Dan Fitzpatrick
Trong phần thứ nhất của bài viết “Đừng đánh tráo ‘Giới tính’ thành ‘Giới’”, tôi đã thảo luận về việc trong các thế hệ gần đây, từ “giới” [gender] chuyển từ các bài học ngữ pháp sang các bài học về phái tính, rồi bắt đầu dần thay thế cho từ “giới tính” [sex]. Chuyện này xảy ra một phần là vì, không giống với “giới tính” được chứng minh rõ ràng về mặt khoa học, “giới” dễ dàng cho việc tuyên truyền và thao túng để phục vụ cho ý muốn chủ quan của con người.
Điều không thể bị thao túng là từ “giới tính”. Chỉ có hai loại giới tính – nam và nữ. Chúng không thể thay thế cho nhau. Ngược lại, từ “giới”, khi được dùng bên ngoài phạm vi ngôn ngữ/văn phạm, lại thuộc về trạng thái tâm trí chứ không phải trạng thái hiện hữu. Nó là một tập hợp của niềm tin cá nhân và sự phóng túng tư tưởng. Đây là lý do chúng ta cần chấm dứt việc sử dụng từ “giới” khi thảo luận về con người. Các từ ngữ có giống [gender/giới], nhưng con người có giới tính. Trong văn phạm có ba giống: đực, cái và trung; còn trong sinh học có hai giới tính: nam và nữ.
Trong khi bảng dạng giới [gender identity] là một khái niệm giả tạo, thì bức bối giới [gender dysphoria] thực sự xảy ra. Tình trạng này được định nghĩa khi ai đó trải qua những biểu hiện lo âu nghiêm trọng do có cảm giác bản dạng [giới] mà họ nhận thức không tương thích với giới tính sinh học đích thực của họ. Thật lo lắng cho một người bị tách rời khỏi thực tế do chứng rối loạn này, nhưng càng đáng quan ngại hơn nữa việc rất nhiều bạn thanh thiếu niên đang bị mạng xã hội, phương tiện truyền thông chính thống, những người nổi tiếng và thậm chí cả hệ thống giáo dục thuyết phục rằng, chủ nghĩa chuyển giới không chỉ được xem là một trào lưu thời thượng và tuyệt vời nhất, mà còn là giải pháp cho tình trạng của họ.
Từ xưa đến nay, các bạn thanh thiếu niên ở tuổi dậy thì – do bùng nổ các hormone và gặp bối rối khi nỗ lực khám phá cuộc sống – luôn tìm kiếm sự khẳng định, bản sắc cá nhân và sự chú ý. Trong xã hội đương đại của chúng ta, những bạn nhỏ ấy lại đang bị nhồi nhét tư tưởng để chấp nhận rằng những nghi vấn về căn tính có thể được giải đáp nhờ tin vào việc giới tính của mình đã bị gán sai ngay lúc chào đời. Giờ đây, điều được xem là ngầu và sành điệu đối với một đứa trẻ là việc tuyên bố rằng mình mang một giới khác với giới tính tính mà Thiên Chúa đã trao ban, và giới thiệu cho mọi người danh tính mới cùng những đại từ nhân xưng mà mình đang sử dụng.
Trong khi chúng ta phải nhọc lòng khi có quá nhiều trẻ em bị cám dỗ để chú ý đến chủ nghĩa chuyển giới ngay vào giai đoạn chúng đang vật lộn với những căng thẳng tâm lý tự nhiên liên quan đến tuổi dậy thì, thì thật là một tội ác hiển nhiên khi những bậc phụ huynh cấp tiến cực đoan và các chuyên gia y tế vô luân lại để ngỏ cho những cô bé và cậu bé tin rằng sự bức bối tâm lý của các em phản ánh đúng thực tế, để rồi dùng thuốc và/hoặc cắt xẻo cơ thể các em. Và cũng thật vô cùng phẫn nộ việc phong trào chuyển giới tẩy não, cưỡng ép, và/hoặc đe dọa một bộ phận lớn của xã hội, khiến họ chấp nhận sống thờ ơ với thực tế, như điều đã xảy ra với dân chúng trong câu chuyện “Bộ quần áo mới của Hoàng đế”.
Nhóm người vận động cho phong trào chuyển giới đã cố gắng làm thay đổi cách nhìn của công chúng về bản chất của thân xác người nam và nữ, giống như cách mà phong trào đồng tính đã từng bóp méo bản chất của hôn nhân. Cả hai phong trào này đều tạo ra một cuộc nổi loạn chống lại Thiên Chúa Tạo hóa, và điều tồi tệ hơn nữa là cách mà phong trào chuyển giới cố tình lôi kéo và làm băng hoại giới thanh thiếu niên.
Đối với các Kitô hữu, chuyện hệ trọng ở đây là phải chống lại thứ văn hóa này khi bàn đến lý thuyết về giới, phải nhấn mạnh đó là một sự vô trật tự, một thức ý thức hệ sai trái, và phải chấm dứt việc sử dụng từ “giới” [gender] khi chúng ta có ý nói đến “giới tính” [sex]. Đặc biệt, nếu các bậc cha mẹ không kiên định và dám lên tiếng nói, thì rất nhiều con em của họ sẽ bị cuốn theo những dạy bảo sai lạc và nguy hại của văn hóa ngày nay, thay vì đặt tin tưởng vào Đấng Tạo hóa toàn tri trên trời. Hạnh phúc đích thật của các em sẽ đến khi các em chấp nhận thân thể mình như món quà của Thiên Chúa và khám phá ra căn tính thực sự của mình chính là con cái Thiên Chúa.
Đối với bất kỳ em nào đang gặp phải những hoang mang về cái gọi là bản dạng giới, các bậc cha mẹ cần chia sẻ cho các em những thực tế, đó là:
- các em rất được yêu thương và hết mực quý giá;
- Chúa Giêsu yêu các em thật nhiều và sẽ không bao giờ bỏ rơi các em;
- thân thể các em được Thiên Chúa tạo dựng cách tuyệt vời và kỳ diệu;
- Chúa Cha toàn năng không hề mắc một sai lỗi nào khi Người dựng nên các em;
- việc làm biến dạng hay cắt xẻo thân thể sẽ không đem đến bình an lâu dài, ngược lại, sự khuyên nhủ, lời cầu nguyện cũng như hệ thống hỗ trợ đáng tin cậy có thể giúp các em vượt qua cảm giác cô đơn và mặc cảm.
Thêm vào đó, cha mẹ phải lập tức loại trừ những tác động từ môi trường sống và những ảnh hưởng tiêu cực góp phần khiến các bạn trẻ dễ sa vào lối suy nghĩ sai lạc của ý thức hệ về giới. Dù trên mạng hay ngoài đời thực, cũng đừng để con cái giao du với những người cùng trang lứa đang sùng bái chuyện chuyển giới. Các em cần phải có sự hạn chế khi tiếp xúc với mạng xã hội. Hơn nữa, các bậc phụ huynh không được gửi con cái mình vào các trường học theo triết lý tự do cực đoan, nơi tuyển dụng những giáo viên tha hóa, những người sẵn sàng thay đổi đại từ nhân xưng của học sinh hoặc gọi học sinh bằng những danh xưng trái ngược với giới tính của các em ấy.
Dẫu cho người ta có thể e ngại nguy cơ bị gán mác là kẻ thù ghét khi đi ngược lại xu hướng văn hóa hiện nay, nhưng cần thừa nhận rằng, việc khẳng định chỉ có hai giới tính – nam và nữ – không phải là một phát biểu có tính thù ghét. Đây chỉ đơn thuần là sự thật về mặt sinh học. Suốt vài thập kỷ vừa qua, những con người đạo đức ngày một ngần ngại không dám tuyên bố những sự thật hữu lý và mang tính tôn giáo, đây là một nguyên nhân lớn khiến đời sống luân lý xã hội trượt dài quá đỗi nhanh chóng. Cũng thế, rất nhiều Kitô hữu tốt lành đang vướng tội quên tội sót khi không dám lên tiếng về sự sai trái này, và quả thật, chúng ta không thể đồng lõa với nó.
Nếu vì tuyên bố “hợp giới” và “chuyển giới” là những từ ngữ bịa đặt lố lăng, còn các đại từ nhân xưng tùy thích là một sự giả dối trắng trợn, mà người ta gọi bạn là kẻ “kỳ thị người chuyển giới”, thì cũng chẳng vấn đề gì. Bởi rốt cuộc, đây cũng là một từ ngữ hư cấu do họ bịa ra.
Khi những người đối lập gọi bạn là kẻ không mang tinh thần Kitô giáo vì bạn không chấp nhận điều một người gặp bối rối xem là “sự thật”, bạn hãy biết rằng – trong tư cách là một Kitô hữu chân chính – đức ái thực sự phải được đặt nền tảng trên sự thật khách quan. Với lòng cảm thông, chúng ta có thể giúp đỡ những người được gọi là chuyển giới bằng cách hướng họ đến việc chấp nhận thân thể mình như là quà tặng của Thiên Chúa và trân trọng nét nữ tính hay nam tính của giới tính mà trong đó Thiên Chúa đã tạo dựng nên họ. Chúng ta có thể đồng cảm với những ai đang gặp mối giằng co nhưng đừng lừa dối và giả vờ như thể họ có thể thay đổi giới tính của mình. Lòng trắc ẩn không có nghĩa là đồng ý với những người phủ nhận việc Thiên Chúa chỉ tạo dựng nên hai giới tính hay nhượng bộ trước niềm tin sai lạc rằng người ta có thể thay đổi giới tính của mình bằng việc sử dụng các đại từ nhân xưng khác nhau và cắt xẻo các bộ phận cơ thể. Đó là một lòng trắc ẩn đặt sai chỗ.
Sau cùng, các bậc làm cha mẹ ngày nay cần phải chủ động phòng ngừa, không để cho con cái mình bị lôi kéo sa vào căn bệnh xã hội lây nhiễm này trước khi kịp nhận ra. Thay vì chờ đợi và hy vọng không phải thấy dấu hiệu con gái mình muốn trở thành con trai, hoặc con trai mình muốn trở thành con gái, các bậc cha mẹ của các thanh thiếu niên cần mở lời và thảo luận giữa các thành viên gia đình liên quan đến cơn sốt ý thức hệ về giới này.
Có những lý chứng khoa học đã được chứng minh và những lẽ phải tôn giáo đầy chặt chẽ mà các bậc cha mẹ có thể sử dụng để lý giải tại sao ý thức hệ về giới là sai trái, và tương tự, tại sao văn hóa đại chúng đang sai lầm khi cổ xúy cho thứ ảo tưởng của trào lưu chuyển giới. Còn những người làm con cần nhận ra rằng, bình an Kitô giáo đích thực và giải pháp cho vấn đề không thể được tìm thấy nếu chối bỏ chân lý về con người, những kẻ vốn được Thiên Chúa tạo dựng.