Phép Giảng Tám Ngày của Alexandre de Rhodes: Đối thoại văn hóa và niềm tin giữa Phương Tây và Việt Nam thế kỷ XVII

Thứ hai - 29/09/2025 20:34
ALEXXAND RHODES
 

1. Đặt vấn đề

 
Từ thế kỷ XVI–XVII, trong bối cảnh mở rộng ảnh hưởng tôn giáo vào các nước thuộc địa của châu Âu, các nhà truyền giáo phương Tây đã đến châu Á như những sứ giả mang theo đức tin Kitô giáo cùng với một hệ thống tri thức mới. Tại Việt Nam, các giáo sĩ, đặc biệt các tu sĩ Dòng Tên, không chỉ đảm nhận vai trò truyền đạo mà còn là những nhà quan sát sắc sảo, người ghi chép, mô tả và diễn giải thế giới tinh thần của người bản địa bằng cái nhìn phương Tây “dĩ Âu vi trung”. Dưới góc nhìn của họ, Việt Nam hiện lên như một vùng đất giàu bản sắc văn hóa, nhất là mặt tinh thần, song cũng chất chứa những yếu tố được xem là khác biệt so với hệ thống niềm tin Kitô giáo cần được thay đổi. Trong tiến trình đó, văn hóa dân gian với các thực hành thờ cúng tổ tiên, thần linh, cầu an, cầu siêu… đã trở thành đối tượng được quan tâm đặc biệt, là nơi bộc lộ trực tiếp sự khác biệt giữa hai hệ thống tín ngưỡng.

Trong số các giáo sĩ hoạt động tại Việt Nam thời kỳ này, Alexandre de Rhodes (1593–1660) là nhân vật nổi bật với nhiều đóng góp về mặt ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo. Tác phẩm Phép giảng tám ngày (Cathechismus in octo dies, 1651)[1] của ông không chỉ được biết đến như bản giáo lý đầu tiên viết bằng chữ Quốc ngữ, mà còn là một văn bản mang giá trị tư liệu quan trọng đối với việc nghiên cứu lịch sử tiếp xúc văn hóa và lịch sử tư tưởng tôn giáo ở Việt Nam vào thế kỷ XVII. Trong tác phẩm này, bên cạnh nội dung giảng dạy đức tin Công giáo, Alexandre de Rhodes đã dành nhiều đoạn để diễn giải về các hình thức tín ngưỡng dân gian và triết lý Tam giáo đang chi phối đời sống tinh thần người Việt đương thời. Những đối thoại của ông không chỉ mang tính chất thần học mà còn hàm chứa một chiến lược truyền giáo cụ thể kế thừa từ các thừa sai đi trước, dựa trên việc phân tích, đánh giá và gợi ý thay thế những giá trị tín ngưỡng bản địa bằng đức tin Kitô giáo.

Bài viết này nhằm làm rõ hai câu hỏi nghiên cứu: Thứ nhất, Alexandre de Rhodes đã nhìn nhận hệ thống tôn giáo và  tín ngưỡng dân gian Việt Nam như thế nào? Thứ hai, ông đã tiến hành đối thoại với những tín ngưỡng này bằng cách thức nào và với chiến lược truyền giáo ra sao? Việc trả lời hai câu hỏi trên không chỉ giúp làm rõ phương pháp luận truyền giáo của các giáo sĩ Dòng Tên tại Việt Nam vào thời kỳ đầu, mà còn góp phần nhận diện quan điểm của phương Tây đối với văn hóa tín ngưỡng phương Đông trong buổi đầu tiếp xúc, qua đó soi chiếu tiến trình bản địa hóa Kitô giáo trong một môi trường tôn giáo đa nguyên và linh hoạt như ở Việt Nam. Để có một cái nhìn đa chiều và khách quan, ngoài Phép giảng tám ngày, trong một vài trường hợp, chúng tôi còn tham chiếu hai công trình khác của ông là Hành Trình và truyền giáo (1653) và Lịch sử Đàng Ngoài (1653).

 

2. Đối thoại của Alexandre de Rhodes với tôn giáo và tín ngưỡng dân gian Việt Nam trong Phép giảng tám ngày

 

2.1. Đối thoại với tín ngưỡng dân gian

 
Vào thế kỷ XVII, đời sống tín ngưỡng người Việt mang tính hỗn dung, đa tầng và gắn chặt với môi trường tự nhiên – xã hội, trong đó tín ngưỡng dân gian, dù không có giáo lý, vẫn chi phối mạnh mẽ mọi mặt đời sống tinh thần của con người. Các hình thức thờ cúng phổ biến gồm thờ Trời, thờ tổ tiên và thờ thần linh tự nhiên như sông, núi, biển, đá, cỏ cây, muông thú, phản ánh sự cảm ứng của con người với thế giới linh thiêng và gắn với chu kỳ nông nghiệp, quan niệm về cái chết, sự tồn tại của linh hồn và tái sinh. Nguyễn Hạnh trong Văn hóa tín ngưỡng Việt Nam nhận định đây là hệ thống đức tin gắn với vòng đời – mùa màng – gia tộc, tạo thành nếp tín ngưỡng hỗn dung nhưng ổn định. Song song, tín ngưỡng thờ âm hồn cũng phổ biến, hướng tới linh hồn người thân hoặc những vong hồn vô danh, thể hiện sự cảm thông và tri ân với người đã khuất. Các thực hành này, từ cúng cá nhân đến thờ cộng đồng, phản ánh niềm tin vào sự hiện diện và can thiệp của vong linh trong đời sống, đồng thời sản sinh các nghi lễ trừ tà, giải hạn và những thực hành huyền thuật như lên đồng, gọi hồn, cầu cơ.

Do vậy, ngay từ buổi đầu, việc truyền bá đạo Công giáo đã thể hiện những đặc điểm khác biệt so với những thực hành tín ngưỡng và tập tục lâu đời của người Việt. Từ ngày thứ hai trong Phép giảng tám ngày, Alexandre de Rhodes đã mở đầu cuộc đối thoại với các hình thức tín ngưỡng dân gian của người Việt, là những niềm tin tâm linh mãnh liệt được truyền đời qua bao thế hệ. Alexandre de Rhodes gọi các hình thức thờ cúng tổ tiên, thờ thần tự nhiên, thờ trời và các linh hồn người chết là đạo do con người đặt ra chứ không do Thiên Chúa truyền dạy: “Đạo ấy là bởi lòng người nghĩ ra, chớ chẳng phải bởi Đức Chúa Trời dạy”. Ông nhìn nhận chúng như những yếu tố đã “ăn sâu vào tinh thần tất cả mọi người” và đề xuất một lối trình bày giáo lý Công giáo thích hợp để thuyết phục nhiều người đón nhận Tin mừng: “Họ rất hài lòng khi tôi trình bày đạo ta hợp với lẽ phải và nhất là họ phục mười điều răn Chúa, cho rằng không có gì hợp lý hơn và đáng được công bố bởi Đấng Thượng Đế muôn dân muôn nước. Phương pháp tôi dùng là luận về linh hồn bất tử và sự sống đời sau, từ đó chứng minh về tinh Thiên Chúa, về quan phòng của Người và dần dần mới đề cập tới mầu nhiệm khó hơn. Theo kinh nghiệm chúng tôi thấy, cách giảng dạy lương dân như thế rất có ích…”[2].

Với tục thờ cúng tổ tiên của người Việt thì ông rất mềm mỏng khi tiếp nhận, ông nói “Thảo kính cha mẹ thì cũng phải, vì đã sinh đẻ ta[3]. Trong Hành trình và truyền giáo, ông mô tả tỉ mỉ các thực hành văn hóa như tang ma, giỗ chạp, chọn đất chôn cất,... De Rhodes khái quát truyền thống thờ tổ tiên của người Việt qua những nét chính: coi trọng việc chăm lo phần mộ, tổ chức giỗ chạp linh đình và duy trì qua nhiều đời. Ông viết: “Họ không tiếc tiền của, công lao để bày cỗ bàn mấy ngày liền sau đám tang, rồi mỗi năm vào ngày kỵ, không bao giờ bỏ giỗ tổ tiên tới tám đời hoặc mười đời[4]. Theo ông, người Việt tin “hạnh phúc toàn gia tộc đều phụ thuộc vào sự để mả” – niềm tin gắn với đạo lý và quan niệm linh hồn trong văn hóa Việt.

Theo giáo lý Kitô giáo, chỉ tin thờ vào một Thiên Chúa duy nhất, nên De Rhodes bay tỏ sự hoài nghi về tính thiêng sẵn có của các thực hành tâm linh của người Việt. Trong đoạn nói về niềm tin vào Thái cực hay Âm - Dương ông cho rằng những thực hành thờ cúng đó “chẳng bởi Đức Chúa Trời”đặt ra. Những nghi thức như đốt vàng mã, gọi hồn, khấn cô hồn, lập miếu thờ ma đói theo ông là không có hiệu lực thiêng liêng và có thể làm sai lệch đức tin của con người. Ông nhận định rằng những niềm tin vào ma quỷ, âm hồn, hay các tục cúng sao giải hạn, trừ tà, đều không có cơ sở tôn giáo hợp lý. Đây là lập trường phổ biến mà De Rhodes đã kế thừa từ thần học Công giáo thế kỷ XVII, khi các giáo sĩ coi việc bảo vệ đức tin độc thần là nhiệm vụ hàng đầu. Trước hệ thống tín ngưỡng đa thần và hỗn dung của các xã hội Á Đông, họ thường lựa chọn cách tiếp cận nhấn mạnh sự khác biệt tuyệt đối giữa hai hệ thống niềm tin. Quan điểm này nhằm ngăn ngừa nguy cơ pha trộn giáo lý, giữ nguyên tính thuần khiết của đức tin. Trong bối cảnh ấy, những phân tích và nhận định của De Rhodes phản ánh xu hướng chung của giới truyền giáo đương thời.

Bên cạnh mục tiêu hộ giáo và lập trường chỉ ra sự khác biệt của Ki – Tô giáo với các tín ngưỡng bản địa, Phép giảng tám ngày cũng có thể được nhìn nhận như một cánh cửa mở ra cho người Việt thế kỷ XVII được tiếp xúc với một hệ thống vũ trụ quan và nhân sinh quan hoàn toàn mới. Tác phẩm giới thiệu những khái niệm chưa từng phổ biến trong đời sống tinh thần của người Việt đương thời, như Thượng Đế duy nhất, linh hồn bất tử, sự quan phòng và ơn cứu rỗi đời đời. Những tư tưởng này đặt con người vào mối quan hệ trực tiếp với Đấng Tạo Hóa, đồng thời cung cấp một cách lý giải khác về nguồn gốc vũ trụ, ý nghĩa của sự sống và vận mệnh sau cái chết. Việc trình bày các nội dung ấy bằng tiếng Việt thuần túy, kết hợp với những hình ảnh và ví dụ gần gũi, đã khiến thông điệp trở nên dễ tiếp nhận hơn đối với người bản địa. Nhìn từ góc độ này, Phép giảng tám ngày không chỉ là một trước tác thần học, mà còn là nhịp cầu đưa tới một thế giới quan mới, góp phần mở rộng tầm nhìn và chiều sâu trải nghiệm tinh thần của người Việt trong bối cảnh giao lưu Đông – Tây buổi đầu.

 

2.2. Đối thoại với Tam giáo

 
Bên cạnh tín ngưỡng dân gian, ba hệ thống tư tưởng lớn là Nho giáo, Lão giáo và Phật giáo, thường được gọi chung là “Tam giáo”, trong suốt tiến trình lịch sử đã đóng vai trò trung tâm trong việc cấu thành hệ giá trị và định hướng đạo lý cho xã hội Việt Nam. Nguyên lý “Tam giáo đồng nguyên” cho phép ba hệ tư tưởng này cùng tồn tại và bổ sung chức năng cho nhau trong các lĩnh vực khác nhau. Nho giáo giữ vai trò chủ đạo trong việc thiết lập trật tự đạo đức, chính trị; Phật giáo cung cấp lời giải cho khổ đau và luân hồi, giải thoát; trong khi đó Lão giáo hướng tới việc chăm sóc sức khỏe thể chất lẫn tinh thần, kéo dài sinh mệnh và kết nối với cõi linh thiêng. Ảnh hưởng của Tam giáo thể hiện sâu sắc trong nghi lễ tang ma, giỗ chạp, quan niệm về linh hồn sau khi chết, cũng như các quy phạm đạo đức trong đời sống thường nhật. Từ cấu trúc gia đình đến trật tự xã hội, từ sinh hoạt lễ nghi đến hình thức thờ cúng, Tam giáo không chỉ là hệ tư tưởng mà còn là nền tảng cho đời sống tinh thần của người Việt, chính điều đó đã khiến cho việc truyền bá một tôn giáo mới như Kitô giáo phải đối mặt với nhiều khó khăn trước một hệ thống niềm tin đã ổn định và ăn sâu trong văn hóa của người Việt Nam.

Quan điểm của Alexandre de Rhodes đối với Tam giáo trong Phép giảng tám ngày được thể hiện rõ ràng và nhất quán ở Ngày thứ tư của bài giảng. Đây là phần mà De Rhodes dành riêng để đánh giá một cách có hệ thống các tư tưởng cốt lõi của Tam giáo, nhằm làm nổi bật tính ưu việt và chân lý tuyệt đối của Kitô giáo. Cách tiếp cận của ông mang đặc trưng của tư duy hộ giáo Dòng Tên thế kỷ XVII với các mục tiêu đan xen, vừa tranh luận thần học, vừa bác bỏ triết học đối nghịch và với mục tiêu gợi ý niềm tin mới.[5] Alexandre de Rhodes phân tích các học thuyết của Phật giáo, ông xem học thuyết luân hồi và nghiệp báo là một dạng của niềm tin không căn cứ, không thể dẫn đến sự sống đời đời. Theo ông, việc Phật giáo giảng về “hư không” của kiếp sống, hay tin rằng nhờ luân hồi mà con người có thể thoát khỏi những bi ai trần thế là những điều cần phải xem xét lại. Theo cách nhìn nhận của De Rhodes thì việc đạo Phật “dạy người bỏ đời, tránh việc, chẳng có yêu người khác…”[6] nghĩa là dạy con người chỉ biết chăm lo cho lợi ích của riêng cá nhân mình. Ông chỉ ra sự phi lý của thuyết luân hồi “vì chưng ví bằng ta đã ở đời trước, mà sao chẳng có một ai còn nhớ sự đời trước ấy?”[7]. Lập luận của ông dựa trên quan điểm thần học Kitô rằng con người chỉ sống một lần, sẽ được phán xét sau khi chết và chỉ có Thiên Chúa mới có quyền cứu rỗi.

Bên cạnh đó, De Rhodes còn nhìn nhận Lão giáo như một đạo thuật thờ thần linh thiên về lối tu luyện làm phép và thực sự cũng không phải thờ Lão Tử[8]. Ông cho rằng triết lý vô vi mà Lão giáo đề cao sẽ khiến con người lười lao động, vì “Lão giáo dạy rằng chẳng nên lo làm lành, cứ để theo khí số”[9], con người không cần phải cố gắng gì cả vì số mệnh đã được sắp đặt cả rồi. Ông không đồng tình với hệ thống vũ trụ luận của Lão giáo, nhất là quan điểm “hư vô tự nhiên chi đại đạo” vốn được xem là khởi nguyên vạn vật. Với lập luận thần học chặc chẽ, rằng: “ví bằng có ai hỏi đạo ấy, hay là đàng, bởi đâu mà có? Nó thì thưa rằng: hư vô tự nhiên chi đại đạo. Mà mọi sự hóa ra thể nào, thì chẳng biết điều gì nữa. Vậy thì lấy hư vô, là không, mà chẳng có, làm căn nguyên hóa nên mọi sự: lạ đời, không, hay là chẳng có, mà làm nên được điều gì cho có ru?”[10], De Rhodes bày tỏ quan điểm của mình về sự thiếu hợp lý trong thuyết vô vi và các nghi thức phù thủy, trừ tà, gọi hồn vốn là phần thực hành phổ biến trong các cộng đồng của tín đồ Lão giáo xưa nay.

Với Nho giáo,  Alexandre de Rhodes thể hiện thái độ ôn hòa trong đối thoại, ông thừa nhận rằng Nho giáo có những giáo huấn đạo đức đáng quý, đặc biệt là đạo hiếu, đức lễ và lòng kính trọng cha mẹ. Cụ thể, ông viết: “Khổng Tử dạy phải kính cha mẹ, giữ nghĩa lễ, ấy là điều tốt. Nhưng chẳng có sự ấy mà được rỗi linh hồn. Vì chẳng biết Đức Chúa Trời”[11]. Nói cách khác, ông thừa nhận Nho giáo là tốt về luân lý xã hội nhưng vô hiệu về cứu độ thiêng liêng, tức là không cứu được linh hồn, vì không tin vào Thiên Chúa duy nhất.

Như vậy, những cách nhìn trên cho thấy Alexandre de Rhodes phân biệt rõ ràng sự khác biệt giữa đạo làm người thuộc phạm vi luân lý xã hội của Tam giáo và đạo cứu rỗi linh hồn của đức tin và thần học Kitô giáo, đồng thời ông cũng khẳng định giá trị của đức tin Kitô như yếu tố thiết yếu cho sự cứu rỗi, ông khẳng định rằng “Đức Chúa Trời là đường thật, là sự sống thật”[12]. Đồng thời cũng trong một phát biểu khác, ông khẳng định mạnh mẽ lập trường độc thần của mình khi nhấn mạnh: “Có một đạo thật, thì đạo kia là giả”[13]. Ở đây, De Rhodes áp dụng mô hình so sánh để nhận thấy Tam giáo cũng như các “đạo tốt nhưng không đủ”, để từ đó củng cố tính tuyệt đối và cứu độ của Kitô giáo. Rõ ràng sự đối thoại trong Phép giảng tám ngày của De Rhodes đối với Tam giáo và tín ngưỡng dân gian Việt Nam là nhằm để khẳng định tính chân lý tuyệt đối của Công giáo trong bối cảnh cạnh tranh tôn giáo ở Việt Nam giai đoạn này.

 

3.  Đối thoại của đối thoại về Phép giảng tám ngày ở Việt Nam và thế giới

 

3.1.  Đánh giá của các nhà nghiên cứu Việt Nam

 
Một trong những công trình sớm nhất tại Việt Nam nghiên cứu toàn diện về Alexandre de Rhodes là chuyên khảo Cha Đắc Lộ và chữ Quốc ngữ của Nguyễn Khắc Xuyên (1972). Tác phẩm này chủ yếu nhấn mạnh vai trò của De Rhodes trong việc xây dựng chữ Quốc ngữ, nhưng cũng dành một phần để bàn đến quan điểm tôn giáo của ông. Theo Nguyễn Khắc Xuyên, Alexandre de Rhodes mang đến không chỉ một hệ hình thần học phương Tây mà còn so sánh hệ thống tín ngưỡng bản địa với một cấu trúc niềm tin mới, dựa trên đức tin Kitô giáo và hệ thống khái niệm bằng tiếng Việt[14].

Đến năm 2017, Nguyễn Hữu Hiếu tiếp cận Phép giảng tám ngày như một chiến lược truyền giáo được tổ chức chặt chẽ. Ông nhấn mạnh rằng Ngày thứ Tư của tác phẩm được Alexandre de Rhodes dùng để đánh giá Tam giáo với hệ thống niềm tin và thực hành tôn giáo khác biệt so với Kitô. Theo tác giả bài viết, đây là cách De Rhodes chỉ ra các chướng ngại văn hóa bản địa trong các hình thức tín ngưỡng tự sinh để khẳng định chân lý Kitô giáo[15] (Nguyễn, 2017).

Năm 2018, nhà nghiên cứu Nguyễn Cung Thông trong bài viết “Tiếng Việt thời LM de Rhodes – vài suy nghĩ về Phép giảng tám ngày”, từ góc nhìn ngôn ngữ học, đã phân tích cấu trúc bài giảng của de Rhodes trong Phép giảng tám ngày, ông cho rằng các phần trong cấu trúc bài giảng đã phản ánh mô hình lập luận xuôi chiều: trong ba ngày đầu De Rhodes dùng để xây dựng tín điều, đối thoại với tín ngưỡng dân gian và sau đó toàn bộ Ngày thứ Tư được dành để đánh giá về tính đúng đắn của Tam giáo và khẳng định ranh giới niềm tin giữa Kitô giáo và tín ngưỡng bản địa. Mặc dù chỉ tập trung vào đánh giá về hình thức ngôn ngữ trong Phép giảng tám ngày nhưng Nguyễn Cung Thông vẫn xem đây là một chiến lược diễn ngôn hộ giáo có chủ đích của Alexandre de Rhodes[16].

Cũng trong năm 2019, Nguyễn Văn Hiếu công bố bài viết trên tạp chí quốc tế Quest: Studies on Religion & Culture in Asia (Tập 4, 2019–2020), với tiêu đề: “Religious Tolerance and Cultural Integration with Vietnamese Culture: The Case of Alexandre de Rhodes (1591–1660) and Léopold Michel Cadière (1869–1955)”. Trong bài viết, tác giả tiếp cận trường hợp De Rhodes dưới lăng kính “inculturation” (hội nhập văn hóa tôn giáo). Ông đánh giá De Rhodes là người tiên phong hội nhập văn hóa Kitô vào Việt Nam thông qua việc sử dụng chữ Quốc ngữ, soạn sách giáo lý bản ngữ và vận dụng hình thức văn hóa dân gian để truyền đạo. Ông khẳng định rằng De Rhodes đã có sự đánh giá, phân biệt rõ rệt với tín ngưỡng dân gian (thờ Trời, thần tự nhiên, Tam giáo…), từ đó ông đề xuất gọi phương pháp hội nhập văn hóa tôn giáo của De Rhodes là hình thức “hội nhập có chọn lọc”[17].

Tiếp theo đó, Trần Quốc Anh trong một bài viết thuộc Đại Chủng viện Thánh Giuse Xuân Lộc đã tiếp cận De Rhodes bằng cái nhìn khách quan hơn. Nhà nghiên cứu đánh giá Phép giảng tám ngày không chỉ có giá trị thần học mà còn có giá trị văn chương và ngôn ngữ. Trần Quốc Anh cho rằng dù Rhodes có thể hiện định kiến với Tam giáo nhưng ông vẫn ghi nhận người Việt có đời sống tâm linh và đạo đức tương thích với Kitô giáo, và đây chính là điều kiện thuận lợi để việc truyền giáo diễn ra, dẫn đến kết quả như ngày hôm nay[18].

Đến năm 2024, Nguyễn Quang Hưng và Nguyễn Đình Lâm tiếp tục khảo cứu Phép giảng tám ngày trong bài viết đăng trên tạp chí quốc tế Manusya: Journal of Humanities. Trong phần thảo luận về De Rhodes các tác giả khẳng định: Rhodes nhiều lần đánh giá về các nghi lễ như thờ tổ tiên, cúng thần linh địa phương và xem đó là trở ngại lớn trong việc truyền bá Phúc Âm vì những niềm tin và thực hành tín ngưỡng này đã tồn tại tự rất lâu đời và rất khó thay thế trong đời sống tâm linh của người Việt[19].

Gần đây nhất, đầu năm 2025, Dương Văn Biên trong bài viết trên tạp chí quốc tế Journal of Comparative Study of Religions, mở rộng hướng nghiên cứu của Peter C. Phan – một học giả người Mỹ gốc Việt về đóng góp của Alexandre de Rhodes trong công cuộc truyền giáo ở Việt Nam bằng cách xem De Rhodes như người đặt nền móng cho thần học bản địa hóa tại Việt Nam. Ông nhấn mạnh vai trò của việc chuyển dịch các khái niệm Công giáo sang tiếng Việt, đồng thời Dương Văn Biên cũng chỉ ra việc các giáo sĩ Dòng Tên, trong đó có De Rhodes, đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc truyền bá đức tin Kitô trong các cộng đồng làng xã Việt Nam[20].

 

3.2. Đánh giá của các học giả quốc tế

 
Các học giả quốc tế khi đọc Phép giảng tám ngày không chỉ quan tâm đến nội dung thần học hay phương pháp truyền giáo của Alexandre de Rhodes, mà còn suy ngẫm sâu hơn về chính các phương thức truyền đạo ẩn sau những diễn ngôn nhân danh chân lý. Họ đặt câu hỏi về phương thức mà De Rhodes thể hiện trong việc sử dụng lối lý luận thần học để khẳng định sự cứu rỗi duy nhất qua Thiên Chúa. Đồng thời, họ cũng tự nhìn lại chính cách tiếp cận học thuật ngày nay của học giới hiện đại, đặt vấn đề liệu có đang lặp lại những định kiến của thời kỳ hậu thực dân, khi các nước phát triển như Châu Âu vô tình áp đặt thứ bậc giá trị lên các nền văn hóa khác nhau.

Từ phạm vi nghiên cứu quốc tế, một trong những công trình đặt nền tảng cho cách tiếp cận Phép giảng tám ngày là nghiên cứu của Peter C. Phan (1998), Mission and Catechesis: Alexandre de Rhodes and Inculturation in Seventeenth-Century Vietnam. Trong chương cuối của cuốn sách, ông phân tích Phép giảng tám ngày trong khung lý thuyết hội nhập văn hóa bằng cách vận dụng năm mô hình hiện đại bao gồm chuyển dịch, nhân học, thực hành, tổng hợp và siêu nghiệm. Ông đánh giá Rhodes thể hiện ưu thế rõ rệt ở mô hình dịch thuật khi sử dụng tiếng Việt để truyền giáo, nhưng cũng bày tỏ sự không đồng tình ở những đánh giá có phần khắt khe của De Rhodes với tín ngưỡng bản địa, Do đó, Peter C. Phan kết luận rằng Phép giảng tám ngày là một ví dụ điển hình cho kiểu hội nhập văn hóa và sự khác nhau trong hệ thống niềm tin tâm linh của Đông - Tây”[21].

Tiếp nối hướng phân tích này, Barbara Widenor Maggs (2000) trong bài viết “Science, Mathematics, and Reason: Jesuit Approaches to Conversion in Seventeenth-Century Vietnam” đăng trên tạp chí The Catholic Historical Review (Vol. 86, No. 3), đề xuất một hướng đọc bổ sung là xem phương pháp truyền giáo của de Rhodes là sự kết hợp giữa kiến thức khoa học, toán học và lý tính nhằm thuyết phục giới tinh hoa Việt. Maggs chỉ ra rằng De Rhodes vận dụng thiên văn học để dự đoán nguyệt thực, giới thiệu đồng hồ điểm chuông và biện luận bằng lý trí như một chiến lược nhằm thiết lập không gian truyền giáo hiệu quả trong bối cảnh đa tín ngưỡng[22].

Trong bài điểm sách rất công phu “Inculturation and the Challenge of Modernity” (2010), Oscar Salemink vừa đánh giá công trình của Peter C. Phan (1998), đồng thời mở rộng thảo luận về giới hạn của De Rhodes trong nỗ lực hội nhập văn hóa tại Việt Nam thế kỷ XVII. Salemink cho rằng De Rhodes không chỉ là nhà truyền giáo tiêu biểu của Dòng Tên mà còn là người thiết kế chiến lược truyền giáo có hệ thống đầu tiên trên đất Việt. Thế mạnh của De Rhodes là ông đã có ý thức bản địa hóa về hình thức truyền giáo như sử dụng tiếng Việt hay văn học dân gian để đưa ra những ví dụ, dẫn chứng mạnh mẽ khi đánh giá các biểu hiện niềm tin tâm linh bản địa. Theo Salemink, đây là một hình thức hội nhập văn hóa tôn giáo mà ở đó nhà truyền giáo giữ vai trò định nghĩa giá trị văn hóa khi đưa ra những khẳng định về đức tin chân lý tuyệt đối. Salemink kết luận rằng Phép giảng tám ngày cần được đọc như một văn bản đánh giá về hệ thống niềm tin bản địa, không chỉ là sách giáo lý đơn thuần, và là biểu hiện sớm của một diễn ngôn thực dân về tôn giáo[23].

Tổng hợp các góc nhìn trên cho thấy: từ Peter C. Phan đến Oscar Salemink hay  Barbara Maggs, các học giả quốc tế không chỉ ghi nhận nỗ lực truyền giáo của De Rhodes mà còn đồng thời chỉ ra giới hạn, nghịch lý hay tính đúng đắn lẫn hạn chế trong phương pháp hội nhập của ông. Đặc biệt, các nhà nghiên cứu ngày càng nhấn mạnh Phép giảng tám ngày không đơn thuần là một cẩm nang giảng đạo, mà là văn bản mang tính diễn ngôn, nơi xác lập chân lý tôn giáo. Nhìn chung những nghiên cứu của một số học giả trên cho thấy nỗ lực đọc lại De Rhodes không chỉ như một nhà truyền giáo, mà còn như người tham gia vào cuộc đối thoại giữa hai nền văn hóa, hai hệ thống niềm tin. Dưới cách đọc này, Phép giảng tám ngày không còn là sách dạy đạo thuần túy, mà là văn bản chất chứa những thương lượng văn hóa giữa phương Tây Kitô giáo và tín ngưỡng bản địa Việt Nam. Từ đó, một quá trình “đối thoại của đối thoại” đang diễn ra: de Rhodes đối thoại với tín ngưỡng bản địa trong tư thế hộ giáo, trong khi các học giả hiện đại cả quốc tế lẫn Việt Nam lại đối thoại với chính văn bản ấy bằng tư duy khoa học và khách quan của người ngoài cuộc. Phép giảng tám ngày một lần nữa được khẳng định đã có đóng góp quan trọng trong việc góp phần định hình lịch sử tiếp xúc giữa Ki - Tô giáo phương Tây với Tam giáo và tín ngưỡng dân gian Việt Nam trong thế kỷ XVII.

 

4. Kết luận

 
Nhìn tổng thể, Phép giảng tám ngày của Alexandre de Rhodes không chỉ là giáo lý nhập môn mà còn là văn bản thể hiện chiều sâu tư tưởng và chiến lược truyền giáo sắc sảo. Tác giả vận dụng lập luận biện chứng, lối diễn đạt mềm mỏng nhưng chắc chắn, và chủ động sử dụng tiếng Việt để thiết lập một không gian thần học, một hiện tượng đặc biệt trong thế kỷ XVII khi La Tinh vẫn là ngôn ngữ độc tôn của thần học phương Tây. Chính sự chuyển dịch này mở đầu cho một dạng thần học bản địa, vừa phục vụ truyền giáo vừa phản ánh tiến trình tiếp xúc Đông – Tây. Cuộc đối thoại với tín ngưỡng dân gian và Tam giáo từ hệ quy chiếu Ki-tô giáo độc thần nhằm định hình lại cách người Việt hiểu về bản chất tôn giáo và niềm tin. Từ đó có thể thấy De Rhodes triển khai một chiến lược truyền giáo chặt chẽ, kết hợp lý lẽ thần học với ngôn ngữ bản địa, đồng thời mở ra góc nhìn phương Tây về văn hóa tín ngưỡng Việt Nam trong buổi đầu tiếp xúc.
(Trường Đại học KHXH & NV, ĐHQG – HCM)


Tài liệu tham khảo

1. De Rhodes, A. (1651/2015). Phép giảng tám ngày [Bản PDF số hóa]. Kho Lưu File. Retrieved from https://kholuu.wordpress.com/wp-content/uploads/2015/07/phep_giang_tam_ngay.pdf
2. De Rhodes, A. (1993). Phép giảng tám ngày. TP. Hồ Chí Minh: Tủ sách Đại Kết.
3. Dương, V. B. (2025). The contextualization of Catholic theology in Vietnam: An endeavor to integrate Christian faith within the local cultural and religious frameworks. Journal of Comparative Study of Religions, 5(2), 141–164. Retrieved from https://ejournal.unida.gontor.ac.id/index.php/JCSR/article/view/13962
4. Hiếu, N. V. (2019). Religious tolerance and cultural integration with Vietnamese culture: The case of Alexandre de Rhodes (1591–1660) and Léopold Michel Cadière (1869–1955). Quest: Studies on Religion & Culture in Asia, 4, 1–[pagination unavailable]. Retrieved from https://www.theology.cuhk.edu.hk/quest/index.php/quest/article/view/71
5. Huỳnh Ngọc Trảng, & Trương Ngọc Tường. (1999). Tín ngưỡng dân gian Nam Bộ: Những hình thái cơ bản. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Trẻ.
6. Maggs, B. W. (2000). Science, mathematics, and reason in the missionary methods of Alexandre de Rhodes. The Catholic Historical Review, 86(3).
7. Nguyễn, C. T. (2018, June 13). Tiếng Việt thời LM de Rhodes – vài suy nghĩ về Phép giảng tám ngày (phần 9). Nghiên cứu Lịch sử. Retrieved from https://nghiencuulichsu.com/2018/06/13/tieng-viet-thoi-lm-de-rhodes-vai-suy-nghi-ve-phep-giang-tam-ngay-phan-9/
8. Nguyễn, H. H. (2017). Tư tưởng thần học và chiến lược truyền giáo trong Phép giảng tám ngày. Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (6). Hà Nội: Viện Nghiên cứu Tôn giáo – Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.
9. Nguyễn, K. X. (1972). Cha Đắc Lộ và chữ Quốc ngữ. Sài Gòn: Nhà xuất bản Tự Do.
10. Nguyễn, Q. H., & Nguyễn, Đ. L. (2024). Cultural religious dimensions of the ‘ritual issue’ in pre-colonial Vietnamese and Western interactions. Manusya: Journal of Humanities, 27(1).
11. Nguyễn Hạnh. (2024). Văn hóa tín ngưỡng Việt Nam. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Trẻ.
12. Nguyễn Như Ý, & Chu Huy. (2011). Từ điển Văn hóa, phong tục cổ truyền Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin.
13. Phạm Tấn Thiên. (2014). Một số nghi lễ và tín ngưỡng dân gian nhìn từ góc độ Phật học. Tạp chí Nghiên cứu Phật học, (3), 38–45.
14. Phan, P. C. (1998). Mission and catechesis: Alexandre de Rhodes & inculturation in seventeenth-century Vietnam (pp. 191–195). Maryknoll, NY: Orbis Books.
15. Salemink, O. (2010). Inculturation and the challenge of modernity: Review essay of Phan, P. C. (1998), Mission and Catechesis in Vietnam. Church History and Religious Culture, 90(2).
16. Taylor, K. W. (2013). A history of the Vietnamese. Cambridge: Cambridge University Press.
17. Trần Quốc Anh. (n.d.). Từ Phép giảng tám ngày đến Hội đồng Tứ giáo: Các tác phẩm hộ giáo trong văn chương Công giáo Việt Nam thế kỷ XVII–XIX. Đại Chủng Viện Thánh Giuse Xuân Lộc. Retrieved from https://dcvxuanloc.net/tu-phep-giang-tam-ngay-den-hoi-dong-tu-giao-cac-tac-pham-ho-giao-trong-van-chuong-cong-giao-viet-nam-the-ky-xvii-xix/ (truy xuất 2/8/2025).
 

[1] Thực tế cho thấy, trước khi Alexandre de Rhodes biên soạn tác phẩm này (1651), “giáo lý 8 ngày” đã được các thừa sai Dòng Tên áp dụng tại Việt Nam. Theo Cristoforo Borri, khoảng 1618–1620 tại Nước Mặn (Quy Nhơn), phương pháp này đã được dùng để hướng dẫn tân tòng và lồng ghép trong giao tiếp xã hội. Điều đó cho thấy De Rhodes không “phát minh” mà kế thừa, phát triển từ thực tiễn sẵn có. Tuy vậy, căn cứ vào những gì còn lưu lại đến hôm nay, chúng ta vẫn phải thừa nhận rằng Phép giảng tám ngày vẫn là bản tổng kết hệ thống hóa hoàn chỉnh nhất, phản ánh kinh nghiệm truyền giáo đương thời và để lại ảnh hưởng lâu dài đối với hoạt động giảng dạy của các thừa sai sau này.
[2] ALEXANDRE DE RHODES (2020), Hành trình và truyền giáo (Divers voyages et missions), sđd, tr.108.
[4] ALEXANDRE DE RHODES (2020), Hành trình và truyền giáo (Divers voyages et missions), Bản dịch Việt ngữ của Hồng Nhuệ, Nxb Hồng Đức, tr. 100.
[5] Alexandre de Rhodes (2015). Phép giảng tám ngày, bản PDF. Trang 98,99
[6] Alexandre de Rhodes (2015). Phép giảng tám ngày, bản PDF. Trang 99
[7] Alexandre de Rhodes (2015). Phép giảng tám ngày, bản PDF. Trang 108
[8] Alexandre de Rhodes (2015). Phép giảng tám ngày, bản PDF. Trang 105
[9] Alexandre de Rhodes (2015). Phép giảng tám ngày, bản PDF. Trang 105
[10] Alexandre de Rhodes (2015). Phép giảng tám ngày, bản PDF. Trang 105
[11] De Rhodes, A. (1993). Phép giảng tám ngày. TP. Hồ Chí Minh: Tủ sách Đại Kết. Trang 111
[12] De Rhodes, A. (1993).  Sđd. Trang 104
[13] De Rhodes, A. (1993).  Sđd. Trang 124
[14] Nguyễn, K. X. (1972). Cha Đắc Lộ và chữ Quốc ngữ. Sài Gòn: Nhà xuất bản Tự Do.
[15] Nguyễn, H. H. (2017). “Tư tưởng thần học và chiến lược truyền giáo trong Phép giảng tám ngày”. Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (6). Hà Nội: Viện Nghiên cứu Tôn giáo – Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.
[16] Nguyễn, C. T. (2018, June 13). Tiếng Việt thời LM de Rhodes – vài suy nghĩ về Phép giảng tám ngày (phần 9). Nghiên cứu Lịch sử.
[17] Hiếu, N. V. (2019). Religious tolerance and cultural integration with Vietnamese culture: The case of Alexandre de Rhodes (1591–1660) and Léopold Michel Cadière (1869–1955). Quest: Studies on Religion & Culture in Asia, 4.
[18] Trần Quốc Anh. (n.d.). Từ Phép giảng tám ngày đến Hội đồng Tứ giáo: Các tác phẩm hộ giáo trong văn chương Công giáo Việt Nam thế kỷ XVII–XIX. Đại Chủng Viện Thánh Giuse Xuân Lộc.
[19] Nguyễn, Q. H., & Nguyễn, Đ. L. (2024). Cultural religious dimensions of the ‘ritual issue’ in pre-colonial Vietnamese and Western interactions. Manusya: Journal of Humanities, 27(1), pp 17-19.
[20] Dương, V. B. (2025). The contextualization of Catholic theology in Vietnam: An endeavor to integrate Christian faith within the local cultural and religious frameworks. Journal of Comparative Study of Religions, 5(2), 141–164.
[21] Phan, P. C. (1998). Mission and catechesis: Alexandre de Rhodes & inculturation in seventeenth-century Vietnam. Maryknoll, NY: Orbis Books. Pp. 191–195.
[22] Maggs, B. W. (2000). “Science, mathematics, and reason in the missionary methods of Alexandre de Rhodes”. The Catholic Historical Review, 86 (3). Pp. 445–450.
[23] Salemink, O. (2010). “Inculturation and the challenge of modernity”: Review essay of Phan, P. C. (1998), Mission and Catechesis in Vietnam. Church History and Religious Culture, 90(2), Pp. 473–476.
 
 

Tác giả: TS. La Mai Thi Gia

 Tags: Tư liệu

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

  Ý kiến bạn đọc

Chúng tôi trên mạng xã hội

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây