Tiếp nhận cha Đắc Lộ - Alexandre de Rhodes (1593 - 1660) ở Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỳ XX

Thứ tư - 01/10/2025 20:36
cha DacLo

Từ khoảng giữa thế kỷ XX, trong bối cảnh cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước kéo dài đã khiến nhiều vấn đề tiếp nhận lịch sử, văn hóa, văn học giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX bị đứt đoạn, bỏ trống (thậm chí có sự phê phán cực đoan, một chiều), trong đó có trường hợp Alexandre de Rhodes. Kể từ thời Đổi mới (1986) đến nay, vấn đề A. Rhodes tiếp tục được khơi dòng, nhận diện trở lại nhưng vẫn còn có những nét khác biệt, kể cả một vài ý kiến đối lập, một chiều. Bài viết này tập trung khơi nguồn tư liệu trên một số loại báo chí khắp trong Nam ngoài Bắc dưới thời thực dân, góp phần “bù lấp” những khoảng trống tri thức và nhận thức, đánh giá về vị trí A. Rhodes trong lịch sử chữ Quốc ngữ dân tộc giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX.

Từ khá sớm, trong định hướng biên soạn một bộ Việt âm tự điển, sau khi nhấn mạnh tôn chỉ, phương pháp “ba bộ phân cốt yếu” và 7 điều “phàm lệ”, học giả Thượng Chi (Phạm Quỳnh, 1892-1945) có thêm phụ lục thông tin: “Việc khởi thảo bộ Việt âm tự điển này, Hội Khai trí tiến đức đã đứng chủ trương và mới lập một hội đồng mười ông để làm, đại khái cũng theo như cách thức đã bàn ở trên. Hội cử Bản chí chủ bút ông PHẠM QUỲNH là Tổng Thư ký của Hội để trông nom riêng về việc ấy. Bản chí chủ bút có lời kính cáo của ngài hội viên Hội Khai trí, các bạn đọc báo Nam Phong, cùng cả các văn hữu trong nước, ngài nào có ý kiến gì hay về việc làm Tự điển, hoặc có sưu tập được những thơ văn Nôm cũ hay là những ca dao tục thoại, xin làm ơn viết thư về cho, hoặc quá bộ đến Hội Khai trí cho được thừa tiếp. Ông PHẠM QUỲNH ngày nào cũng thường ở nhà Hội và có thể tiếp các ngài từ 6 giờ đến 7 giờ chiều”[1].

Nối liền bài này là sự nhận diện “Chữ Quốc ngữ cổ” xác định vai trò chủ công của A. Rhodes: “Năm 1624, Cố ALEXANDRE DE RHODES là người Đại Pháp, thuộc dòng Tên (Jésuites) sang giảng đạo Thiên Chúa ở nước Nam. Song vì nước Nam bấy giờ chưa có chữ để viết ra tiếng, thì người lấy làm khó học lắm. Cho nên Cố ALEXANDRE và mấy Cố nữa quyết dùng chữ Latin mà đặt ra một lối viết tiếng An Nam (lối ấy tức là chữ Quốc ngữ)… Trước còn làm cách nọ thử cách kia, khó nhọc lâu ngày; mãi về sau mới nghĩ ra phép viết này là hoàn toàn tiện lợi hơn cả. Bấy giờ người mới dọn một bộ Tự vị tiếng An Nam và Latin và nhiều sách đạo khác nữa… Tôi xin sao lại một trang sách kia của ngài in năm 1651 để các bạn đoc báo Nam Phong so sánh chữ Quốc ngữ về ba trăm năm trước với chữ Quốc ngữ đời ta bây giờ giống nhau và khác nhau thế nào. Một bên là chữ Latin tôi tạm dịch ra Pháp văn cho dễ hiểu, một bên là chữ Quốc ngữ đời bấy giờ”[2]. Tiếp liền đó là nguyên văn và đoạn dịch tiếng Pháp “Premier jour” - “Ngày thứ nhít”, tức là phần mở đầu sách Phép giảng tám ngày (Roma, 1651)…

Lại nữa, sau chuyến cùng phái bộ Nam Kỳ ra tham dự Đấu xảo ở Hà Nội (1920), ông Hồ Văn Lang, Tổng lý Thời báo (Sài Gòn), đã cho xuất bản sách Từ Nam chí Bắc. Trong tập sách du ký công vụ này, ông đặc biệt chú ý đến vấn đề định hướng thống nhất ngôn ngữ quốc gia và địa phương, quan hệ ngữ âm và nghĩa, tiếng và chữ viết. Khi đề xuất yêu cầu xây dựng bộ từ điển ngữ âm, ông liên hệ, tưởng nhớ đến công ơn vị tổ chữ Quốc ngữ: “Những tiếng An Nam ta, tôi tưởng mới có một ông nầy đặt tự điển trước, nhưng mà chưa đủ tiếng dùng, chưa phải là “Tam Kỳ đồng âm tự điển”… Trước hết, ông Linh mục Alexandre de Rhodes làm ra cuốn Annamite-Latin-Portugais tự điển hồi năm 1626; có lẽ từ đây mới xuất hiện chữ quốc ngữ, thế thì ông de Rhodes đây là tổ chữ quốc ngữ chăng?... Sau ông Trương Vĩnh Ký làm ra hai cuốn Annamite-FrançaisFrançais-Annamites… Ông linh mục Genibrel làm ra hai cuốn Annamite-FrançaisFrançais-Annamite et caractères chinois[3]… Có thể xem đây là nguồn kiến thức và nhận thức phổ thông ngay từ giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX.

Tiếp bốn năm sau, Phạm Quỳnh có công trình khảo cứu thực sự công phu, bài bản, chuyên sâu, trong đó khơi dẫn cả một hệ vấn đề (tương quan chữ Hán, chữ Nôm và Quốc ngữ, lược sử truyền giáo và chữ Quốc ngữ, vai trò các nhà truyền giáo Ý, Bồ Đào Nha đến A. Rhodes, nguồn tư liệu về quá trình định hình chữ Quốc ngữ, việc tiếp cận sách Tự điển An Nam - La Tinh - Bồ Đào (1651) tại Trường Viễn Đông bác cổ, lược sử truyền bá chữ Quốc ngữ, quá trình phát triển, phổ cập chữ Quốc ngữ đến lược sử văn chương, văn học, khoa học chữ Quốc ngữ) và đặc biệt khẳng định: “Chữ Quốc ngữ là một thứ chữ dịch âm tiếng An Nam ra mẫu tự La Mã… Nguyên về đầu thế kỷ thứ 17, các cố đạo Tây (người Bồ Đào, người Ý Đại Lợi, người Pháp Lan Tây), sang giảng đạo bên ta. Học chữ Nho thì khó, vả cũng không được phổ thông trong dân gian; còn dùng chữ Nôm thì không có phép tắc nhất định, bất tiện lắm. Muốn phiên dịch, trước thuật các sách ra tiếng bản xứ, để giúp cho công việc truyền đạo được phổ cập và được mau chóng, bèn nghĩ ra đem dùng mẫu tự Latin dễ dịch âm các tiếng An Nam. Thử làm trước nhất có lẽ là người Bồ Đào. Lúc mới đầu chắc cũng chưa nghĩ ra một lối viết nào nhất định; mỗi người dịch ra một cách, tùy cái âm vận riêng của tiếng quốc âm mình. Sau dần dần mới hợp nhất lại mà thành một lối chữ thông dụng ở trong “Nhà chung” hồi bấy giờ. Một ông cố người Bồ Đào tên là GASPAR DE AMARAL thảo một quyển tự vựng An Nam - Bồ Đào; ông cố nữa, cũng người Bồ Đào, tên là ANTOINE BARBOSA, thì thảo một quyển tự vựng Bồ Đào - An Nam. Một ông cố về Dòng Tên (Jésuites), người nước Pháp, tên là ALEXANDRE DE RHODES, đến Trung Kỳ năm 1624 và đến Bắc Kỳ năm 1626, bèn nhân hai bản đó soạn một quyển Tự điển An Nam - La Tinh - Bồ Đào, đem in và xuất bản ở La Mã vào khoảng năm 1651. Hai bản thảo của hai Cố AMARAL và BARBOSA thì không hề xuất bản, nên không còn lưu truyền. Ngày nay còn biết đến là chỉ nhờ quyển Tự điển của cố ALEXANDRE DE RHODES, trong tựa có nói qua rằng chính nhờ hai bản đó mà soạn ra bộ Tự điển này. Như thế thì bộ Tự điển này là quyển sách in ra trước nhất bằng chữ Quốc ngữ, và cố DE RHODES tuy không phải một mình đặt ra chữ Quốc ngữ, nhưng cũng vào hạng sáng lập ra thứ chữ ấy trước nhất và là người dùng thứ chữ ấy đề in sách đầu tiên cả. Ngoài bộ Tự điển, ông còn làm một bộ sách giảng cho bổn đạo toàn bằng Quốc ngữ, cũng xuất bản ở La Mã năm 1651. Bộ Tự điển và bộ sách giảng đó có giá trị vô cùng, vì là tiêu biểu cho cái tình trạng tiếng An Nam ta về khoảng ba trăm năm về trước. Xét hai bộ sách ấy không những biết được chữ Quốc ngữ hồi mới đặt ra thế nào, mà lại biết được tiếng An Nam ta tự ba trăm năm đến giờ thay đổi thế nào nữa”[4]...

Từ đây học giả Phạm Quỳnh tổng thuật “xét qua về lịch sử tác giả” A. Rhodes, từng ở cả Đàng Trong (Nam Kỳ) và Đàng Ngoài (Bắc Kỳ) suốt 7 năm (1623-1630), khoảng năm năm (1640-1645) đi đi lại lại Áo Môn (Ma Cao) - Việt Nam nhiều lần, đến ngày 3-7-1645 buộc phải dời bỏ nước Nam, như chính lời ông nói “người ông đi mà lòng ông ở lại” (Je quittai de corps la Cochinchine, mais non certes pas de cœur), sau qua La Mã, Bồ Đào Nha rồi về Pháp, viết nhiều sách về Việt Nam và xuất bản, tái bản nhiều lần, cuối cùng “ông chết ở Ba Tư năm 1660”, đặc biệt giới thiệu kỹ về hai tập sách Phép giảng tám ngày Tự điển An Nam - Latin - Bồ Đào, đồng thời kể rõ lai lịch hình thành sách Tự điển cũng như vai trò A. Rhodes và ý nghĩa bộ sách trong suốt lịch trình phát triển chữ Quốc ngữ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX[5]

Sau khi chứng dẫn tư liệu, học giả Phạm Quỳnh nhấn mạnh các phương diện: “Đó là tiếng An Nam và chữ Quốc ngữ về ba trăm năm trước. Xét kỹ thì cũng không khác gì ngày nay mấy. Trừ có mấy vần, mấy chữ, mấy dấu viết khác bây giờ một chút, còn thời lời nói cổ đó, ngày nay đọc lên nghe còn hiểu hết cả”, nhấn mạnh ưu thế và sự tiện dụng vượt trội của chữ Quốc ngữ so với chữ Hán, chữ Nôm và tiếng Pháp: “Ngày nay chữ Quốc ngữ đã nghiễm nhiên thành thứ chữ viết, cái văn tự chung của cả dân tộc Việt Nam vậy. Học vừa dễ vừa mau, dùng vừa hay vừa tiện, thật là một cái lợi khí để truyền bá sự học trong quốc dân. Nay chúng ta được dùng cái thứ chữ thần diệu đó, phải nên cảm ơn những Cố đạo đã có công nghĩ đặt ra tự ba trăm năm về trước (…). Duy chỉ còn có chữ Quốc ngữ. Chữ Quốc ngữ là nói sao viết vậy. Mà cách viết ấy học rất mau, chỉ sáu tháng một năm là biết được. Học chữ Tây phải 5, 6 năm, học chữ Tàu phải 9, 10 năm mới viết được thành văn lý; học Quốc ngữ chỉ một năm là viết được thông thông rồi”, đồng thời xác định tương quan “nguyên lai chữ Quốc ngữ” với “tương lai chữ Quốc ngữ”, tiến đến xác định niềm tin mối quan hệ cơ hữu giữa tiếng “An Nam”, “chữ Quốc ngữ” với “văn Quốc ngữ”, “nền Quốc văn”, “có thể thành được văn chương như các thứ tiếng khác không?”: “Về phần riêng tôi thì tôi rất tin như thế. Tôi tin rằng hậu vận nước Nam ta hay hay dở là ở chữ Quốc ngữ, ở văn Quốc ngữ. Công phu tôi làm báo, trước thuật, ngôn luận, cổ động trong mười lăm năm nay, là do một lòng xác tín như thế”, rồi đi đến kết luận xác quyết: “Ta đã may mắn được có một thứ chữ rất mầu nhiệm, tuy là tự người ngoài đặt ra, nhưng là người bốn năm nước hiệp lực lại mà làm ra để cống hiến cho ta, ta có thể coi là của ta được, ta nên trân trọng mà dùng cho được việc. Tôi quyết rằng vận mệnh chữ Quốc ngữ với vận mệnh tiếng An Nam ta từ nay là liền hẳn với nhau, và Quốc văn ta sẽ nhờ đó mỗi ngày một phát đạt lên, rực rỡ muôn phần, cho bõ cái công chúng ta nhiệt thành mong mỏi trong bấy lâu”[6]

Ở đây, có thể thấy Phạm Quỳnh đã chú ý đúng mức đến thực tế những người đi đầu, khơi mở, đặt vấn đề khởi thảo rồi đến A. de Rhodes trong vai trò người kết tập, đúc kết, tổng thành, tương tự như Vân Hạc Lê Văn Hòe nhận diện về vai trò Nguyễn Thuyên với chữ Nôm: “Chữ Nôm nhất định không phải do Nguyễn Thuyên (tức Hàn Thuyên) đặt ra, nhất là ngay từ đời thuộc quyền đô hộ nhà Đường, trước đời Hàn Thuyên chừng 5, 6 trăm năm, dân ta đã biết dùng tiếng Việt - Hán, tức là dùng chữ Nôm, xen lẫn với chữ Hán, như tên Phùng Hưng làm Bố Cái đại vương… “Bố Cái tuy viết toàn bằng chữ Tàu, nhưng ta phải nhận đó là hai chữ Nôm, vì nếu dùng chữ Hán thì phải viết “Phụ Mẫu” mới đúng”[7]… Dẫn giải thêm như thế để thấy học giới ngay từ đầu thế kỷ XX đã rõ vấn đề, không phải như phát kiến “mở cánh cửa đã mở sẵn” gần đây, kiểu như “Alexandre de Rhodes không phải là người sáng tạo ra chữ Việt?”[8], “Vậy rõ ràng A. de Rhodes không phải là người sáng chế ra chữ quốc ngữ”[9]

Rồi cũng ngay từ năm 1927, viên Trung tá August Bonifacy (1856-1931) đã có ý tưởng quyên góp để xây dựng Đài Kỷ niệm Triệu tổ chữ Quốc ngữ A. de Rhodes nhưng phải trải qua hơn mười năm sau mới hoàn thành. Chương trình nhận được sự ủng hộ rộng rãi của các tầng lớp trí thức, quan chức, doanh nhân, dân chúng trong toàn cõi Đông Dương; nguồn kinh phí được xã hội hóa (Hội đồng thành phố Hà Nội chỉ chịu trách nhiệm xác định vị trí và góp ý bản vẽ), thu hút sự quan tâm của nhiều đấng bậc qua các thời kỳ như Henry Cucherousset (1879-1934, Chủ nhiệm tạp chí Đông Pháp Kinh tế - L'Eveil économique de l'Indochine), Phạm Quỳnh, vua Bảo Đại, kiến trúc sư Nguyễn Cao Luyện (1908-1987), nhà thầu Lê Bá Cử, Đốc lý Henri Virgitti, Chủ tịch Hội đồng Lesterlin (năm 1937 về Pháp), Thống sứ danh dự Đông Dương Tissot Honoré, Vũ Ngọc Hoánh, Nguyễn Bá Chính, Bonifacy, Đốc lý Edouard  Delsalle, Thanh tra Sở Trước bạ Fayssal (kiêm Chủ tịch Hội đồng), kiến trúc sư Joseph Lagisquet, Toàn quyền Jean Decoux (1884-1963), thành viên hội đồng Ngô Tử Hạ (1882-1973), Chủ tịch Hội Truyền bá chữ Quốc ngữ Nguyễn Văn Tố (1889-1947), Hoàng Trọng Phu (1872-1946), Chapouard, Khâm sứ  Émile Louis François  Grandjean, Giám đốc Nha Lưu trữ và Thư viện Paul Boudet[10]… Điều này cho thấy đây là vấn đề văn hóa, xã hội sâu rộng chứ không phải việc làm áp đặt, nhất thời, đơn giản của bất kỳ một nhóm phái nào.

Đương thời, tại Hà Nội đã sớm cảm nhận, bình luận về vai trò, công lao của A. de Rhodes trên tư cách “Đài kỷ niệm Triệu tổ chữ Quốc ngữ”[11], trong khi nhà văn, nhà Hán học Nguyễn Trọng Thuật trong chuyến du ngoạn qua kinh đô Huế, có dịp chiêm ngưỡng chân dung A. de Rhodes ở vị trí trang trọng trong bảo tàng: “Ra khỏi cửa Tả thì thấy viện Khải Định bảo tàng gần đó. Viện này vốn là một cái đài cũ dựng ở giữa vườn (…). Lại xuống đến cận thế, súng hỏa mai, súng cò máy đá là vật hỏa khí của Tây phương mới bắt đầu thâu nhập vào hồi Trịnh - Nguyễn. Chân dung Alexandre de Rhodes, tổ sư vần Quốc ngữ. Chân dung Bá Đa Lộc, Hoàng tử Cảnh và Nguyễn Văn Thắng (Chaigneau) mối nhân duyên Pháp - Việt. Mấy bức tranh vẽ hai bên các quan Việt - Pháp phụng mệnh hai nước mà giao thiệp cùng nhau hồi đầu”[12].

Đặt trong tổng thể tiến trình lịch sử phát triển văn hóa Việt Nam, học giả Đào Duy Anh đúc kết và định vị vai trò bậc “thủy tổ của chữ Quốc ngữ”: “Xưa kia Việt ngữ vốn viết bằng chữ Nôm, nhưng từ khi phép học đổi mới thì Việt ngữ lại viết bằng một thứ chữ mới gọi là chữ Quốc ngữ. Thứ chữ này nguyên do các nhà truyền giáo Gia Tô đặt ra. Vào khoảng thế kỷ 16, 17, khi các nhà ấy mới sang nước ta, thì có lẽ mỗi người lấy tự mẫu của nước mình mà đặt ra một lối chữ riêng để dịch tiếng bản xứ cho tiện việc giảng dạy tín đồ. Các lối chữ riêng ấy sau do hai nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha, rồi sau đến cố A. de Rhodes người Pháp tổ chức lại thành một thứ chữ thông dụng chung trong truyền giáo hội, tức là thủy tổ của chữ Quốc ngữ ngày nay. Giáo sĩ A. de Rhodes đem thứ chữ ấy biên thành một bộ tự điển Dictionnaire Annamite - Portugais - Latin và một quyển giáo lý vấn đáp Catechisme annamite et latin” (Nxb. Bốn phương, Huế, 1938, 342 trang)[13].

Từ góc độ nhà nghiên cứu, phê bình văn học hiện đại, Vũ Ngọc Phan tiếp tục tóm tắt thời kỳ manh nha, định hình chữ Quốc ngữ với vai trò các nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha, Pháp, Nhật rồi mới đến khái lược tiểu sử và vị thế A. de Rhodes: “Vào khoảng cuối thế kỷ XVI, có các Giáo sĩ người Bồ Đào Nha là bọn các ông cố Gaspard Amiral (đúng ra phải viết Gaspar d’Amiral), Antoine Barbore cùng các Giáo sĩ người Pháp và người Nhật đến Bắc Kỳ. Rồi kế đến ông Alexandre de Rhodes tới Nam Kỳ từ tháng Chạp Tây năm 1624… Cố Alexandre de Rhodes ra Bắc Kỳ ngày 19 tháng hai 1625; rồi đến năm 1651, ông xuất bản hai quyển bằng Quốc ngữ nhan đề Dictionarium AnnamiticumCatechismus. Cố Alexandre de Rhodes nói hai quyển này soạn theo bản của hai Giáo sĩ Gaspard Amiral [Gaspar d’Amiral] và Antoine Barbore. Như vậy, thứ chữ Quốc ngữ chúng ta hiện dùng ngày nay không phải do một người đặt ra, mà do ở nhiều người góp sức”[14]… 

Từ góc độ nhận thức đại chúng, ký giả Nhân Nghĩa nêu câu hỏi “Ai đặt ra chữ Quốc ngữ?” rồi phân tích, dẫn giải, khẳng định tầm vóc A. de Rhodes[15]. Liền đó Nguyễn Hữu Trương cảm nhận về vị trí A. de Rhodes và vai trò kiến tạo chữ Quốc ngữ bằng thước đo xu thế tiến bộ xã hội, tiến trình phát triển văn hóa dân tộc và xu thế giao thoa, tiếp nhận văn minh Việt - Pháp, Đông - Tây: “Hay đâu, tương lai nào có ai ngờ, ngờ cái đất nước quen với nghiên mực ngọn bút lông nhất đán lại xoay qua “a ă u ư ngọn bút chì” được! Văn tự của ta lại bước vào một giai đoạn mới nữa. Chúng tôi muốn nói qua chữ quốc ngữ. Ban sơ, người bày ra nó là ông Alexandre de Rhodes, vì sự nhu cầu cho các người bên đạo, dùng 24 mẫu tự Latin lập thành lối chữ, trông hình thức không còn Tàu chút nào, mà thật là gần với Pháp Lang Tây. Ông Alexandre de Rhodes cũng ngỡ dùng lối ấy để mà phát âm (prononciation) tiếng nói Việt Nam cho dễ nhớ vậy thôi. Nên “họ” gọi là chữ “Quốc âm” (prononciation des indigènes). Kịp đến khi suốt toàn cõi xứ Đông Pháp đều dùng đến cái lối của ông cố đạo nên mình gọi là chữ Quốc ngữ (langue nationale)”[16]

Hướng tới đại chúng, Hoa Bằng [Hoàng Thúc Trâm] và Tiên Đàm [Nguyễn Tường Phượng] phác thảo thông tin công tích và việc dựng tượng, khánh thành Đài Tưởng niệm Alexandre de Rhodes: “Bên đền Bà Kiệu, xế cửa đền Ngọc Sơn, tấm bia kỷ niệm ông Alexandre de Rhodes đã cao xây dưới bốn mái, chiếc phương đình theo lối kiến trúc Đông phương… Hồi 5 giờ chiều ngày 29 Mai 1941, ông Alexandre de Rhodes đã sống lại với dân Hà thành giữa bầu không khí ngưỡng mộ truy tư đầy vẻ trang nghiêm cảm động trong lễ khánh thành đài kỷ niệm ở phố Bờ Hồ - Hoàn Kiếm (coi thêm mục tin tức)… Nay có chữ Quốc ngữ dùng làm lợi khí để xây dựng một nền quốc văn, ta không thể không thật tình cảm ơn người đã đặt ra nó: ông Alexandre de Rhodes… Trên trang quốc sử và văn học sử Việt Nam cận đại, ông Alexendre de Rhodes thật đã đóng một vai quan trọng vô cùng! Nay khảo về lai lịch ông, tưởng cũng là công việc cần làm trong khi nghiên cứu sử học… Alexendre de Rhodes nhất danh là cố Trang, sinh ngày 15 Mars 1591, ở tỉnh Avignon, miền nam nước Pháp”; nêu khái quát tài năng, công tích: “Sau khi học giỏi tiếng Nam, ông để tâm nghiên cứu các vấn đề quan trọng ở xứ này. Nào phong tục, nào tính tình nhân dân, nào lợi nguyên và sử ký trong nước, không phương diện nào ông không quan sát và khảo cứu cho đến chốn đến nơi… Ông có viết được nhiều sách. Khi ông đương cư trú ở Âu châu, các tác phẩm đó lần lượt ra đời. Ông soạn sách bằng tiếng Ý và tiếng Latin, đại để có những sách nói về công cuộc giảng đạo của các giáo sĩ jesuites ở Bắc Kỳ cùng nhân vật và phong tục xứ ấy. Ông lại thửa riêng in những vần Quốc ngữ là một thứ chữ ghép bằng vần Bồ Đào Nha (…). Ông De Rhodes là một vị giáo sĩ biết rất nhiều tiếng ngoại quốc hồi ấy như Pháp, Ý, Latin, Hi Lạp, Do Thái, Ấn Độ, Bồ Đào Nha, Tàu, Nhật và Việt Nam. Nhờ thế ông mới theo các vần họp ở các thứ tiếng nói trên mà lập ra chữ Quốc ngữ”[17]...

Cùng trong số tạp chí trên có thông tin khái lược về ngày Lễ khánh thành: “Lễ khánh thành Đài Kỷ niệm ông Alexandre de Rhodes đã cử hành rất long trọng hồi 5 giờ ngày 29 Mai 1941. Có quan Toàn quyền Decoux và hầu khắp thân hào thành phố đến dự. Ông Nguyễn Văn Tố nhân danh là Hội trưởng Hội Truyền bá Quốc ngữ nói về công người phát minh ra lối chữ ấy”[18]… Báo chí đương thời cho biết, cả ba bài diễn thuyết của các ông Fayssal, Ngô Tử Hạ, Nguyễn Văn Tố và sự kiện khánh thành Nhà bia A. Rhodes đều đã được in đầy đủ trên Trung hòa nhật báo (số 2547, ra ngày 7-6-1941) và cả một chuyên san trên Tạp chí Indochine - Đông Dương (số 41, ra ngày 16-12-1941)[19]

Nhà bia A. Rhodes được đặt trang trọng bên đền Bà Kiệu, đối diện đền Ngọc Sơn - hồ Hoàn Kiếm, xây theo kiểu phương đình, nền xi măng 12 cạnh, có 3 lối lên 5 bậc, với một bia đá (1,7m x 1,1m X 0,2 m) đặt trên đế cao 0,5 m và bốn mái ngói cong. Bia ghi tóm hành trình truyền giáo và công lao của A. Rhodes trong việc sáng tạo chữ Quốc ngữ được khắc bằng ba thứ tiếng: Quốc ngữ, Hán và Pháp. Trong văn bia có đoạn: "Khi phải rời bỏ xứ Việt Nam, Người lấy làm tiếc nên có nói: Phần xác ta rời bỏ đất Nam với đất Bắc nhưng thực lòng ta vẫn quyến luyến, nói cho đúng, vẫn bàng hoàng với cả hai nơi và ta chắc rằng không bao giờ lòng ta lại quên hai xứ ấy... Người soạn ra nhiều truyện ký đều diễn dịch ra mấy thứ tiếng, và người soạn ra quyển sách Bổn và quyển tự vị tiếng Việt Nam, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng La tinh là những sách bằng tiếng Việt Nam dịch âm theo chữ La tinh xuất bản trước tiên, nên tên người cũng được lưu truyền với cái công nghiệp phát minh ra chữ Quốc Ngữ”…

Dư luận đương thời đánh giá cao việc vinh danh A. Rhodes, đồng thời ngay trong năm, vào ngày 10-9-1941, Toàn quyền Đông Dương Jean Decoux đã ký Nghị định đổi tên một số phố và quảng trường ở Hà Nội, trong đó phố số 219 được mang tên A. Rhodes; rồi tiếp đến năm 1943, chính quyền thuộc địa Đông Dương đã phát hành con tem 30 xu để tưởng niệm và tôn vinh A. Rhodes[20]… Trải qua bao thăng trầm lịch sử, hiện nay tại trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh vẫn có con đường mang tên ông và nhiều thành phố khác cũng đã và đang đề xuất đặt tên đường, dựng lại Nhà bia vinh danh tên tuổi ông.

Đến đây cần đặc biệt đánh giá cao việc nhà giáo Dương Quảng Hàm đã đưa vấn đề “Các giáo sĩ - Cố Alexandre de Rhodes - Việc sáng tác chữ Quốc ngữ” (Chương 18) thuộc thiên thứ 5- Ảnh hưởng của nước Pháp với nhan sách Việt Nam văn học sử yếu (Nha Học chính Đông Pháp Xb, Hà Nội, 1943) vào chương trình năm thứ nhất ban Trung học Việt Nam (tương đương Lớp nhì trong các trường Trung học Pháp), cơ bản cũng là toát yếu nội dung từ bài khảo cứu của Phạm Quỳnh (1927): “Nói tóm lại thì chữ Quốc ngữ là do các Cố Tây sang giảng đạo bên nước Nam đặt ra vào đầu thế kỷ thứ 17, các Cố đó người Bồ Đào có, người Ý Đại Lợi có, người Pháp Lan Tây có, chắc là cùng nhau nghĩ đặt, châm chước, sửa sang trong lâu năm, chứ không phải một người nào làm ra một mình vậy. Duy đến khi in ra thành sách thì là một ông Cố người nước Pháp Alexandre de Rhodes, in một bộ tự điển và một bộ sách giảng Đạo bằng chữ Quốc ngữ trước nhất. Vậy thời hai bộ sách đó là hai quyển sách Quốc ngữ cổ nhất còn lưu truyền đến nay”[21]… Như vậy, khi A. Rhodes và “Việc sáng tác chữ Quốc ngữ” giữ trọn một chương (đồng thời cũng là một thiên)[22] đã được đưa vào chương trình giảng dạy trong nhà trường thì vấn đề không chỉ đáp ứng yêu cầu học thuật chuẩn mực, sự đồng thuận xã hội cao mà còn có ý nghĩa ghi nhận, vinh danh và lan tỏa sâu rộng trong thế hệ trẻ.

Vào chặng đường cuối thời thực dân, Nhật Nham [Trịnh Như Tấu] biểu dương việc lập Nhà sách mang tên A. Rhodes với niềm tin tưởng “Mở các cuộc thi văn chương”, “in lại tác phẩm của các nhà văn đã nổi tiếng”, “làm giàu cho cái kho quốc văn vô giá của ta”: “Thư xã Alexandre de Rhodes mới thành lập trong ít lâu nay mà xem ra đã bước được một bước dài trong công cuộc truyền bá tư tưởng Âu Tây sang cõi Viễn Đông… Vậy xin nói qua về lịch sử và công việc Thư xã Alexandre de Rhodes để độc giả nhàn lām. Thư xã Alexandre de Rhodes, lấy tên một vị Linh mục, cố Alexandre de Rhodes, người có công nghiệp lớn trong việc sáng tạo ra chữ Quốc ngữ (…)”; nhấn mạnh vai trò lối chữ Quốc ngữ: “Chữ Quốc ngữ! Một thứ chữ Latin ghi chép tiếng Việt Nam. Nhờ có chữ Quốc ngữ mà văn chương Việt Nam tuy xưa đã sản xuất ra nhiều tác phẩm có giá trị, nay phát triển một cách rất mau chóng, ra ngoài cả sự tưởng tượng. Nhiều tác phẩm về văn chương xuất hiện, những di sản về văn chương của tiền nhân được đem ra phô diễn, được công hành trong nước, được phổ cập khắp nơi, khiến các giới trong xã hội Việt Nam, già, trẻ, nhớn, bé, đàn ông cũng như đàn bà, ai ai cũng có thể chóng biết một thứ chữ dễ hiểu, dễ học, để trau dồi tinh thần… Nhờ có chữ Quốc ngữ, văn học giới ta có thể phiên dịch được nhiều tác phẩm của tư tưởng Âu Tây, nhất là tư tưởng Pháp… Nhờ có chữ Quốc ngữ, việc học chữ Pháp được dễ dàng, vì sau khi học Quốc ngữ rồi học đến chữ Pháp, có nhiều vần của hai thứ chữ giống nhau… Cố Alexandre de Rhodes đã dự vào việc sáng tạo cho dân tộc Việt Nam ta một thứ chữ vừa giản dị, vừa tinh xảo, có ảnh hưởng to đến nền văn chương nước nhà và đến cả các ngành tư tưởng của ta. Chữ Quốc ngữ làm môi giới cho hai cái văn hóa Tây phương và Đông phương, mà nhất là giúp ta hiểu thấu cái tinh thần nước Pháp”, từ thêm một lần khẳng định mục đích cao đẹp của thư xã: “Trong công cuộc xây dựng nền văn hoá Việt Nam, phải cần đến sự cố gắng của tất cả công chúng hoặc của cá nhâu, của đoàn thể văn học hoặc của chính phủ đứng lên ủng hộ văn chương và mỹ thuật. Trong công cuộc ấy, Thư xã Alexandre de Rhodes đã đeo ấn tiên phong… Thư xã Alexandre de Rhodes, đã hy sinh trong cuộc kiến thiết văn hoá để gây cho dân tộc Việt Nam một tương lai tốt đẹp: thực đáng được ghi tên trên lịch sử văn hoá”[23]

Đương thời đã có các cuộc thi văn chương, dịch thuật, xuất bản tác phẩm và đặt giải thưởng mang tên A. Rhodes trong suốt các năm 1941-1945. Đơn cử việc nhà sách mang tên thương hiệu A. Rhodes in sách Lược khảo Việt ngữ đã được học giả Nguyễn Văn Tố trân trọng đọc điểm: “Thư xã De Rhodes (Editions Alexandre de Rhodes) mới xuất bản một quyển sách tên là Lược khảo Việt ngữ, in giấy khổ nhỏ, dày 90 trang. Nguyên văn quyển này do ông Lê Văn Nựu soạn bằng chữ Pháp, đề là Essai sur l'évolution de la langue annamite (Editions du Cercle de Qui-nhơn, 1941), được giải thưởng của báo Patrie Annamite năm 1935. Nay ông Lê Văn Nựu sửa lại, dịch ra Quốc văn, lời lẽ rõ ràng, lưu loát, xem rất bổ ích”[24]

Ở chặng đường cuối, nữ sĩ, nhà giáo Phương Lan bàn rộng về sự cải cách và thống nhất chữ Quốc ngữ, chủ yếu về ngữ âm - cách đọc mà nội dung có thể bao quát trong lời dẫn: “L.T.S.- Chữ Quốc ngữ, ban đầu, do mấy nhà giáo sĩ Bồ Đào Nha sáng chế, rồi do ông Alexandre de Rhodes tập thành sửa lại, giúp cho chúng ta một thứ lợi khí rất quí để phổ thông tri thức, truyền bá tư tưởng. Sự ích lợi của Quốc ngữ, không đợi phải nói, ai cũng biết rõ cả rồi… Việc gì cũng vậy, khi mới thảo sáng, không khỏi còn có đôi chỗ chưa được tận thiện. Vì vậy, trước giờ đã có nhiều người bàn đến vấn đề cải cách chữ Quốc ngữ. Nay Tri Tân xin lục đăng bài này của Phương Lan nữ sĩ cho rộng đường dư luận”[25]… Trên thực tế, vấn đề cải cách, chuẩn hóa chữ Quốc ngữ liên quan tới nhiều phương diện học thuật (hệ từ vựng, từ điển, tiếng ta, chữ ta, âm và chữ, Quốc âm - Quốc ngữ và Quốc văn, chữ Nôm và Quốc ngữ, Nam ngữ và Hán ngữ - Pháp ngữ, tiếng Việt và tiếng địa phương, danh từ khoa học, điển tích tiếng Việt, sự tiến hóa của tiếng Việt, tương lai tiếng Việt và quốc văn…) từng nối dài theo lịch sử hình thành và phát triển chữ Quốc ngữ mà cho đến ngày nay vẫn còn là “phong ba bão táp” và “bão táp phong ba”…

Thay lời kết

Thực hiện công việc sưu tầm và hệ thống hóa các nguồn tài liệu cho thấy hệ vấn đề A. Rhodes và chữ Quốc ngữ đã được bàn thảo sâu rộng ngay từ giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, đồng hành với công cuộc hiện đại hóa nền văn hóa, văn học dân tộc. Thực tế tài liệu đã minh chứng, xác định sáng rõ quá trình hình thành chữ Quốc ngữ và vai trò tổng thành của A. Rhodes có ý nghĩa thời đại, quốc gia, dân tộc, vượt lên mọi thiên kiến. Từ quan điểm lịch sử cụ thể, hoàn toàn có thể ghi nhận, vinh danh A. Rhodes như một trong những danh nhân văn hóa góp công đầu mở đường, kiến tạo, kết nối mối quan hệ giao lưu, hội nhập giữa Đại Việt - Việt Nam với phương Tây và thế giới hiện đại.

Hà Nội, tháng 7-2025
PGS. TS. Nguyễn Hữu Sơn
(Nguyên Phó Viện trưởng Viện Văn học,

TBT Tạp chí Nghiên cứu Văn học)


Tài liệu tham khảo

[1] Đào Duy Anh: Việt Nam văn hoá sử cương, Tái bản. Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 1992, tr.301-302.
[2] Đỗ Hoàng Anh: Nhà bia Alexandre De Rhodes và những câu chuyện ít được biết đến… Nguồn: https://www.archives.org.vn/gioi-thieu-tai-lieu-nghiep-vu/nha-bia-alexandre-de-rhodes-va-nhung-cau-chuyen-it-duoc-biet-den.htm... Cập nhật ngày 18/7/2025.
[3] V.B: Chữ Quốc ngữ cổ. Nam Phong tạp chí, số 74, tháng 8-1923, tr.112B.
[4] HTNB: Đài kỷ niệm Triệu tổ chữ Quốc ngữ. Hà thành ngọ báo, số 1902, ra ngày 5-1-1934, tr.1.
[5] Hoa Bằng và Tiên Đàm: Ông Alexandre de Rhodes (1591-1660), nhân dịp dựng bia ở Hà Nội hồi 5 giờ chiều ngày 29 Mai 1941. Tri Tân tạp chí, số 2, ra ngày10-6-1941, tr.3-5.
[6] An Chi: Alexandre de Rhodes không phải là người sáng tạo ra chữ Việt? An ninh thế giới, số ra ngày 28-9-2010. Nguồn: https://cand.com.vn/Kinh-te-Van-hoa-The-Thao/Alexandre-de-Rhodes-khong-phai-la-nguoi-sang-tao-ra-chu-Viet-i299464/... Cập nhật ngày 12/6/2025.
[7] Thượng Chi: Việc khởi thảo một bộ Việt âm tự điển (Chú dẫn). Nam Phong tạp chí, số 74, tháng 8-1923, tr.112A.
[8] Phaolô Nguyễn Minh Chính: Số phận tấm bia và danh xưng “ông Tổ chữ Quốc ngữ” của Cha Alexandre de Rhodes… Nguồn: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/so-phan-tam-bia-va-danh-xung-ong-to-chu-quoc-ngu-cua-cha-alexandre-de-rhodes-45938... Cập nhật ngày 5/7/2025.
[9] Dương Quảng Hàm: Việt Nam văn học sử yếu. Tái bản lần 10. Trung tâm Học liệu - Bộ Quốc gia giáo dục Xb, Sài Gòn, 1968, tr.105-109.
[10] Vân Hạc Lê Văn Hòe: Người nước ta biết làm ruộng từ đời thượng cổ - Ai đặt ra chữ Nôm? Đông Dương tuần báo, số 45, ra ngày 15-2-1941, tr.10.
[11] Phương Lan nữ sĩ: Cải cách quốc ngữ. Tri tân Tạp chí, số 165, ra ngày 2-11-1944, tr.14-15.
[12] Hồ Văn Lang: Từ Nam chí Bắc. Impremirie Hồ Văn, Sadec, 1924, tr.168.
[13] Hoàng Văn Minh: Vì sao nhóm trí thức Huế phản đối đặt tên đường Alexandre de Rhodes? Nguồn: https://laodong.vn/van-hoa/vi-sao-nhom-tri-thuc-hue-phan-doi-dat-ten-duong-alexandre-de-rhodes-768547.ldo... Cập nhật ngày 12/6/2025.
[14] Nhân Nghĩa: Ai đặt ra chữ Quốc ngữ. Trung Bắc Chủ nhật, ra ngày 15-12-1940…
[15] Nhật Nham: Một việc đáng ghi trên văn hóa sử Việt Nam. Tri tân Tạp chí, số 102, ra ngày 8-7-1943, tr.20-21.
[16] Vũ Ngọc Phan: Nhà văn hiện đại”, quyển nhất. Nxb. Tân Dân, Hà Nội, 1941, tr.22-23.
[17] Trần Phương: Cuộc phiêu lưu của Alexandre de Rhodes ở Viễn Đông… Nguồn: https://luatkhoa.com/2019/12/cuoc-phieu-luu-cua-alexandre-de-rhodes-o-vien-dong/... Cập nhật ngày 22/6/2025.
[18] Phạm Quỳnh: Khảo về chữ Quốc ngữ. Nam Phong tạp chí, số 122, tháng 10-1927, tr.327.
[19] Nguyễn Hữu Sơn: Nhà giáo Dương Quảng Hàm với sách giáo khoa. Tạp chí Người Hà Nội, số tháng 5-2022, tr.22-24.
[20] Tri Tân: Lễ khánh thành đài kỷ niệm ông Alexandre de Rhodes. Tri Tân tạp chí, số 2, ra ngày 10-6-1941, tr.16.
[21] Nguyễn Trọng Thuật: Nam du đến Ngũ Hành Sơn, số 184, tháng 5-1933, tr.446.
[22] Nguyễn Văn Tố: Lược khảo Việt ngữ [của Lê Văn Nựu]. Tri Tân tạp chí, số 79, ra ngày 7-1-1943, tr.4-5.
[23] Nguyễn Hữu Trương: Dân tộc và ngôn ngữ Việt Nam trải qua các triều đại. Đông Dương tuần báo, số 43, ra ngày 25-1-1941, tr.11.
Địa chỉ:
Nhà số 23, Ngách 14/31, phố Pháo Đài Láng, phường Láng, Hà Nội. Tel: 0913031635; Email: lavson1059@gmail.com
 

[1] Thượng Chi: Việc khởi thảo một bộ Việt âm tự điển. Nam Phong tạp chí, số 74, tháng 8-1923, tr.112A.
[2] V.B: Chữ Quốc ngữ cổ. Nam Phong tạp chí, số 74, tháng 8-1923, tr.112B.
[4] Phạm Quỳnh: Khảo về chữ Quốc ngữ. Nam Phong tạp chí, số 122, tháng 10-1927, tr.327.
[5] Xem thêm Trần Phương: Cuộc phiêu lưu của Alexandre de Rhodes ở Viễn Đông… Nguồn: https://luatkhoa.com/2019/12/cuoc-phieu-luu-cua-alexandre-de-rhodes-o-vien-dong/... Cập nhật ngày 22/6/2025.
 
[6] Phạm Quỳnh: Khảo về chữ Quốc. Nam Phong tạp chí, số 122, tháng 10-1927, tr.327-339.
[8] An Chi: Alexandre de Rhodes không phải là người sáng tạo ra chữ Việt? An ninh thế giới, số ra ngày 28-9-2010. Nguồn: https://cand.com.vn/Kinh-te-Van-hoa-The-Thao/Alexandre-de-Rhodes-khong-phai-la-nguoi-sang-tao-ra-chu-Viet-i299464/... Cập nhật ngày 12/6/2025.
[9] Hoàng Văn Minh: Vì sao nhóm trí thức Huế phản đối đặt tên đường Alexandre de Rhodes? Nguồn: https://laodong.vn/van-hoa/vi-sao-nhom-tri-thuc-hue-phan-doi-dat-ten-duong-alexandre-de-rhodes-768547.ldo... Cập nhật ngày 12/6/2025. 
[10] Xin xem Đỗ Hoàng Anh: Nhà bia Alexandre De Rhodes và những câu chuyện ít được biết đến… Nguồn: https://www.archives.org.vn/gioi-thieu-tai-lieu-nghiep-vu/nha-bia-alexandre-de-rhodes-va-nhung-cau-chuyen-it-duoc-biet-den.htm... Cập nhật ngày 18/7/2025.
[11] HTNB: Đài kỷ niệm Triệu tổ chữ Quốc ngữ. Hà thành ngọ báo, số 1902, ra ngày 5-1-1934, tr.1.
[12] Nguyễn Trọng Thuật: Nam du đến Ngũ Hành Sơn. Nam Phong tạp chí, số 184, tháng 5-1933, tr.446.
[15] Nhân Nghĩa: Ai đặt ra chữ Quốc ngữ. Trung Bắc Chủ nhật, ra ngày 15-12-1940…
[16] Nguyễn Hữu Trương: Dân tộc và ngôn ngữ Việt Nam trải qua các triều đại. Đông Dương tuần báo, số 43, ra ngày 25-1-1941, tr.11.
 
[17] Hoa Bằng và Tiên Đàm: Ông Alexandre de Rhodes (1591-1660), nhân dịp dựng bia ở Hà Nội hồi 5 giờ chiều ngày 29 Mai 1941. Tri Tân tạp chí, số 2, ra ngày10-6-1941, tr.3-5.
[18] Tri Tân: Lễ khánh thành đài kỷ niệm ông Alexandre de Rhodes. Tri Tân tạp chí, số 2, ra ngày 10-6-1941, tr.16.
[19] Xin xem Phaolô Nguyễn Minh Chính: Số phận tấm bia và danh xưng “ông Tổ chữ Quốc ngữ” của Cha Alexandre de Rhodes… Nguồn: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/so-phan-tam-bia-va-danh-xung-ong-to-chu-quoc-ngu-cua-cha-alexandre-de-rhodes-45938... Cập nhật ngày 5/7/2025.
 
[20] Sau này, ngày 5-11-1961, chính quyền Việt Nam Cộng hòa cũng phát hành một bộ 4 con tem kỷ niệm 300 năm ngày mất A. Rhodes.
[22] Xin xem Nguyễn Hữu Sơn: Nhà giáo Dương Quảng Hàm với sách giáo khoa. Tạp chí Người Hà Nội, số tháng 5-2022, tr.22-24.
 
[23] Nhật Nham: Một việc đáng ghi trên văn hóa sử Việt Nam. Tri Tân tạp chí, số 102, ra ngày 8-7-1943, tr.20-21.
[24] Nguyễn Văn Tố: Lược khảo Việt ngữ [của Lê Văn Nựu]. Tri tân Tạp chí, số 79, ra ngày 7-1-1943, tr.4-5.
[25] Phương Lan nữ sĩ: Cải cách quốc ngữ. Tri Tân tạp chí, số 165, ra ngày 2-11-1944, tr.14.
 
 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây