
Năm nay, 2025, Phú Yên kỷ niệm 417 năm ngày thành lập tỉnh: 1611-2025, căn cứ vào cột mốc lịch sử với “biến cố Tân Hợi” mà bộ sử quan trọng của Triều Nguyễn, Đại Nam Thực Lục, đã ghi lại:
Tân Hợi, năm thứ 54 (1611), bắt đầu đặt phủ Phú Yên. Bấy giờ quân Chiêm Thành xâm lấn biên giới. Chúa sai chủ sự là Văn Phong (không rõ họ) đem quân đi đánh lấy được (đất ấy), bèn đặt làm một phủ, cho hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa lệ thuộc vào. Nhân sai Văn Phong làm lưu thủ đất ấy”.
(X. NGUYỄN ĐÌNH ĐẦU).
Không chỉ sử Việt ghi nhận cột mốc lịch sử “Nam tiến” này của dân tộc Việt Nam ta mà nhiều tác giả Tây phương cũng nói đến, chẳng hạn như hai tác giả OLGAR DROR & K.W. TAYLOR trong tác phẩm “Việt Nam thế kỷ XVII, những góc nhìn từ bên ngoài”:
“Năm 1611, chúa Nguyễn đã mở rộng biên giới xứ sở xuống tận đèo cả, tức bao gồm cả tỉnh Phú Yên ngày nay, và biến vương quốc Chiêm Thành trở thành chư hầu của mình”. Như vậy danh xưng “PHÚ YÊN”, một danh từ thuần túy Việt Nam, đã xuất hiện ngay trên phần đất tuyến đầu của thời “mở cõi”, mảnh đất biên thùy của xứ “Đàng Trong” thuở khởi nghiệp, mảnh đất ghi đậm dấu vết chiến chinh của hai dân tộc Chiêm Thành-Việt Nam mà nguyên nhân vừa mang yếu tố “thời sự” vừa chất chứa “hạt mầm định mệnh” trong cái “bẫy Thucydides”.
Trong khi đó, Giáo hội Công giáo tại Việt Nam, trong năm 2025 này, sẽ tưởng niệm 400 năm ngày sinh của một vị Á thánh trẻ, Á thánh Anrê Phú Yên (1625-2025) mà tên của Người là một tổng hợp đầy ý nghĩa, một gặp gỡ tuyệt vời giữa một bên là “Đạo trời với tên rửa tội Anrê” và một bên là “quê hương đất nước với địa danh Phú Yên”. Đây chính là tên gọi mà cha Đắc Lộ đã ghi thật rõ trong tác phẩm ký sự “Hành trình và truyền giáo” (Divers voyages et missions) của ngài:
“Giáo dân vẫn sốt sắng như mấy năm về trước. Vì thế tôi không nói gì riêng ở đây, nhưng tôi không thể không nói tới ơn Chúa ban cho tôi và đồng thời kích động mười người trai trẻ hợp tác với tôi trong việc giảng đức tin cho dân xứ này. Tất cả đều ở nhiều tỉnh khác nhau mà tới, nhưng họ chỉ có một tâm hồn thuộc về Chúa và hoàn toàn tận tụy với Giáo hội. Trong số đó có ba người Chúa dành cho phúc tử đạo: Anrê từ tỉnh Phú Yên tới tìm tôi…”.
Chính từ nguồn dẫn đầy thuyết phục này của cha Đắc Lộ mà tên gọi của vị “Tử đạo tiên khởi Việt Nam” là một “tên ghép” tuyệt vời; vừa mang chiều kích “Đạo” (ANRÊ), vừa ghi dấu ấn “Đời” (PHÚ YÊN), như cách cảm nhận của tác giả Cosma Hoàng Văn Đạt:
“Ở nhà hoặc trong giấy tờ anh tên là gì, không ai biết nữa. Thật là tiếc, nhưng cũng hay. Ngày nay, anh được mọi người gọi bằng tên thánh bổn mạng ghép với tên xứ sở. Anh đã trở thành linh thiêng, không ai gọi bằng tên riêng nữa…”.
Vì thế, có thể nói, khía cạnh độc đáo nhất mà chúng ta có thể tìm thấy nơi Vị Á thánh này lại chính là cuộc gặp gỡ giữa hai con đường “đời” và “đạo”; đó là con đường “MỞ CÕI ĐỊA LÝ” của dân tộc ta trên bước đường Nam tiến và con đường “MỞ CÕI TIN MỪNG” của các vị thừa sai và cha ông tiên tổ trong những nỗ lực thuở ban đầu gieo hạt giống Tin mừng trên mảnh đất Việt Nam thân yêu.
Để có một cái nhìn khái quát về công cuộc “mở cõi” của cha ông trong bước đầu Nam tiến của dân tộc, chúng ta thử lần theo những “sự kiện lịch sử tiêu biểu” và những “cột mốc thời gian quan trọng” ghi dấu đoạn đường lịch sử đặc biệt này!
Chúng ta đang ở thời điểm năm 2025 với một đất nước Việt Nam trải dài từ địa vực biên giới phía Bắc giáp Trung Quốc cho tới tận mũi Cà Mau với lãnh hải giáp vịnh Thái Lan. Tuy nhiên, nếu ngược dòng thời gian trở lại thời điểm của hơn bốn thế kỷ về trước; đặc biệt, trước năm 1611, thì cương vực lãnh địa cũng như lãnh hải của nước Việt Nam ta hoàn toàn không như ngày nay!
Quả thật, quá trình lịch sử “Nam tiến” của dân tộc Việt Nam ta là cả một con đường dài nhiêu khê và phức tạp, như nhận định của tác giả LI TANA:
“Cuộc Nam tiến không đơn thuần là một quá trình diễn ra theo đường thẳng, như người ta thường nghĩ, được quyết định trước qua đó “Việt Nam” của thế kỷ thứ 10 trở thành “Việt Nam” ngày nay mà đúng hơn, là một loạt những sự kiện khác nhau nhằm đáp ứng những hoàn cảnh hay cơ hội riêng biệt, đôi khi do những sự tình cờ ít nhiều có tính cách quân sự quyết định”.
Để thấy rõ con đường dựng nước và giữ nước, đặc biệt, hành trình mở mang bờ cõi giang sơn của cha ông ta, không gì thuyết phục hơn đó là điểm lại các nguyên nhân, sự kiện và cột mốc lịch sử liên quan đến cuộc “Nam tiến trong thời kỳ đầu tiên”.
1.1. Để tồn tại trước các thế lực lân bang:
Suốt gần 10 thế kỷ, kể từ cuộc khởi nghĩa của “Hai Bà Trưng” (40-43), Bà Triệu (248)…, nước Việt Nam chúng ta bắt đầu ổn định lãnh thổ với quốc hiệu “Đại Cồ Việt” và thủ đô “Hoa Lư” trong hai biến cố lịch sử đáng ghi nhớ:
- Cuộc dẹp loạn “12 sứ quân” và thống nhất đất nước của Đinh Tiên Hoàng (968-979).
- Cuộc chiến thắng quân xâm lược Tống của Lê Đại Hành (980 - 1005) để khẳng định sự độc lập của dân tộc.
Tuy nhiên, cũng kể từ đó, Việt Nam luôn chịu áp lực thường xuyên của đại cường phương Bắc trong thân phận của một quốc gia nhược tiểu và trong tư thế thần phục. Cho dù vậy, việc ổn định biên giới phía bắc với Trung quốc chủ yếu dựa vào con đường chính trị hơn là giải pháp quân sự. Trong khi đó, để tồn tại và sống còn như một quốc gia, dân tộc, cha ông ta luôn phải chọn con đường “Nam tiến” trong cuộc tranh chấp với các nước phía Nam; đặc biệt đó là nước Chiêm Thành hay vương quốc Champa, một dân tộc hùng mạnh, hiếu chiến và đã lắm lần xâm lược và muốn “xóa sổ” Việt Nam. Tham vọng này đã được khẳng định trong cuộc xâm lăng nước Việt của vương triều Chế Bồng Nga vào thế kỷ 14, kể cả việc chiếm cứ thủ đô Thăng Long:
“Thiệu Khánh năm thứ 2 (1371), tháng 3 nhuận, Chế Bồng Nga đem quân đi đường biển, vào cửa Đại An, kéo thẳng đến Thăng Long. Bấy giờ biên thành không phòng bị, giặc đến không có quân để chống đánh, vua Nghệ Tông phải đi thuyền sang sông Đông Ngàn để tránh. Ngày 27, quân giặc vào thành cướp hết các đồ châu báu, đốt sạch cung điện, đồ thư, bắt con gái, rồi rút về”…
1.2. Nam tiến: chiến dịch quân sự, chính trị tiêu biểu
Để củng cố biến giới phía Nam và khuất phục nước Chiêm Thành, Đại Việt đã liên tiếp mở những “chiến dịch quân sự” hay chính trị đặc biệt, cũng là những bước Nam tiến mang tính quyết định về chiến lược:
“Chắc chắn các nhà lãnh đạo Việt Nam lúc ấy đã tìm cách đẩy lùi ranh giới của nước họ xuống phía Nam, nhưng xem ra họ bị thúc đẩy bởi các lý do chiến lược hơn là kinh tế…”.
- Chiến dịch Nam tiến thời Tiền Lê với Lê Đại Hành năm 982, triệt hạ kinh đô Đồng Dương (Indrapura) bao gồm phía Bắc (từ Quảng Nam tới Quảng Bình).
- Chiến dịch Nam tiến thời Lý với Lý Thái Tông năm 1044, triệt hạ kinh đô Phật Thệ hay Chà Bàn (Vijaya) bao gồm khu vực miền Trung (từ Bình Định tới Quảng Ngãi).
- Chiến dịch Nam tiến thời Trần với Trần Nhân Tông gã công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm là Chế Mân năm 1306 để đổi lấy hai châu Ô, Lý làm thành Thuận Châu và Hóa Châu (Tức Thừa Thiên và Quảng Nam ngày nay).
- Chiến dịch Nam tiến thời Hồ với Hồ Hán Thương năm 1402 mở rộng biên giới phía nam tới Cổ Lũy (Quảng Ngãi) và đưa dân Nghệ An, Thuận Hóa vào khai khẩn. (Xem thêm: LI TANA).
- Chiến dịch Nam tiến thời Lê (sơ) với Lê Nhân Tông năm 1446, triệt hạ kinh đô Vijaya.
- Chiến dịch Nam tiến thời Lê (sơ) với Lê Thánh Tôn năm 1471, triệt hạ kinh đô cũng là vương quốc Vijaya, sáp nhập vùng đất này vào đạo Thừa Tuyên Quảng Nam với 3 phủ: Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài nhơn. Tác giả Đào Đức Chương đã lược tóm chiến dịch “bình Chiêm 1471” như sau:
“Năm Canh Dần (1470), Hồng Đức nguyên niên, vua Chiêm là Trà Toàn sai sứ sang cầu viện nhà Minh, rồi cho quân ra cướp phá đất Hóa Châu. Vua Lê Thánh Tông xuống chiếu huy động 26 vạn tinh binh và tự cầm quân chinh phạt Champa. Sau trận đại thắng ở Sa Kỳ (huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi), hạ tuần tháng 2 năm Tân Mão (1471) thủy quân ta tiến vào đầm Thị Nại. Ngày 27 tháng 2, vua Lê Thánh Tông chỉ huy đánh chiếm thành Thị Nại. Ngày 28, kinh đô Đồ Bàn của vương quốc Champa bị vây hãm, đến mùng 1 tháng 3 thì hạ thành, bắt sống Trà Toàn và hoàng gia. Từ đấy, đầm Thị Nại và cả miền đất Vijaya đến đèo Cù Mông, vĩnh viễn thuộc về Đại Việt.”.
Kể từ sau chiến dịch “Bình Chiêm” năm 1471 của vua Lê Thánh Tôn, vương quốc Champa gần như sụp đổ hoàn toàn, chỉ còn lại một tiểu quốc được Việt Nam bảo hộ gồm một vùng đất nhỏ hẹp Phan Rang với quốc đô được mang tên là Panduranga. Kể từ biến cố “Nam tiến lịch sử này”, vùng đất Phú Yên gần như mặc nhiên được triều đại Lê sơ xem như địa vực biên giới cố định của mình qua truyền thuyết hai câu ghi chú trên văn bia Thạch Bi Sơn của vua Lê Thánh Tôn:
“Chiêm Thành quá thử, binh bại quốc vong,
An Nam quá thử, tướng tru binh chiết”
(Chiêm Thành qua đấy, quân thua nước mất
An Nam qua đấy, tướng chết quân tan).
1.3. Các nguyên nhân khác của cuộc Nam tiến
Ngoài những lý do “an ninh quốc phòng”, bảo vệ lãnh thổ để an toàn và phát triển, cuộc Nam tiến của dân tộc ta còn được đốc thúc bởi các nguyên nhân xã hội khác như:
- Miền Bắc và Bắc Trung bộ đất hẹp người đông lại thêm thiên tai, địch họa, nhiều lần xảy ra chiến tranh, loạn lạc, mất mùa, đói kém… đã khiến một số người bỏ làng quê tha phương cầu thực; nhất là về phương Nam dân thưa đất rộng, ít loạn lạc:
“Việc người Việt Nam di dân xuống phía nam thường vẫn được giải thích là do áp lực dân số trên một vùng đất nông nghiệp có giới hạn. Và những nguyên nhân trực tiếp đẩy một số dân đông đi về phía nam là nạn đói kém và chiến tranh…”.
- Sau các lần chiến thắng Chiêm Thành, vùng đất được chinh phục là “địa chỉ di dân” để tù binh khai hoang vỡ hóa, để quân đội giải ngũ làm ăn khai khẩn đất đai; và cũng là nơi để các phạm nhân trốn tránh, đổi vùng hoặc lao động khổ sai chuộc tội; những người khác tìm đất dụng võ, cơ hội tiến thân nơi vùng đất mới...
“Ngoài những cuộc di dân mà triều đình xuống chiếu chiêu mộ, khuyến khích sau mỗi lần lấn được đất Chiêm Thành, và những tù nhân bị án lưu hình như đã thấy trên kia, còn những người di cư lẻ tẻ, từng người một, từng gia đình, từng nhóm, thì chắc là không thời nào không có. Ấy là hạng người hoặc bất mãn với chế độ đương thời, hoặc can phạm tội tình nên phải tránh trốn, hoặc vì nghèo khó muốn đi tìm chỗ làm ăn dễ dàng hơn, hoặc vì phiêu lưu muốn đi tìm sự may mắn, giàu sang, đất dụng võ rộng rãi hơn.”.
- Chương trình “di dân chính trị”: khuyến khích di dân đến vùng đất mới, tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ thuế má, khuyến khích nhân tài, kêu gọi sự khai phá của các cá nhân và gia tộc thế giá… để có đủ nhân sự cai trị và phát triển.
2.1. Chính trị và chiến tranh nội bộ thời Lê-Mạc (Nam-Bắc triều): biến cố 50 năm nội chiến
Sau cuộc kháng chiến thất bại và Lê Chiêu Tông bị giết ở Thanh Hóa (1524), tiếp đến, quyền thần Mạc Đăng Dung ép vua Lê Cung Hoàng và thái hậu tự tử để cướp ngôi xưng vương lập triều đại nhà Mạc (1527), vương triều nhà Lê một phần trốn chạy sang Ai Lao (Lào), một phần tản vô Thanh Hóa, Nghệ An tìm cách “trung hưng”. Năm 1543, nhờ đại thần Nguyễn Kim và con rễ là Trịnh Kiểm phò tá, nhà Lê chiếm được Tây Đô (Thanh Hóa) và từ đó mở ra một thời đại nội chiến tàn khốc Nam-Bắc Triều kéo dài gần nửa thế kỷ (1543-1592): Nam Triều từ Thanh hóa, Nghệ An trở vào do nhà Lê trung hưng cai quản; Bắc Triều: cả vùng Bắc bộ với kinh đô Đông Đô nhà Mạc làm chủ cho đến khi bị quân Lê-Trịnh đập tan năm 1592 và tận diệt hoàn toàn năm 1677.
Chính từ cuộc chiến “Nam Bắc Triều” này, nhất là sự hình thành trục Lê-Trịnh-Nguyễn tại Tây đô Thanh Hóa đã là nguyên nhân xa cho việc hình thành hai lực lượng chính trị “Đàng Ngoài”-“Đàng Trong” để mở đường cho cuộc “Nam tiến” vào thế kỷ 16.
2.2. Trịnh Nguyễn hiềm khích: sự kiện khởi đầu và quyết định cuộc “Nam tiến”: Nguyễn Hoàng và cột mốc thời gian 1558
Khởi đầu cho việc hình thành vương triều Nguyễn và dẫn tới cuộc “Trịnh Nguyễn phân tranh”, có thể nói được, đã bắt đầu từ năm 1558, tức năm Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa theo kế sách “an thân” của người cậu ruột là Nguyễn Ư Dĩ (anh của mẹ Nguyễn Hoàng là bà Nguyễn Thị Mai vợ Nguyễn Kim) để thoát khỏi âm mưu ám hại của Trịnh Kiểm và theo “chiến lược địa chính trị” của Trạng Trình Nguyễn Bĩnh Khiêm “Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân” để tính cuộc khởi nghiệp lâu dài.
Người khai sinh triều Nguyễn là “chúa Tiên Nguyễn Hoàng” (1525-1613), chấp chính vương triều 56 năm (1558-1613), là một “minh quân của thời đại”, cũng là người chính thức mở cuộc “Nam tiến” lịch sử: đưa biên giới của dân tộc Việt Nam về phía Nam hàng trăm cây số, từ huyện Tuy Viễn thuộc phủ Hoài Nhơn của đất Quảng Nam tới tận Đèo Cả của Phú Yên. Đây chính là “tư duy địa chính trị” mang tính chiến lược và kế sách lâu dài bền vững của một nhà kiến quốc đại tài:
“Nhưng với chúa Tiên Nguyễn Hoàng có lẽ do áp lực từ phía họ Trịnh ở ngoài Bắc đã khiến ông hình dung khá cụ thể cho công cuộc mở nước trong tư duy của mình. Trước hết là củng cố Thuận Quảng để biến nó thành cơ nghiệp muôn đời của dòng họ. Và khi có điều kiện để mở rộng tầm kiểm soát đất đai về phía Nam, ông hầu như không bỏ qua. Có lẽ, trong ông ý thức Nam tiến đã rõ ràng và nó là một trong những yếu tố căn bản để đối phó với thế lực họ Trịnh mà tư lâu ông đã cảm nhận được một cách sâu sắc. Điều đó thể hiện rõ ràng trong lời trăng trối với Nguyễn Phúc Nguyên và thực tế lịch sử đã chứng minh”.
Sau đây là vài cột mốc ghi nhận bước đường Nam tiến trong giai đoạn đầu của chúa Nguyễn:
3.1. Cuộc thu phục vùng đất “phía nam Cù Mông” năm 1578 của chúa Tiên Nguyễn Hoàng
Như đã nói trên, vào thế kỷ 15, chính xác là vào năm 1471, vùng đất từ Thạch Bi Sơn (Đèo Cả Phú Yên ngày nay) tới đèo Cù Mông (Bình Định ngày nay) được xem như “vùng đệm”, là bức “phên dại” che chắn biên giới phía Nam của Đại Việt (Đèo Cù Mông) và chịu sự bảo hộ của quan chức Thừa Tuyên Quảng Nam.
Vào năm 1578, người Chiêm nơi vùng đệm này nổi lên quấy phá và xâm lấn biên cảnh, chúa Tiên Nguyễn Hoàng sai Lương Văn Chánh chinh phạt. Là một thiên tài về chính trị và quân sự, Lương Văn Chánh dẹp yên loạn Chiêm Thành và tiến hành chiêu dân lập ấp để ổn định vùng biên địa phía Nam Đàng Trong này.
Tuy nhiên, đây mới chỉ là “chiến dịch Nam tiến” khởi đầu của chúa Nguyễn; và diện tích đất được thu phục này vẫn là vùng đất “xôi đậu”, chưa chính thức ghi tên trong bản đồ đất nước.
3.2. Phú Yên chính thức được thành lập: 1611
Như đã nói ngay từ đầu, năm 1611 chính là một “cột mốc thời gian” quan trọng trong lịch sử Nam tiến của dân tộc ta. Xin nhắc lại chi tiết lịch sử được cuốn sử chính thống quan trọng của Triều Nguyễn, Đại Nam Thực Lục Tập một, Tiền Biên Quyển I ghi lại:
“Tân Hợi, năm thứ 54 (1611), bắt đầu đặt phủ Phú Yên. Bấy giờ quân Chiêm Thành xâm lấn biến giới. Chúa sai chủ sự là Văn Phong (không rõ họ) đem quân đi đánh lấy được (đất ấy), bèn đặt làm một phủ, cho hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa lệ thuộc vào. Nhân sai Văn Phong làm lưu thủ đất ấy”. (x. PHAN KHOANG).
3.3. Phú Yên và vị trí chiến lược thời chúa Sãi
Sau một thời gian kể từ năm 1611, chính quan chủ sự Văn Phong lại cấu kết với người Chăm nổi lên phản loạn. Vào năm Kỷ Tỵ thứ 16 (1629), chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) sai phó tướng Nguyễn Phúc Vinh vào dẹp loạn, đổi phủ Phú Yên thành Trấn Biên Dinh hay Dinh Phú Yên bao gồm các đơn vị hành chánh như cũ. (x. PHẠM ĐÌNH KHIÊM).
Như vậy, kể từ sau biến cố “1629” về sau, từ khi chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên dẹp loạn “Văn Phong”, Phú Yên đã trở thành điểm xuất phát cho cuộc hành trình “Nam tiến” của dân tộc ta tiếp diễn không ngừng. Chính vì thế, có thể nói được, Phú Yên chính là địa bàn chiến lược quan trọng và căn bản nhất trong lịch sử mở rộng biên cương và củng cố vị thế đất nước trong thế “địa chính trị” lúc bấy giờ:
“Trong công cuộc mở cõi về phương Nam của Nguyễn Phúc Nguyên, Phú Yên vừa là tiền đồn canh giữ biên thùy, là lá chắn ở phía Nam trước sự tấn công của Chiêm Thành, vừa là hậu cứ, là bàn đạp cho một bước tiến dài về phía Nam, nhất là sau khi Phú Yên trở thành dinh Trấn Biên, một đơn vị hành chánh lớn trong toàn cõi với bộ máy quản lý hành chính khá chặt chẽ như các dinh khác (một trong 7 dinh dưới sự thống quản của các chúa Nguyễn). Chính sự trưởng thành nhanh chóng của Phú Yên trong mối quan hệ mật thiết với các địa phương khác ở “Đàng Trong” đã tạo thêm sức mạnh cho chúa Nguyễn vượt qua chặng đường gian khó để đi về phương Nam”.
Như vậy, có một điều không thể phủ nhận đó là: Á thánh Anrê Phú Yên đã sinh ra, lớn lên, được rửa tội… trên mảnh đất Phú Yên đầy duyên nợ của một thời “mở cõi” đó!
Chúng ta vừa lược qua đôi nét đan thanh về cuộc “mở cõi địa lý” của cha ông ta về phương Nam mà điểm đến đầu tiên đó chính PHÚ YÊN. Giờ đây, chúng ta thử dừng lại cũng tại vùng đất này để quan chiêm cách thế mà hạt giống Tin mừng đã được gieo vãi và phát triển. Bởi vì, chính nơi “thửa ruộng Phú Yên” mới được canh tác và gieo trồng này đã trổ sinh một bông hoa tuyệt vời, đóa hồng Tử đạo, đó là Chân phước Anrê Phú Yên!
Trước khi dừng lại nơi “cánh đồng truyền giáo Phú Yên”, thiết tưởng chúng ta cần có một cái nhìn tổng thể và bối cảnh tôn giáo-tín ngưỡng tại Đàng Trong vào thời mở cõi của cha ông ta; đặc biệt, thời Chúa Nguyễn mở mang và xây dựng Đàng Trong những ngày đầu.
Sau đây là những ghi nhận của tác phẩm “Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian”:
1.1. Người Việt du nhập tín ngưỡng của người Chàm
“Khi từ Đàng Ngoài vào lập cư tại Đàng Trong, người Việt cũng mang theo tín ngưỡng và tôn giáo của mình. Sau khi đã lập cư tại vùng đất mới, họ còn đón nhận thêm tín ngưỡng và tôn giáo của người Chàm. Người ta nhận thấy có một sự hòa hợp tôn giáo và tín ngưỡng tại vùng đất này, không những giữa người Việt với nhau mà còn giữa người Việt và người Chàm. Cụ thể như Po Ino Nagar, một nữ thần lớn của người Chàm, cũng đã được Việt hóa thành Thiên y Ana, sau đó được đơn giản hóa thành Bà Ngọc hoặc Bà.”.
1.2. Người Việt và việc thờ kính ông bà tổ tiên
Đây chính là nét đặc thù của tín ngưỡng dân gian đang phổ cập tại Đàng Trong và trong cả xã hội Việt Nam lúc bấy giờ:
“Việc thờ cúng ông bà tổ tiên là một tín ngưỡng bản địa của người Việt, vốn thuộc về truyền thống văn hóa và bản sắc dân tộc. Vì thế, dù đi đến đâu, tất cả mọi người dân Việt đều thực hành việc thờ cúng này để thể hiện đạo hiếu. Cùng với việc thờ cúng tổ tiên và ông bà cha mẹ, họ còn có tục lệ cúng tế những người đã chết khác trong gia đình, họ hàng thân tộc hay bạn bè, và tổ chức những bữa ăn giỗ thịnh soạn có nhiều người đến dự. Ngoài việc thờ cúng tổ tiên, đoàn di dân còn có việc thờ cúng các vị thành hoàng và các vị nhiên thần, những đấng linh thiêng độ trì cho được an cư lạc nghiệp.”.
1.3. Triều Nguyễn và vai trò ưu tiên của Phật giáo
Để giảm nhẹ ảnh hưởng của Khổng giáo trong việc hành xử chính trị thoát ly khỏi vương quyền của vua Lê (đạo quân thần), nhà Nguyễn chọn Phật giáo như giải pháp ưu tiên:
“Ngoài việc dùng tín ngưỡng và tôn giáo để ổn định dân tình trong vùng đất mới, chúa Nguyễn còn muốn dùng tôn giáo để củng cố vị trí của mình đối với toàn dân, vì tại các nước Đông Nam Á, vương quyền của các vua chúa thường được gắn liền với tôn giáo. Tuy nhiên, các chúa Nguyễn thấy rằng không thể sử dụng Khổng giáo trong thời kỳ đầu, vì những khẳng định cơ bản của Khổng giáo về đạo quân thần trực tiếp mâu thuẫn với vị trí của họ Nguyễn mà có người coi như chế độ ly khai, phản lại triều đình nhà Lê. Dù vậy, chúa Nguyễn cũng không dám đi quá xa so với truyền thống của người Việt ở phía Bắc. Trong hoàn cảnh đó, Phật giáo đại thừa vốn có từ phương Bắc đã được chọn như một giải pháp tốt nhất, vì vừa đáp ứng nhu cầu tôn giáo của người dân, vừa không đặt lại vấn đề về tính hợp pháp của người cai trị, tức chúa Nguyễn. Hơn nữa, Phật giáo đại thừa có khá nhiều vị Bồ tát, do đó không mấy xa lạ với tín ngưỡng thờ kính các thần linh nơi người Việt bình dân, cũng như nơi người Chàm đang chung sống với người Việt trên phần đất này.”.
Việc dung nạp cả ba hình thái tôn giáo-tín ngưỡng đó đã cho thấy người Đàng Trong (và cả người Việt Nam nói chung), tự căn bản, có tinh thần “bao dung tôn giáo-tín ngưỡng” và thực hành tâm linh cách “chiết trung”. Chính vì thế, không lạ gì, Kitô giáo đã dễ dàng được du nhập vào vùng đất này.
2.1. Đàng Trong và “cột mốc lịch sử 1615”
Bỏ qua cái thời điểm “1533” với nhân vật “Inêkhu” mang tính huyền thoại mập mờ mà những “ghi chú bên lề thuộc nguồn dã lục” trong cuốn lịch sử của triều Nguyễn (Tự Đức) “Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục”, phát hành vào thời bách hại Công giáo, chúng ta dừng lại nơi một cột mốc lịch sử chính thức và quan trọng khi Tin mừng đến với dân tộc Việt Nam: năm 1615:
“Nói đến lịch sử truyền giáo tại Việt Nam, cột mốc thời gian khả tín nhất đó chính là năm 1615. Thật vậy, theo những “chứng nhân trong cuộc” (các thừa sai như Cristoforo Borri, Alexandre De Rhodes…) và các Báo cáo chính thức của Dòng Tên, thì chúng ta có chứng tích rõ ràng về thời điểm, địa điểm cũng như những nhân vật lần đầu tiên đặt chân đến Việt Nam: Do cuộc bách hại tại Nhật Bản, nhất là chỉ dụ cấm đạo 14.02.1614, các thừa sai bị buộc rời khỏi nước Nhật cùng với những thông tin thuận lợi và hấp dẫn của thuyền trưởng thương gia Ferdinand Costa về xứ Đàng Trong, Bề trên Tỉnh dòng Ma Cao của Dòng Tên Valentim Carvalho đã cử phái đoàn truyền giáo đầu tiên đến Đàng Trong gồm ba người: Cha Buzomi (người Ý là Trưởng đoàn), cha Diogo Carvalho và tu huynh Antonio Dias (người Bồ). Các ngài đã cập bến Đàng Trong tại Cửa Hàn ngày 18.01.1615” (x. Một số tác giả và tác phẩm liên quan).
Học giả Phạm Đình Khiêm trong tác phẩm “Người Chứng thứ Nhất” cũng đã nhắc đến “cái thuở ban đầu” đặc biệt này trong hành trình loan báo Tin mừng tại Việt Nam:
“Đời Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên năm thứ hai, ngày 18 tháng Giêng 1615, nhằm lễ kỷ niệm thánh Phêrô lập tòa ở La-mã, hai giáo sĩ Dòng Tên đầu tiên đặt chân đến Đà Nẵng: Francesco Buzomi, người Ý, và Diego Carvalho, người Bồ Đào Nha. Giáo sĩ thứ hai này chỉ ở ít lâu, rồi được phái qua Nhật bản và tử đạo ở đó năm 1624. Cha Bề trên Buzomi ở lại điều khiển việc truyền giáo trong 24 năm liền, đáng gọi là nhà sáng lập Giáo đoàn Đàng Trong. Hai giáo sĩ cất một ngôi nhà thờ đầu tiên ở Đà Nẵng; ngày phục sinh năm ấy (1615) các Ngài cử hành Thánh lễ đầu tiên và rửa tội cho mười giáo hữu tiên khởi. Ít lâu sau, cũng trong năm 1615, cha Buzomi lại xây ngôi nhà thờ thứ hai tại ngay thủ phủ dinh Quảng Nam với sự giúp đỡ của các giáo hữu tân tòng ở đấy, nhất là bà quí phái Gioanna. Tổng cộng một năm đầu đã có 300 tín hữu…”.
2.2. Dòng Tên–Cư sở Nước Mặn–Vùng Phú Yên
2.2.1. Việc truyền giáo tại Việt Nam trước Dòng Tên
Công cuộc loan báo Tin mừng là sứ mạng chung của toàn thể Hội thánh được chính Đức Kitô trao phó như một “mệnh lệnh”. Vì thế, mọi Kitô hữu đều có trách nhiệm thực thi sứ mạng này, tùy theo vị trí, vai trò, điều kiện, nhất là “đặc sủng” được trao ban, cho mỗi cá nhân hay đoàn thể.
Vì thế, không lạ gì, trong Giáo hội, có nhiều dòng tu đã đóng góp tích cực và hiệu quả cho công cuộc truyền giáo, như ghi nhận của tác giả linh mục Tiến sĩ BÙI KIM PHONG:
“Kỷ nguyên mới của cuộc truyền bá Công giáo được khai mở với sự thành lập các dòng tu mới vào thế kỷ XIII: Dòng Đaminh (1206), Dòng Phanxicô (1209), và sau đó, vào thế kỷ XVI là Dòng Chúa Giêsu hay Dòng Tên (1534). Từ các dòng tu này, Giáo hội đã có thêm đông đảo “những chiến binh”, các tu sĩ và linh mục đi truyền giáo khắp thế giới”.
Riêng tại vùng Á châu (Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản…), Đông Nam Á (Chân Lạp, Chiêm Thành, Việt Nam…), có những “dấu vết” cho thấy, ngay từ thế kỷ 16, đã có các thừa sai của các dòng tu sau đây đặt chân đến để loan báo Tin mừng:
- Dòng Đaminh: Từ năm 1549, tại Malacca đã có 18 nhà dòng và Tỉnh dòng Thánh Giá của Đông Ấn chính thức được thành lập năm 1550. Riêng tại vùng đất Việt Nam bây giờ (bao gồm Đàng Ngoài, Đàng Trong, Champa, Chân Lạp), từ thế kỷ 16 đã có một số thừa sai Đaminh đến truyền giáo.
- Dòng Phanxicô: Từ thế kỷ 14-15 đã có mặt tại Trung Hoa và Ấn Độ. Vào thế kỷ 16, Goa trở thành trung tâm truyền giáo của vùng Đông Nam Á. Năm 1579, tu viện Phanxicô được thiết lập tại Manila (Philippines), Macao (Trung Hoa). Khoảng năm 1583-1586, các tu sĩ Phanxicô đã có mặt tại Đàng Ngoài…
- Dòng Augustinô: Hoạt động tại Đàng Trong khoảng từ năm 1595-1596. Hồi ký của linh mục Ordonnez de Cervallos 1590 có kể câu chuyện về “Công Chúa Mai Hoa”. Nhưng theo các nhà sử học, đó chỉ là chuyện hư cấu!.
2.2.2. Dòng Tên truyền giáo tại Đàng Trong
- Từ cái rủi đến cái may:
Chắc chắn, theo lịch sử Dòng Tên ghi lại, Việt Nam ban đầu chưa phải là “địa chỉ” được Dòng Tên “trực chỉ truyền giáo” mà là Nhật Bản. Sau khi Nhật Bản bị bách hại, Dòng Tên chuyển hướng sang Trung Hoa.
“Trung hoa là mục tiêu của mọi nỗ lực truyền giáo Kitô giáo (các Dòng Phanxicô, Đaminh, Augustinô, Dòng Tên) vào thế kỷ XVI. Họ nghĩ rằng, Việt Nam, láng giềng của Trung Hoa, sẽ cải đạo nếu hoàng đế và dân Trung Hoa cải đạo. Thánh Phanxicô Xaviê tán thành kế hoạch này. Sau đó, Alessandro Valignano, Kinh lược sứ Dòng Tên ở Đông phương từ năm 1573, nghĩ rằng Nhật Bản nên là mục tiêu truyền giáo của Dòng Tên. Khi cuộc bách hại xảy ra tại Nhật, đích nhắm của ngài chuyển sang Trung Hoa, nơi mà các cha Dòng Tên là Ruggieri và Mateo Ricci đã có được vài thành công”.
- Việt Nam và cuộc bách hại năm 1614 tại Nhật Bản:
Được biết, ngay từ đầu thế kỷ 17 (1601), Nhật Bản đã có khoảng 500.000 tín hữu Công giáo. Tuy nhiên, vào ngày 14.02.1614, một cuộc bách hại tàn khốc đã xảy đến và sau đó, khi mạnh khi yếu, kéo dài mãi cho đến thế kỷ XIX, khiến người Công giáo tại Nhật gần như bị xóa sổ. Tuy nhiên, chính nhờ cuộc bách hại đẫm máu này, các linh mục, tu sĩ (thừa sai ngoại quốc lẫn bản xứ) và cả giáo dân Nhật Bản tìm đường thoát ly đến địa chỉ an toàn. Việt Nam (Đàng Trong) lúc bấy giờ chính là điểm đến.
- Từ Cửa Hàn, Hội An đến Nước Mặn:
Như đã nói ở trên, phái đoàn Dòng Tên đầu tiên cập bến Cửa Hàn (Đà Nẵng ngày nay) ngày 18.01.1615 bao gồm hai thừa sai giáo sĩ: cha Francesco Buzomi người Ý và cha Diogo Carvalho người Bồ cùng với một tu huynh cũng người Bồ là Antonio Dias. Đây cũng chính là trụ sở truyền giáo tạm thời đầu tiên của các thừa sai Dòng Tên. Từ “căn cứ tạm” này, các thừa sai vừa chăm sóc mục vụ cho các thương nhân Bồ tạm trú tại đây và cho cộng đồng Kitô hữu Nhật Kiều tập trung tại cửa Hội An (Faifo), cách Cửa Hàn không xa về phía Nam. Tuy vậy, cũng có một số tân tòng trở lại gia nhập Kitô giáo, trong số đó có kẻ sau này sẽ là thành viên của tổ chức “Thầy giảng xứ Nam”.
Năm 1616, do hạn hán nên Đàng Trong mất mùa, nạn đói đe dọa và não trạng mê tín của dân chúng được các thầy sãi lung lạc từ cầu đảo thất bại đến đỗ thừa cho “đạo mới”. Vì thế các thừa sai bị buộc phải ra đi khỏi xứ. Tuy nhiên, Chúa đóng cửa này thì lại mở cánh cửa khác. Nhờ quan Khám lý Trần Đức Hòa tại Qui Nhơn cưu mang, nên các thừa sai được ông bảo trợ đưa về Qui Nhơn nhân chuyến ông về Dinh Chiêm (Dinh trấn Quảng Nam) công tác. Và cộng đoàn thừa sai Dòng Tên lúc bấy giờ bao gồm ba linh mục: cha Francesco Buzomi, cha Francisco de Pina, Christoforo Borri và tu huynh Dias đã theo chân quan Khám lý về Qui Nhơn; và đến tháng 7 năm 1618, vị quan này đã chuẩn bị cơ ngơi rộng rãi để các thừa sai “an cư” tại một nơi được gọi là Nước Mặn để rồi sau đó, nơi đây chính là “cư sở” (Residentia) chính thức đầu tiên của Dòng Tên tại Đàng Trong-Việt Nam lúc bấy giờ. Về chi tiết cuộc gặp gỡ quan Khám lý Trần Đức Hòa và chuyến “trở về Qui Nhơn” của phái đoàn Dòng Tên, cũng như các chi tiết liên quan đến cư sở Nước Mặn đã được vị thừa sai trong cuộc và là nhà dân tộc học lừng danh, Christoforo Borri tường thuật khá tỉ mỉ và đầy thi vị trong tác phẩm ký sự lừng danh “Xứ Đàng Trong”.
Chính từ “cư sở Nước Mặn” này mà chương trình truyền giáo tại Đàng Trong-Việt Nam được định hướng và bắt đầu hoạt động:
“Giữa năm 1618, ngay sau khi cư sở Nước Mặn được thành lập, các thừa sai họp đại hội tại đây, để hoạch định chương trình và phương pháp truyền giáo, đồng thời phân phối sứ vụ tông đồ (…). Đầu năm 1620 địa bàn truyền giáo của Đàng Trong được chia làm hai vùng do hai nhóm thừa sai ở hai cư sở phụ trách. Địa bàn Cư sở Hội An gồm các vùng phía Bắc của Đàng Trong: Quảng Nam và Thuận Hóa, dưới sự lãnh đạo của cha Marques. Địa bàn Cư sở Nước Mặn gồm các vùng phía Nam của Đàng Trong: “Quagnin, Pulocampi e Ranran”, tức Quảng Ngãi, Qui Nhơn và Phú Yên, dưới sự lãnh đạo của cha Buzomi”.
2.2.3. Cha Đắc Lộ-Anrê Phú Yên
Khi nói tới công cuộc loan báo Tin mừng tại Việt Nam thuở ban đầu, đặc biệt, thời của các thừa sai Dòng Tên, chắc chắn không thể không nhắc đến cha Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ), một nhà truyền giáo lớn của Giáo hội và một nhà văn hóa lớn đối với nền văn hóa và văn học Việt Nam. Có thể tóm tắt đôi dòng về cha Đắc Lộ như sau:
Alexandre de Rhodes (1593-1666): Là công dân Avignon lãnh địa của Giáo hoàng (1348-1791). Ngài hoạt động tại Đàng Trong hai lần: Lần đầu từ năm 1624-1626; lần hai từ năm 1640-1645; tại Đàng ngoài từ năm 1627-1630. Ngài có công lớn nhất trong việc hình thành và kiện toàn chữ Quốc ngữ khi đích thân biên soạn và xuất bản hai tác phẩm Quốc ngữ (được xem như) đầu tiên: Tự điển “Việt-Bồ-La” và cuốn giáo lý “Phép giảng tám ngày”. Cả hai cuốn được in tại nhà in đa ngữ của Thánh Bộ Truyền bá Đức tin tại Rôma năm 1651.
Như đã nói trên, hoạt động truyền giáo tại Đàng Trong của cha Đắc Lộ tập chú vào hai giai đoạn: giai đoạn một từ 1624-1626 và giai đoạn hai từ 1640-1645. Riêng trong giai đoạn hai tại Đàng Trong, ngài đã bốn lần “ra đi và lưu lại” mà kết quả ấn tượng nhất chính là “nhóm mười thầy giảng” và cuộc Tử đạo của thầy giảng Anrê Phú Yên.
Chúng ta thử đọc lại chính ký sự của ngài trình bày về hai sự kiện đặc biệt này:
- Tổ chức nhóm Thầy giảng:
“Giáo dân vẫn rất sốt sắng như mấy năm về trước. Vì thế, tôi không nói gì riêng ở đây, nhưng tôi không thể không nói tới ơn Chúa ban cho tôi và đồng thời kích động mười người trai trẻ hợp tác với tôi trong việc giảng đức tin cho dân xứ này. Tất cả đều ở nhiều tỉnh khác nhau mà tới, nhưng họ chỉ có một tâm hồn thuộc về Chúa và hoàn toàn tận tụy với Giáo hội. Trong số đó có ba người Chúa dành cho phúc Tử đạo: Anrê từ tỉnh Phú Yên tới tìm tôi, Inhaxu con nhà sang trọng, vì là quan tòa, thông minh, rất thông thạo chữ Hán, nhất là rất nhân đức, một vị thánh đích thực, gốc ở tỉnh miền Bắc, sau khi chịu phép rửa tội thì không muốn rời tôi, và thực ra tôi được gặp Inhaxu thì không lấy gì làm sung sướng hơn…”. Người thứ ba là Vinxentê, từ lâu nài xin tôi cho vào số những người khác. Thân phụ anh là một giáo dân đạo cũ tỉnh Quảng Ngãi, ông đã đem đến trình tôi, mặc dù anh là cột trụ nâng đỡ gia đình và cây gậy của tuổi già. Còn bảy người khác thì cũng tương tự như ba người trên. Tất cả chúng tôi đều cùng nhau đi khắp các tỉnh, các làng các xã ở Đàng Trong. Thiên Chúa phù hộ ban ơn giúp đỡ chúng tôi và số giáo dân trong một thời gian ngắn đã thêm được hơn một ngàn”.
Cũng cần nói thêm, trong lần lưu lại Đàng Trong năm 1643, cha Đắc Lộ đã cho các thầy giảng này cử hành “khấn công khai và long trọng trước cộng đoàn” ba điều cần thiết sau: Phụng sự Giáo hội, không lập gia đình, vâng lời các cha dòng.
- Chứng nhân Anrê Phú Yên:
Dựa theo các tư liệu của cha Đắc Lộ và các tư liệu liên quan khác cùng với những thu thập riêng trong quá trình nghiên cứu về Anrê Phú Yên, nhà nghiên cứu Phạm Đình Khiêm đã tóm tắt về ngày sinh của vị Á thánh này:
“Thầy Anrê Phú Yên đã mở mắt chào đời, một ngày trong năm 1625 đời vua Lê Thần Tông, niên hiệu Vĩnh Tộ thứ sáu, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên cai trị xứ Nam (Đàng Trong) năm thứ 12. (…). Sử liệu không nói rõ về gia thế, chỉ cho biết rằng ông có nhiều anh em mà ông là út: cha ông chết sớm, mẹ là người Công giáo rất đạo đức, tên thánh là Gioanna, chăm lo nuôi nấng, dạy dỗ đàn con.
Còn sinh quán của ông, thực ra tài liệu của giáo sĩ Đắc Lộ chỉ ghi là tỉnh “Ranran” ở giáp giới Chiêm Thành về phía Nam mà không chỉ rõ địa phương nào. Nhờ bản đồ của giáo sĩ Đắc Lộ vẽ tỉnh “Ranran” này ở bên dưới Qui Nhơn và bên kia mũi Nai–đèo Cả, nên ta biết đó là tỉnh Phú Yên…”.
Nhà nghiên cứu cố học giả Phạm Đình Khiêm cũng cho chúng ta những chi tiết về ngày nhập đạo của Anrê Phú Yên:
“Nhưng sau này, khi tường thuật cuộc “tử đạo oanh liệt” của thầy giảng Anrê, giáo sĩ xác nhận rằng: “Đúng ba năm trước khi chết, mẹ thầy dẫn thầy đến cho tôi, và tôi được hạnh phúc rửa tội cho thầy”.
Anrê được rửa tội ba năm trước khi chết, tức năm 1641. Năm này, giáo sĩ Đắc Lộ đến Phú Yên lần đầu (của giai đoạn truyền giáo tại Phú Yên lần thứ hai) (…). Như vậy, cậu thiếu niên Anrê chính là một trong số 90 giáo hữu tân tòng được cha Đắc Lộ rửa tội trong kỳ tĩnh tâm bốn ngày liên tiếp tại nhà nguyện của bà Mađalêna trong dinh Trấn thủ. (…). Lúc bà Gioanna dẫn đứa con 16 tuổi đến cho cha Đắc Lộ rửa tội, giáo sĩ có ngờ đâu thiếu niên ấy, “ngoài ơn Thánh Tẩy bằng nước, lại được Đức Chúa Trời ban ơn Thánh tẩy bằng máu” theo một câu nói của giáo sĩ. Khi lấy tên Anrê đặt cho thiếu niên, giáo sĩ tuy thầm mong cho thiếu niên ấy theo gương Thánh Bổn mạng, nhưng không ngờ rằng người ấy sẽ tái diễn hoàn toàn cuộc đời vị Tông đồ xưa…”.
Cũng theo ký sự của cha Đắc Lộ, thì thầy giảng Anrê Phú Yên chịu Tử đạo trong giai đoạn hai truyền giáo tại Phú Yên của ngài (1640-1645); chính xác là ngày 26.7.1644. Thầy giảng Anrê Phú Yên chính là “hoa quả đầu mùa” của giáo đoàn Phú Yên và là “chứng nhân Tử đạo tiên khởi” (protomartyr) của Đàng Trong và của cả Việt Nam.
Về cuộc Tử đạo của thầy giảng Anrê Phú Yên đã được cha Đắc Lộ dành trọn một chương trong tác phẩm “Ký sự truyền giáo” để lược tóm; và viết một “Bản tường trình” đầy đủ để làm chứng từ trong “hồ sơ lịch sử” chuẩn bị án phong thánh đầu tiên cho ngài.
“Chúa đã dành vinh quang này cho một người thanh niên mới mười chín xuân xanh tôi đã rửa tội từ ba năm nay, rồi nhận cho đi theo tôi để giúp dạy giáo lý trong chừng hai năm. Tôi không kể dài dòng ở đây câu chuyện đẹp đẽ này vì tôi đã viết thành cuốn sách bằng tiếng Pháp và tiếng Ý. Tôi mong hết sức cho mọi nước trên thế giới biết người đầy tớ tuyệt diệu của Chúa, để thúc đẩy họ nhận biết và yêu mến Đấng người thanh niên đã yêu mến đến chịu chết vì Người. (…). Thầy xưng tội, quỳ xuống cầu nguyện, vĩnh biệt mọi người, rồi nhanh nhẹn theo toán lính dẫn thầy tới thửa ruộng cách thành phố chừng nửa dặm. (…). Lính gác chung quanh. Chúng không cho tôi ở bên trong vòng lính, nhưng viên đội trưởng cho phép tôi vào đứng cạnh thầy. Thầy vẫn quỳ dưới đất, mắt nhìn trời, miệng luôn hé mở và đọc tên Chúa Giêsu. Một tên lính lấy giáo đâm thầy từ phía lưng, thâu qua ngực chừng hai bàn tay. Lúc đó thầy Anrê nhìn tôi âu yếm như thể vĩnh biệt tôi. Tôi bảo thầy hãy nhìn lên trời nơi thầy sắp tới và có Chúa Giêsu đón thầy. Thầy ngước mắt lên trên cao và không nhìn xuống nữa. Cũng tên lính rút giáo ra, đâm lần thứ hai, rồi đâm lại lần nữa như thể muốn tìm trái tim thầy. Nhưng người vô tội ấy vẫn không nao núng, thật là kỳ diệu. Sau cùng tên đao phủ thấy lưỡi giáo không làm cho thầy lăn xuống đất, liền lấy mã tấu chém cổ, nhưng vẫn chưa xong, phải thêm nhát nữa làm đứt hẳn cổ, đầu rơi về phía bên tay phải chỉ còn vướng mảnh da. Nhưng tôi nghe rất rõ cùng lúc đầu rơi khỏi cổ, thì tên thánh Giêsu không phải từ nơi miệng thầy thốt ra mà qua vết thương ở cổ, và cùng lúc hồn bay về trời thì xác lăn xuống đất…”.
Nếu Phú Yên là danh xưng địa lý đầu tiên của vùng đất “Chiêm Thành” trở nên “Việt thuộc” vào thế kỷ 17, thì Giáo hội Việt Nam cũng rất hân hạnh có được một “người ngoại” trở thành “Kitô hữu”, một Người Con ưu tú, một Chứng Nhân đầu tiên mang tên Phú Yên. Đó chính là Á thánh ANRÊ PHÚ YÊN, vị Chứng nhân Tiên khởi của Hội thánh Việt Nam và là nhân vật ghi dấu ấn “một thời mở cõi” của các vị thừa sai khi đem Tin mừng cứu độ gieo trồng vào mảnh đất Việt Nam, như lời phát biểu của tác giả Cosma Hoàng Văn Đạt SJ:
“Vào thế kỷ XVII, bước chân Nam tiến của dòng giống Lạc Hồng mới đến Đèo Cả. Phú Yên là tiền đồn phía nam của tổ quốc. Dinh Trấn lúc ấy đóng ở bờ sông Kỳ Lộ, gần cửa biển Tiên Châu. Hẳn là ông bà hoặc cha mẹ anh đến lập nghiệp tại vùng đất mới này, để nơi đây trở thành quê hương anh. Và Phú Yên trở thành tên anh”.
1.1. Con người trong “bản đồ quy hoạch” của Chúa
Trong cái nhìn đức tin, mọi sự đều ở trong sự “Quan phòng” kỳ diệu của Thiên Chúa. Nếu không có cuộc Nam tiến của nhà Nguyễn, với cuộc chiêu dân lập ấp thời Lương Văn Chánh 1578, với biến cố lập phủ Phú Yên thời Văn Phong năm 1611 hay việc thiết lập Trấn Biên Dinh 1629… thì chắc không có thầy giảng mang tên Anrê Phú Yên.
Để nhận rõ vai trò quan trọng của “thế hệ Kitô hữu Anrê Phú Yên” trong việc xây dựng nền móng ban đầu cho Giáo hội Việt Nam, chúng ta hãy nghe cha Molinari, Cáo thỉnh viên trong hồ sơ phong Á thánh cho thầy giảng Anrê Phú Yên, nhận xét:
“Thực vậy, nếu để ý tới lịch sử sóng gió tại vùng địa lý này, một miền hồi thế kỷ XVII được gọi là Đàng Trong (Cocincina), người ta có thể hiểu tại sao khuôn mặt thầy Anrê đã và vẫn còn là điểm tham chiếu có giá trị quan trọng: thực vậy, Kitô giáo được phổ biến rộng rãi, ăn rễ sâu và tiếp tục sinh động tại Việt Nam chính là nhờ công lao và hoạt động của bao nhiêu thế hệ thầy giảng, nối tiếp nhau qua các thế kỷ, trong việc phụng vụ Chúa Kitô và Tin mừng, cả khi các thừa sai bị trục xuất và các linh mục bản xứ không thể thi hành sứ vụ vì những luật bách hại đạo.”.
1.2. Cái nhỏ bé đã trở thành vĩ đại
Trong công cuộc xây dựng nền tảng ban đầu cho Giáo hội Việt Nam, không phải Anrê Phú Yên được đánh giá “quan trọng” vì có liên hệ với những người quan trọng như cha Đắc Lộ, hay vì Ngài có một vị trí cao trọng nào đó thuộc hàng “chức sắc” của Giáo hội. Hoàn toàn không phải thế. Cái cao trọng và độc đáo của Anrê đó chính là “Ngài thuộc đẳng cấp thấp”, là những kẻ thấp cổ bé miệng, là những “bà góa với những đồng xu nghèo”, là giáo dân…!
Linh mục Roland Jacques OMI, chuyên viên sử học trong Ủy Ban Sử Học của Hội đồng Giám mục Việt Nam về vụ án phong Á thánh cho thầy giảng Anrê đã có những nhận xét chí lý:
“Khi nói đến lịch sử khởi công xây dựng Giáo hội tại Việt Nam, người ta có thói quen đưa ra một vài nhân vật lịch sử lớn, đặc biệt là nhân vật Đắc Lộ. Điều này không có gì cần phải cải chính. Nhưng lịch sử của Anrê còn chứng tỏ rằng Giáo hội cũng đã được xây đắp nhờ vào những nỗ lực của số đông giáo dân Việt Nam thuộc những thế hệ đầu tiên. Ở vào thời của Anrê, thừa sai chỉ thỉnh thoảng mới có thể đến, và không thể sống thường xuyên ở trong nước. Chính vì lý do này mà những thầy giảng phải lên phiên thay thế họ. Anrê là tiêu biểu cho tất cả những thừa sai Việt Nam vô danh này, là những anh hùng trong cuộc sống trước khi tỏ ra anh hùng trong khi chết. Người ta không thể không nghĩ rằng chính họ là những thừa sai thực sự, vì chỉ có họ mới đủ sức bảo đảm cho sự liên tục và sự tiến triển của cộng đồng Công giáo. Thử hỏi tình trạng này không phải giống như tình trạng ngày nay tại nhiều nơi mà sự lui tới của linh mục bị hạn chế đó sao?”.
2.1. Anrê Phú Yên và cuộc sống chứng tá
Thuộc về thế hệ Kitô hữu xây dựng nền móng ban đầu cho Giáo hội Việt Nam, chắc chắn Anrê Phú Yên cùng với bao bạn hữu Công giáo khác đã cảm nghiệm sâu sắc và được đốc thúc mạnh mẽ về trách nhiệm loan báo Tin mừng, xây dựng Hội thánh địa phương, một Hội thánh quá ư non trẻ khi phải đối diện với một nền văn hóa Khổng, Phật, Lão đã bén rễ lâu đời trên mảnh đất Việt Nam thuở ấy. Chính Đức thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II, Vị Giáo hoàng tuyên phong thầy giảng Anrê lên bậc Á thánh vào dịp đại Năm Thánh 2000, đã xác nhận khía cạnh này trong bài giảng ngày lễ phong thánh:
“Giữa những khó khăn các tín hữu Chúa Kitô phải hứng chịu, ngài đã là một nhân chứng trung kiên của Chúa Phục Sinh vì ngài đã không ngừng loan truyền Tin mừng cho anh em ngài trong hội Thầy giảng “Nhà Chúa”. Vì tình yêu đối với Chúa, ngài đã dùng sức lực để phục vụ Giáo hội qua việc trợ lực cho các linh mục trong sứ mệnh của họ. Ngài đã kiên trung đến dâng hiến máu đào để giữ nghĩa cùng Đấng mà ngài đã dâng hiến tất cả. Những lời ngài luôn lặp lại trên bước đường tiến đến nơi tử đạo là những lời đã hướng dẫn và soi sáng tất cả cuộc sống của ngài: “Chúng ta hãy lấy tình yêu đáp trả tình yêu của Chúa chúng ta, chúng ta hãy lấy mạng sống đáp trả mạng sống”.
Sau đó, trong bài huấn dụ khi tiếp phái đoàn Giám mục Việt Nam, Đức Thánh Cha lại nhấn mạnh sứ điệp và giá trị nhân chứng của Á thánh Anrê Phú Yên ở giữa lòng Hội thánh Việt Nam hôm nay:
“Do vậy trên 350 năm qua, những người Công giáo Việt Nam không bao giờ quên Nhân Chứng Tin mừng này, Vị Tử Đạo tiên khởi của quê hương họ. Họ đã tìm thấy nơi ngài đức tin kiên định và tình yêu quảng đại cho Đức Kitô và cho Giáo hội của ngài. Chớ gì ngày nay họ còn tiếp tục khám phá ra trong tấm gương của một người con đất Việt sức mạnh hướng dẫn người tín hữu về ơn gọi người Kitô hữu, trong việc trung thành với Giáo hội và quê hương họ. Chân phước Anrê Phú Yên, vì sự nhiệt thành nồng cháy của ngài mà Phúc âm được rao truyền, được ăn rễ sâu và được phát triển”.
2.2. Anrê Phú Yên: chứng nhân tiên khởi
Địa vị “Chứng nhân Tiên khởi” của Giáo hội Việt Nam được dành cho Anrê Phú Yên thật là “phải đạo và chính đáng”, chắc chắn không chỉ vì ngài là người đầu tiên của xứ Đàng Trong “cầm cành lá vạn tuế”, nhưng còn vì “Lời chứng” của ngài mang dấu ấn tiên phong trong bước đường hội nhập văn hóa, đã diễn ra trong một bối cảnh xã hội và Giáo hội Việt Nam ổn định và giản đơn, hòa ái và trong sáng, khác xa với bối cảnh của hai thế kỷ tiếp sau, 18,19. Chính linh mục sử gia Roland Jacques đã ghi nhận tính chất đặc biệt này:
“Địa vị của vị “tử đạo tiên khởi” phải thuộc về Anrê, chết 129 năm trước thánh Liêm, với lòng can cường không kém. Hơn nữa, Anrê là một người con của đất nước, mang trong mình 100% nền văn hóa của đất nước; thầy là một giáo dân Công giáo. Vì thế, chắc hẳn Anrê là tiêu biểu trực tiếp cho khối đa số vô danh của những người Công giáo Việt Nam, nhất là những người thuộc những thế hệ đầu tiên, nhờ vào sự khôn ngoan và tính kiên cường họ đã khám phá ra phương cách Việt Nam để sống đạo.
Đối chiếu với phần lớn các vị tử đạo được tôn phong năm 1988, Anrê biểu hiện một kinh nghiệm đặc sắc và có thể là sống động hơn cho ngày nay, do bối cảnh lịch sử hoàn toàn khác biệt. Những thế hệ Công giáo tiên khởi được sinh ra trong bối cảnh của một nước Việt Nam hoàn toàn độc lập đối với các thế lực phương Tây, không bao giờ Bồ Đào Nha, là nước đã gửi đi các nhà thừa sai, đã can thiệp vào công việc của Việt Nam bằng bất cứ cách nào, dù là bênh vực cho người Công giáo.
Những đồng bào không Công giáo, đại đa số đã tỏ ra hết sức ngưỡng mộ đối với chàng trai trẻ có lòng can đảm bất khuất này. Họ cảm nhận được nơi Anrê tình thương mà thầy đã mang đến cho tất cả những người đồng hương của thầy. Một sự việc mà những nhân chứng đã nói đến, và họ đã đáp lại tình thương đối với thầy. Đó là một sắc thái khá độc đáo trong cái chết của Anrê. Đến thế kỷ 18 và 19 thì các tình huống và tâm trạng đã biến chuyển.”.
Tuy nhiên, như chúng ta vẫn thường gặp thấy trong hiện thực lịch sử cứu rỗi được tỏ bày trong mặc khải Thánh Kinh: Thiên Chúa thường hay làm những chuyện “cắc cớ”. Để chọn một Tổ phụ cho một dòng tộc “đông như sao trời như cát biển”, Ngài đã chọn cặp vợ chồng son Abraham và Sara (St 17,4-16); để có một người lãnh đạo dân Israel ra khỏi đất Ai Cập, lãnh nhận Giao ước và trở về Đất Hứa, Ngài đã chọn Môsê ngọng nghịu (Xh 4,10-12); để xây dựng một vương quốc hùng mạnh làm dấu chỉ và chuẩn bị cho một Vương quốc vĩnh cửu trường tồn do Con Thiên Chúa thiết lập, Ngài đã chọn người con út của Giêsê (1 Sm 16,11-13), chàng thanh niên chăn cừu Đavít với “hậu duệ thuộc hệ ngoại tình của ông vua hào hoa phong nhả này”. Và, để cứu Israel khỏi những thế lực hung tàn Ngài đã dùng những bàn tay liễu yếu đào tơ như Debora (Tl 4,4-16), Esther (Et 7,1-10)…; và rồi, để canh tân toàn bộ đời sống tôn giáo đã bị biến chất và sai lạc, Ngài đã dùng mỗi một ngôn sứ Êlia đơn thương độc mã đối đầu với cả một hệ thống chính trị và tôn giáo đương thời (1 V 18,20-40)… Chưa kể, Ngài cũng không từ chối dùng cả một ông vua Cyrô ngoại giáo của Ba Tư để đưa dân Israel trong kiếp lưu đày nô lệ trở về tái tái thiết lại quê hương và phục hồi đời sống tôn giáo (Is 44,28)…
Thiên Chúa cũng tiếp tục hành động như thế khi lịch sử cứu rỗi “sang trang”, bước vào giai đoạn của “thời viên mãn”. “Ở Nadarét có gì quan trọng lắm đâu” mà phải đề cao và tin tưởng rằng nơi đây lại xuất hiện Đấng Cứu Thế? (Ga 1,46). Thầy Giêsu nào chẳng phải là “con bác phó mộc đấy sao?” (Mt 13,55-56). Và Vị Vua Cứu Thế đã bao đời nhân loại ngóng trông đã giáng sinh cách nghèo hèn nơi hang lừa máng cỏ; đã âm thầm sống ẩn dật với cái nghề thợ mộc thấp hèn trong mái nhà ở làng quê Nadarét 30 năm; đã lang thang trên những nẻo đường cát bụi từ Galilê qua Samari đến Giuđêa để công bố một Tin mừng xem ra nghịch lý: “Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó, những kẻ hiền lành, những người bị bách hại…” (Mt 5, 3-12); và oái ăm hơn nữa là Vị Vua Cứu Thế đó đã chính thức đăng quang chấp chính “làm Vua” vào cái “Giờ” mà khắp nhân loại đều lắc đầu chối bỏ: Giờ của tử hình thập giá, giờ của kết án nhục hình, giờ của đánh đòn và mão gai, giờ của khinh khi nhục mạ… Vâng, chúng ta chỉ có thể hiểu được chân lý này khi đồng cảm với những nhận xét của thánh Phaolô:
“Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa.” (1 Cr 1,22-23).
Cái “nghịch lý của Tin mừng” đó cứ lặp đi lặp lại trong lịch sử của Dân Chúa mọi nơi mọi thời, cho dù lịch sử ấy được viết ở Giêrusalem với Hêrôđê, ở Rôma với bạo chúa Nêrô, ở Liên sô với Stalin, ở Trung hoa lục địa với Mao Trạch Đông, ở Việt Nam với những người như “Ông Nghè Bộ” thời Anrê Phú Yên, hay các vị vua triều Nguyễn như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức…
Kết luận: Vì sao rực sáng giữa dòng người ra đi mở cõi.
Phải chăng, chính nhờ những cuộc thử thách được tính bằng “giá máu” ấy mà trên bầu trời của vương quốc Nước Trời vẫn luôn “rực sáng những vì sao”. Anrê Phú yên chính là một trong những “VÌ SAO RỰC SÁNG” ấy, một vì sao mà sự xuất hiện của nó đã tỏa sáng như một dòng hợp lưu của những dòng sông, của những con đường đang tiến về phía trước: con đường của dòng người vượt thác băng ngàn ra đi mở cõi cho giang sơn Đất Việt khang trang hơn, bát ngát hơn, và con đường của những “bước chân anh hùng quảng đại” vượt qua bao thử thách gian truân để thắp lên ánh lửa Tin mừng cứu độ.
Như thế, chúng ta có thể kết luận mà không sợ cường điệu quá mức khi cho rằng: trong lịch sử dựng nước của cha ông vào thế kỷ 17 và trong bối cảnh thuở ban đầu gieo hạt giống Tin mừng tại Việt Nam, Anrê Phú Yên chính là cuộc gặp gỡ của hai “Con đường mở cõi”.
1. NHIỀU TÁC GIẢ, Triều Nguyễn và lịch sử của chúng ta, Nxb Hồng Đức 2017.
2. ĐẠI NAM THỰC LỤC, TẬP MỘT, Nxb Giáo dục 2001, Tiền Biên Quyển 1.
3. NGUYỄN ĐÌNH ĐẦU, Nghiên cứu Địa Bạ Triều Nguyễn-Phú Yên, Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1997.
4. OLGAR DROR & K.W. TAYLOR, Việt Nam thế kỷ XVII, những góc nhìn từ bên ngoài, Nxb Đà Nẵng 2020.
5. ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Bản in nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), dịch và chú thích: Quyển thủ, Bản kỷ IV: Ngô Đức Thọ; Bản kỷ V-XIX: Hoàng Văn Lâu. Hiệu đính: Giáo sư Hà Văn Tấn, Nxb Văn Học 2017.
6. GRAHAM ALLISON, Destined for war (Định mệnh chiến tranh), Nguyễn Thế Phương dịch, Nxb Hà Nội 2019.
7. ALEXANDRE DE RHODES, Hành trình và truyền giáo (Divers voyages et missions), chuyển dịch: Hồng Nhuệ, Nxb Hồng Đức 2020.
8. NHIỀU TÁC GIẢ, Chủ biên: Lm. Giuse Trương Đình Hiền, Rực sáng một vì sao, Nxb Tôn giáo 2006.
9. LI TANA, Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỷ 17-18, Nguyễn Nghị dịch, Nxb Trẻ 2016.
10. MPHAN KHOANG, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558-1777, Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa Học Xã Hội 2017.
11. ĐÀO ĐỨC CHƯƠNG, Đầm Thị Nại, Phần VI: Thị Nại trong lịch sử, website https://gpquinhon.org/q/van-hoa/dam-thi-nai-2032.html.
12. TRẦN TRỌNG KIM, Việt Nam sử lược, Nxb Văn Học 2022, tr. 287-288.
13. TRẦN THUẬN, Đàng Trong lịch sử và văn hóa, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2021.
14. NGUYỄN ĐÌNH TƯ, Non nước Phú Yên, Nxb Thanh Niên 2004.
15. PHẠM ĐÌNH KHIÊM, Người chứng thứ nhất, Nxb Tinh Việt 1959.
16. BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian, Nxb An Tôn & Đuốc Sáng 2017.
17. LM. GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, Đất & Tên qua dấu thăng trầm, Tủ sách Nước Mặn 2024.
18. CHRISTOFORO BORRI, Relatione della nuova missione, Xứ Đàng Trong, Thanh Thư dịch, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2019.
19. ALEXANDRE DE RHODES, Hành trình và truyền giáo, (Divers voyages et missions), bản dịch Việt ngữ của Hồng Nhuệ, Nxb Hồng Đức 2020.
20. ĐỖ QUANG CHÍNH, SJ., Dòng Tên trong xã hội Đại Việt 1615-1773, Nxb Tôn giáo 2008.
21. SẮC LỆNH TRUYỀN GIÁO (AD GENTES),
22. LM. ANTOINE BÙI KIM PHONG, Alexandre de Rhodes, S.J. (1593-1660) và công cuộc truyền giáo tại Việt Nam, lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ, Nxb Hồng Đức 2023.
23. NGUYỄN THANH QUANG-linh mục GIOAN VÕ ĐÌNH ĐỆ, Một số vấn đề chũ Quốc ngữ, Nxb Khoa học Xã hội 2020.
Bài chuyên này được nhuận chính và in trong tác phẩm “Những viên ngọc quý giữa tro tàn”, Nxb Đồng Nai 2025 của chính tác giả LM. GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, từ trang 23-60.
NHIỀU TÁC GIẢ, Triều Nguyễn và lịch sử của chúng ta, Nxb Hồng Đức 2017, bài viết của PHAN HUY LÊ: Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XX, tr. 585: “Vương triều Nguyễn đã để lại những bộ chính sử đồ sộ tiêu biểu là bộ Đại Nam Thực lục và Đại Nam liệt truyện…”.
ĐẠI NAM THỰC LỤC, TẬP MỘT, Nxb Giáo dục 2001, Tiền Biên Quyển 1, tr. 36.
NGUYỄN ĐÌNH ĐẦU, Nghiên cứu Địa Bạ Triều Nguyễn-Phú Yên, Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1997, tr. 61.
OLGAR DROR & K.W. TAYLOR, Việt Nam thế kỷ XVII, những góc nhìn từ bên ngoài, Nxb Đà Nẵng 2020, tr. 42.
ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Bản in nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), dịch và chú thích: Quyển thủ, Bản kỷ IV: Ngô Đức Thọ; Bản kỷ V-XIX: Hoàng Văn Lâu. Hiệu đính: Giáo sư Hà Văn Tấn, Nxb Văn Học 2017, tr. 466-467.
GRAHAM ALLISON, Destined for war (Định mệnh chiến tranh), Nguyễn Thế Phương dịch, Nxb Hà Nội 2019, tr. 25: “Bẫy Thucydides nhắc tới một sự xáo trộn mang tính tự nhiên và không thể tránh khỏi xảy ra khi một thế lực đang trỗi dậy đe dọa thế chỗ thế lực đang thống trị. Điều này có thể xảy ra ở khắp mọi nơi. Thế nhưng, những tác động của nó trở nên đặc biệt nguy hiểm trong quan hệ quốc tế…”.
Alexandre de Rhodes (1593-1666): Là công dân Avignon lãnh địa của Giáo hoàng (1348-1791). Ngài hoạt động tại Đàng Trong hai lần: Lần đầu từ năm 1624-1626; lần hai từ năm 1640 - 1645; tại Đàng ngoài từ năm 1627-1630. Ngài có công lớn nhất trong việc hình thành và kiện toàn chữ Quốc ngữ khi đích thân biên soạn và xuất bản hai tác phẩm Quốc ngữ (được xem như) đầu tiên: “Tự điển Việt-Bồ-La” và cuốn giáo lý “Phép giảng tám ngày”. Cả hai cuốn được in tại nhà in đa ngữ của Thánh Bộ Truyền bá Đức tin tại Rôma năm 1651.
Khi chắp bút cho bài viết trên, cha Cosma Hoàng Văn Đạt là một linh mục thuộc Dòng Tên. Ngày 4.8.2008, ĐGH Bênêđictô XVI bổ nhiệm cha làm Giám mục Chính tòa Giáo phận Bắc Ninh. Vì lý do sức khỏe, ngày 17.6.2023, Đức cha Cosma được ĐGH Phanxicô chấp thuận cho từ nhiệm. Hiện ngài đang nghỉ hưu tại một trụ sở của cộng đoàn Dòng Tên trong giáo phận Bắc Ninh.
NHIỀU TÁC GIẢ, Chủ biên: Lm. Giuse Trương Đình Hiền, Rực sáng một vì sao, Nxb Tôn giáo 2006, tr. 143.
LI TANA, Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỷ 17-18, Nguyễn Nghị dịch, Nxb Trẻ 2016, tr. 24.
Cuộc “Nam tiến” của dân tộc và đất nước Việt Nam là một “hành trình dài lâu”, có thể nói đã khởi sự từ thời Tiền Lê với Lê Đại Hành chinh phạt Đồng Dương (Indrapura) năm 982 và hoàn tất khi chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khoát thu phục miền Đồng bằng Sông Cửu Long năm 1757. Tuy nhiên, trong khảo luận này, vì liên quan đến “Phú Yên”, nên cuộc Nam tiến xin được giới hạn trong khoảng thời gian 1558 khi chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa và năm 1611, khi vị chúa này sai Văn Phong chinh phạt Chiêm Thành và lập phủ Phú Yên.
HÀ VĂN THƯ-TRẦN HỒNG PHÚC, Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc 2016, tr. 19-21
LI TANA, Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỷ 17-18, sđd, tr. 27: “Vào thời này, người Chăm là một mối đe dọa thực sự đối với sự tồn tại của triều đại Hậu Trần của Đại Việt… Tuy nhiên, khi được đặt vào lại trong bối cảnh lịch sử của chúng, đây lại là những biến cố có khả năng tiêu hủy Đại Việt, “xé rách hệ thống chính trị của nước này”, và đe dọa cách trầm trọng chính sự tồn tại của nước Đại Việt”.
PHAN KHOANG, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558-1777, Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa Học Xã Hội 2017, tr. 73 (x. ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Quyển 8, tr. 453-457).
LI TANA, Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17-18, sđd, tr. 25.
PHAN KHOANG, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558-1777, Cuộc nam tiến của dân tộc Việt Nam, sđd, tr. 45.
LI TANA, Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỷ 17-18, sđd, tr. 28: “Dù là triều đại ngắn ngủi nhất trong lịch sử Việt Nam, triều đại Hồ Quý Ly (1400-07) cũng đã đánh dấu một bước quyết định trong con đường Việt Nam tiến về phía nam, tạo một bầu khí chung cho giai đoạn sau này”.
PHAN KHOANG, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558-1777, Cuộc nam tiến của dân tộc Việt Nam, sđd, tr. 91.
ĐÀO ĐỨC CHƯƠNG, Đầm Thị Nại, Phần VI: Thị Nại trong lịch sử, website https://gpquinhon.org/q/van-hoa/dam-thi-nai-2032.html
ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Bản in nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), sđd, tr. 471-472.
Thạch Bi Sơn hay còn được gọi là “Núi Đá Bia” hay “Núi Ông” là ngọn núi cao nhất trong dãy núi Đại Lãnh tại vùng núi Đèo Cả, ngọn đèo ngăn cách Phú Yên và Khánh Hòa. Núi Đá Bia nằm trên phần đất Đèo Cả phía Phú Yên ngày nay thuộc xã Hòa Xuân Nam, Thị xã Đông Hòa. Trên đỉnh núi có một phiến đá lớn và cao 80 mét. Tục truyền, trong chiến dịch bình Chiêm năm 1471, vua Lê Thánh Tôn đã cho ghi khắc địa vực biên giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành.
PHAN KHOANG, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558-1777, Cuộc nam tiến của dân tộc Việt Nam, sđd, tr. 93-96.
LI TANA, Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỷ 17-18, sđd, tr. 37-38.
PHAN KHOANG, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558-1777, Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam, sđd, tr. 110.
LI TANA, Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỷ 17-18, sđd, tr. 33-35.
TRẦN TRỌNG KIM, Việt Nam sử lược, Nxb Văn Học 2022, tr. 287-288.
HÀ VĂN THƯ-TRẦN HỒNG PHÚC, Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam, sđd, tr. 144-149.
OLGAR DROR & K.W.TAYLOR, Việt Nam thế kỷ XVII, sđd, tr. 39-40.
TRẦN THUẬN, Đàng Trong lịch sử và văn hóa, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2021, tr. 13.
PHAN KHOANG, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558-1777, sđd, tr. 123.
TRẦN THUẬN, Đàng Trong lịch sử và văn hóa, sđd, tr. 37.
PHAN KHOANG, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558-1777, Cuộc nam tiến của dân tộc Việt Nam, sđd, tr. 100.
NGUYỄN ĐÌNH TƯ, Non nước Phú Yên, Nxb Thanh Niên 2004, tr. 70.
PHẠM ĐÌNH KHIÊM, Người chứng thứ nhất, Nxb Tinh Việt 1959, tr. 36-38.
TRẦN THUẬN, Đàng Trong lịch sử và văn hóa, sđd, tr. 35-38.
“Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian” là một tác phẩm lịch sử tổng hợp về Giáo phận Qui Nhơn do BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN QUI NHƠN thực hiện để chuẩn bị mừng Năm Thánh kỷ niệm 400 năm Giáo phận Qui Nhơn đón nhận Tin mừng (1618-2018). Đây là ấn phẩm được chính Đức cha Matthêô, Giám mục Giáo phận Qui Nhơn chắp bút cùng với sự cộng tác của linh mục Gioan Võ Đình Đệ (về tư liệu lịch sử) và linh mục Anrê Huỳnh Tấn Nha (về kỹ thuật trình bày, in ấn…).
BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian, Nxb. An Tôn & Đuốc Sáng, đăng ký Bản quyền tại Hoa Kỳ tháng 06.2017, tr. 33.
LI TANA, Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17-18, sđd, tr. 223-224.
LM. GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, Đất & Tên qua dấu thăng trầm, Tủ sách Nước Mặn 2024, tr. 57-58: “Khi nói đến lịch sử truyền giáo của Đạo Công giáo tại Việt Nam, với nhiều sách vở, tài liệu, nghiên cứu… trong cũng như ngoài Giáo hội, thời điểm năm 1533 gần như mặc nhiên được chọn là cột mốc đầu tiên! Điều cần lưu ý: đây chỉ là một chi tiết thuộc nguồn “Dã lục” được “chua” thêm của bộ chính sử triều Nguyễn “Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục”, bộ sử được soạn (1856) và phát hành vào triều vua Tự Đức (1884). Đây là thời mà cuộc bách hại Công giáo đang tới hồi đỉnh điểm. Tuy nhiên, theo nhiều nhà nghiên cứu hiện nay, cả hai chi tiết thời điểm 1533 và nhân vật I-nê-xu được “chua thêm” của bộ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục vẫn là một giả thuyết còn tồn nghi; nhất là các chi tiết đó lại liên quan đến một tài liệu thuộc “truyện ký dã sử” có nội dung và chủ đích bôi nhọ và bài bác Công giáo mang tên “Tây Dương Gia Bí lục” xuất hiện trước đó (Khởi thảo: 1794; in: 1812). Trong khi đó, cho đến nay, chưa tìm được một manh mối nào liên quan đến “hai chi tiết” đó từ kho tàng lịch sử trong cũng như ngoài Giáo hội tại Âu châu, Ấn Độ, Nhật Bản… những nơi xuất phát của hầu hết các nhà thừa sai đến truyền giáo tại Việt Nam thuở ban đầu.”
LM. GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, Đất & Tên qua dấu thăng trầm, sđd, tr. 58-59.
Đây là 4 tác phẩm tiêu biểu liên quan đến sự kiện lịch sử Dòng Tên đến Việt Nam:
- CHRISTOFORO BORRI, Relatione della nuova missione, Xứ Đàng Trong, Thanh Thư dịch, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2019, tr. 133-134.
- ALEXANDRE DE RHODES, Hành trình và truyền giáo, (Divers voyages et missions), bản dịch Việt ngữ của Hồng Nhuệ, Nxb Hồng Đức 2020, tr. 80-81.
- ĐỖ QUANG CHÍNH, SJ., Dòng Tên trong xã hội Đại Việt 1615-1773, Nxb Tôn giáo 2008, tr. 18-20;
- BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian, sđd, tr. 46-49.
PHẠM ĐÌNH KHIÊM, Người Chứng Thứ Nhất, sđd, tr. 46.
TRUYỀN GIÁO (AD GENTES), số 5: Người đã thiết lập Giáo hội nên như bí tích cứu độ, và sai các Tông đồ đi khắp thế gian như chính Người đã được Chúa Cha sai đi (x. Ga 20,21): “Vậy các con hãy đi dạy dỗ muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ tất cả những điều Thầy đã truyền cho các con” (Mt 28,19-20). “Các con hãy đi khắp thế gian, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép Rửa sẽ được cứu rỗi, còn ai không tin sẽ bị luận phạt” (Mc 16,15).
SĐD, số 23: Dù tất cả các môn đệ của Chúa Kitô đều có bổn phận góp phần vào công cuộc gieo vãi đức tin, nhưng trong số các môn đệ, Chúa Kitô luôn kêu gọi những kẻ Người muốn, để họ ở với Người và để Người sai đi giảng dạy muôn dân (x. Mc 3,13t). Vì thế nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng phân chia các đặc sủng tùy theo ý Ngài vì lợi ích chung (x. 1 Cr 12,11), Chúa Kitô khơi gợi ơn gọi truyền giáo trong tâm hồn từng cá nhân, đồng thời làm xuất hiện trong Giáo hội những tổ chức đặc biệt đảm trách phận vụ truyền bá Tin mừng của toàn thể Giáo hội.
Lm. Antoine Bùi Kim Phong (sinh 1959), gốc giáo xứ Gia Hựu, Giáo phận Qui Nhơn, tòng học tại Tiểu chủng viện Qui Nhơn từ năm 1970-1975. Sau biến cố “1975”, vượt biên sang Mỹ tiếp tục tu học và được du học tại Đại học Giáo hoàng Gregoriana Rôma (Pontificia Università Gregoriana). Cha Antoine Bùi Kim Phong đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ tại khoa Giáo sử của Đại học này vào tháng 1 năm 2011 với tựa đề: “Evangelization of culture and inculturation of faith: Alexandre de Rhodes, S.J. (1593-1660) and his mission in Vietnam”, được đánh giá xuất sắc “Summa Cum Laude”. Theo tác giả, luận án này nhằm kỷ niệm 350 ngày qua đời của cha Alexandre de Rhodes (1660- (5/11) -2010) và dành tặng cho Giáo hội Việt Nam nhân dịp Năm Thánh 2009-2010, kỷ niệm 350 thiết lập hai Giáo phận Đại diện Tông tòa đầu tiên (1659-2009) và 50 năm thiết lập hàng Giáo phẩm tại Việt Nam (1960-2010). Hiện cha Antoine đang sống và làm việc mục vụ tại Mỹ. Cũng cần nói thêm, luận án tiến sĩ của cha Antoine Bùi Kim Phong đã được một linh mục Giáo phận Qui Nhơn, cha Phaolô Nguyễn Minh Chính đã chuyển ngữ sang tiếng Việt, được xuất bản năm 2023 với tựa đề: Alexandre de Rhodes, S.J. (1593-1660) và công cuộc truyền giáo tại Việt Nam, nhà xuất bản Hồng Đức. Tác phẩm này rất được giới học thuật đánh giá cao. Riêng một linh mục giáo sư chuyên ngành Giáo sử tại Đại học Frankfurt (Đức), cha Klaus Schatz, S.J., trong một tác phẩm về Alexandre de Rhodes xuất bản năm 2015 tại Đức đã tham khảo và trích dẫn luận án của cha Antoine Phong hơn 30 lần. (Nguồn: “Đôi lời giới thiệu” của Đức cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản, Giám mục Hải Phòng, trong bản dịch tiếng Việt của Luận án nói trên).
LM. ANTOINE BÙI KIM PHONG, Alexandre de Rhodes, S.J. (1593-1660) và công cuộc truyền giáo tại Việt Nam, lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ, Nxb Hồng Đức 2023, tr. 59-60.
BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian, sđd, tr. 46-48.
Để biết rõ về nhân vật “Khám lý Trần Đức Hòa”, xin đọc hai bài viết của hai tác giả Nguyễn Thanh Quang và linh mục Gioan Võ Đình Đệ trong tác phẩm “Một số vấn đề về chữ Quốc ngữ” (NGUYỄN THANH QUANG-linh mục GIOAN VÕ ĐÌNH ĐỆ, Một số vấn đề chũ Quốc ngữ, Nxb Khoa học Xã hội 2020, tr. 175-202):
- Bài viết của Nguyễn Thanh Quang: “Quan Trấn thủ Qui Nhơn Trần Đức Hòa với việc hình thành chữ Quốc ngữ”, tr. 175-189.
- Bài viết của linh mục Gioan Võ Đình Đệ: “Đi tìm thời điểm sinh và tử của “Bà Đỡ” khai sinh chữ Quốc ngữ-Cống Quận Công Trần Đức Hòa”, tr. 190-202.
BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian, sđd, tr. 51-54.
CRISTOFORO BORRI, Xứ Đàng Trong, sđd, tr. 147-159.
BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian, sđd, tr. 57-58.
LM. ANTOINE BÙI KIM PHONG, Alexandre de Rhodes, S.J. (1593-1660) và công cuộc truyền giáo tại Việt Nam, sđd, ghi chú số 1, tr. 130-131.
SĐD, Chương Ba, “Cuộc đời, sứ vụ và các tác phẩm của cha Alexandre de Rhodes”, từ trang 128-296.
ALEXANDRE DE RHODES, Hành trình và truyền giáo, (Divers voyages et missions), sđd, tr. 161-162.
PHẠM ĐÌNH KHIÊM, Người Chứng Thứ Nhất, sđd, tr. 39-40.
Về tước hiệu “Tử đạo tiên khởi” (Protomartyr), xin đọc bài viết của linh mục Roland Jacques (Dương Hữu Nhân) trong tác phẩm Rực sáng một vì sao, sđd, tr. 94-103: ”Thầy giảng Anrê Phú Yên & Tước hiệu “Tử đạo tiên khởi Việt Nam”.
ALEXANDRE DE RHODES, Hành trình và truyền giáo, (Divers voyages et missions), sđd, tr. 196-200.
Tức là cuốn “Điều trần về thầy giảng Anrê tử đạo tiên khởi Đàng Trong”, bản tiếng Ý, Rôma 1652, bản tiếng Pháp, Paris 1653.
ALEXANDRE DE RHODES, Hành trình và truyền giáo, (Divers voyages et missions), sđd, tr. 196-200.
NHIỀU TÁC GIẢ, (Chủ biên : Lm. Giuse Trương Đình Hiền), Rực sáng một vì sao (Tìm về chân dung Á thánh Anrê Phú Yên 1625-1644), sđd, tr. 142: COSMA HOÀNG VĂN ĐẠT SJ, Theo dấu chân Người.
SĐD, tr. 19-20: MOLINARI SJ, thầy giảng Anrê, vị Tử đạo đầu tiên của Việt Nam, Lm. Giuse Trần Đức Anh OP chuyển ý.
SĐD, tr. 43-44: ROLAND JACQUES OMI, Anrê Phú Yên và Giáo hội Việt Nam, Hà Huyền Tâm chuyển ngữ.
ĐGH G.P II, Bài giảng trong thánh lễ phong Chân phước cho thầy giảng Anrê Phú Yên tại quảng trường thánh Phêrô ngày 05.03.2000.
NHIỀU TÁC GIẢ, Rực sáng một vì sao, sđd, tr. 37: ĐGH G.P II, Bài Huấn dụ trong cuộc tiếp kiến sau đại lễ phong Chân phước, 06.03.2000.
SĐD, tr. 42-43: ROLAND JACQUES, Anrê Phú Yên và Giáo hội Việt Nam.