MỘT BÔNG HỒNG TỬ ĐẠO BỊ LÃNG QUÊN
Nhân kỷ niệm 324 năm ngày tử đạo của nữ giáo dân “ANÊ HUỲNH THỊ THANH”
(25.12.1700 – 25.12.2024)
DẪN NHẬP
Có một “Giáng Sinh định mệnh”:
Nếu Giáng Sinh là ngày “không được phép buồn”, là ngày của niềm vui (“Merry Christmas”), là ngày mà mọi người trên thế giới, bất luận là Kitô hữu hoặc không, đều vui mừng và hoan hỉ (“Gaudete et exsultate”) chào đón ngày giáng sinh của Đấng Emmanuel, Đấng Thiên Chúa sinh hạ làm người, để mang ơn bình an, ơn cứu độ, ơn giải thoát…, thì cũng chính vào ngày này, cách đây đúng 324 năm, chính xác là vào lúc 4 giờ sáng ngày 25.12.1700, có một người phụ nữ, một người mẹ, một nữ giáo dân Việt Nam đã trút hơi thở cuối cùng trong cảnh lao tù chỉ vì trung kiên với niềm tin Kitô hữu mà linh mục sử gia Adrien Launay của Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris (MEP) đã trân trọng ghi lại: “Vào ngày 25, ngày sinh của Đấng Cứu Thế, vào lúc 4 giờ sáng, Bà Angès hay Bà Bouy, người em thân yêu của Cha Laurent, đã hoàn thành của lễ hy sinh và bay về phía Thầy Chí Thánh của mình, trong khi bà đã không ngừng kêu cầu Danh thánh dịu hiền của Người trên môi mãi cho đến khi trút hơi thở cuối cùng”. Vâng, đó chính là cuộc tử đạo của chị Anê Huỳnh Thị Thanh, một giáo dân trung kiên thuộc cộng đoàn Lâm Tuyền (Chợ Mới) Nha Trang, vùng đất được hân hạnh đón tiếp bước chân của Vị Giám Mục Đại diện Tông Tòa Đàng Trong, Đức cha Pierre Lambert de La Motte, khi lần đầu tiên đi kinh lý mục vụ Giáo phận Tông Tòa Đàng Trong trong những năm đầu sứ vụ với cương vị Chủ chăn.
Về nhân vật “Anê Huỳnh Thị Thanh” trong tác phẩm “Inê vãn tử đạo” này có một số tác giả và tác phẩm đã lẫn lộn với Thánh tử đạo Anê Lê Thị Thành (Bà thánh Đê), một trong 117 vị thánh Tử đạo tại Việt Nam đã được ĐGH Gioan-Phaolô II phong hiển thánh vào ngày 19.6.1988. Thánh nữ tử đạo Anê Lê Thị Thành sinh năm 1781 và chịu tử đạo năm 1841. Trong khi đó, chị Anê Huỳnh Thị Thanh (trong Inê vãn tử đạo) sinh khoảng năm 1670 và chịu tử đạo năm 1700, tức trước thánh nữ Anê Lê Thị Thành hơn 100 năm. Hơn nữa, Chị Anê Thanh tử đạo năm 1700 mang họ Huỳnh, em gái cha Laurent Huỳnh Lâu, một mẹ 2 con, quê Nha Trang… còn thánh Anê Thành tử đạo năm 1841 mang họ Lê, không có anh trai nào, một mẹ 6 con, quê Thanh Hóa…
Thật ra, cuộc tử đạo của chị Anê Huỳnh Thị Thanh không chỉ là một “lời chứng đức tin mang tính cá nhân”, mà qua con người và chứng tá của chị đã vén mở cả một chân trời lịch sử sống động cả đạo lẫn đời của công cuộc loan báo Tin Mừng tại Việt Nam vào giai đoạn cuối thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18. Đặc biệt, tác phẩm “Inê tử đạo vãn” liên quan đến cuộc tử đạo của chị lại là một thành tựu thi ca Quốc ngữ đầu tiên trong lịch sử nền văn học Quốc ngữ của giai đoạn kiện toàn.
Chúng ta có thể tóm tắt về “sứ điệp tử đạo của chị Anê” trong 3 nội dung sau:
- Quê hương và gia thế của chị Anê Huỳnh Thị Thanh qua các chứng từ.
- Cuộc tử đạo của chị Anê Huỳnh Thị Thanh: Bông hồng tử đạo bị lãng quên.
- Anê Tử đạo vãn: Trường thi Quốc ngữ đầu tiên của văn học Công giáo Việt Nam.
I. QUÊ HƯƠNG VÀ GIA THẾ CỦA ANÊ HUỲNH THỊ THANH QUA CÁC CHỨNG TỪ
1. Chứng từ về quê quán của vị tử đạo Anê Huỳnh Thị Thanh:
1.1. Lâm Tuyền (Chợ Mới): Địa chỉ đầu tiên “chủ chăn gặp đàn chiên”:
Gần 12 năm kể từ khi được Tòa Thánh chính thức thành lập (9.9.1659) và hơn 9 năm kể từ khi Đức cha P. Lambert đặt chân lên thủ đô Ayutthaya của Thái Lan (22.8.1662), Giáo phận Tông tòa Đàng Trong chưa bao giờ được diễm phúc có được sự hiện diện hay viếng thăm của vị chủ chăn của mình. Bởi vì suốt những năm tháng đó, vì nhiều hoàn cảnh khó khăn, trở ngại bên trong lẫn bên ngoài, chủ quan cũng như khách quan…, Đức cha Lambert chỉ đóng đô tại Ayutthaya (Thái Lan) để “cai quản từ xa”; phải chờ đến ngày 01.9.1671, ngài mới lần đầu tiên đặt chân đến Đàng Trong, như Kỷ Yếu “60 năm Hành trình và phát triển – 1957-2017” của Giáo phận Nha Trang ghi rõ:
“Sau 9 năm chờ đợi tại Ayutthaya – Thái Lan, ngày 01.09.1671 Đức cha Phêrô Lambert de la Motte với sự tháp tùng của bốn linh mục là cha Vachet, cha Mahot, cha Giuse Trang và cha Luca Bền, đã đặt chân đến vùng đất của sứ vụ mà ngài được ủy thác, và điểm đến đầu tiên chính là địa sở Chợ Mới (Lâm Tuyền) nằm bên bờ sông Cái, Nha Trang. Theo sử gia François Fauçonnet-Buzelin, Đức cha Lambert đã đến đây vào ban đêm. Nhờ sự tổ chức của các Kitô hữu địa phương, ngài được giấu trong lưới đánh cá và cáng bằng võng đến một ngôi nhà nơi đang có các giáo dân quy tụ. Hơn 800 giáo dân lần lượt đến chào ngài và cũng trong dịp này, ngài đã ban phép Thêm sức cho khoảng 200 trẻ em cùng với vài người lớn. Sau đó, Đức cha Lambert đã đi thăm và dâng Thánh lễ cho khoảng 100 giáo dân vùng Ninh Hòa (Nha Ru) trước khi ngài lên đường đi Nước Mặn và Hội An. Như thế, vào thời điểm cuộc viếng thăm đầu tiên của vị Giám mục tiên khởi Đàng Trong, tại Khánh Hòa đã có những cộng đoàn Kitô hữu tại Lâm Tuyền (Chợ Mới), Nha Ru – Gò Muồng (Ninh Hòa) và tại vùng Phan Rang giáp ranh phủ Thái Khang”.
Linh mục Đào Quang Toản, trong tác phẩm “Lịch sử Giáo phận Đàng Trong”, cũng đã ghi lại sự kiện này như sau:
“Ngày 20.7.1671, Đức cha Lambert lên chính con thuyền nhỏ đó đi Đàng Trong, mang theo cha Mahot và cha Vachet vừa từ Pháp sáng. Như vậy, đoàn gồm một Giám mục, hai thừa sai Pháp, hai linh mục, hai thầy giảng và bốn ngư phủ. Ngày 3.8.1671, con thuyền tới biển Nha Trang và tối ngày 01 tháng 9, Đức cha Lambert và hai thừa sai Pháp vào làng Lâm Tuyền (nay là Chợ Mới), làng có 37 gia đình có đạo trong số 43 gia đình tất cả. Đức cha chỉ dừng chân vài ngày, rồi để cha Mahot và cha Luca Bền ở lại, ngài lên đường với cha Vachet và cha Giuse Trang. Ở đâu, giáo dân cũng lũ lượt tới gặp ngài, không sao ngăn cản được”.
1.2. Những cộng đoàn Kitô hữu của “một thời mở cõi về phương Nam”:
Nếu căn cứ vào “biến cố lịch sử năm 1653” thời chúa Nguyễn Phúc Tần - Dũng Quận công (1648-1687), tức sự kiện “vua Chiêm Thành xâm lấn Phú Yên, Dũng quận công sai quân đi đánh lấy đất Chiêm đến sông Phan Rang, đặt dinh Thái Khương (nay là đất tỉnh Khánh Hòa)”, thì có thể nói được, địa giới mục vụ của Giáo phận Tông Tòa Đàng Trong (1659) đã trải dài từ Sông Gianh tới sông Phan Rang (tức “vương quốc Đàng Trong” theo sự ấn định của Sắc chỉ “Super Cathedram” – 9.9.1659). Vì thế, không có gì lạ, khi vào năm 1671, lúc Đức cha Lambert kinh lý mục vụ Đàng Trong, tại Khánh Hòa (Nha Trang) đã hình thành các cộng đoàn tín hữu như Lâm Tuyền (Chợ Mới), Nha Ru (Ninh Hòa)… Chắc chắn, đây là các tín hữu đã theo chân đoàn người “di dân lập ấp” trong biến cố 1653 cũng không loại trừ những anh chị em giáo dân di tản khỏi những vùng bị cả hai triều Trịnh, Nguyễn bách hại đạo. Có thể nói được, đây là những cộng đoàn Kitô hữu đã gắn liền với thời “mở cõi về phương nam” của dân tộc Việt Nam.
2. Các chứng từ liên quan đến cuộc đời, gia đình của chị Anê Huỳnh Thị Thanh:
2.1. Từ “Tự điển Taberd 1838” đến tác phẩm “Inê Tử Đạo Vãn”:
Trước khi đọc các chứng từ về chị Anê Huỳnh Thị Thanh được rút ra từ tác phẩm “Inê tử đạo vãn”, thiết tưởng chúng ta cần biết được “sự xuất hiện” chính thức của tác phẩm này chẳng những trong xã hội Việt Nam mà cho cả thế giới. Thật vậy, khi nói tới tác phẩm “Inê tử đạo vãn” thì phải phải nghĩ ngay tới hai cuốn Tự điển: An-nam – La-tinh (Dictionarium Anamitico-Latinum) và La-tinh – An-nam (Dictionarium Latino-Anamiticum) do Đức cha J.L. Taberd nhuận chính và biên soạn lại từ cuốn Tự điển 1772 của Đức cha Pigneau de Béhaine (1741-1799), và được xuất bản tại Belgale, Ấn Độ năm 1838. Chính trong cuốn Tự điển thứ hai của Đức cha Taberd, tác phẩm “Inê tử đạo vãn” được in bằng 4 ngôn ngữ: Anh, Pháp, La tinh và Quốc ngữ.
TỰ ĐIỂN ANAMITICO-LATINUM 1772
(ĐC P. PIGNEAU DE BÉHAINE)
TỰ ĐIỂN ANAMITICO-LATINUM 1838
(ĐC. J.L. TABERD)
Chúng ta thử dừng lại để tìm hiểu khái quát hai cuốn Tự điển rất quan trọng và giá trị này.
Chúng ta được biết, vào năm 1838, Đức cha J.L. Taberd, Giám mục hiệu tòa Isauropolis, Đại diện Tông Tòa Giáo phận Đàng Trong, Giáo phận Cam bốt và Giáo phận Xiêm đã xuất bản hai cuốn Tự vị tại nhà in J.C. Marshman tại Serampore tại Bengale, Ấn Độ, nơi mà ngài đã tìm cách tạm dung sau cuộc bách hại của Minh Mạng năm 1833; và sau khi phong chức Giám mục và ủy nhiệm cai quản mục vụ cho Đức cha Cuénot Thể (3.5.1883).
2.1.1. Cuốn một: tự vị An-nam – La-tinh (Dictionarium Anamitico-Latinum – Nam Việt dương hiệp tự vị):
TỰ ĐIỂN ANAMITICO-LATINUM CỦA TABERD 1838
(CUỐN I)
Đây là cuốn Tự vị được hiệu đính lại từ cuốn Tự vị Anamitico-Latinum do Đức cha P.J. Pigneau de Béhaine, Giám mục hiệu tòa Adran, Đại diện Tông tòa Đàng Trong, biên soạn năm 1772 tại Pondichéry.
Trong cuốn này, phần tiếng “An-nam” được trình bày bằng hai loại “Quốc ngữ”: Quốc ngữ “Nôm” (Chế tác từ chữ Hán) và Quốc ngữ “La tinh hóa” (Dùng mẫu tự La tinh để chế tác chữ Việt).
Phần chú thích mở đầu (MONITUM) của cuốn tự điển An-nam – La-tinh (Dictionarium Anamitico-Latinum) 1838 nguyên thủy bao gồm các nội dung:
- Chuỗi chữ cái An Nam được sắp xếp theo thứ tự.
- Kết hợp các phụ âm đầu với các nguyên âm.
- Kết hợp các nguyên âm với các phụ âm cuối.
- Lời nói đầu (Proœmium).
- Tóm lược ngữ pháp.
- Luận bàn về các từ và đại từ khác nhau, rất hữu ích cho việc diễn đạt một cách thanh nhã ngôn ngữ An Nam.
- Danh từ số đếm (Nomina numeralia).
- Tóm tắt về thể thơ An Nam (Compendium versificationis Anamiticæ).
Riêng trong mục Tóm tắt về thể thơ An Nam (Compendium versificationis Anamiticæ), ban biên soạn cuốn Tự điển thứ nhất này (Anamitico- Latinum) đã có một phần minh giải khá chi tiết về các thể thơ của Việt Nam, với niêm luật được minh họa bởi những bài thơ tiêu biểu như:
- Loại thơ “Vãn” (Lục bát): với 6 câu thơ lục bát (không đề tên tác giả)
- Loại “Thất ngôn bát cú” (Đường luật): 1 bài mang tên “Phán xét công bình thơ”, một bài mang tên “Bắt đạo thơ”. Cả hai đều không đề tên tác giả.
- Loại thơ “Ngũ ngôn”: với bài “Tứ thời” của Thôi Hiệu.
- Loại “Văn Tế” (Điếu văn tang lễ): với hai bài văn tế mẫu (mẫu văn đặt vần bình và mẫu văn đặt vần trắc) bằng chữ Quốc ngữ cũng không đề tên tác giả.
Về các bài thơ minh họa không đề tên tác giả thì theo nhà nghiên cứu LINH MỤC PHANXICÔ X. ĐÀO TRUNG HIỆU, trong bài chuyên luận “Thánh Philipphê Phan Văn Minh, cánh én báo mùa xuân văn học chữ quốc ngữ thế kỷ XIX” đã cho rằng chính Thánh tử đạo Philipphê Phan Văn Minh, người cọng tác với Đức cha Taberd soạn hai cuốn tự điển Anamicico-Latinum và Latiino-Anamictico 1838, đã soạn tác các bài thơ này và đưa vào Tự điển.
Riêng về hai bài “Văn tế mẫu” thì ngay trong Tự điển có thêm ghi chú số 1 (Nota 1) bằng tiếng La tinh để nói về xuất xứ (hoàn cảnh sáng tác) như sau:
Nota 1. Duo ultima exemplaria quae ad laudationem mortuorum spectant, desumpta sunt ex orationibus habitis in funere D. D. Petri Pigneau Episcopi Adranensis nec non Vicarii Apostolici Regnorum Cocincinae, Capodiae et Ciampae, anno 1799, die vero nona octobris defuncti, atque die 16e Decembris sepulti amplo funere celebrato cui ipsae Gia Long Rex Concincinae adfuit.
Ghi chú 1. Hai bài mẫu cuối cùng liên quan đến việc ca ngợi người quá cố được trích từ các bài diễn văn trong lễ tang Đức cha Pierre Pigneau, Giám mục Adran, kiêm Đại diện Tông tòa của các vương quốc Nam Kỳ, Campuchia và Chăm-pa. Ngài qua đời vào ngày 9 tháng 10 năm 1799 và được an táng trọng thể vào ngày 16 tháng 12 cùng năm, trong một lễ tang lớn mà chính vua Gia Long của Nam Kỳ đã tham dự..
Được biết, trong tang lễ của Đức cha Pigneau de Béhaine tại Sài Gòn ngày 16.12.1799 có tất cả 4 bài Văn Tế: Hai bài do Đặng Đức Siêu (1751-1810) chắp bút: một cho chúa vương Nguyễn Ánh đọc và một cho Hoàng tử Cảnh đọc. Hai bài còn lại được nói ở trên cũng không đề tên tác giả. Tuy nhiên, dựa vào thời điểm xuất hiện chính thức của hai bài Văn tế nầy (16.12.1799), thì tác giả không thể là Thánh Philipphê Phan Văn Minh; vì thánh Minh sinh năm 1815, trong khi hai bài Văn tế nầy đã xuất hiện trong lễ tang của Đức cha Pigneau de Béhaine năm 1799, trước ngày sinh của thánh Minh 16 năm!
Sở dĩ dừng lại khá lâu cho cuốn tự điển Anamitico-Latinum 1838, vì đây là sự kiện liên quan đến “Anê tử đạo vãn”, một nội dung sẽ được bàn kỷ hơn nơi phần III.
2.1.2 Cuốn hai: Tự vị La-tinh – An-nam (Dictionarium Latino-Anamiticum):
Đây là cuốn Tự vị thứ hai, cũng trên nền tảng của cuốn Tự vị năm 1772. Tự vựng được sử dụng theo mẫu tự La tinh và phần dịch nghĩa tiếng “An-nam” chỉ trình bày bằng chữ Quốc ngữ (theo mẫu tự la tinh).
Đặc biệt, trong cuốn Tự vị này, phần đầu, ngoài phần dẫn nhập, có thêm tư liệu “Bổn tiếng La tinh” (một khóa trình tổng lược về “văn phạm tiếng La tinh”). Nơi phần cuối cuốn Tự điển có hai Phụ lục: Phụ lục một: Tổng hợp các từ thông dụng theo 4 cột tiếng song song: Anh, Pháp, La tinh và Quốc ngữ. Riêng phần Phụ lục hai: Đính kèm tác phẩm Inê Tử đạo vãn cũng được in thành 4 thứ tiếng với 4 cột song song: Anh, Pháp, La tinh và Quốc ngữ.



TỰ ĐIỂN LATINO-ANAMITICUM CỦA TABERD 1838
(CUỐN II)
Về tác phẩm “Inê tử đạo vãn”, chúng ta sẽ bàn kỷ hơn trong Phần III. Ở đây, chúng ta chỉ bàn đến những chi tiết về nhân vật Anê Huỳnh Thị Thanh được tác phẩm “Inê tử đạo vãn” trình bày.
2.2. “Inê tử đạo vãn” và nhân vật “Anê Huỳnh Thị Thanh”:
Chính trong những khổ thơ đầu tiên (từ câu 5-24) của Bài Vãn 561 câu này đã cho chúng ta những chứng từ cụ thể về gốc gác, lai lịch, gia đình (Curriculum vitae) của vị nữ nhân tử đạo Anê Huỳnh Thị Thanh:
Có người đức hạnh danh Lam,
Dòng truyền giữ đạo nước nam nên tài,
Ca rô lô hiệu là người.
Diên ninh ấy phủ, nhà nơi Lâm Tuyền.
Vợ hiệu Sa ve là tên,
Giai lão kết nguyền, đạo đức kính tin.
Sinh đặng mười hai con hiền,
Bảy trai, năm gái, đã nên phước nhà!
Trọn bề trung hiếu thảo hòa.
Lo ren thứ nhứt thật là trưởng nam,
Phú dâng cho Chúa mặc làm.
Học hành thông suốt, chức đang nên thầy;
Vào ra xem sóc nước nầy,
Lòng cha mừng phỉ lo tây chẳng hề.
Gái thì đặng một I nê,
Là con thứ tám trọn bề thảo ngay,
Vốn hiền từ bé nhẫn nay.
Nết na khiêm nhượng tính hay nhơn từ.
Tuổi vừa mười sáu thu dư,
Sa ve Chúa rước mẫu từ lìa con.[24]
Qua những dòng trên, chúng ta có thể tóm tắt những điểm đáng lưu ý trong “sơ yếu lý lịch” của chị Anê Huỳnh Thị Thanh:
- Cha mẹ của chị Anê: Cha: ông Carôlô Huỳnh Lam; mẹ: bà Isave. Gia đình Công giáo đạo đức, có tiếng tăm...
- Sinh quán của chị: Tại Lâm Tuyền (Chợ Mới) thuộc phủ Diên Ninh (Khánh Hòa).
- Gia đình chị có tất cả 12 anh chị em gồm 7 trai 5 gái.
- Anh trai đầu của chị là cha Laurent Huỳnh Lâu, một linh mục thông thái.
- Chị Anê là người con thứ 8 trong gia đình, đạo đức nết na.
- Năm chị lên 16 tuổi thì mồ côi mẹ…
Trong những đoạn sau thì ta được biết thêm gia đạo của chị Anê:
- Năm 19 tuổi, vâng lời cha, chị lập gia đình với người chồng tên thánh Máccô.
- Anh chị sinh được hai đứa con trai: tên thánh là Nabê (Banabê) và Phaolô.
- Năm chị 28 tuổi thì người cha cũng từ trần.
- Ông Carôlô Lam từ trần ở Đồng Nai (vì thời gian đó, gia đình ông cố Lam vào Đồng Nai, vùng đất mới đã được chúa Nguyễn tiếp thu từ nước Chân Lạp, để canh tác) và được cha Laurent Lâu đem về Nha Trang (Diên Ninh) an táng …
- Năm 1700 chị bị bắt, giam đói trong ngục thất Nha Ru, tuyên xưng đức tin và chịu chết.
2.3. Chứng từ lịch sử về chị Anê (của các thừa sai):
Trong tác phẩm “Văn học Công giáo Việt Nam đương đại”, nhà nghiên cứu Bùi Công Thuấn cho rằng các nhân vật trong “Inê tử đạo vãn” chỉ là những “nhân vật hư cấu theo loại hình “tiểu thuyết”. Trái với nhận định trên, bằng nhiều chứng từ hùng hồn, rõ ràng, xuyên suốt của các thừa sai đương thời, chúng ta phải khẳng định rằng: Các nhân vật (Ông Carôlô Lam, bà Anê, cha Laurent, anh của Anê …) được kể trong “Inê tử đạo vãn” đích thị là những nhân vật có thực, nhân vật lịch sử của Giáo Hội Việt Nam thời bách hại vào thế kỷ 17-18. Chúng ta cũng đừng quên rằng: loại hình thơ “Vãn” không bao giờ là để vinh danh, tán thán hay thương tiếc một nhân vật “hư cấu”, “giả tưởng”…, mà chủ yếu là để nhắm đến một nhân vật, một vị thánh, một người thân yêu có thật đã khuất; riêng trong loại “Vãn Công Giáo”, Giáo sư Nguyễn Văn Trung nhận xét: “Đa số vãn tuồng đạo dùng để ca ngợi Thiên Chúa, Đức Mẹ, các Thánh… chứ không xưng tụng những người còn sống, đương quyền (kể cả hàng giáo phẩm. (…). Đặc biệt, đề cao những người vì trung thành với Thiên Chúa mà phải đón nhận những khổ đau, kể cả việc hy sinh tính mạng, như trường hợp bà I-nê trả lời quan:
“Tôi xin chịu chết chẳng nề,
Trả công ơn Chúa, công kia ngãi này”.
Sau đây là những chứng từ lịch sử của các thừa sai đương thời để chứng minh sự trùng khớp minh nhiên này:
2.3.1. Tường thuật của 2 thừa sai Gouge và Braud: Một gia đình thuộc diện “di dân” từ Nha Trang đến Đồng Nai:
“Sau đây là hoàn cảnh bà Anê và những người thân khác của Cha Laurent, người mà như Cha (Cha Gouge) biết, đã học tại trường trung học ở Xiêm, bị bắt vì đạo thánh chúng ta: Nha Trang là nơi sinh quán của dòng tộc, tổ tiên họ; nhưng kể từ khi nhà vua Đàng Trong đánh chiếm vương quốc Champa, thì phần lớn thần dân của ông ta di chuyển đến các trấn của vương quốc nhỏ bé ấy. Bố của Cha Laurent, cùng với chỉ một phần gia đình ông, đã đi sâu vào tận Đồng Nai, giáp giới với Cao Miên; ở đấy, cụ già tốt lành và hòa hiếu ấy, từ khoảng 20 năm nay, chăm lo việc canh tác một vùng đất do cụ vỡ hoang. Thế nhưng, khi mới nổ ra cuộc bách hại lần này, Cha Laurent đã về ở đó và ẩn náu một thời gian; nhưng thời gian đó, hoặc ít tháng sau, bố của ngài ngã bệnh và qua đời. Cha Laurent đưa thi hài cụ xuống thuyền để chuyển về chôn cất trong khu mộ các tổ tiên của ngài ở Nha Trang”.
2.3.2. Thư của thừa sai Gouge gởi cho thừa sai Braud: về “vụ đám tang của ông Carôlô và uy tín của cha Laurent” khiến ngài được tự do sau khi bị xét xử:
“Cha Laurent, mà trước đây có tên là Ma-nuy-en hồi còn học tại trường trung học ở Xiêm, đến từ biên giới Cao Miên, nơi mà ngài đưa thi hài của bố ngài về Nha Trang, sinh quán của ngài, để chôn cất. Khi ngài cùng với các anh em chị của mình, và một thanh niên mang dòng máu hoàng tộc, nhưng hơi phóng khoáng, đi thuyền vào, họ đã tranh cãi với mấy người thu thuế về một vài số thuế mà họ không muốn nộp. Do tụ tập và có hơi ngà ngà, một người trong đám thu thuế vô tình đặt chân lên chiếc quan tài, vị linh mục, còn táo bạo hơn mức cần thiết, cho đóng gông người ấy và đưa đến Nha-ru. Kết quả dẫn đến một vụ án khiến người ta phát hiện có việc liên quan đến các Kitô hữu khiến họ bị bắt, trừ Cha Lô-răng đã trả tiền bảo lãnh để được tự do” (Cha Estréchy, V.K.H.T.G.H.N., tập 725, tr. 62).
“Cha Laurent thoạt đầu cũng bị đóng gông và bị tra hỏi; nhưng bởi vì ngài tự xưng là nhân viên của quan lưu thủ Dinh Cát, vốn là người yêu mến ngài và đạo và đã cấp cho ngài một giấy chứng nhận có đóng triện của ông ta, để người ta công nhận ngài với tư cách ấy trong các chuyến đi của ngài, các quan lớn tại Nha-ru rõ ràng là đã xem ngài như một quan viên của Dinh Cát, đến mức ngài đã đút lót cho họ để được tự do đi lại, và động viên các Kitô hữu bị gam cầm và bị kết án bỏ đói cho đến chết, và nhất là người em gái của ngài.” (Thư Cha Ausiès gửi BGĐ……, ngày 1 tháng 7 năm 1704. V.K.H.T.G.H.H., tập 738, tr. 653).
2.3.3. Thư của thừa sai Courtaulin gởi cho Đức cha Lambert: Về việc “Ông Carôlô Huỳnh Lam: vị ân nhân giúp xây dựng cộng đoàn nữ tu Mến Thánh Giá Lâm Tuyền (Chợ Mới):
“Tuy nhiên, ơn Chúa đã dần dần đánh động đến tâm hồn ông Carôlô ở Lâm tuyền, nên ông nói với Cha Bouchard là ông quyết định đóng góp của cải và công việc của ông để làm nhà cho các trinh nữ. Cha Bouchard báo cho con biết tin ấy, con đã trả lời ngài là nếu ngài làm ngôi nhà ấy mà con chẳng phải tốn kém gì vào đó, thì con sẽ tặng ngài 10 quan tiền không kể 2 quan rưỡi mà Ben Tang đã cho để làm việc ấy; và ngay cả phải cho nguyên một thỏi bạc đi nữa, miễn là ngôi nhà phải có bốn căn và hai chái, thì con cũng sẵn lòng.”.
2.3.4. Thư của thừa sai Forrget gởi Đức cha Laneau (1692): Nhà của cha mẹ chị Anê, cha Laurent là nơi tập trung của giáo dân trong vùng thời bách hại:
Dinh Nha-ru (Ninh Hòa) có một nhà thờ lớn và chín nhà chung trong dinh; hiện chỉ còn một nhà mà Cha Féret đến ở khoảng ba tháng nay; có khoảng 20 người xưng tội và 10 hoặc 12 người rước Lễ, số còn lại đã bỏ hẳn. Nhà thờ của dinh, tại Nha-ru cũng đã được tháo dỡ; nhưng nhiều Kitô hữu vẫn tập họp tại nhà ông Sach, cũng như tại nhà Cha Manuel (Laurent).
2.3.5. Hồi ký của thừa sai Labbé: về “Người anh cả trong gia đình của chị Anê Thanh” là Linh mục Laurent Huỳnh Lâu (Manuel): Một linh mục xuất chúng trong bốn linh mục của Đàng Trong do Đức cha Laneau phong chức tại Thái Lan:
“Ngày lễ thánh Gioan Tẩy Giả, tôi cho tập họp tất cả các trùm họ trong số các Kitô hữu tại địa phương, để công bố cho họ biết Đức Cha đã rất hài lòng khi thấy họ nôn nao xin cho có được một linh mục ở lại luôn với họ; vì việc này mà Đức Cha, muốn họ hài lòng vì được ưu tiên hơn các nơi khác, đã chỉ định cho họ Cha Manuel như là một trong các giáo sĩ có khả năng nhất đã được nuôi dạy tai chủng viện Xiêm; do đó Đức Cha hy vọng bằng sự thẳng thắn và lòng đạo đức mà họ sẽ tiếp đón ngài một cách vui mừng và luôn đối xử với ngài đầy vinh dự và tôn kính dựa vào tính cách và tài năng đặc biệt của ngài. Tất cả những con người tội nghiệp ấy đều hết sức hài lòng và tỏ ra cho thấy vô cùng biết ơn về sự quan mà Đức Cha dành cho phần rỗi của linh hồn họ.
Ngay trong hôm ấy, Cha Manuel đã cho thấy một điển hình về sự hiểu biết của ngài. Đang khi chúng tôi trò chuyện với các Kitô hữu, thì một ông nhà nho, cho là mình biết hết mọi thứ, bước vào; tôi bảo ông ta để ý đến Cha Manuel và bảo ông ta: “Chỉ có người kia mới gây khó được cho ông thôi, nhưng nếu chuyện đó xảy ra, thì chỉ còn cách phải bật lại người ấy bằng những lý lẽ đúng đắn trước mặt các Kitô hữu, thì sau này người ấy mới không còn dám xuất hiện trước mặt ông nữa.” Sau đó Cha Manuel nói với tôi đôi điều về sự chuyển động trên bầu trời, và những điều về triết học. Vì chúng tôi nói tiếng la-tinh, nên ông nhà nho kia chen vào hỏi tôi là chúng tôi đang nói chuyện gì vậy; tôi trả lời ông ta là chúng tôi đang nói đến những cuộc nhật thực, nguyệt thực, lý do xảy đến những việc như vậy, v.v..., v.v... và ông nhà nho thông thái ấy liền la lên: “Những gì các ngài nói đều không đúng, vì các sách Trung Hoa không nói đến điều gì tương tự.” Tôi cãi lại: “Vị linh mục mà tôi đưa đến cho ông đây không sắp xếp bầu trời theo cách của người Trung Hoa.” Và Cha Manuel tiếp lời, đưa ra nhiều thí dụ hợp lý, đến nỗi ông thầy nho thông thái ấy cứ ngẩn người ra, không biết mình đang ở đâu, nhưng khi phải nói đến kích thước mặt trời và mặt trăng, so với những gì chúng ta đang nhìn thấy về chúng, thì ông đồ nho thông thái càng ngạc nhiện hơn và chẳng còn biết đưa ra lý lẽ gì nữa; bởi vì ông ta cứ tưởng hai vì tinh tú ấy không lớn hơn như chúng ta nhìn thấy; nhưng Cha Manuel đưa ra cho ông nhiều so sánh khiến ông ta buộc phải thú nhận mình đã nhầm, rồi quỳ sụp xuống đất, theo tập quán địa phương, để tỏ lòng tôn kính cả hai chúng tôi: với Cha Manuel, thì như thể là sư phụ của ông ta, còn với tôi để tỏ lòng biết ơn vì đã đưa đến một linh mục quá thông thái như vậy. Kể từ lúc đó, các Kitô hữu chỉ nhìn xem Cha Manuel như là một thủ lĩnh, và còn phân biệt ông thầy nho với ngài như đem một con bồ câu non so với một chú chim đại bàng vậy…”.
Thật tình mà nói: trong bộ lịch sử truyền giáo tại Đàng Trong của sử gia thừa sai linh mục Launay thật hiếm có linh mục bản xứ nào được nhắt đến rất nhiều và cách trân trọng, với nhiều sự kiện, biến cố, bút tích liên quan như linh mục Laurent. Chúng ta sẽ tiếp tục đọc thêm các chứng từ liên quan vè ngài trong các sự kiện liên quan đến cuộc tử đạo của người em gái Anê và tác phẩm “Inê tử đạo vãn”.
Qua các hồi ký, thư tín, báo cáo… của các Giám mục, linh mục… được thừa sai Launay cũng là sử gia của MEP tổng hợp trong tác phẩm Histoire de La Mission de Cochinchine, chúng ta còn gặp nhiều chứng từ về các nhân vật cũng như sự kiện liên quan đến cuộc tử đạo của chị Anê mà thiên trường ca “Inê tử đạo vãn” đã tường thuật!
THÁNH LÊÔ CẢ, Bài đọc II Kinh Sách lễ Giáng Sinh: “Hôm nay Đấng Cứu Độ chúng ta đã giáng sinh, chúng ta hãy vui mừng. Chúng ta không được phép buồn khi mừng ngày sự sống xuất hiện. Ngày kỷ niệm nầy phá tan sự sợ hãi trước cái chết và ban cho chúng ta niềm hân hoan được sống đời đời”.
“MERRY CHRISTMAS”: Câu chúc phổ thông của thế giới dịp lễ Giáng Sinh, đặc biệt thuộc vùng ảnh hưởng văn hóa Mỹ-Âu; nhất là kể từ ngày xuất hiện ca khúc “We wish you a merry Christmas” vào thế kỷ 16. (x. NHẬT THÙY, Chúc mừng Giáng Sinh, vì sao nói “Merry Christmas” thay vì “Happy Christmas”?, website Báo điện tử VTC News - Đọc báo tin tức trong ngày hôm nay, đăng ngày 23/12/2024).
“GAUDETE ET EXSULTATE” (HÃY VUI MỪNG HOAN HỈ): Tông huấn của ĐGH Phanxicô được ban hành ngày 19.03.2018, nhân dịp mừng 5 năm đánh dấu ngày khai mạc sứ vụ “kế vị thánh Phêrô” (19.3.2013-18). Nội dung tông huấn là lời mời gọi Dân Chúa nên thánh trong thời đại đầy thách đố này.
Adrien Launay (1853-1927): Linh mục thuộc Hội Thừa Sai Paris (Société des Mission Etrangères de Paris - MEP) đến Mỹ Tho-Nam Kỳ năm 1877; về Pháp năm 1882 và từ năm 1884 đặc trách công tác lưu trữ của chủng viện MEP. Cha Launay biên soạn nhiều tác phẩm liên quan đến công cuộc truyền giáo tại Việt Nam. (x. NGUYỄN THỪA HỶ (Tuyển dịch, giới thiệu và bổ chú), Việt Nam thế kỷ XVII, XVIII, XIX, Nxb Khoa Học Xã Hội 2020, tr. 405-407).
Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris, tên tiếng Pháp: La Société des Missions Etrangères de Paris (cách viết tắt: Les MEP, sở dĩ phải có thêm chữ “de Paris”, vì muốn phân biệt với một Hội thừa sai khác tại Pháp do Cha (thánh) Vincent de Paul thành lập để đào tạo người đi truyền giáo Ba Tư). Xem đầy đủ lịch sử hình thành MEP qua bài viết: Lịch sử hình thành Hội Thừa Sai Paris của tác giả MICHEL TRƯƠNG, đăng trên trang web của HĐGMVN ngày 20.8.2021, link: LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH HỘI THỪA SAI PARIS.
ADRIEN LAUNAY, Histoire de La Mission de Cochinchine, Documents historiques I, 1658-1728, Paris, 1923, p. 465: “Le 25, jour de la naissance du Sauveur, sur les 4 heures du matin, Ba Angès ou Ba Bouy, cette chère soeur du P. Laurent, acheva de consommer son sacrifice et prit l’essor vers son divin Maitre, don’t le doux nom fut sur ses lèvres jusqu’au dernier soupir”.
Sau đây là hai tác giả có sách và bài viết lẫn lộn cách minh nhiên:
- NGUYỄN HỮU TRỌNG, Nguồn gốc hàng giáo sĩ Việt Nam, Nxb Tôn giáo 2023, tr. 232.
- TẠ THANH MINH KHÁNH, bài viết “Người nữ thời cấm đạo”, đăng ngày 22.6.2018 trên website của Giáo phận Ban Mê Thuột: http://gpbanmethuot.com/giao-duc-kito-giao/nguoi-nu-thoi-cam-dao-43110.html.
X. HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM, GIÁM MỤC PHÊRÔ NGUYỄN VĂN KHẢM CHỦ BIÊN, Hạnh Các Thánh Tử đạo Việt Nam, Nxb Tôn giáo 2018, tr. 222-223.
Ngày 9.9.1659, với Sắc chỉ Super Cathedram, Đức Giáo Hoàng Alexandro VII đã thiết lập hai Giáo phận Tông Tòa Đàng Ngoài và Đàng Trong và giao cho hai Giám Mục: Pierre Lambert de La Motte: Đại diện Tông Tòa Đàng Trong (Vicario apostolico in regno Cocincinae) và François Pallu: Đại diện Tông tòa Đàng Ngoài (Vicario apostolico in regno Tunchini).
P. LAMBERT DE LA MOTTE, Ký sự giản lược cuộc hành trình của các thừa sai tông tòa do Tòa Thánh trực tiếp sai tới các vương quốc Trung Hoa, Đàng Ngoài, Đàng Trong, Lào, đảo Hải Nam, AMEP, vol. 121, số 14: Các thừa sai rời Tenasserim đi Xiêm: “Ngày hôm sau, các thừa sai lên một con thuyền thuê 15 đồng ê-cu để đưa họ tới Xiêm, kinh đô vương quốc. Họ đi bộ khoảng trọn một ngày thì tới bờ biển, rồi đi thêm 24 tiếng nữa tới cửa con sông Xiêm lớn và đẹp (Sông Chao Phraya). Thuyền đi ngược dòng, tới nơi ngày 22 cùng tháng”.
Về địa danh “Lâm Tuyền”: có nơi gọi “Lâm Thuyền” hoặc “Lâm Thuyên”. Riêng lm. Đào Quang Toản, trong phần Ghi chú số 439 của tài liệu “Ký sự Đức cha Lambert de le Motte”, Ký sự 8, số 140, đã cho biết: “Địa danh Lâm Tuyền được Đức cha Lambert sử dụng bốn lần trong tập Ký Sự. Trong bản do chính tay ngài viết thì ghi “Lâm Tuyền”, bản sao lại thì ghi “Lâm Thuyền”. Ở đây, chúng ta gọi là Lâm Tuyền (mà nay là giáo xứ Chợ Mới”.
TÒA GIÁM MỤC GIÁO PHẬN NHA TRANG, Kỷ yếu Giáo phận Nha Trang, 60 năm hình thành & phát triển – 1957-2017, Nxb Tôn giáo 2017, tr. 72.
ĐÀO QUANG TOẢN, Lịch sử Giáo phận Đàng Trong, Nxb Tôn giáo 2023, tr. 44.
PHAN KHOANG, Việt sử: xứ Đàng Trong, Nxb Khoa học xã hội 2016, tr. 160.
BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian, Nxb An Tôn & Đuốc sáng 2017, tr. 110: Ghi chú 238: “Về địa chính trị, lúc bấy giờ (1659) sông Phan Rang là biên giới phía Nam của Đàng Trong. Xem QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN, Đại Nam Nhất Thống Chí, tập 3, quyển 11, tỉnh Khánh Hòa, tr. 102. Như vậy sông Phan Rang là biên giới phía Nam của Giáo phận Đàng Trong khi mới thành lập”.
L. TABERD, (TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC HỌC), Dictionarium Anamatico-Latinum, Nxb Văn Học (VH) 2018, tr. 2: Lời Nói đầu: Cũng theo L. Malleret, “theo M.G.Taboulet, thủ bản của “Dictionarium Anamatico- Latinum” chỉ là một bản sao chép lại, bản gốc đã bị mất trong một trận hỏa hoạn ở chủng viện giáo phận, mà Đức Giám Mục đã cho chuyển dời về miền Cà Mau. Bản văn của Hội Truyền Giáo Hải Ngoại mang niên đại là năm 1772. Về sau, cũng theo tác giả trên, Giám mục Taberd đã soạn lại tác phẩm, với những ghi chú do vị tiền nhiệm khả kính để lại, và chính thành quả của công việc làm này đã được xuất bản ở nhà in của J. Marshnam, ở Serampore, năm 1883 (…). Khi so sánh với thủ bản gốc của quyển thứ nhất thì thấy rằng (Giám mục Taberd) thay đổi rất ít so với tác phẩm nguyên thủy.”.
ĐÀO QUANG TOẢN, Lịch sử Giáo phận Đàng Trong, sđd, tr. 410.
J.L. TABERD, (TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC HỌC), Dictionarium Anamatico-Latinum, sđd, tr. 52 (Lii): Bài viết của TRẦN VĂN TOÀN, Tiến sĩ triết học, cử nhân thần học, cựu Giáo sứ Đại học Công giáo Lille (Pháp): “Cũng nên chú ý rằng các sách Nôm của người Công giáo Việt Nam trong gần bốn thế kỷ đều gọi chữ Nôm là quốc ngữ, để phân biệt nó với chữ Hán là chữ viết của người Tàu. Gần đây chúng ta mới gọi chữ viết theo mẫu tự la tinh là chữ quốc ngữ”.
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM, ỦY BAN VĂN HÓA, Tài liệu hội thảo, 25&26.10.2019, “Bốn trăm năm hình thành & phát triển chữ quốc ngữ trong lịch sử loan báo Tin mừng tại Việt Nam, tr. 344-351.
J.L. TABERD, (TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC HỌC), Dictionarium Anamatico-Latinum, sđd, tr. 48 (xLviii).
X. NGUYỄN VĂN SÂM, Văn học Nam Hà (Văn học Đàng Trong thời phân tranh), Nxb Lửa Thiêng 1972, tr. 231-244.
SĐD, tr. 232, Ghi chú số 5.
J.L. TABERD, Dictionarium Latino-Anamiticum, Nxb Marshman 1838 (Phần dẫn nhập: Bổn dạy tiếng La tinh: từ tr. 7-81; Phụ lục 1: từ tr. 803-916: Từ vựng phổ thông tứ ngữ (Anh, Pháp, La tinh, Quốc ngữ); Phụ lục 2: từ trang 917-942: Inê tử đạo vãn).
J.L. TABERD, Dictionarium Latino-Anamiticum, sđd, Phụ lục 2: Inê tử đạo vãn, tr. 918.
X. TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, Đất & Tên qua dấu thăng trầm, xuất bản lưu hành nội bộ năm 2023, tr. 26: “… cuộc nam tiến kết hợp cả ngoại giao, chính trị, quân sự, kinh tế mà cuộc hôn nhân của Ngọc Vạn Công chúa, thứ nữ của chúa Sãi, và vua Chetta II của Chân Lạp năm 1620 là một cột mốc ghi đậm dấu ấn. Từ đây, những bước chân của người Việt, từ quân binh để bảo hộ Việt kiều hoặc huấn luyện và yểm trợ cho đội quân Chân Lạp chống lại người Xiêm đến những đoàn di dân kinh tế, đã xuất hiện lần lượt từ Đồng Nai, đến Biên Hòa rồi Sài Côn Bến Nghé, mà việc Thống Suất Nguyễn Hữu Cảnh lập Phiên Trấn (Phủ) Gia Định năm 1698.” (x. TRẦN THUẬN, Đàng Trong lịch sử và văn hóa, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2021, Công nữ Ngọc Vạn với công cuộc định cõi phương nam của dân tộc Việt Nam, tr. 39-46; PHAN KHOANG, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558-1777, sđd, tr. 173).
Về cuộc an táng cụ Carôlô tại Nha Trang đã được thừa sai Gouge tường thuật khá rõ và được LAUNAY ghi lại ở hai nơi trong Histoire de la Mission Cochinchine, vol. I, tr. 461 (Ghi chú 1) và tr. 467.
BÙI CÔNG THUẤN, Văn học Công giáo Việt Nam đương đại, Nxb Hội nhà văn 2022, tr. 455-456.
LM. TRĂNG THẬP TỰ (Chủ biên), Hướng đến 400 năm văn học Công giáo Việt Nam (1632-2032), Quyển I, bài viết: Bước đầu giới thiệu và tìm hiểu vãn – tuồng đạo, tr. 682.
ADRIEN LAUNAY, Histoire de La Mission de Cochinchine, sđd, tr. 467.
Khi đi học tại chủng viện thánh Giuse bên Ayutthaya, cha Laurent Huỳnh Lâu mang tên Manuel (Hoặc Manuel Trẻ). Sau khi chịu chức linh mục về Việt Nam hoạt động một thời gian thì ngài đổi tên là Laurent: “Cha Manuel trẻ, hiện đã đổi sang tên cha Laurent, luôn có mặt ở hạt của mình tại Dinh Cát; và bất chấp lệnh cấm đạo, ngài vẫn làm việc rất tốt, nhờ ơn Chúa đến mức, khi thời gian và tình hình cho phép, ngài đã khắc phục được khó khăn do cuộc bách hại gây ra.” (X. Tường trình của thừa sai Labbé gởi cho Đức cha Laneau: ADRIEN LAUNAY, Histoire de La Mission de Cochinchine, sđd, tr. 371).
NGUYỄN HỮU TRỌNG, Nguồn gốc hàng giáo sĩ Việt Nam, Nxb Tôn giáo 2023, tr. 217-218.
ADRIEN LAUNAY, Histoire de La Mission de Cochinchine, sđd, tr. 355.