồng thời góp phần phục vụ cộng đoàn một cách tích cực.
Khi tham gia sinh hoạt trong các hội đoàn, người giáo dân không chỉ sống đạo cho bản thân, mà còn có trách nhiệm chia sẻ niềm tin với anh chị em, đồng thời đóng góp tài năng, thời giờ, công sức để xây dựng giáo xứ ngày càng hiệp nhất và phong phú.
Tham gia các hoạt động bác ái – xã hội
Bác ái là dấu chỉ đặc trưng của Kitô hữu. Chính Chúa Giêsu đã dạy: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em yêu thương nhau” (Ga 13,35). Vì thế, một giáo xứ sống động không chỉ cử hành phụng vụ sốt sắng, mà còn biết quan tâm đến tha nhân thông qua những hoạt động bác ái.
Giáo dân có thể tham gia các hoạt động bác ái của giáo xứ như: thăm viếng bệnh nhân, giúp đỡ người nghèo, trao học bổng cho học sinh khó khăn, tổ chức phát quà từ thiện, xây dựng lớp học tình thương hay các chương trình cứu trợ khi thiên tai. Đồng thời, mỗi gia đình cũng được mời gọi sống bác ái ngay trong khu xóm, nơi làm việc, để làm lan tỏa tinh thần yêu thương của Chúa Kitô cho mọi người.
Tham gia xây dựng và phát triển giáo xứ
Xây dựng và phát triển giáo xứ không chỉ là trách nhiệm của cha xứ, nhưng là công việc chung của toàn thể cộng đoàn. Giáo dân có thể và có bổn phận đóng góp công sức và vật chất để tu sửa cơ sở, trang hoàng nhà thờ, hoặc giúp tổ chức các sinh hoạt mục vụ trong giáo xứ.
Ngoài ra, họ còn có thể cộng tác trong việc giảng dạy giáo lý dự tòng, hôn nhân, thiếu nhi; tham gia ban mục vụ giáo họ, giáo khu, hay các tiểu ban chuyên trách. Tất cả những đóng góp ấy đều làm cho giáo xứ trở nên một cộng đoàn hiệp nhất, sống động và trưởng thành.
Tham gia sứ mạng tông đồ trong gia đình và xã hội
Tông đồ giáo dân không dừng lại ở trong nhà thờ, nhưng phải được lan tỏa ra môi trường xã hội. Trước hết, trong gia đình, cha mẹ cần sống gương mẫu, cầu nguyện chung và giáo dục con cái trong đức tin, để gia đình trở thành “Giáo Hội tại gia”.
Trong các mối tương quan và hoạt động xã hội, mỗi giáo dân được mời gọi sống ngay chính, công bằng, bác ái, từ đó trở nên chứng nhân âm thầm nhưng mạnh mẽ cho Tin Mừng. Hơn nữa, bằng lời nói và hành động, giáo dân có thể giới thiệu đức tin của mình cho bạn bè, đồng nghiệp, người thân, giúp họ nhận ra sự hiện diện và tình thương của Thiên Chúa.
4. Xây dựng tinh thần hiệp nhất và cộng tác.
Chúa Kitô chỉ thiết lập một Giáo Hội duy nhất và Người hằng mong muốn Giáo Hội ấy hiệp nhất với nhau (Ga 17, 11-23). Tuy nhiên, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, Giáo Hội do Chúa Kitô thiết lập bị phân rẽ thành nhiều nhóm khác nhau. Quả thực, sự phân rẽ này hiển nhiên vừa trái ngược với ý muốn của Chúa Kitô vừa là gương xấu cho thế giới và phương hại cho công cuộc rao giảng Phúc Âm. Cách riêng trong cộng đoàn giáo xứ, sự hiện diện của nhiều hội đoàn, ban ngành vừa là một lợi thế trong mục vụ, nhưng cũng vừa là nguy cơ của sự chia rẽ. Nếu không biết cách xây dựng sự hiệp nhất và tinh thần cộng tác, sức sống của cộng đoàn giáo xứ sẽ bị yếu đi và ngọn lửa nhiệt thành tông đồ nơi giáo dân bị lụi tàn.
Sự hiệp nhất và cộng tác này trước hết được xây dựng trong mối tương quan giữa người giáo dân với hàng giáo phẩm. Công đồng Vaticanô II nêu rõ: “Như con cái Thiên Chúa và như anh em trong Chúa Kitô, họ (giáo dân) cũng sẽ trình bày với các vị ấy (chủ chăn) những nhu cầu và khát vọng của mình một cách tự do và tín cẩn […] Với tinh thần vâng lời của người Kitô hữu, giáo dân cũng hãy mau mắn chấp nhận những điều các chủ chăn có nhiệm vụ thánh đại diện Chúa Kitô đã quyết định với tư cách những thầy dạy và những nhà lãnh đạo trong Giáo Hội […] Phần các chủ chăn có chức thánh, các ngài phải nhìn nhận và nâng cao phẩm giá và trách nhiệm của giáo dân trong Giáo Hội. Các ngài nên sẵn sàng chấp nhận những ý kiến khôn ngoan của họ, tín cẩn giao cho họ những công tác để họ phục vụ Giáo Hội, cho họ tự do và quyền hạn để hành động” (Lumen Gentium, số 37).
Ngoài mối tương quan với hàng giáo phẩm, sự hiệp nhất và tinh thần cộng tác còn được xây dựng trong mối tương quan giữa các hội đoàn, giữa Kitô hữu với nhau và ngay cả với người ngoài Kitô giáo. Vì cùng chung một gia sản là Phúc Âm nên mọi hoạt động tông đồ của người giáo dân đều nhắm tới mục đích làm chứng cho Chúa Kitô và rao giảng Tin Mừng. Vì cùng cùng chung những giá trị nhân bản nên người Kitô hữu đang theo đuổi mục đích tông đồ cũng cộng tác với những người tuy không theo Kitô giáo, nhưng cũng nhìn nhận những giá trị nhân bản đó.
Kết luận
Trong bối cảnh xã hội ngày nay, công việc mục vụ nơi giáo xứ chưa bao giờ là dễ dàng. Sự nghèo đói, tình trạng dửng dưng tôn giáo, đời sống hưởng thụ, sự vô cảm, các hình thái chủ nghĩa cá nhân, tình trạng thế tục hóa những giá trị thiêng liêng… đã và đang ảnh hưởng mạnh mẽ tới đời sống đức tin của các Kitô hữu ngày nay. Điều đó khiến cho Giáo Hội phải nhạy bén trước những thay đổi của thời đại để đưa ra những đường hướng và những cách thức phù hợp cho công cuộc loan báo Tin Mừng. Chân lý Tin Mừng của Chúa Kitô trải qua bao đời vẫn là một, nhưng nó cần phải được diễn tả với một cách thức mới, một hoàn cảnh mới sao cho phù hợp với não trạng và lối sống của con người thời đại. Đây là sứ mạng của không chỉ các giám mục, linh mục hay tu sĩ mà là của toàn thể mọi thành phần trong Giáo Hội, trong đó có sự đóng góp không hề nhỏ của giáo dân.
Như Công đồng Vatican II chỉ rõ, ơn gọi của người giáo dân đặt họ hoàn toàn vào trong thế gian, để họ chu toàn những công tác đa dạng nhất, và chính nơi đây mà họ được mời gọi truyền bá Tin Mừng Đức Giêsu Kitô (AA, 2). Do ân sủng và ơn gọi của bí tích Rửa Tội và Thêm sức, tất cả giáo dân là thừa sai; và sân khấu hoạt động tông đồ của họ là thế giới mênh mông và phức tạp, gồm có chính trị, kinh tế, kỹ nghệ, giáo dục, truyền thông, khoa học, kỹ thuật và thể thao.
Công cuộc “cải tổ mục vụ cộng đoàn giáo xứ để phục vụ sứ vụ loan báo Tin Mừng” trong huấn thị của bộ giáo sĩ mà chúng ta đang tìm hiểu trong chương trình thường huấn năm nay sẽ không thể bỏ qua việc nhìn nhận lại giá trị ơn gọi và sứ mạng của người giáo dân trong sinh hoạt cộng đoàn giáo xứ. Với vai trò là mục tử, những linh mục, người được giao cho trách vụ quản trị và chăm sóc cộng đoàn, cần phải tạo mọi điều kiện và môi trường thuận lợi để kêu gọi sự cộng tác và tham gia cách tích cực của giáo dân đúng theo vai trò và bổn phận của họ. Đã qua rồi thời kỳ giáo sĩ trị, nghĩa là thời kỳ các linh mục tỏ ra độc đoán trong vai trò lãnh đạo, còn giáo dân chỉ biết lắng nghe và tuân phục một cách thụ động. Trong khi cộng tác với các mục tử thi hành sứ mệnh tông đồ, các linh mục cần biết lắng nghe và đối thoại với giáo dân trong sự cởi mở và tôn trọng. Ngoài ra, các mục tử cũng cần khuyến khích giáo dân phát huy khả năng, sự sáng tạo và lòng nhiệt thành của họ để phục vụ cho công việc tông đồ.
Trái ngược với thái cực “giáo sĩ trị” là thái độ thờ ơ và “khoán trắng” việc mục vụ cho giáo dân. Núp dưới danh nghĩa “giúp cho giáo dân trưởng thành và tự lập hơn”, nhiều mục tử đùn đẩy trách nhiệm và công việc mục vụ cho giáo dân. Các linh mục tự giới hạn sứ vụ của mình trong những việc mà giáo dân không thể đảm nhiệm được như cử hành thánh lễ và các bí tích. Xem ra, đây là một phương cách tốt để huấn luyện giáo dân có cơ hội thực thi sứ vụ tông đồ, nhưng thực ra đây là sự ngụy biện cho sự trễ nãi trong khi thi hành chức năng mục tử của mình. Làm sao người giáo dân có thể thi hành việc tông đồ nếu không có người huấn luyện và hướng dẫn họ? ai sẽ là người đồng hành với giáo dân mỗi khi gặp những khó khăn trong sứ vụ?
Những năm gần đây, thượng hội đồng Giám Mục đã khởi xướng đường lối “hướng tới một Giáo Hội hiệp hành: hiệp thông – tham gia – sứ vụ”. Đây không phải là việc làm trong một ngày, nhưng là một hành trình dài, là lời mời gọi dấn thân thực sự của mọi thành phần dân Chúa trong việc ra đi loan báo Tin Mừng. Mỗi người tùy theo vai trò, khả năng và hoàn cảnh của mình đều được mời “đi làm vườn nho cho Chúa” (Mt 20, 1-16). Tuy linh mục và giáo dân có những nhiệm vụ đặc thù và hoàn cảnh khác nhau, nhưng trên con đường hiệp hành, tất cả “cùng đi với nhau, cùng lắng nghe, cùng chia sẻ và cùng nhau phân định để thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng”. Hoạt động tông đồ giáo dân không phải là những cái “được thêm vào” nhưng là điều cốt yếu trong sứ mạng của Giáo Hội.
Xin Chúa Thánh Thần soi sáng, ban ơn khôn ngoan và lòng nhiệt thành, để tất cả chúng ta, những giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân, cùng nhau dấn thân thực thi công việc tông đồ, hầu làm rạng danh Chúa Kitô giữa lòng xã hội hôm nay.
Câu hỏi thảo luận:
- Theo cha, trong hoàn cảnh ngày nay, đâu là những thuận lợi và khó khăn trong việc mời gọi người giáo dân tham gia vào các sinh hoạt tông đồ trong giáo xứ? những cách thế nào nuôi dưỡng lòng nhiệt thành phục vụ của họ?
- Xin cha chia sẻ về một vài phương thức “tông đồ giáo dân” mà cha cảm thấy hiệu quả và tâm đắc nhất trong môi trường giáo xứ của mình?
ĐGH Phanxicô, Evangelii Gaudium, số 21-23, 2013.
Cf. Vidal, L’Église, peuple de Dieu dan l’histoire des hommes, Paris, Centurion, 1975.
Cf Orsy, L, The Church: learning anh teaching, Wilminton, Glazier, 1987. Congar Y, L’Église de saint Augustin à l’époque moderne: Histoire des origines, Paris, Cerf, 1970, p.389.
Tác giả: Lm. Phaolô Võ Đình Hoài