GIÁO XỨ GÒ THỊ
Bổn Mạng : Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời
Theo bản đồ hành chánh hiện nay, giáo xứ Gò Thị bao gồm xã Phước Sơn, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Trung tâm sinh hoạt của giáo xứ là nhà thờ Gò Thị, thôn Xuân Phương, xã Phước Sơn, cách thành phố Qui Nhơn khoảng 20 km về phía Bắc. Đông giáp đầm Thị Nại, Tây giáp giáo xứ Lục Lễ, Nam giáp giáo xứ Tân Quán, Bắc giáp giáo xứ Nam Bình và giáo xứ Vĩnh Thạnh.
II. ĐÔI DÒNG LỊCH SỬ
Tháng 7 năm 1618, cha Buzomi, cha De Pina và cha Borri là các thừa sai Dòng Tên đã đặt chân đến Nước Mặn và lập cư sở truyền giáo ở đó. Lúc bấy giờ, Nước Mặn là một thương cảng trù phú nằm trên bờ phía Tây Bắc đầm Thị Nại, cách nhà thờ Gò Thị hiện nay khoảng 5 cây số về phía Tây Bắc, nay thuộc thôn An Hoà, xã Phước Quang, thuộc giáo xứ Nam Bình. Qua thời gian, phù sa từ dòng sông Kôn đổ về đầm Thị Nại đã dần dần làm xuất hiện những gò đất mới như Gò Vạn, Gò Bồi, Gò Thị, Gò Dài... và dân chúng cũng dần dần đến sinh sống nơi những gò đất mới ấy, trong đó có các giáo hữu. Cụ thể, theo báo cáo năm 1747 do cha Guillaume Rivoal ghi phần truyền giáo của Hội Thừa Sai Paris thì Gò Thị đã có 60 giáo hữu, Kỳ Sơn 80[1]. Năm 1778, trong chuyến công cán từ Macao đi Cambốt, cha Jacques Liot, thừa sai Paris, có ghé thăm Gò Thị. Cha dâng thánh lễ và rửa tội cho 2 đứa trẻ và một bà cụ 67 tuổi tại Gò Thị.[2]
Đến năm 1850, theo báo cáo của Thánh Giám mục Stêphanô Cuénot Thể, vùng đất thuộc giáo xứ Gò Thị ngày nay có: Gò Thị 750 tín hữu, Gò Dài 442. Đây là 02 trong số 17 giáo điểm lúc bấy giờ thuộc hạt Tam Thuộc.
Từ năm 1839, Gò Thị đã có vinh dự được Đức cha Stêphanô Cuénot Thể chọn làm nơi đặt Toà Giám mục và ngài đã thường xuyên ở đó cho đến năm 1861. Sở dĩ có sự chọn lựa này là vì vùng đất Gò Thị xa triều đình Huế, các quan sở tại thực hiện lệnh cấm đạo có phần nhẹ nhàng hơn, giáo hữu đã đông lại tận tuỵ và trung thành. Thêm vào đó, vùng này địa hình thấp, ít đường đi, gần đầm Thị Nại và không xa cửa Kẻ Thử bao nhiêu, nhờ đó Đức cha có thể trốn lánh dễ dàng khi gặp nguy hiểm.
Toà Giám mục, nơi Đức cha cư trú và làm việc chỉ là một ngôi nhà tranh như bao ngôi nhà khác trong xóm, chỉ khác là phía sau có cửa và đường trốn thoát, để khi có hiệu báo, Đức cha cứ theo đó lánh nạn. Có những lúc do hoàn cảnh quá khó khăn, giáo hữu Gò Thị phải đưa Đức cha tạm lánh ở Gia Hựu, Mương Lỡ, Tân Hội, Xóm Nam. Có khi giữa đêm khuya phải đưa Đức cha trốn vào tu viện Mến Thánh Giá, hay ra đồng ruộng hoặc vào các đám lau sậy sát ven đầm.
Đức cha không ra mặt vào ban ngày. Cứ đêm đến các chức sở đưa ngài đi nơi này đến nơi nọ để gặp gỡ và dạy dỗ giáo hữu. Chính tại Gò Thị, vào các ngày 5, 6 và 10 tháng 8 năm 1841, Đức cha đã triệu tập công nghị Gò Thị, để ban cho các linh mục một hiến chương đời sống cá nhân và những chỉ dẫn mục vụ quí giá. Ngay sau công nghị, Đức cha Stêphanô Cuénot Thể truyền chức Giám mục cho cha Đôminicô Lefèvbre làm Giám mục phó có quyền kế vị.
Cũng tại Gò Thị, vào ngày 04/10/1846 Đức cha Cuénot truyền chức Giám mục cho cha Phanxicô Pellerin làm Giám mục phó có quyền kế vị. Lúc nầy Đức cha Đôminicô Lefèvbre đã làm Giám mục Tây Đàng Trong.
Phải nhìn nhận rằng sở dĩ Đức cha có thể sống an toàn và làm việc hiệu quả giữa cơn cấm cách, phần lớn nhờ sự giúp đỡ tận tình của giáo hữu Gò Thị, đặc biệt là ông trùm cả Anrê Nguyễn Kim Thông. Ông trùm cộng tác với Đức cha lo việc giáo phận cho đến năm 1855 thì bị lưu đày vào Định Tường và chết ở đó ngày 15/7/1855.
Sáu năm sau cái chết của ông Trùm Anrê, lệnh phân sáp của vua Tự Đức được thực hiện triệt để, các giáo hữu Gò Thị bị phân tán trong các làng ngoại giáo và do đó Đức cha phải rời Gò Thị đến ẩn lánh tại nhà bà Maria Mađalêna Huỳnh Thị Lưu ở Vĩnh Thạnh (Gò Bồi), vì bà này được xã tổng cho hoãn lệnh phân sáp. Sau mười ngày ẩn nấp, ngài đã bị bắt ngày 24 tháng 10 năm 1861, bị giải về nhà giam Bình Định và cuối cùng đã chết rũ tù ngày 14 tháng 11 năm 1861.
Đức cha Stêphanô Cuénot Thể và ông trùm Anrê Nguyễn Kim Thông đã được Đức Giáo Hoàng Lêô XIII nhận vào bậc Đáng kính ngày 13 tháng 2 năm 1899, được Đức Giáo Hoàng Piô X tôn lên hàng Chân phước ngày 2 tháng 5 năm 1909 và được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên phong Hiển thánh ngày 19 tháng 6 năm 1988.
Tại Gò Thị, trong những cơn bách hại dưới triều Tự Đức, nhiều nữ tu, chức sở và giáo hữu cũng chịu nhiều khốn khổ: kẻ bị tù, người bị đày, kẻ khác bị giết, còn phần đông bị phân sáp vào các làng ngoại giáo. Đặc biệt cha Giuse Thủ (con của Trùm Cả Anrê), cha Phaolô Châu (cháu họ của Trùm Cả Anrê) và ông từ Phêrô Me, cả 3 người quê ở Gò Thị. Từ năm 1909, hồ sơ xin phong thánh cho các vị đã được Tòa Thánh cứu xét và năm 1918 Tòa Thánh đã ban hành sắc lệnh tuyên bố các vị lên hàng Tôi tớ Chúa. Sau hoà ước Nhâm Tuất năm 1862, đạo thánh Chúa được tự do, giáo hữu Gò Thị được trở về quê quán làm ăn, gần 200 người đã chết hoặc mất tích trong thời kỳ cấm đạo.
Sau khi Đức cha Stêphanô Cuénot Thể qua đời, Gò Thị không còn là nơi cư trú thường xuyên của các Giám mục nữa. Đức cha Êugêniô Charbonnier Trí, người kế vị Đức cha Stêphanô Cuénot Thể, đã từ Pháp đến Sài Gòn và từ Sài Gòn cập bến Kim Bồng, Tam Quan, Bình Định vào ngày 14 tháng 7 năm 1865, ngài đến ở tại Gia Hựu vài năm rồi về Làng Sông. Ngày 26 tháng 10 năm 1879, Đức cha Luy Galibert Lợi được tấn phong Giám mục tại Gò Thị nhưng vẫn đặt Tòa Giám mục tại Làng Sông như vị tiền nhiệm.
Từ năm 1878 đến năm 1884, dưới thời cha Panis Ngãi làm cha sở, giáo xứ Gò Thị có thêm hai giáo họ mới là Phụng Sơn và An Hoà. Lúc bấy giờ tổng số giáo hữu lên đến gần 4.000 người trong 21 giáo điểm.[3] Vì số giáo hữu tăng, nên Xóm Nam cùng với Xóm Bắc, Vĩnh An, Vĩnh Minh, Vĩnh Thạnh được tách ra làm thành giáo xứ Xóm Nam, tức Nam Bình ngày nay.
Nhưng chỉ ít lâu sau, giáo xứ Gò Thị cũng như toàn giáo phận lại phải trải qua một cơn bách hại nặng nề khủng khiếp trong biến cố Văn Thân năm 1885 khiến các giáo hữu phải chạy xuống Qui Nhơn lánh nạn cho đến tháng 7 năm 1887 mới có thể trở về quê sinh sống. Giáo xứ Gò Thị lúc này chỉ còn 1.500 người, một số đã nhập tịch giáo phận Sài Gòn, một số khác định cư tại nhiều họ đạo thuộc tỉnh Phan Thiết.
Nhưng giáo xứ Gò Thị lại phục hồi nhanh chóng. Những họ đạo cũ như Gò Thị, Gò Dài, Xuân Phong, Mỹ Cang, đều tăng số giáo hữu hơn năm 1885. Từ năm 1890 đến năm 1905, giáo xứ Gò Thị lại có thêm nhiều giáo họ mới, như Lục Trung, Lục Lễ, Vinh Quang, Phước Thiện, Bảo An, Tân Thành, Lạc Điền và An Lợi với tổng số giáo hữu là 2989 người.[4] Tuy nhiên theo thống kê năm 1909 –1910 thì Gò Thị có 1.657 tín hữu trong 06 giáo họ.[5] Có lẽ thời điểm nầy một số giáo họ được cắt chia cho Nam Bình, theo bản thống kê nầy Nam Bình có 14 giáo họ. Thống kê năm 1917-1918 Gò Thị có 2.407 tín hữu trong 11 giáo họ ; Nam Bình có1.440 tín hữu trong 09 giáo họ.
Từ năm 1905 đến năm 1945, nhiều nhà thờ và cơ sở tôn giáo đã lần lượt được xây mới hoặc xây lại kiên cố như để khẳng định tình thương quan phòng bất biến của Thiên Chúa với sự tồn tại vững chắc của Giáo Hội trên vùng đất vừa mới trải qua nhiều thử thách đức tin này: Nhà thờ Gò Thị (1922) (trước đó vào năm 1864 - 1866 cha Bossard đã xây dựng nhà thờ Gò Thị,[6] năm 1897 lúc cha Vivier làm cha sở có thánh lễ trọng thể làm phép nhà thờ mới Gò Thị, nhà thờ trung tâm của cả vùng do cha xây dựng[7]), nhà thờ Phước Thiện (1940), nhà thờ Gò Dài (1941), cơ sở nhà chung, nhà mồ côi. Nhà mồ côi Gò Thị là một cơ sở từ thiện có gốc gác từ thời Đức cha Cuénot Thể, được tái thiết sau năm 1871 nhằm đáp ứng nhu cầu cho nhiều trẻ mồ côi trong vùng.[8] Cha Salomez đã làm giám đốc cơ sở nầy từ 1904 – 1906.
Song song với việc phát triển giáo xứ, các vị chủ chăn còn đặc biệt quan tâm đến đời sống tu trì và công tác giáo dục. Từ trước, tại Gò Thị đã có một tu viện Mến Thánh Giá. Nhưng đến 1924, Đức cha Đamianô Grangeon Mẫn đã canh tân Dòng Mến Thánh Giá theo giáo luật 1917 và chọn tu viện này làm nhà mẹ và tập viện cho Dòng Mến Thánh Giá cải tổ trong toàn giáo phận. Việc huấn luyện đệ tử và tập sinh ban đầu được giao cho các nữ tu Dòng Thánh Phaolô thành Chartres, nhưng bề trên chính thức của tập viện là cha Jean Baptiste Solvignon Lành, đang là cha xứ Gò Thị. Ngài đã cho xây dựng những cơ sở đầu tiên để thu nhận đệ tử và tập sinh. Tu viện mới đã được làm phép trọng thể ngày 21 tháng 3 năm 1924.
Ngoài ra, ngày 13/5/1924 Đức cha Grangeon Mẫn đã ra thư chung buộc mỗi giáo xứ phải mở trường sơ học. Trong giáo xứ Gò Thị, cha Solvignon Lành đã thiết lập 9 trường: Gò Dài, Phước Thiện, Mỹ Cang, Lục Lễ, Tân Thành, Lạc Điền, Xóm Chuối, riêng tại Gò Thị có một trường nam và một trường nữ.
Ngày 10/7/1929, do sự bất cẩn của chú giúp, một cơn hoả hoạn đã thiêu rụi toàn bộ nhà xứ. Tuy nhiên, nhờ tài tháo vát của cha xứ, một ngôi nhà xứ hai tầng đã được xây dựng khang trang vững chắc phía sau nhà thờ và vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Vào năm 1933 một trận bão khủng khiếp đã làm sụp đổ nhà thờ Gò Thị, tập viện, trường nam và hầu hết các nhà thờ trong giáo xứ. Cha Solvignon Lành đã phải xây dựng lại tất cả. Năm 1939, thời Đức cha Augustinô Tardieu Phú, các họ đạo cực Bắc là Quán Ngỗng, Kẻ Thử, Phương Phi, Xóm Chuối được tách khỏi Gò Thị để tái lập lại giáo xứ Phương Phi, tiền thân giáo xứ Xóm Chuối (Hòa Bình).
Năm 1944, số giáo hữu giáo xứ Gò Thị lên đến 3.595 người. Vì thế 4 họ đạo phía bắc là Tân Thành, Bảo An, An Lợi, Lạc Điền cùng với họ Vĩnh Thạnh của Nam Bình được tách ra làm thành giáo xứ Lạc Điền.
Từ năm 1945 đến năm 1952, cha Tôma Nguyễn Văn Tới đã cho nới rộng cung thánh nhà thờ Gò Thị, đóng bàn ghế, xây hang đá Đức Mẹ Lộ Đức, đài chân phước Anrê Nguyễn Kim Thông. Đồng thời ngài cũng xây nhà thờ Lục Lễ.
Từ năm 1956, dưới thời cha Martinô Nguyễn Trọng Huấn, công cuộc truyền giáo phát triển mạnh. Hàng trăm người đã xin tòng giáo và chịu phép Rửa Tội. Nhiều nhà thờ mới được xây dựng tại các họ đạo mới như: Nhà thờ Hưng Nghĩa, nhà thờ Giang Nam, nhà nguyện Kỳ Sơn. Ngài cũng cho xây dựng kiên cố hai nhà thờ: Mỹ Cang và Thượng Hoà. Một số họ đạo khác cũng được thành lập mặc dù chưa có nhà thờ như các họ đạo Thọ Nghĩa, Lộc Trung, Giang Bắc, Luật Chánh. Ngoài ra ngài còn xây dựng trường tiểu học Nguyễn Kim Thông Gò Thị, trường học và nhà xứ họ Gò Dài, mở rộng và xây đắp con đường Thượng Hoà - Gò Thị - Gò Dài. Thêm vào đó, hội Legio Mariae đã được thành lập tại giáo xứ và phát triển nhanh chóng, trở thành Curia thuộc Comitium Qui Nhơn.
Vào ngày 31/01/1958, Gò Thị được công nhận là giáo xứ bán chính thức. Ngày 06/02/1961 là giáo xứ chính thức theo đúng giáo luật.[9]
Đầu năm 1965, vì hoàn cảnh chiến tranh, cha xứ và giáo hữu phải di tản xuống Qui Nhơn. Đến năm 1966, một số đã lần lượt trở về, nhưng cuộc sống vẫn chưa ổn định; một số khác vẫn ở lại Qui Nhơn hoặc đi lập nghiệp ở những nơi khác như Nha Trang, Cam Ranh, Long Khánh, Sài Gòn...
Năm 1973 cha Phêrô Nguyễn Văn Nhuận được bổ nhiệm làm cha xứ Gò Thị thay cha Martinô Nguyễn Trọng Huấn được bổ nhiệm làm cha xứ Tuy Hòa kiêm hạt trưởng Phú Yên. Trong hoàn cảnh chiến tranh, cha xứ và giáo dân quyết bám trụ cho đến tháng 3 năm 1975, lại một lần nữa phải di tản. Sau 30 tháng 4 năm 1975 bà con lại từ từ trở về quê.
Năm 1975, cha Phêrô Nguyễn Quang Báu được bổ nhiệm làm cha xứ Gò Thị. Lúc bấy giờ, giáo xứ có hơn 2.400 giáo hữu, gồm có các giáo họ tương đối đông giáo hữu và có nhà thờ như: Gò Thị, Gò Dài, Xuân Phong, Thượng Hoà, Phước Thiện, Mỹ Cang, Lục Lễ. Một số giáo họ khác không còn nhà thờ và chỉ có ít giáo hữu như Vinh Quang, Kỳ Sơn, Lục Nghĩa, Lộc Trung, Giang Nam, Giang Bắc và Luật Chánh. Riêng các họ Hưng Nghĩa và Thọ Nghĩa được sáp nhập vào Công Chánh.
Từ năm 1965, nhà mẹ và tập viện Dòng Mến Thánh Giá đã di tản về Qui Nhơn, nên tu viện Gò Thị chỉ còn là một cộng đoàn. Sau 1975 trường tiểu học Nguyễn Kim Thông bên cạnh nhà thờ bị chính quyền mượn làm trường cơ bản nông nghiệp, nay làm trường tiểu học thôn Xuân Phương.
Năm 1990, nhân kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Thánh Anrê Nguyễn Kim Thông, cha Anrê Huỳnh Thanh Khương đã cho xây lại đài kỷ niệm Thánh nhân theo kiến trúc Á Đông, sau đó chỉnh trang khu gò mả thánh, nơi có mộ Thánh Anrê Kim Thông và nới rộng con đường dẫn đến mộ để tạo thuận lợi cho khách hành hương đến kính viếng.
Để giữ vững và tiếp nối truyền thống của một giáo xứ kỳ cựu với những trang sử đức tin được tô thắm bởi dòng máu anh dũng của các vị tử đạo, những sinh hoạt tôn giáo của giáo xứ Gò Thị càng ngày càng phát triển mạnh. Đặc biệt sau cuộc tuyên phong Hiển Thánh 117 Chứng nhân đức tin Việt Nam ngày 19/6/1988, địa danh Gò Thị càng trở nên nổi tiếng và quen thuộc đối với nhiều người trong cũng như ngoài giáo phận Qui Nhơn. Nhiều tập thể hoặc cá nhân đã đến hành hương tại miền đất giàu truyền thống đức tin này, nơi Thánh Stêphanô Cuénot Thể đã sống và làm việc trong hầu hết cuộc đời truyền giáo của ngài, nơi Thánh Anrê Nguyễn Kim Thông đã sinh trưởng và phục vụ mà hiện nay vẫn còn lưu giữ nhiều di tích như: vườn nhà cũ, gò mả thánh, quan tài, xương thánh, đài kỷ niệm và rất đông con cháu của ngài. Mọi người đến đây để được nghe kể lại và tận mắt chứng kiến những kỷ niệm đã tạo nên những chứng nhân anh hùng của Chúa Kitô.
Trước đà phát triển của giáo xứ, trước nhu cầu hành hương ngày một tăng và để đáp ứng nguyện vọng của bao người, Đức Cố Giám mục Phaolô Huỳnh Đông Các, vốn là con cháu Thánh Anrê Nguyễn Kim Thông, muốn xây lại ngôi nhà thờ Gò Thị để đặc biệt dâng kính thánh nhân với qui mô lớn hơn và vững chắc hơn. Công trình xây dựng đã bắt đầu từ năm 1998 dưới thời cha Anrê Huỳnh Thanh Khương làm cha xứ Gò Thị và hoàn tất dưới thời cha xứ đương nhiệm Phêrô Nguyễn Văn Kính, đúng vào Năm Thánh 2000, cũng là năm kỷ niệm lần thứ 210 ngày sinh của Thánh Anrê Nguyễn Kim Thông.
Được sinh ra và lớn lên cùng với những thăng trầm của lịch sử truyền giáo cũng như lịch sử xã hội, giáo xứ Gò Thị đã đón nhận nhiều thế hệ linh mục được sai đến phục vụ mà hôm nay lịch sử còn ghi lại được tên tuổi của các linh mục chính xứ và phó xứ. Đây là những linh mục đã được Thiên Chúa sai đến để hướng dẫn và đồng hành với giáo xứ trên hành trình đức tin, để cùng với mọi thành phần dân Chúa viết nên những trang sử đức tin .
Gò Thị không chỉ biết đón nhận mà còn biết cống hiến. Quả thế, cho đến nay, giáo xứ Gò Thị đã cống hiến cho Giáo Hội 03 vị Giám mục, hơn 50 linh mục, hơn 60 tu sĩ nam nữ. Hiện nay với con số hơn 3.000 giáo dân, giáo xứ Gò Thị đang cùng với toàn thể giáo phận Qui Nhơn và Giáo Hội trên khắp hoàn cầu tiến bước trong vui mừng và hy vọng.
Để tiện ích mục vụ cho giáo dân, ngày 02.04.2008, Đức cha Phêrô Nguyễn Soạn đã bổ nhiệm cha Phêrô Nguyễn Đình Hưng, phó xứ Gò Thị, làm phó xứ biệt lập ở tại Lục Lễ để chăm sóc mục vụ giáo dân trong 03 giáo họ : Lục Lễ, Lục Nghĩa và Mỹ Cang thuộc địa bàn hành chánh xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước.
Ngày 25.09.2009, Đức Giám mục giáo phận Qui Nhơn quyết định thành lập giáo xứ Lục Lễ gồm 3 giáo họ này và bổ nhiệm cha Phêrô Nguyễn Đình Hưng làm cha xứ.
III. CÁC LINH MỤC CHÁNH XỨ VÀ PHÓ XỨ
a. Các linh mục chánh xứ :
Hiện nay chưa tìm được tài liệu nào chính xác cho biết danh tánh các linh mục đã ở và làm việc tại Gò Thị từ năm 1839 trở về trước. Ở đây chúng ta có thể bắt đầu từ Thánh Giám mục Stêphanô Thể đến ở Gò Thị 1839 – 1861. Tiếp theo là các linh mục:
1. Cha Pascal Bossard đến Gò Thị năm 1864, cha đã làm nhà thờ Gò Thị.
2. Cha Pierre Jean Joseph Panis Ngãi đến Gò Thị năm 1875, nhưng chỉ ở trong thời gian ngắn, rồi về dạy ở tiểu chủng viện Làng Sông được một năm, sau đó trở lại làm cha sở Gò Thị cho đến năm 1883.
3. Cha Jean Martin Bạch (1884 – 1885).
4. Cha Étienne Vivier Huệ (1887 – 1898): cha xây lại nhà thờ Gò Thị, làm phép năm 1897. Ngày 04.02.1898 cha qua đời tại Gò Thị và được an táng trong nhà thờ Gò Thị.
5. Khi cha Vivier qua đời, cha Paul Mathey Thiện đang làm cha sở Xóm Nam (Nam Bình) được bổ nhiệm làm cha sở Gò Thị đến năm 1904.
6. Cha Pierre-Joseph Panis Ngãi (1905–1920) trở lại làm cha sở Gò Thị.
7. Cha Jean Baptiste Solvignon Lành (1920 – 1934).
8. Cha Phanxicô Xaviê Vỹ (1934 – 1941).
9. Cha Phaolô Trương Công Chánh (1941 – 1944).
10. Cha Anrê Phan Ngọc Lễ (1944 – 1945).
11. Cha Tôma Nguyễn Văn Tới (1945 – 1952).
12. Cha Phaolô Nguyễn Tấn Thì (1952 –1955).
13. Cha Phêrô Nguyễn Sĩ Tư (tháng 7-9/1956).
14. Cha Martinô Nguyễn Trọng Huấn (1956 – 1973).
15. Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhuận (1973 – 1975).
16. Cha Phêrô Nguyễn Quang Báu (1975 – 1988).
17. Cha Anrê Huỳnh Thanh Khương (1988 – 2000).
18. Cha Phêrô Nguyễn Văn Kính (2000 - ... )
b. Các linh mục phó xứ :
1. Cha Simon Nguyễn Chính (1891 – 1894).
2. Cha Phanxicô Xaviê Hương (1894 – 1895).
3. Cha Gioakim Đến (1900-1902).
4. Cha Phêrô Lục (1906-1911).
5. Cha Phanxicô Xaviê Sanh (1909 – 1917).
6. Cha Phêrô Nguyễn Hữu Cao (1912 – 1915).
7. Cha Giacôbê Lê Kim Dung (1915 – 1917).
8. Cha Phêrô Từ (1917 – 1919).
9. Cha Giuse Nguyễn Tý (1919 – 1920).
10. Cha Tánh (1922 – 1923).
11. Cha Phêrô Lệ (1923 – 1927).
12. Cha Martial Lassalmonie Tấn (1925 – 1926).
13. Cha Antôn Phạm Cảnh Chẩm (1926).
14. Cha Phêrô Nguyễn Viết Tín (1926 – 1927).
15. Cha Joseph Clause Hồng (1927).
16. Cha Gioan Baotixita Nguyễn Đức Quảng (1927).
17. Cha Phaolô Nguyễn Xuân Bàn (1933 – 1935).
18. Cha Phaolô Cần (1939 – 1942) – quê Hà Dừa.
19. Cha Phaolô Trần Văn Thông (1941 – 1942).
20. Cha Bonaventura Nguyễn Văn An (1943).
21. Cha Phaolô Dẫn (1943).
22. Cha Phêrô Lê Đức Châu (1943 – 1944).
23. Cha Phaolô Huỳnh Tấn Ngoan (1944 – 1945).
24. Cha Phaolô Võ Hữu Tư (1945).
25. Cha Louis Nguyễn Bảo (1944 – 1945).
26. Cha Tôma Nguyễn Văn Tới (ở Lục Lễ) (1957).
27. Cha Gioakim Bùi Văn Ninh (1999 – 2001).
28. Cha Gioakim Nguyễn Ngọc Minh (2001 - 2003).
29. Cha Phêrô Lê Nho Phú (2003 - 2005).
30. Cha Phêrô Nguyễn Đình Hưng (2005- 2009).
31. Cha Giuse Nguyễn Đức Minh (2007 - 2012).
32. Cha Gioan Baotixita Nguyễn Kim Ngân (2010 - 2013).
33. Cha Phêrô Lê Nguyễn Hoàng Vũ (2013 - 2015)
34. Cha Phêrô Nguyễn Ngọc Đức (2015 - ...)
IV. CÁC GIÁM MỤC, LINH MỤC, TU SĨ, CHỦNG SINH, XUẤT THÂN TỪ GIÁO XỨ.
- GIÁM MỤC
1. Đức cha Phaolô Huỳnh Đông Các: † 03.6.2000
2. Đức cha Phêrô Nguyễn Soạn
3. Đức cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi
- LINH MỤC
1. Cha Giuse Nguyễn Kim Thủ: Tử đạo 1862
2. Cha Phaolô Châu: Tử đạo 1862
3. Cha Biện: † 1899
4. Cha Luy Huỳnh Chiếu: † 05.3.1944
5. Cha Phaolô Nguyễn Minh Đoan: † 1949
6. Cha Tôma Nguyễn Thiện: † 1950
7. Cha Gioan Baotixita Nguyễn Hộ: † 1951
8. Cha Luy Nguyễn Bảo: † 20.01.1968
9. Cha Giuse Nguyễn Sồ: † 13.10.1973
10. Cha Phêrô Nguyễn Sĩ Tư: † 20.4.1974
11. Cha Gioakim Nguyễn Thanh Liêm: † 1988
12. Cha Placide Nguyễn Tấn Phát, dòng Bênêđictô: † 30.10.1989
13. Cha Giêrônimô Nguyễn Thanh Lãm, dòng Bênêđictô: † 07.4.2002
14. Cha Phêrô Võ Vân Cẩm: † 2003
15. Cha Luy Huỳnh Nhẫn: † 16.8.2006
16. Cha Stanislas Hoàng Đắc Ánh, dòng Đaminh: † 01.10.2015
17. Cha Gioan Baotixita Lê Quí Đức: † 18.9.2016
18. Cha Phêrô Hoàng Kym
19. Cha Antôn Hoàng Tiến Nam
20. Cha Micae Nguyễn Tri Phương: † ?
21. Cha Phêrô Nguyễn Huy Pháp: † 2004
22. Cha Anrê Huỳnh Thanh Khương: † 13.01.2005
23. Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Kim Sơn
24. Cha Phêrô Nguyễn Kim Hồng
25. Cha Phêrô Lê Thanh Quang
26. Cha Giuse Nguyễn Công Thức
27. Cha Giuse Huỳnh văn Sỹ
28. Cha Gioakim Bùi Văn Ninh
29. Cha Gioan Baotixita Nguyễn Kim Đệ
30. Cha Gioakim Trần Minh Dũng
31. Cha Gioakim Nguyễn Ngọc Minh
32. Cha Giuse Phạm Kim Quốc
33. Cha Giuse Trần Minh Hùng, dòng Ngôi Lời
34. Cha Anrê Huỳnh Tấn Nha
35. Cha Phaolô Nguyễn Văn Khiêm
36. Cha Giuse Nguyễn Anh Việt, dòng Ngôi Lời
37. Cha Phêrô Đỗ Quang Dũng, dòng Tên
38. Cha Giuse Nguyễn Đức Minh
39. Cha Matthêô Nguyễn Ngọc Vũ
40. Cha Giuse Nguyễn Bá Thành
41. Cha Phêrô Nguyễn Minh Trường
42. Cha Gioan Baotixita Nguyễn Kim Ngân
43. Cha Simon Nguyễn Thanh Tú
44. Cha Phêrô Trần Thanh Nhân
45. Cha Anrê Nguyễn Hồng Phong
46. Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Đình Quốc
47. Cha Giuse Nguyễn Minh Đạt
48. Cha Phaolô Nguyễn Anh Quốc
49. Cha Gioan Baotixita Phan Đức Định, dòng Tên
- TU SĨ
1. Sư huynh Émile Huỳnh Khôi LASAN †
2. Sư huynh Ambroise Huỳnh Ngỡi LASAN †
3. Nữ tu Nguyễn Thị Lục (con T. Anrê Kim Thông), MTG †
4. Nữ tu Anna Nguyễn Thị Nhường (con T. Anrê Kim Thông) MTG †
5. Nữ tu Anna Lucie Phùng Thị Cựu MTG QUI NHƠN †1933
6. Nữ tu Anna Lucile Trần Thị Rạng MTG QUI NHƠN †1970
7. Nữ tu Anna Adèle Nguyễn Thị Tôn MTG QUI NHƠN †1971
8. Nữ tu Macta Alexandrine Nguyễn Thị Nhiều MTG QUI NHƠN †1944
9. Nữ tu Maria Louise Nguyễn Thị Ngọ MTG QUI NHƠN † 1989
10. Nữ tu Anna Agathe Trần Thị Kim Liên MTG QUI NHƠN †1985
11. Nữ tu Anê Jeanne Phùng Thị Niềm MTG QUI NHƠN †1987
12. Nữ tu Maria Candide Trần Thị Bích Liên MTG QUI NHƠN †1996
13. Nữ tu Anna Isabelle Huỳnh Thị Xứ MTG QUI NHƠN †2006
14. Nữ tu Mađ. Dominique Huỳnh T. Liễu Huệ MTG QUI NHƠN †2001
15. Nữ tu Anna Alexandrine Huỳnh T. Bích Khuê MTG QUI NHƠN †1975
16. Nữ tu Anna Catherine Nguyễn Thị Lang MTG QUI NHƠN †2001
17. Nữ tu Anna Simone Nguyễn Thị Ngọc Châu MTG QUI NHƠN †1999
18. Nữ tu Maria Andréas Nguyễn Thị Nghĩa MTG QUI NHƠN †2007
19. Nữ tu Anna Clémentine Nguyễn Thị Thám MTG QUI NHƠN †2001
20. Nữ tu Luxia Mathilde Nguyễn Thị Thinh MTG QUI NHƠN †2004
21. Nữ tu Anê Céline Đỗ Thị Kim Liên MTG QUI NHƠN †2016
22. Nữ tu Anna M.Thérèse Nguyễn T. Ngọc Đào MTG QUI NHƠN
23. Nữ tu Maria Gioanna Hoàng Thị Thu Đức MTG QUI NHƠN
24. Nữ tu Maria Consolata Trần Thị Bích Ngọc MTG QUI NHƠN
25. Nữ tu Anê Huỳnh Thị Thanh Ninh MTG QUI NHƠN
26. Nữ tu Luxia Nguyễn Thị Ngọc Phương MTG QUI NHƠN
27. Nữ tu Anna Nguyễn Thị Bạch Cúc MTG QUI NHƠN
28. Nữ tu Luxia Nguyễn Thị Túy MTG QUI NHƠN
29. Nữ tu Maria Huỳnh Thị Thanh Bang MTG QUI NHƠN
30. Nữ tu Maria Nguyễn Thị Thanh Xuân MTG QUI NHƠN
31. Nữ tu Luxia Nguyễn Thị Ngọc Hoàng MTG QUI NHƠN
32. Nữ tu Luxia Huỳnh Thị Ngọc Oanh MTG QUI NHƠN
33. Nữ tu Anna Huỳnh Thị Tố Cơ MTG QUI NHƠN
34. Nữ tu Anna Nguyễn Thị Bích Hòa MTG QUI NHƠN
35. Nữ tu Maria Nguyễn Thị Thu Thủy MTG QUI NHƠN
36. Nữ tu Mađalêna Nguyễn Thị Minh Thy MTG QUI NHƠN
37. Nữ tu Maria Nguyễn Thị Mỹ Duyên MTG QUI NHƠN
38. Nữ tu Maria Hà Thị Cẩm Tiên MTG QUI NHƠN
39. Nữ tu Macta Nguyễn Thị Kim Xuyến MTG QUI NHƠN
40. Nữ tu Luxia Đoàn Nguyễn Minh Thảo MTG QUI NHƠN
41. Nữ tu Maria Huỳnh Thị Hàn Ni MTG QUI NHƠN
42. Nữ tu Anna Huỳnh Trúc Ý MTG QUI NHƠN
43. Nữ tu Anê Đặng Thị Minh Nguyệt MTG PHAN THIẾT
44. Nữ tu Mađalêna Lê Thị Lệ Thẩm MTG PHAN THIẾT
45. Nữ tu Léonard Huỳnh Thị An PHAOLÔ ĐÀ NẴNG
46. Nữ tu Mađ. de St. Jean Bùi T. Ngọc Biên PHAOLÔ ĐÀ NẴNG
47. Nữ tu Macta Phạm Thị Hương PHAOLÔ ĐÀ NẴNG
48. Nữ tu Maria Stéphane Nguyễn Thị Khiết PHAOLÔ ĐÀ NẴNG
49. Nữ tu Maria Renée Nguyễn Thị Lành PHAOLÔ ĐÀ NẴNG † 2001
50. Nữ tu Macta Nguyễn Thị Kim Loan PHAOLÔ ĐÀ NẴNG
51. Nữ tu Jean de la Providence Nguyễn Thị Lộc PHAOLÔ ĐÀ NẴNG
52. Nữ tu Mađalêna Cécile Trương Thị Ngãi PHAOLÔ ĐÀ NẴNG † 2014
53. Nữ tu Luxia Thérèse Nguyễn Thị Tẫn PHAOLÔ ĐÀ NẴNG † 1994
54. Nữ tu Anna Nguyễn Thị Huyền Trâm PHAOLÔ ĐÀ NẴNG
55. Nữ tu Agata Bùi Thị Thu Trâm PHAOLÔ ĐÀ NẴNG
56. Nữ tu Anê Phan Thị Khắp CHÚA QUAN PHÒNG
57. Nữ tu Maria Célestine Nguyễn Thị Mỹ Thọ NỮ VƯƠNG HÒA BÌNH
58. Nữ tu Maria Nguyễn Thị Ánh Hồng NỮ TỲ CGS TÌNH THƯƠNG
- ĐẠI CHỦNG SINH
1. Thầy Simon Lê Xuân Ban
2. Thầy Phaolô Nguyễn Bá Định
3. Thầy Giuse Nguyễn Thanh Việt
4. Thầy Matthêô Huỳnh Tấn Công
5. Thầy Phêrô Lê Trọng Nghĩa
6. Thầy Phanxicô Lê Quang Thạch
7. Thầy Phaolô Trần Ngọc Hiệp
8. Thầy Giuse Trần Minh Hiếu
9. Thầy Giuse Nguyễn Tường Vy
10. Thầy Anrê Lê Ngọc Thiện
11. Thầy Gioakim Nguyễn Minh Hòa
12. Thầy Gioakim Bùi Thanh Nhã
13. Thầy Giuse Nguyễn Mạnh Quân
14. Thầy Gioakim Huỳnh Tấn Sĩ
V. HIỆN TÌNH GIÁO XỨ ( cuối năm 2016)
STT | GIÁO HỌ, GIÁO KHU | ĐỊA CHỈ | NHÀ THỜ, N. NGUYỆN | TÌNH HÌNH GIÁO DÂN | BỔN MẠNG | NGÀY | ||
X.DỰNG | HIỆN TRẠNG | GIA ĐÌNH | GIÁO DÂN | |||||
1 | GÒ THỊ | Xuân Phương, Phước Sơn, Tuy Phước | 2000 | mới | 403 | 1.457 | Đức Mẹ HX Lên Trời | 15/8 |
2 | Gò Dài | X. Phương, Phước Sơn, Tuy Phước | 1941 | mới | 204 | 765 | T. Phêrô và Phaolô | 29/6 |
3 | Xuân Phong | Xuân Phương, Phước Sơn, Tuy Phước | 1900 | mới | 107 | 422 | Thánh Tâm CGS | tháng 6 |
4 | Thượng Hoà | Xuân Phương, Phước Sơn, Tuy Phước | 1959 | mới | 61 | 200 | Các Thánh Tử Đạo VN | 19/6 |
5 | Phước Thiện | Dương Thiện, Phước Sơn, Tuy Phước | 1940 | mới | 29 | 94 | Thánh Gioan Tẩy Giả | 24/6 |
6 | Kỳ Sơn | Phước Sơn, Tuy Phước | 1950 | chưa có | 40 | 120 | Đức Mẹ Truyền Tin | 25/3 |
7 | Vinh Quang | Vinh Quang, Phước Sơn, Tuy Phước | chưa có | |||||
TC | 844 | 3.058 |
1. Họ Gò Thị
- Nhà thờ khánh thành ngày 12 tháng 7 năm 2000. Dài 47m, rộng 20m, cao 18m, tháp chuông cao 40m.
- Nhà xứ : xây từ 1930, được tu sửa lại từ thời cha Huấn, và mới sơn sửa lại, nới rộng thêm một số phòng sinh hoạt.
- Trường Thánh Anrê Nguyễn Kim Thông, nhà nước đang mượn làm trường tiểu học.
- Gò mả Thánh Anrê Nguyễn Kim Thông, nơi đây có hầm mộ của Ngài. Bà con xa gần đến hành hương.
- Đài Thánh Anrê Nguyễn Kim Thông nằm trong khuôn viên nhà thờ, được xây từ năm 1990.
- Hang đá Đức Mẹ Lộ Đức đối diện với Đài Thánh Anrê Nguyễn Kim Thông được hoàn thành cùng ngày với nhà thờ.
- Di tích Toà Giám mục Địa phận Đàng Trong và Đông Đàng Trong: Nằm trong khuôn viên Nhà Chung. Đức Thánh Giám mục Stêphanô Thể đã “hầm trú” tại đây suốt 26 năm, ngài đã mở công nghị Gò Thị năm 1841. Ngày nay một đài kỷ niệm được xây trên nền cũ của Toà Giám mục. Đây là một di tích lịch sử đáng ghi nhớ.
- Nhà Chung : Ngày xưa là nhà mồ côi nam và nhà mồ côi nữ, nay do các nữ tu Dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn phụ trách.
- Tu viện Mến Thánh Giá Gò Thị : Gồm một toà nhà 2 tầng, dài khoảng 80 mét và một nhà hưu dưỡng 2 tầng mới xây xong năm 2003. Đây là cái nôi của Dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn.
2. Họ Gò Dài
- Nhà thờ mới xây lại năm 2001 (mặt tiền được đại tu và có thêm gác chuông), mái tôn, tường đá rửa, dài 24m, rộng 12m cả hè, tháp chuông cao 16m, chung quanh tường thành và sân nhà thờ được bê-tông hoá sạch sẽ.
- Nhà vuông 2 phòng rộng rãi thoáng mát.
- Hội trường gồm 3 phòng dành cho các em học giáo lý.
- Đài Đức Mẹ La Vang và đài Thánh Giuse.
3. Họ Xuân Phong
- Nhà thờ đã được đại trùng tu và khánh thành vào mồng 3 tết năm 2003.
- Nhà vuông dài 8m, rộng 5m, vừa mới sửa lại làm nơi sinh hoạt của giáo họ.
- Hang đá Đức Mẹ Lộ Đức.
4. Họ Thượng Hoà
Nhà thờ được xây từ thời cha Martinô Nguyễn Trọng Huấn, đã được đại trùng tu và khánh thành vào mùng 03 tết 2004.
5. Họ Phước Thiện
Nhà thờ được xây từ thời cha Phanxicô Xaviê Vỹ. Năm 2001 được trùng tu khang trang và một nhà vuông rộng rãi chung quanh có tường thành bao bọc. Năm 2011 hang đá Đức Mẹ Lộ Đức và đài Thánh Giuse được xây dựng.
6. Họ Kỳ Sơn và Vinh Quang
Chỉ còn lại nền nhà thờ.
[1] ADRIEN LAUNAY, Histoire de la Mission de Cochinchine, Paris 2000, T.II, trang 189.
[2] ADRIEN LAUNAY, sđd., T.III, trang 17.
[3] Mgr Van Camelbeke, Rapport 1882.
[4] Mgr Grangeon, Rapport 1905 ; Mm. 10/1919, p.139
[5] Mm. No.69,11/1910, p.90
[6] Notic biographique de Bossard ; R.A.E. 1881
[7] Rapport 1897
[8] Rapport 1881
[9] Thông tin địa phận số 03/1958 và số 22/ 1961
Tác giả: Ban biên tập lịch sử giáo phận
Ý kiến bạn đọc