Bài thuyết trình: Hình tượng Anrê Phú Yên trong "Người Chứng Thứ Nhất" của Phạm Đình Khiêm

Thứ bảy - 27/09/2025 21:50
Anre PY

 


Tóm tắt

Tiểu luận tập trung khảo sát hình tượng thầy giảng Anrê (Andrew) Phú Yên – vị tử đạo tiên khởi của Giáo hội Việt Nam – qua tác phẩm Người chứng thứ nhất (1959) của Phạm Đình Khiêm. Bài viết làm rõ các phẩm chất nổi bật nơi Anrê: xuất thân bình dị, trí tuệ, đức tin mạnh mẽ, tinh thần tự do và lòng hy sinh trọn vẹn. Đồng thời phân tích cách tác giả sử dụng lối viết biên khảo kết hợp sử liệu và cảm xúc, thủ pháp đối lập và chiều sâu biểu tượng để xây dựng chân dung nhân vật. Từ đó, nghiên cứu khẳng định giá trị tôn giáo – văn hóa của hình tượng Anrê như một mẫu gương sống động cho người trẻ Công giáo hôm nay, và nhấn mạnh đóng góp của tác phẩm trong việc bảo tồn ký ức đức tin và phát triển văn học Công giáo Việt Nam.


Từ khóa:  Anrê Phú Yên; Người chứng thứ nhất; Phạm Đình Khiêm; Tử đạo; Văn học Công giáo

The Image of Anrê Phú Yên in Người chứng thứ nhất by Phạm Đình Khiêm

Abstract

This essay focuses on examining the image of catechist Anrê Phú Yên – the protomartyr of the Vietnamese Church – through the work Người chứng thứ nhất (The First Witness, 1959) by Phạm Đình Khiêm. The paper highlights Anrê’s key qualities: humble origins, intellectual capacity, strong faith, spiritual freedom, and complete self-sacrifice. It also analyzes the author’s biographical style, which blends historical documentation with emotional narrative, the use of contrast, and symbolic depth in shaping the character. The study affirms the religious and cultural value of Anrê’s image as a living model for today’s young Vietnamese Catholics, while emphasizing the significance of the work in preserving the memory of faith and contributing to the development of Vietnamese Catholic literature.
Keywords: Anrê Phú Yên; Người chứng thứ nhất; Phạm Đình Khiêm; martyrdom; Catholic literature.


 
MỤC LỤC

HÌNH TƯỢNG ANRÊ PHÚ YÊN TRONG NGƯỜI CHỨNG THỨ NHẤT CỦA PHẠM ĐÌNH KHIÊM... 1
Tóm tắt 1
I. DẪN NHẬP. 3
II. NỘI DUNG.. 3
1. Phạm Đình Khiêm và tác phẩm Người chứng thứ nhất 3
1.1. Tiểu sử và sự nghiệp học thuật của Phạm Đình Khiêm.. 3
1.2. Phong cách biên khảo và các tác phẩm tiêu biểu. 4
1.3. Về tác phẩm Người chứng thứ nhất 6
2. Hình tượng Anrê Phú Yên – một người trẻ sống có đức tin. 7
2.1. Xuất thân và nhân cách bản địa. 7
2.2. Tư cách trí thức trẻ mộ đạo. 8
2.3. Tự do chọn lựa sống đức tin. 9
3. Hình tượng tử đạo Anrê Phú Yên – người chứng đầu tiên của Hội Thánh Việt Nam.. 10
3.1. Cái chết và sự chiến thắng của đức tin. 10
3.2. Sự phong thánh từ trong lòng giáo dân và Hội Thánh. 11
4. Nghệ thuật xây dựng chân dung nhân vật Anrê Phú Yên của Phạm Đình Khiêm.. 12
4.1. Ngôn ngữ biên khảo – kết hợp trữ tình và sử liệu. 12
4.2. Thủ pháp đối lập: người trẻ – quyền lực trần thế. 13
4.3. Tính biểu tượng và gợi hứng tôn giáo. 14
III. KẾT LUẬN.. 14
Tài liệu tham khảo chính

I. DẪN NHẬP


Trong dòng chảy lịch sử hơn bốn thế kỷ của Công giáo Việt Nam, Anrê Phú Yên (1625–1644) được ghi nhận là vị tử đạo bản xứ đầu tiên, mang trong mình một biểu tượng thiêng liêng về đức tin mạnh mẽ và lòng dũng cảm phi thường của người trẻ. Sinh trưởng trong bối cảnh Kitô giáo vừa bén rễ trên đất Việt, Anrê sớm trở thành môn sinh yêu quý của linh mục Đắc Lộ – vị thừa sai dòng Tên có ảnh hưởng lớn trong việc truyền giáo thời bấy giờ. Dù tuổi đời còn rất trẻ, Anrê đã chọn con đường phục vụ Tin Mừng, dấn thân vào công việc thầy giảng giữa muôn vàn khó khăn, hiểm nguy. Sự tử đạo của Anrê vào tại Gò Xử (nay thuộc Giáo xứ Phước Kiều, giáo phận Đà Nẵng, tổng giáo phận Huế) năm 1644, khi chỉ mới 19 tuổi, không chỉ là bi kịch của một cá nhân, mà còn là dấu mốc trọng đại mở ra truyền thống tử đạo Việt Nam, khởi đầu cho hàng trăm chứng nhân đức tin sẽ nối tiếp về sau. Hình ảnh Anrê Phú Yên từ đó không chỉ là ký ức lịch sử mà còn là mẫu gương sống động cho bao thế hệ tín hữu, nhất là giới trẻ Công giáo Việt Nam, về một lý tưởng sống có niềm tin, có trí tuệ và lòng hiến dâng.

Hơn ba thế kỷ sau, giữa bối cảnh Việt Nam những năm 1950 với nhiều xáo trộn xã hội và tôn giáo, nhà nghiên cứu Phạm Đình Khiêm đã cho ra đời tác phẩm Người chứng thứ nhất (1959) – một công trình biên khảo kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính nghiêm cẩn sử liệu và chiều sâu thiêng liêng của tâm hồn tôn giáo. Tác phẩm sử dụng nhiều tư liệu gốc quý giá như hồi ký của Đắc Lộ, các thư tín truyền giáo, bản án của triều đình Huế, cũng như những yếu tố truyền khẩu dân gian, để phục dựng một cách chân thực và cảm động chân dung vị tử đạo trẻ tuổi. Tuy nhiên, điểm đặc biệt của tác phẩm không chỉ nằm ở độ chính xác của dữ kiện lịch sử, mà còn ở khả năng gợi mở chiều kích biểu tượng nơi Anrê – hình ảnh của một con người trẻ tuổi Việt Nam trong chặng đường đầu tiên tiếp xúc với văn hóa Kitô giáo đã dám lựa chọn đức tin, sống đức tin và chết cho đức tin như một sứ mạng thiêng liêng.

Việc tiếp cận và nghiên cứu Người chứng thứ nhất trong bối cảnh hiện nay không đơn thuần là một nỗ lực tìm hiểu về một tác phẩm khảo cứu lịch sử về chủ đề Công giáo, mà còn là cách để khám phá vai trò của văn học biên khảo trong việc bảo tồn ký ức cộng đồng, khắc họa những nhân vật lịch sử mang tính biểu tượng tôn giáo – văn hóa, đồng thời góp phần định hình lý tưởng sống cho thế hệ hôm nay. Thông qua lối hành văn giàu cảm xúc nhưng chặt chẽ về tư liệu, Phạm Đình Khiêm đã không chỉ kể lại câu chuyện của một người tử đạo, mà còn dựng nên hình mẫu lý tưởng của người trẻ dấn thân giữa đời – một biểu tượng vượt ra ngoài phạm vi tôn giáo, chạm đến những giá trị nhân bản sâu sắc của dân tộc Việt Nam.

II. NỘI DUNG

 

1. Phạm Đình Khiêm và tác phẩm Người chứng thứ nhất

 

1.1. Tiểu sử và sự nghiệp học thuật của Phạm Đình Khiêm

 
Phạm Đình Khiêm (1920–2013) là một trong những cây bút và nhà nghiên cứu Công giáo tiêu biểu của Việt Nam trong thế kỷ XX. Sinh ngày 2 tháng 8 năm 1920 tại Ninh Bình, thuộc giáo phận Phát Diệm, trong một gia đình nông dân nghèo nhưng sớm được thấm nhuần tinh thần đạo hạnh, ông đã hấp thụ nền giáo dục Kitô giáo từ nhỏ tại Tiểu Chủng viện Thánh Giuse – Ba Làng (Thanh Hóa). Từ thời niên thiếu, ông đã thể hiện năng khiếu rõ rệt trong lĩnh vực ngôn ngữ và báo chí, với tinh thần học hỏi nghiêm túc và niềm đam mê sáng tác. Năm 22 tuổi, ông đảm nhiệm vai trò chủ bút bán nguyệt san Thanh Niên, đánh dấu khởi đầu sự nghiệp báo chí và nghiên cứu xã hội mang đậm chất Công giáo.

Từ giữa thập niên 1940, Phạm Đình Khiêm đã có những đóng góp nổi bật với các công trình như Hành động xã hội của Giáo hội qua các thời đại và ở Việt Nam (1945), được giới thiệu bởi linh mục Đinh Ngọc San và nhà văn hóa Nguyễn Văn Tố. Tác phẩm này thể hiện mối quan tâm sâu sắc của ông đến vai trò xã hội của Kitô giáo, đồng thời mở ra hướng tiếp cận Nhân học tôn giáo bằng phương pháp nghiên cứu xã hội học và sử liệu. Năm 1949, tại Sài Gòn, ông tiếp tục dấn thân trong lĩnh vực truyền thông và văn hóa Công giáo. Đặc biệt, tác phẩm Người chứng thứ nhất (1959) được xem là một trong những khảo cứu giá trị nhất của ông – không chỉ khắc họa chân dung thầy giảng Anrê Phú Yên một cách sống động, mà còn đóng vai trò như một tài liệu nền tảng trong tiến trình thỉnh nguyện phong Chân phước cho vị tử đạo tiên khởi này.

Tình yêu dành cho Hội Thánh và lòng nhiệt thành với việc bảo tồn ký ức đức tin đã đưa ông đến Vatican hai lần. Năm 1993, ông yết kiến đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trao tặng bản tóm lược tiếng Pháp của Người chứng thứ nhất và chính thức đệ trình thỉnh nguyện phong Chân phước cho Anrê Phú Yên. Đến năm 2000, ông trở lại Vatican để dâng lên Đức Thánh Cha cuốn Thánh Giuse trong Dân Chúa, nhằm tri ân Giáo hội hoàn vũ đã chọn Thánh Giuse làm Đấng Bảo Trợ Giáo hội Việt Nam. Ngoài vai trò nghiên cứu và biên khảo, ông còn là một dịch giả Pháp văn với nhiều tác phẩm có giá trị. Ông thường sử dụng các bút danh như Kiêm Ngôn, Hưng Bình, Thanh Nghị, Dục Đức, Đức Khiêm, đó là những tên gọi quen thuộc với độc giả văn học, văn hóa Công giáo trong nhiều thập kỷ.

Phạm Đình Khiêm qua đời ngày 13 tháng 3 năm 2013. Di sản mà ông để lại cho Giáo hội không chỉ là những tác phẩm học thuật và dịch thuật giàu giá trị, mà còn là một mẫu gương trí thức Công giáo dấn thân sống và phục vụ trong tinh thần khiêm tốn, trung tín. Những đóng góp của ông, đặc biệt trong việc bảo tồn ký ức tử đạo và phát triển văn hóa nhà đạo, là tài sản quý báu cho tiến trình truyền giáo và học thuật của Công giáo Việt Nam.

 

1.2. Phong cách biên khảo và các tác phẩm tiêu biểu

 
Cùng với Võ Long Tê, Nguyễn Văn Trung, Phạm Đình Khiêm là một trong số ít học giả Công giáo Việt Nam thế kỷ XX có phong cách biên khảo mang tính hệ thống, kết hợp chặt chẽ giữa sử liệu chính xác và cảm thức đức tin sâu sắc. Các công trình của ông trải dài từ các lĩnh vực như lịch sử Giáo hội, xã hội học tôn giáo, đến văn học và dịch thuật, cho thấy một tư duy nghiên cứu đa chiều, có nền tảng học thuật vững chắc và nhạy cảm văn hóa.

Điểm nổi bật trong phong cách biên khảo của Phạm Đình Khiêm là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính khoa học và tinh thần tôn giáo. Ông không chỉ trình bày dữ kiện một cách rõ ràng, đầy đủ, có dẫn chứng xác tín, mà còn biết vận dụng các yếu tố ngôn ngữ, biểu tượng và bình giảng để dẫn dắt người đọc đi sâu vào tầng nghĩa tâm linh và đạo đức của nhân vật hay sự kiện. Phương pháp và lối viết của ông thể hiện thái độ nghiên cứu cẩn trọng, nhưng không khô khan; ngược lại, dễ tiếp cận, giàu cảm xúc, và giàu tính giáo huấn. Các công trình tiêu biểu trong sự nghiệp biên khảo của ông có thể kể đến như:
Chủ bút bán nguyệt san Thanh Niên (trước 1945): Đây là diễn đàn đầu tiên ghi dấu vai trò trí thức Công giáo của Phạm Đình Khiêm, nơi ông thể hiện quan điểm xã hội, đạo đức và giáo dục qua lối viết súc tích, thực tế và đầy lý tưởng hóa người trẻ.

Hành động xã hội của Giáo hội qua các thời đại và ở Việt Nam (Nam Định, 1945; tái bản tại Huế, 1950): Một công trình sớm mang tính tiên phong trong lĩnh vực xã hội học Công giáo tại Việt Nam. Tác phẩm cho thấy khả năng phân tích các tương quan giữa đức tin và đời sống xã hội trong các bối cảnh lịch sử khác nhau.

Sau năm 1954, tại Sài Gòn, ông là một trong những người sáng lập và đứng đầu bút nhóm Tinh Việt văn đoàn và là chủ bút của tờ Văn Đàn.

Minh Đức Vương Thái phi – Lịch sử khai nguyên Công giáo Việt Nam (Sài Gòn, 1957): Tác phẩm mang tính khảo cổ-tôn giáo, đi sâu vào mối liên hệ giữa giới vương quyền Việt Nam và bước đầu truyền giáo, một đề tài ít được khai thác thời bấy giờ.

Tìm hiểu vấn đề xã hội (Sài Gòn, 1957): Một công trình thể hiện chiều sâu tri thức và khả năng nhận định các vấn đề đương đại từ góc nhìn Kitô giáo.
Xã hội Việt Nam thế kỷ XVII dưới mắt giáo sĩ Đắc Lộ (Khảo cổ tập san, số 2, 1961): Một diễn văn có giá trị sử học và nhân học, góp phần khôi phục bức tranh xã hội Việt Nam đầu thời kỳ hiện đại qua lăng kính các giáo sĩ thừa sai.

Giáo sĩ Đắc Lộ và tác phẩm quốc ngữ đầu tiên (Sài Gòn, 1961; soạn chung với Nguyễn Khắc Xuyên và André Marullier): Tái bản trọn vẹn tác phẩm Phép giảng tám ngày, có giá trị phục hồi văn học quốc ngữ thời kỳ khởi nguyên.

Tổng kết văn học thế kỷ XX (dịch quyển Bilan Littéraire du XXe Siècle của R.M. Albérès – bản dịch, Viện Đại học Huế, 1963): Dù không phải tác phẩm tôn giáo, bản dịch này cho thấy bề dày học thuật và khả năng xử lý văn học phương Tây hiện đại.

Thánh Giuse với Giáo hội Chúa tại Việt Nam (Montréal, 1998): Một công trình mang tính tổng hợp lịch sử – linh đạo – truyền thống Công giáo Việt Nam qua hình tượng Thánh Giuse, gắn liền với nỗ lực tri ân và khẳng định bản sắc đạo Việt.

Thánh Philip Phê Phan Văn Minh: Phi Năng thi tập (Montréal, 2000 – soạn chung với Võ Long Tê): Góp phần làm sống lại di sản văn học Công giáo cổ điển Việt Nam, khơi dậy giá trị văn hóa tôn giáo của một thời kỳ ít được nghiên cứu.

Như hương trầm bay lên (Nxb Tôn Giáo, 2010): Nhân kỷ niệm 70 năm ngày mất của Hàn Mặc Tử (1940 – 2010), Phạm Đình Khiêm và Võ Long Tê đã viết quyển sách này như một nén tâm hương tưởng nhớ đến một tài năng thi ca đã sớm vụt tắt của văn chương Việt Nam.

Phạm Đình Khiêm còn được biết đến là một dịch giả pháp văn và Hán văn tài năng với nhiều bản dịch mang đậm chiều sâu tâm linh và nhân bản, trong đó có Mẹ tôi, Tình Cha, Thánh Giuse tuyệt diệu, Đức Giêsu quang lâm giữa dòng thời gian theo các văn bản Tân Ước, chú giải các bản Ức Trai Quân trung từ mệnh tập (Tô Nam Nguyễn Đình Diệm dịch), Hưng Đạo Vương bình Nguyên thực lục (Trần Hữu Huyên dịch) ... Những dịch phẩm này không chỉ làm phong phú kho tàng sách đạo ngữ Việt, mà còn góp phần khích lệ tinh thần yêu nước, kính chúa của các Kitô hữu trong cộng đoàn Công giáo Việt Nam. Từ phong cách biên khảo cho đến danh mục tác phẩm, có thể thấy Phạm Đình Khiêm không chỉ là một học giả Công giáo, mà còn là người góp phần hình thành nền tảng tư duy và văn hóa Công giáo Việt Nam hiện đại – một nhà trí thức biết kết hợp tri thức, đức tin và lòng yêu mến dân tộc trong từng trang viết.

 

1.3. Về tác phẩm Người chứng thứ nhất

 
Tác phẩm Người chứng thứ nhất được Phạm Đình Khiêm xuất bản năm 1959 tại Sài Gòn, trong một giai đoạn đầy biến động của lịch sử xã hội Việt Nam. Thập niên 1950 đánh dấu thời kỳ đất nước chia cắt, xung đột ý thức hệ và những tranh luận sâu sắc về vai trò của tôn giáo trong đời sống công cộng. Trong bối cảnh ấy, Giáo hội Công giáo Việt Nam vừa nỗ lực khẳng định sự hiện diện lâu dài của mình trong xã hội dân tộc, vừa phải đối mặt với nhiều định kiến và thách thức về mặt chính trị. Tác phẩm ra đời như một phản hồi học thuật, tín lý và tâm linh đối với tình trạng đó – không phải bằng lập luận trực diện, mà bằng cách trở lại với căn nguyên lịch sử đức tin thông qua chứng nhân tử đạo tiên khởi Anrê Phú Yên.

Tác phẩm thuộc thể loại biên khảo lịch sử tôn giáo kết hợp với tiểu sử nhân chứng, có sự dung hòa giữa các yếu tố khảo cứu sử liệu, hồi ký truyền giáo, và cả sắc thái trữ tình trong hành văn. Đây không đơn thuần là một cuốn tiểu sử về một nhân vật cụ thể, mà còn là một bản điều tra lịch sử – tâm linh được thực hiện với thái độ nghiên cứu nghiêm túc, công phu và đầy trân trọng. Phạm Đình Khiêm đã sử dụng nhiều nguồn tài liệu quý giá như hồi ký của linh mục Alexandre de Rhodes (còn gọi là Đắc Lộ), thư tín của các giáo sĩ thừa sai, văn bản triều đình, cũng như các truyền thuyết dân gian lưu truyền tại Phú Yên, để tái dựng chân dung thầy giảng Anrê không chỉ với tính cách lịch sử mà còn mang chiều kích linh thánh.

Bối cảnh tôn giáo được tái hiện trong tác phẩm là giai đoạn khởi nguyên của Kitô giáo tại Đàng Trong vào đầu thế kỷ XVII – khi đời sống tín ngưỡng Kitô bị xem là dị giáo và chịu sự nghi ngờ, đàn áp của chính quyền địa phương. Trong hoàn cảnh đó, Anrê Phú Yên – một thanh niên người Việt, theo học dưới sự hướng dẫn của Đắc Lộ, đã chọn con đường sống dấn thân phục vụ Tin Mừng, và chấp nhận cái chết để làm chứng cho niềm tin của mình. Câu chuyện này không chỉ mang giá trị đạo đức và tôn giáo sâu sắc, mà còn trở thành biểu tượng văn hóa về tự do lương tâm và sức mạnh tinh thần trong xã hội Việt Nam tiền hiện đại.

Điểm đáng chú ý là Người chứng thứ nhất không dừng lại ở tính chất một tác phẩm nghiên cứu đơn thuần, mà đã có vai trò thực tiễn trong tiến trình phong Chân phước cho Anrê Phú Yên. Cuốn sách đã được tác giả đích thân đệ trình lên đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II vào năm 1993, kèm theo bản tóm lược tiếng Pháp như một tài liệu nền tảng để thỉnh nguyện Tòa Thánh ghi nhận vị tử đạo Việt Nam đầu tiên. Sự kiện phong Chân phước cho Anrê Phú Yên vào ngày 05 tháng 3 năm 2000 không thể tách rời khỏi đóng góp của Người chứng thứ nhất như một công trình dẫn nhập, khơi dậy và củng cố hồ sơ chứng lý.

Từ góc độ văn học, tác phẩm cũng cho thấy một phong cách viết giản dị nhưng sâu sắc, kết hợp giữa cấu trúc mạch lạc của văn sử học và chất thơ của đức tin. Phạm Đình Khiêm không kể lại lịch sử như một người đứng ngoài cuộc, mà như một chứng nhân thứ hai, cùng đồng hành với vị tử đạo đầu tiên của đất Việt. Chính điều này đã làm cho tác phẩm vượt khỏi giới hạn của một khảo luận, để trở thành tác phẩm sống động, có giá trị truyền giáo, giáo dục và truyền cảm hứng sâu sắc cho người đọc, đặc biệt là giới trẻ trong cộng đồng tín hữu Công giáo Việt Nam hiện nay.

Có thể khẳng định rằng, Người chứng thứ nhất không chỉ là công trình quan trọng nhất trong sự nghiệp biên khảo của Phạm Đình Khiêm, mà còn là một tác phẩm tiêu biểu của văn học Công giáo Việt Nam thế kỷ XX – nơi hội tụ giữa lịch sử, tâm linh, và lòng yêu mến một cách chân thành đối với đức tin Kitô và văn hóa dân tộc.

 

2. Hình tượng Anrê Phú Yên – một người trẻ sống có đức tin

 

2.1. Xuất thân và nhân cách bản địa

 
Theo sách Hạnh các thánh tử đạo Việt Nam (2018) do Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm chủ trì biên soạn, “chân phước Anrê Phú Yên sinh năm 1625 tại một xóm nhỏ ven biển thuộc địa bàn nay là giáo xứ Mằng Lăng, tỉnh Phú Yên, thuộc Giáo phận Qui Nhơn. Tên gọi dân sự của thầy cho đến nay vẫn chưa được xác định rõ, do không có văn bản lưu lại[1]. Tên gọi Anrê Phú Yên là “danh xưng chính thức được Tòa Thánh công nhận, nó là kết hợp giữa tên thánh rửa tội và tên quê quán – vừa xác định căn tính Kitô giáo, vừa ghi dấu bản sắc địa phương. Lớn lên trong một gia đình nghèo, mất cha từ nhỏ, Anrê được mẹ là bà Gioanna nuôi dạy một cách tận tụy, khôn ngoan và đầy đạo hạnh[2]. Chính sự giáo dục đức tin sâu sắc từ người mẹ góa bụa ấy đã đặt nền móng cho nhân cách sống và lựa chọn đức tin của Anrê sau này. Khi mới 16 tuổi, Anrê được mẹ đưa đến gặp linh mục Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) để xin rửa tội, và ba năm sau, thầy đã tuyên khấn trở thành thầy giảng trong cộng đoàn truyền giáo.

Những đặc điểm nhân cách của Anrê, như được Phạm Đình Khiêm nhấn mạnh qua tác phẩm Người chứng thứ nhất, mang đậm màu sắc văn hóa bản địa “chất phác, hiền hòa, khiêm nhường, trung hậu và rất gắn bó với cộng đồng[3]. Từ một thiếu niên xuất thân nơi làng quê ven biển, sống giữa cư dân lao động chủ yếu làm nghề chài lưới và canh tác, Anrê thể hiện đầy đủ phẩm chất người dân quê Việt – chịu thương, chịu khó, sống giản dị và vững vàng trước gian khó. Những giá trị đó không bị triệt tiêu khi ông đón nhận đức tin Kitô giáo, mà còn được nâng lên một tầm cao mới, thể hiện nơi sự can đảm, lòng vị tha và tình yêu tha nhân.

Bên cạnh đời sống đạo đức, Anrê còn cho thấy năng lực trí tuệ và lòng nhiệt thành vượt trội. Là người trẻ nhất trong nhóm 10 thầy giảng được cha Đắc Lộ huấn luyện, Anrê sớm được tin tưởng giao phó nhiều công việc truyền giáo quan trọng. Từ Phú Yên, thầy cùng cha Đắc Lộ và các bạn đồng hành rong ruổi trên các tuyến truyền giáo đến Quy Nhơn, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Quảng Bình – một hành trình gian khổ nhưng cũng đầy ánh sáng đức tin[4].

Như vậy, xuất thân quê mùa và hoàn cảnh thiếu thốn vật chất không làm giảm giá trị nơi con người Anrê, mà trái lại, chính trong khung cảnh đơn sơ ấy, đức tin Kitô giáo đã bén rễ sâu, kết tinh nên một nhân cách bản địa mạnh mẽ, giàu tình cảm, đầy lòng hy sinh và sẵn sàng hiến dâng trọn vẹn cuộc đời vì lý tưởng phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. “Hình ảnh đó là sự kết tinh giữa đạo và đời, giữa bản sắc dân tộc và chiều sâu tôn giáo – trở thành nền tảng vững chắc cho đời sống tử đạo anh hùng sau này[5].

 

2.2. Tư cách trí thức trẻ mộ đạo

Trong Người chứng thứ nhất, Phạm Đình Khiêm không chỉ khắc họa Anrê Phú Yên như một người tín hữu đạo hạnh, mà còn đặc biệt nhấn mạnh đến phẩm chất trí thức trẻ nơi con người thầy giảng trẻ tuổi này. Ông mô tả Anrê là một học trò sáng dạ, thông minh, ham học và giàu tinh thần học hỏi – một đặc điểm nổi bật làm nền cho khả năng dấn thân truyền giáo đầy hiệu quả về sau[6].

Theo lời kể của cha Đắc Lộ – người trực tiếp đào tạo Anrê – thầy là người học nhanh, hiểu sâu, chăm chỉ và luôn hăng say tìm hiểu giáo lý, Thánh Kinh cũng như các phương pháp giảng dạy và giao tiếp truyền giáo. Không dừng lại ở khả năng ghi nhớ và lặp lại, Anrê còn thể hiện tư duy phản biện, khả năng diễn đạt mạch lạc, linh hoạt – điều đặc biệt hiếm gặp ở một thanh niên tuổi chưa đến đôi mươi trong bối cảnh giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ XVII còn sơ khai.

Phạm Đình Khiêm khéo léo cho thấy sự vượt trội trí tuệ ấy không chỉ là sản phẩm của tài năng thiên phú, mà còn là kết quả của một quá trình kết hợp hài hòa giữa truyền thống hiếu học của người Việt và tinh thần khai sáng của nền học thuật Công giáo châu Âu. Nhờ tiếp cận với cả hai thế giới – văn hóa bản địa và học lý Kitô giáo – Anrê Phú Yên đã dần hình thành một bản lĩnh trí thức đặc biệt, trẻ tuổi nhưng giàu chiều sâu, uyển chuyển giữa ngôn ngữ bản xứ và tư tưởng tôn giáo mới mẻ.

Quan trọng hơn, những tri thức mà Anrê tiếp thu và thể hiện không mang tính hàn lâm khô cứng mà được cụ thể hóa trong đời sống – qua lời giảng, qua việc hướng dẫn giáo dân, qua tinh thần phục vụ khiêm hạ trong cộng đoàn, và nhất là qua hành động dám sống – và chết – cho những gì mình đã hiểu và chọn lựa. Chính sự kết hợp giữa trí tuệ, lý tưởng và hành động này đã khiến Phạm Đình Khiêm ví Anrê như hình mẫu của một trí thức Kitô hữu lý tưởng và không dừng ở kiến thức, mà đã sống trọn vẹn tri thức ấy bằng cả con người mình. Có thể nói, qua lối viết khách quan và cảm xúc, tác giả của Người chứng thứ nhất đã tái hiện thành công hình ảnh Anrê Phú Yên như một trí thức trẻ mộ đạo tiên phong của Giáo hội Việt Nam, tiêu biểu cho một thế hệ trí thức dấn thân – biết học, biết sống, biết chết cho chân lý và đức tin.

 

2.3. Tự do chọn lựa sống đức tin

 
Một trong những phẩm chất nổi bật được Phạm Đình Khiêm khắc họa rõ nét nơi Anrê Phú Yên là tinh thần tự do nội tâm sâu sắc trong việc chọn lựa sống đức tin, dù còn rất trẻ. Trong một xã hội phong kiến thế kỷ XVII, nơi ý chí cá nhân thường bị lấn át bởi định hướng cộng đồng và quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”, việc một thiếu niên mới khoảng 16 tuổi dám chọn rời bỏ đời sống an nhàn của gia đình để dấn thân vào một hành trình đức tin đầy gian khổ, hy sinh là điều hết sức phi thường.

Trong “Chuyện chân phước Anrê Phú Yên (1) (1625 – 1644)”, Lm. Gioan Võ Đình Đệ đã cung cấp nhiều thông tin thú vị. Cha Võ Đình Đệ cho rằng, Anrê không bị ép buộc trở thành người Kitô hữu, càng không bị áp lực để gia nhập nhóm thầy giảng. Quyết định đến gặp cha Đắc Lộ để xin được rửa tội – như chính cha ghi lại – đến từ chính thầy và người mẹ đơn thân đạo hạnh của thầy, một hành động thể hiện sự chủ động thiêng liêng sớm nảy nở trong tâm hồn cậu bé vùng quê nghèo. Từ đó, mọi bước đi sau này – học giáo lý, tuyên khấn, theo chân các nhà truyền giáo, chấp nhận hy sinh và cuối cùng là đón nhận cái chết – đều là kết quả của một ý chí tự do chọn lựa, được nuôi dưỡng bằng hiểu biết, niềm tin và lòng yêu mến sâu sắc dành cho Thiên Chúa[7].

Trong biên khảo của mình, nhà nghiên cứu Phạm Đình Khiêm đã đặc biệt ghi nhận thái độ dứt khoát và thanh thản của Anrê khi đối diện cái chết, thể hiện rõ nhất qua lời tuyên bố đầy xác tín trước phiên tòa xử án: “Tôi không sợ mất xác, mà chỉ sợ mất Chúa[8]. Lời nói này không phải là lời học thuộc máy móc từ sách giáo lý, mà là một bản tuyên xưng của con tim đã tự do chọn Chúa làm lẽ sống tối hậu của đời mình. Chính sự tự do chọn lựa này đã biến Anrê từ một tín hữu đơn thuần thành một người làm chứng – đúng như nhan đề cuốn sách Người chứng thứ nhất đã định danh cho thầy.

Đặc biệt, trong hoàn cảnh bị bắt oan thay cho người anh cả Ignatiô, Anrê không chỉ chấp nhận, mà còn chủ động đứng ra nhận thay, vì thầy hiểu rằng nếu Ignatiô – người có kinh nghiệm và vị thế trong nhóm – bị bắt, cả cộng đoàn thầy giảng có thể rơi vào khủng hoảng. Quyết định đó không đơn thuần là hành vi hy sinh anh hùng, mà là một hành vi xuất phát từ ý thức tự do chọn lựa vì lợi ích chung, vì đức tin và vì sự tồn tại của sứ vụ truyền giáo. Đó là tự do của một con người đã biết yêu bằng hành động, và yêu cho đến cùng.

Qua hình tượng này, Phạm Đình Khiêm không chỉ kể lại một biến cố tử đạo, mà còn khẳng định một thông điệp mạnh mẽ cho người trẻ Công giáo Việt Nam,  đức tin không thể vay mượn, không thể truyền thụ bằng quyền bính, mà phải là kết quả của một hành trình chọn lựa tự do – với lý trí, cảm xúc và cả sự dấn thân trọn vẹn của bản thân. Đây cũng chính là lời mời gọi vượt thời gian mà Anrê Phú Yên gửi đến thế hệ trẻ hôm nay – sống đức tin không chỉ như một tập quán hay di sản, mà như một lựa chọn cá nhân có trách nhiệm, đầy tự do và can đảm.

 

3. Hình tượng tử đạo Anrê Phú Yên – người chứng đầu tiên của Hội Thánh Việt Nam

 

3.1. Cái chết và sự chiến thắng của đức tin

 
Trong Người chứng thứ nhất, nhà nghiên cứu Phạm Đình Khiêm đã miêu tả cái chết của Anrê Phú Yên không như một tấn bi kịch đơn thuần, mà như một biểu tượng chiến thắng của đức tin Kitô giáo – chiến thắng của tinh thần tự do tôn giáo trước bạo lực, và chiến thắng của niềm tin sâu sắc trước quyền lực trần thế. Lối miêu tả của ông có tính khách quan, tiết chế cảm xúc, không rơi vào giọng điệu sùng bái hay bi lụy, nhờ đó lại càng khiến sự kiện tử đạo thêm chân thực và lay động.

Cảnh Anrê bị bắt được tái hiện với giọng kể thản nhiên nhưng ẩn chứa chiều sâu xúc cảm. Khi quân lính đến tìm thầy Ignatiô, người anh cả trong nhóm thầy giảng, thì chỉ có Anrê trẻ ở nhà. Dù không phải đối tượng bị truy nã, Anrê đã tự nguyện đứng ra nhận trách nhiệm, với lý do đơn giản nhưng đầy tình huynh đệ: thầy là người trẻ nhất, sự mất mát của thầy không ảnh hưởng đến sứ mạng chung như nếu mất đi người anh cả đầy kinh nghiệm. Hành động ấy không chỉ là một hy sinh cá nhân, mà là một tuyên ngôn sống động về đức tin: một người trẻ sẵn sàng dùng chính mạng sống để bảo vệ cộng đoàn và lý tưởng thiêng liêng.

Trước quan phủ, khi được hỏi về hành vi và niềm tin, Anrê trả lời vắn tắt rằng: “Quan có thể giết thầy cách dễ dàng, nhưng quan và cả bộ hạ không thể nào làm lay chuyển được đức tin và lòng kính mến chúa Giê su trong tâm hồn thầy”[9]. Lời tuyên xưng ấy mang hai tầng ý nghĩa: vừa là khẳng định tính vô tội trước luật pháp trần gian, vừa là lời minh định một hệ giá trị khác – nơi chỉ Thiên Chúa mới có quyền phán xét con người. Đây là thời điểm Phạm Đình Khiêm cho thấy sự đối lập triệt để giữa hai hệ thống quyền lực: triều đình có thể tuyên án và xử tử, nhưng không thể khuất phục được ý chí nội tâm của người tín hữu. Trong nhận thức và đức tin của Anrê, quyền lực chính trị không còn khả năng chi phối, bởi thầy đã vượt qua nỗi sợ chết – điều tối hậu mà bạo quyền có thể áp đặt.

Khoảnh khắc thầy bị hành hình – vào chiều ngày 26 tháng 7 năm 1644 – được tác giả tái hiện bằng những chi tiết rất đời thường nhưng lại mang sức mạnh thiêng liêng: thầy bình thản bước đi giữa toán lính, không than khóc hay run sợ; trên môi luôn kêu tên Giêsu; trước khi bị hành quyết, thầy nhắn nhủ cộng đoàn: “Hỡi anh em, đối với Chúa Giê su rất yêu dấu của ta, ta hãy lấy tình yêu đáp lại tình yêu. Chúa đã chịu chết đau khổ vì ta, ta hãy lấy sự sống để đáp lại sự sống”[10]. Đặc biệt, theo cha Đắc Lộ – nhân chứng duy nhất ghi lại – dù đầu thầy đã lìa khỏi cổ, tên thánh “Giêsu” vẫn được thốt ra lần cuối cùng như một tiếng vọng từ lòng trung tín.

Với Phạm Đình Khiêm, đây không phải là cái chết mang tính thất bại, mà là sự hoàn tất của một cuộc đời hiến dâng, sự kiện mang tính đỉnh cao thiêng liêng – nơi kẻ bị xử tử lại là người chiến thắng. Chiến thắng này không dựa vào vũ khí hay danh vọng, mà vào sức mạnh vô hình của niềm tin tuyệt đối và lòng trung thành trọn vẹn. Qua cách tái hiện ấy, Người chứng thứ nhất đã chuyển hóa biến cố tử đạo của Anrê thành một thông điệp mạnh mẽ và trao gửi cho các thế hệ sau. Thông điệp ấy nhấn mạnh trong đức tin, khi được sống một cách tự do và can đảm, có thể chiến thắng mọi đe dọa, dù là từ quyền lực trần gian hay cái chết thể xác. Theo đó, Anrê không chết trong sự hãi hùng của một bản án, mà sống trọn đức tin cho đến hơi thở cuối cùng – và chính điều đó đã làm nên giá trị vĩnh cửu của một người chứng đích thực.

 

3.2. Sự phong thánh từ trong lòng giáo dân và Hội Thánh

 
Cái chết của Anrê Phú Yên không khép lại trong im lặng hay bị lãng quên, trái lại, ngay từ thời điểm xảy ra biến cố, đã để lại dư âm sâu sắc trong lòng Giáo hội sơ khai tại Việt Nam và trong tâm khảm của những ai được chứng kiến. Cha Đắc Lộ – người trực tiếp rửa tội, đào tạo và đồng hành với thầy – không giấu được xúc động sâu xa. Trong các thư tín gửi về Rôma, cha nhiều lần nhắc đến cái chết của Anrê như một minh chứng cho quyền năng ân sủng và là dấu hiệu đầu tiên cho thấy Kitô giáo đã bén rễ sâu tại mảnh đất Á Đông này.

Phạm Đình Khiêm trong Người chứng thứ nhất đã trình bày rõ rằng, chính cộng đoàn tín hữu đương thời – từ các thừa sai Dòng Tên cho đến những giáo dân bình thường – đều xem Anrê không chỉ là một nạn nhân của bạo lực, mà là người tử đạo đích thực. Họ tự phát cầu nguyện với thầy, kính nhớ ngày thầy chết, lưu truyền tên tuổi và lời nói của thầy như những hạt giống thiêng liêng đầu tiên trên đất Việt. Dư âm ấy không hề bị mai một theo thời gian, mà tiếp tục sống động trong truyền khẩu, trong lòng đạo, và trong cảm thức cộng đoàn suốt hơn ba thế kỷ.

Chính từ lòng kính mến tự nhiên của cộng đoàn, việc phong thánh cho Anrê Phú Yên không chỉ là một quyết định từ Giáo hội hoàn vũ, mà là sự đáp lời của Tòa Thánh trước niềm tin lâu đời và lời nguyện thỉnh thiết tha từ cộng đoàn Công giáo Việt Nam. Sự kiện đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II long trọng tuyên phong Anrê Phú Yên lên hàng Chân phước ngày 05 tháng 3 năm 2000 không chỉ mang tính xác tín tín lý, mà còn là sự công nhận chính thức của Hội Thánh đối với một chứng nhân bản địa tiên khởi, người đầu tiên lấy cái chết để minh chứng cho niềm tin Kitô giáo trên mảnh đất Việt Nam.

Từ năm 1959, Phạm Đình Khiêm đã nhấn mạnh tính tiên khởi ấy không chỉ trên phương diện thời gian, mà còn ở chiều kích biểu tượng: Anrê là hạt giống đầu mùa – một protomartyr[11] – từ đó nảy sinh dòng máu tử đạo làm phong phú và vững mạnh Hội Thánh Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên mà ngài được chọn làm bổn mạng của các giảng viên giáo lý Việt Nam – bởi cuộc đời thầy chính là sự kết hợp trọn vẹn giữa hiểu biết giáo lý, đời sống chứng tá và tinh thần sư phạm thiêng liêng.

Phong chân phước cho Anrê Phú Yên không chỉ là một sự kiện mang tính thần học, mà còn mang giá trị văn hóa – lịch sử sâu sắc: một người trẻ Việt Nam, bình dị, xuất thân từ làng chài ven biển, được vinh danh giữa lòng Giáo hội hoàn vũ như biểu tượng của đức tin kiên trung và lòng mến dấn thân. Sự kiện này cũng là một lời nhắc nhở về cội nguồn đức tin của Giáo hội Việt Nam – không chỉ đến từ phương Tây truyền sang, mà còn từ máu của những người bản xứ dám sống và chết cho Tin Mừng. Qua cái nhìn của Phạm Đình Khiêm, hành trình từ cái chết năm 1644 đến lễ phong chân phước năm 2000 là một minh chứng mạnh mẽ: Tử đạo không chỉ là điểm kết thúc, mà là sự khai mở, là lời khởi đầu cho một truyền thống đức tin được vun trồng bởi những con người khiêm tốn, thầm lặng nhưng phi thường – như Anrê Phú Yên.

 

4. Nghệ thuật xây dựng chân dung nhân vật Anrê Phú Yên của Phạm Đình Khiêm

 

4.1. Ngôn ngữ biên khảo – kết hợp trữ tình và sử liệu

 
Một trong những điểm nổi bật làm nên giá trị và sức hấp dẫn đặc biệt của Người chứng thứ nhấtphong cách ngôn ngữ đa tầng lớp mà Phạm Đình Khiêm vận dụng rất tài tình: sự kết hợp giữa ngôn ngữ trữ tình và ngôn ngữ sử liệu – chính luận. Trong đoạn bình về xúc cảm của hai vị thầy giảng, một già một trẻ cùng có tên thánh là Anrê, ông viết: “Ai hiểu được sự vui mừng của hai môn đệ chúa Giê su khi họ gặp nhau và thấy mình đều được chịu gôm cùm xiềng xích như Chúa mình, và giống bổn mạng mình là thánh Anrê tông đồ, và họ khuyến khích nhau ngày mai xông pha chiến trường, trong khi cửa thiên đường như đã mở sẵn chờ đón họ[12]. Qua hai lớp ngôn ngữ này, tuy có tính chất đối lập về hình thức và sắc thái biểu cảm, lại được lồng ghép khéo léo trong cùng một văn bản, tạo nên giọng văn vừa khách quan, khoa học, vừa giàu cảm xúc, mang chiều sâu nội tâm. Ở lớp thứ nhất, tác giả dùng ngôn ngữ trữ tình để mô tả những khía cạnh nhân bản nơi thầy Anrê Phú Yên: sự trẻ trung, lòng hiếu thảo, tình huynh đệ, tinh thần dấn thân không tính toán, và đặc biệt là nét đẹp tâm hồn thể hiện qua cách thầy đón nhận khổ đau với bình an nội tâm. Những đoạn văn này thường mang nhịp điệu nhẹ nhàng, câu văn giàu hình ảnh, giàu nhạc tính, khiến người đọc có cảm giác như đang thưởng thức một tác phẩm văn học chứ không đơn thuần là đọc một tiểu sử khô cứng. Ngôn ngữ này giúp người đọc thấu cảm với nhân vật, đồng thời tạo cầu nối giữa lịch sử và tâm thức đương đại. Ở lớp thứ hai, ông sử dụng ngôn ngữ hành chính – sử luận, chủ yếu trong phần khảo chứng và dẫn liệu.

Ngoài ra, tác phẩm dẫn lại một cách trung thực các văn bản gốc như: thư tín của cha Đắc Lộ, biên bản triều đình Huế, các văn kiện truyền giáo, và thậm chí là truyền khẩu địa phương. Mỗi trích dẫn đều có mục đích rõ ràng, không chỉ nhằm minh chứng tính xác thực của sự kiện, mà còn góp phần xây dựng chiều sâu ngữ nghĩa cho câu chuyện. Ngôn ngữ trong những đoạn này mạch lạc, cô đọng, mang tính học thuật cao nhưng không rườm rà, cho thấy tác giả rất am tường về tư liệu và kỹ thuật biên khảo. Điều đáng quý là sự chuyển đổi giữa hai lớp ngôn ngữ này không hề đột ngột, mà rất tự nhiên. Phạm Đình Khiêm không để người đọc phải “chuyển tông” từ cảm xúc sang số liệu một cách gượng ép, mà thường đan xen khéo léo kết hợp một câu chuyện nhỏ gợi cảm xúc được nối tiếp bằng một chứng từ lịch sử xác thực, hoặc ngược lại, một văn bản cổ khô khan lại được diễn giải bằng những hình ảnh đời thường để người đọc dễ tiếp cận. Chính sự giao thoa này đã tạo nên hiệu ứng kép: người đọc vừa cảm nhận được tính chân thực của sự kiện, vừa thấm được vẻ đẹp nội tâm của nhân vật.

Phạm Đình Khiêm đã tạo ra một kiểu tự sự học thuật đặc thù, khiến cho Người chứng thứ nhất trở nên đặc biệt, điều này một mặt như đang đọc hồi ký cảm động, mặt khác lại như đang tiếp cận một hồ sơ lịch sử nghiêm cẩn. Chính điều đó đã làm tăng giá trị sử dụng của tác phẩm khiến cho nó không chỉ là tư liệu cho các nhà nghiên cứu, mà còn là nguồn cảm hứng cho người trẻ, cho giáo dân, và cả những ai yêu mến lịch sử và văn hóa Việt Nam. Do vậy, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa trữ tình và sử liệu trong phong cách ngôn ngữ của Phạm Đình Khiêm không chỉ là kỹ thuật viết, mà còn là biểu hiện của một cái nhìn nhân văn và mục vụ, làm cho lịch sử đức tin không xa cách, mà trở nên sống động, gần gũi và lay động tâm hồn.

 

4.2. Thủ pháp đối lập: người trẻ – quyền lực trần thế

 
Một trong những thủ pháp nổi bật mà Phạm Đình Khiêm sử dụng trong Người chứng thứ nhất là thủ pháp tương phản đối lập, đặc biệt là giữa hình ảnh người trẻ yếu ớt và bộ máy quyền lực trần thế. Tác giả không nhấn mạnh trực tiếp bằng giọng văn tuyên truyền hay lên án chính trị, mà để cho hình ảnh tự thân của sự kiện và con người Anrê trở thành sự phản chiếu tự nhiên, mang sức gợi biểu tượng sâu sắc.
Anrê Phú Yên, một thiếu niên 19 tuổi, không có địa vị xã hội, không có thế lực hay danh tiếng, lại được đặt trong thế đối đầu trực diện với quyền lực thế tục lúc bấy giờ – là triều đình Huế, qua đại diện là ông Nghè Bộ và bộ máy pháp lý phong kiến. Một bên là quyền lực áp đặt bằng hình phạt, nhà tù, án tử; bên kia là tinh thần trẻ trung, chân thành, bình dị nhưng đầy lý tưởng đức tin. Phạm Đình Khiêm không cần tô đậm yếu tố anh hùng hóa, mà chỉ bằng cách miêu tả trình tự bắt bớ – lời lẽ của Anrê tại phiên tòa – cũng đã đủ để thấy sự đối lập ấy tạo nên cao trào mạnh mẽ. Ví dụ rõ nét là khi Anrê bị điệu đến trước quan phủ, ông không hề tỏ ra sợ hãi mà còn dõng dạc tuyên bố: “Tôi không phạm tội; tôi chỉ thờ một Đức Chúa trời… Tôi chỉ biết sợ lửa hỏa ngục đời đời”. Câu nói ấy là điểm then chốt cho thấy sức mạnh nội tâm của một cá nhân không quyền thế, vượt trội hơn hẳn những hình phạt vật lý mà triều đình áp đặt. Câu nói này – trong một không gian xét xử đầy áp lực – lại có sức đảo chiều quyền lực: khiến kẻ ra án trở nên nhỏ bé trong tư tưởng, còn người bị kết án trở thành nhân vật dẫn dắt giá trị.

Sự đối lập còn thể hiện rõ qua bối cảnh hành hình được tác giả mô tả thông qua một toán lính 30 người trang bị đầy đủ áp giải một chàng thanh niên không vũ khí, không phản kháng – mà lại là người tự nguyện bước đi giữa đám đông, vừa đi vừa kêu tên Giêsu. Phạm Đình Khiêm dùng hình ảnh ấy để cho thấy bạo lực trần thế có thể giết thân xác, nhưng không thể dập tắt được ánh sáng tâm linh, không thể khuất phục được con người đã chọn Thiên Chúa là đích đến sau cùng. Trong diễn giải của tác giả thiên khảo chứng, chính sự đối lập này đã tạo nên một cấu trúc kịch tính nội tại cho tác phẩm: nơi người đọc không cần chứng kiến cảnh hành hình mới thấy được bi kịch – mà thấy bi tráng ngay trong cách một người trẻ bước lên đoạn đầu đài bằng sự tự do, thanh thản và hiến dâng.

Kết quả là hình ảnh vị tử đạo trở thành lực lượng đảo chiều trật tự xã hội lúc bấy giờ, đặc biệt là gắn với không gian bản lề của công cuộc truyền giáo – Nam Trung bộ. Thầy Anrê không chết như một kẻ thất bại, mà sống mãi như một người khai mở con đường đức tin. Quyền lực triều đình chỉ tồn tại trong một thời đoạn, còn tiếng nói của đức tin – từ một người trẻ tưởng chừng nhỏ bé – thì vang vọng qua nhiều thế kỷ. Vì thế, thủ pháp đối lập này không chỉ là kỹ thuật nghệ thuật, mà còn là một tuyên ngôn thần học ngầm, đó là niềm tin cá nhân, khi được sống đến tận cùng, luôn có sức lật ngược thế trận, luôn là thách thức và chất vấn mọi quyền lực thiếu tình người và thiếu sự thật.

 

4.3. Tính biểu tượng và gợi hứng tôn giáo

 
Trong công trình của mình, Phạm Đình Khiêm không chỉ dựng lại một nhân vật lịch sử theo cách biên khảo thông thường, mà còn trao cho thầy giảng Anrê Phú Yên một chiều kích biểu tượng thần học và thiêng liêng sâu sắc. Anrê không chỉ là một cá nhân cụ thể sống ở thế kỷ XVII, mà được nâng lên như hình ảnh của một Kitô nhỏ giữa lòng đất Việt – một hiện thân bản địa của tinh thần Kitô trong đời sống dân dã và xã hội Việt Nam truyền thống.

Tác phẩm cho thấy rõ, dù xuất thân từ một gia đình nghèo ven biển, mất cha từ nhỏ, Anrê không bị đóng khung bởi thân phận dân quê hay điều kiện vật chất thiếu thốn. Trái lại, chính từ mảnh đất ấy – nơi chất phác, thật thà, nhọc nhằn – đã nảy sinh một con người với nội tâm mạnh mẽ, trí tuệ bén nhạy, và niềm tin sâu sắc. Từ một thanh niên vô danh, Anrê trở thành mẫu gương tử đạo đầu tiên, từ một người bản địa bị bắt bớ lại trở nên “người được sai đi” – người sống và chết cho Tin Mừng. Cấu trúc đó mô phỏng hành trình cứu chuộc của Đức Giêsu: khiêm hạ, dấn thân, hy sinh, và chiến thắng bằng tình yêu, đức tin và sự thật. Chính sự tương đồng ấy làm cho Anrê trở thành biểu tượng của người Kitô hữu Việt Nam – một tinh thaanhf và hình ảnh không xa lạ với bản sắc dân tộc, mà được hội nhập vào lòng quê hương bằng chính máu của một người trẻ bản địa. Điều này không chỉ là niềm tự hào thiêng liêng, mà còn là một dấu chỉ cho ơn gọi không bị giới hạn bởi địa vị, tuổi tác hay xuất thân, mà đến từ sự đáp trả chân thành của trái tim con người trước lời mời gọi của Thiên Chúa.

Tác phẩm của Phạm Đình Khiêm cũng không dừng lại ở việc ghi chép sự kiện hay miêu tả nhân vật, mà còn mở ra một không gian gợi hứng thiêng liêng cho người đọc, đặc biệt là giới trẻ Công giáo. Anrê hiện lên không phải như một hình mẫu đã hoàn tất, mà như một mẫu hình sống động của tinh thần dấn thân – người trẻ hôm nay có thể chiêm ngắm, học hỏi và nối tiếp. Từ sự đơn sơ của Anrê, người đọc nhận ra rằng ơn gọi nên thánh không phải là điều xa vời, mà là điều có thể xảy ra giữa đời thường cũng như trong bổn phận hằng ngày, trong tình yêu với Chúa, trách nhiệm với cộng đoàn và tha nhân và trong lòng can đảm giữ vững đức tin trước những biến ảo của thế gian. Như vậy, Anrê Phú Yên trong tác phẩm không chỉ là một nhân vật lịch sử, mà là một biểu tượng thiêng liêng vượt thời gian – biểu tượng của lòng trung tín, của sức mạnh nội tâm và của niềm hy vọng cho tương lai Giáo hội Việt Nam. Phạm Đình Khiêm qua ngòi bút thâm trầm và tôn kính, đã làm sống lại hình ảnh ấy như một tấm gương truyền giáo bản địa đầu tiên, và cũng là ngọn đuốc tinh thần cho người trẻ trong cộng đồng tín hữu Kitô hôm nay và mai sau.

 

III. KẾT LUẬN

 
Qua việc khảo sát hình tượng Anrê Phú Yên trong Người chứng thứ nhất của Phạm Đình Khiêm, có thể khẳng định rằng: đây là một chân dung tiêu biểu của người trẻ Việt Nam sống đức tin giữa bối cảnh lịch sử đầy biến động. Anrê không chỉ là người trí tuệ – sống lý tưởng – dám hy sinh, mà còn là một biểu tượng sống động về sức mạnh tinh thần và khả năng biến đức tin thành động lực kiến tạo xã hội. Hình ảnh thầy giảng trẻ tuổi, dám đứng lên vì cộng đoàn, dám sống và chết cho niềm tin cá nhân, đã vượt ra khỏi phạm vi tôn giáo để trở thành biểu tượng phổ quát về nhân cách, lòng quả cảm và tinh thần phục vụ.

Tác phẩm vì thế không chỉ là một khảo luận lịch sử – tôn giáo, mà còn là một công trình có giá trị văn học và nhân văn sâu sắc. Về mặt thể loại, tác phẩm tiêu biểu cho lối viết biên khảo nhân chứng: kết hợp chặt chẽ giữa sử liệu, nghệ thuật và tư duy khoa học. Về lịch sử Công giáo Việt Nam, đây là một đóng góp quan trọng trong việc làm sống lại ký ức của một cộng đoàn đức tin còn non trẻ nhưng giàu nhiệt huyết. Và quan trọng không kém, với hình tượng Anrê, tác phẩm đã mở ra một nguồn cảm hứng mạnh mẽ cho giới trẻ: một mẫu hình sống lý tưởng, can đảm, trí tuệ và trung tín – giữa một xã hội luôn cần đến những chứng nhân đức tin có trách nhiệm và sáng tạo.

Những ý tưởng được trình bày trong tiểu luận này cũng gợi mở nhiều hướng tiếp cận và khai thác thêm trong tương lai như so sánh hình tượng Anrê Phú Yên với các thánh trẻ của các nền văn hóa khác (Thánh Gióp, Thánh Phanxicô Assisi, Thánh Juan Diego...) để thấy sự hội tụ và dị biệt về nhân sinh quan và đức tin giữa các vùng truyền giáo. Các chủ đề nghiên cứu cụ thể nên tiếp tục đánh giá khả năng tác động của hình tượng này trong phong trào giới trẻ Công giáo Việt Nam hiện đại và đặc biệt là triển vọng chuyển thể tác phẩm sang các loại hình nghệ thuật như kịch nói, âm nhạc, phim ảnh – nhằm góp phần bảo tồn, lan tỏa và làm phong phú hơn ký ức văn hóa – đức tin của cộng đoàn. Với những giá trị ấy, Anrê Phú Yên – qua lăng kính của Phạm Đình Khiêm – không chỉ là “người chứng thứ nhất” của Hội Thánh Việt Nam, mà còn là người bạn đồng hành tinh thần của người trẻ hôm nay, giữa những thách đố và lựa chọn sống còn của thời đại.
Quy Nhơn, tháng 7 năm 2025

Tài liệu tham khảo chính

 
1. Lm. Gioan Võ Đình Đệ (2024), Lặng nghe những tiếng thì thầm, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
2. Hội đồng Giám mục Việt Nam (2019), Từ điển thuật ngữ Công giáo, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội.
3. Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Khảm (2018), Hạnh các thánh tử đạo Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
4. Phạm Đình Khiêm (1959), Người chứng thứ nhất (lịch sử, tôn giáo, chính trị miền Nam đầu thế kỉ XVII – Anrê tiên khởi tử đạo, Tinh Việt, Sài Gòn.
5. Phạm Đình Khiêm (1961), Giáo sĩ Đắc Lộ và tác phẩm Quốc ngữ đầu tiên, Tinh Việt văn đoàn, Sài Gòn.
6. Nhiều tác giả (2024), Vọng khúc thời gian (Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ), Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
7. Lm. Antoine Bùi Kim Phong (2023), Alexandre de Rhodes, S.J (1593 – 1660) và công cuộc truyền giáo tại Việt Nam – Tin mừng hóa nền văn hóa và hội nhập văn hóa đức tin (Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ), Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
8. Nguyễn Hữu Trọng (2024), Nguồn gốc hàng giáo sĩ Việt Nam, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội.

 
 

[1] GM. Nguyễn Văn Khảm (2018), Hạnh các thánh tử đạo Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, tr.06
[2] GM. Nguyễn Văn Khảm (2018), Hạnh các thánh tử đạo Việt Nam, Sđd, tr.09.
[3] Xin xem: Phạm Đình Khiêm (1959), Người chứng thứ nhất (lịch sử, tôn giáo, chính trị miền Nam đầu thế kỉ XVII – Anrê tiên khởi tử đạo, Tinh Việt, Sài Gòn, tr.33 – 69.
[4] Xin xem thêm: Lm. Antoine Bùi Kim Phong (2023), Alexandre de Rhodes, S.J (1593 – 1660) và công cuộc truyền giáo tại Việt Nam – Tin mừng hóa nền văn hóa và hội nhập văn hóa đức tin (Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ), Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
[5] Xin xem bài “Khám phá Việt Nam: Bản đồ của cha Alexandre de Rhodes” (2024), in trong Vọng khúc thời gian (Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ), Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
[6] Phạm Đình Khiêm (1959), Người chứng thứ nhất (lịch sử, tôn giáo, chính trị miền Nam đầu thế kỉ XVII – Anrê tiên khởi tử đạo, sđd, tr.53.
 
[7] Xin xem: Lm. Gioan Võ Đình Đệ (2024), Lặng nghe những tiếng thì thầm, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, tr.06 -22.
[8] Phạm Đình Khiêm (1959), Người chứng thứ nhất (lịch sử, tôn giáo, chính trị miền Nam đầu thế kỉ XVII – Anrê tiên khởi tử đạo, sđd, tr.57.
 
[9] Phạm Đình Khiêm (1959), Người chứng thứ nhất (lịch sử, tôn giáo, chính trị miền Nam đầu thế kỉ XVII – Anrê tiên khởi tử đạo, sđd, tr.134.
[10] Phạm Đình Khiêm (1959), Người chứng thứ nhất (lịch sử, tôn giáo, chính trị miền Nam đầu thế kỉ XVII – Anrê tiên khởi tử đạo, sđd, tr.147.
 
[11] Theo Từ điển thuật ngữ Công giáo, thuật ngữ protomartyr trong tiếng Anh có thể dịch sang tiếng Việt là: vị tử đạo tiên khởi hoặc người tử đạo đầu tiên. Trong ngữ cảnh Công giáo, từ này dùng để chỉ người đầu tiên hy sinh vì đức tin, mở đầu cho truyền thống tử đạo tại một quốc gia hoặc cộng đoàn đức tin. Ví dụ, Thánh Têphanô được gọi là protomartyr của Giáo hội hoàn vũ, còn Anrê Phú Yên là protomartyr của Giáo hội Việt Nam.
[12] Phạm Đình Khiêm (1959), Người chứng thứ nhất (lịch sử, tôn giáo, chính trị miền Nam đầu thế kỉ XVII – Anrê tiên khởi tử đạo, sđd, tr.135.
 
 
 

Tác giả: TS. Võ Minh Hải

 Tags: Tư liệu

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

  Ý kiến bạn đọc

Chúng tôi trên mạng xã hội

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây