Trang mới   https://gpquinhon.org

Chúa Nhật XV Thường Niên

Đăng lúc: Thứ tư - 08/07/2015 18:54
CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN
(Mc 6, 7 - 13)




Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam ghi lại tên tuổi hai vị giáo sĩ truyền giáo nổi tiếng: Đức Cha Lambert de la Motte và Đức Cha Francois Pallu. Vào thế kỷ 17, Toà Thánh đã đặt hai giám mục này làm Giám Quản Tông Toà đầu tiên ở Việt Nam: Đức Cha Lambert de la Motte phụ trách Đàng Trong (từ sông Gianh trở vào Nam) kiêm Camquchia, Lào, Thái Lan. Đức Cha Francois Pallu phụ trách Đàng Ngoài (từ sông Gianh trở ra Bắc) kiêm Trung Quốc.

Đức Cha Francois Pallu là người pháp, từ bỏ gia đình và quê hương vào ngày 3.1.1662, ngài dùng tàu buồm vượt qua Địa Trung Hải rồi men theo đường bộ một thời gian lâu dài, qua hết các nước Trung Đông, Vịnh Ba Tư, Ấn Độ mới đến Thái Lan. Năm 1670, trên đường đến miền Bắc Việt Nam, lúc đi ngang qua Huế, thuyền của ngài bị một cơn bão đánh giạt vào Philippin. Ngài bị người Tây Ban Nha bắt bỏ tù rồi đem giải về Tây Ban Nha.Với sự can thiệp của Toà Thánh, Tây Ban Nha trả tự do cho Đức Cha. Tuy phải trải qua nhiều gian khổ, nhưng tim ngài vẫn luôn sáng chói một niềm hy vọng. Ngài nói: “Tôi phải đem Tin Mừng đến tận Trung Quốc”. Vừa được trả tự do, ngài tìm mọi cách đến Bắc Kinh, và cuối cùng thân xác ngài được chôn vùi tại đây theo như ngài mơ ước. một câu nói của ngài đáng cho chúng ta ghi nhớ: “Tôi tự cho mình hạnh phúc nếu có thể đem xương cốt mình bắc một nhịp cầu tới Bắc Việt và tới Trung Quốc!”. (Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Vâng, cuộc đời truyền giáo của Đức Cha Francois Pallu tại đất nước ta cũng như biết bao nhà truyền giáo khác trên khắp thế giới đã gắn liền với đời tông đồ và cái chết tử đạo của mười hai Tông Đồ.

Hôm nay, chính Chúa Giêsu tuyển chọn Nhóm Mười Hai để các ông được ở với  Ngài và để được Ngài huấn luyện. Ngài dạy dỗ họ, yêu thương họ, chỉ cho họ con đường dẫn tới Nước Trời, trình bày cho họ về nước Thiên Chúa, cho họ thấy quyền năng của Ngài, rồi sai họ đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng. Khi sai họ ra đi, Chúa Giêsu đã trao cho họ tất cả những gì mình có: quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ.

Khi chia tay tình Thầy trò, họ bắt đầu lên đường. Hành trang của họ mang theo chẳng có gì: Không lương thực đi đường, không bao bị, không tiền bạc, không mặc hai áo... Các ông lên đường với tất cả sự thanh thản nhẹ nhàng, không lo âu, không bối rối, không bận tâm. Càng nhẹ nhàng thì càng dễ thi hành sứ mạng và càng được tự do. Tuy nhiên sự nhẹ nhàng này thật là một thách đố. Khi người tông đồ phải lên đường với hai bàn tay trắng, không có lương thực dự trữ, lúc đó họ phải hoàn toàn lệ thuộc vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa và lòng tốt của tha nhân. Ra đi với hai bàn tay trắng như thế là chấp nhận mọi bất trắc có thể xẩy ra dọc đường, nhưng cũng là để đặt mình thường xuyên dưới sự quan phòng và yêu thương của Chúa. Chính Chúa lo tất cả mọi sự cho họ, để họ chuyên tâm lo việc của Chúa. Sự an toàn của họ không dựa vào những phương tiện trần thế, nhưng hoàn toàn vào chính Thiên Chúa.

Chúa Giêsu cũng dạy cho các ông biết thái độ phải có khi đến với dân chúng. Nếu được đón tiếp thì hãy ở lại, không tìm một nhà khác tiện nghi hơn. Người tông đồ cần có đời sống khó nghèo, phải biết đón nhận những gì được trao cho mình với lòng biết ơn. Nếu không được đón tiếp thì cũng không nên nản lòng. Cử chỉ giũ chân ra đi cho thấy người tông đồ chẳng hề muốn lấy đi điều gì ở nơi đã từ chối đón tiếp mình.

Theo lệnh Chúa, các Tông đồ ra đi, làm những việc Chúa đã làm: xức dầu cho bệnh nhân, chữa họ lành, rao giảng Tin Mừng, thúc giục người ta cải thiện đời sống. Nhân danh Chúa, các ông làm được nhiều việc lạ, đã trừ quỉ.

Chúa sai các ông đi từng hai người, như vậy, Chúa đã thiết lập những cộng đoàn nhỏ. Các ông là những chứng nhân, và chứng nhân càng nhiều thì càng có giá trị. Một cộng đoàn, bao giờ cũng có lợi hơn là một người đơn độc. Trong cộng đoàn người ta nhắc nhở nhau, nâng đỡ nhau sống trung thành với luật Chúa, nhất là việc làm chứng tình thương của Chúa ngay trong cộng đoàn. Chúa đòi hỏi các Tông đồ phải nhất thiết trở nên mẫu mực về tình bác ái huynh đệ. Và làm sao thực thi bác ái được, nếu mỗi người chỉ sống cho mình và sống một mình. Dân chúng thời các tông đồ đã nhận ra dấu chứng này nơi cộng đoàn tín hữu đầu tiên: “Coi kìa, họ yêu thương nhau biết bao!”. Và đó cũng là định hướng của chính Đức Kitô: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là thấy các con yêu thương nhau”. Cuộc sống yêu thương trong cộng đoàn vừa là dấu hiệu của người môn đệ Chúa, vừa là lời rao giảng sống động, hùng hồn nhất về Tin Mừng của Chúa.

Các tông đồ, các bậc tiền nhân đã quên mình vì Tin Mừng tình yêu Nước Thiên Chúa. Xin cho mỗi người chúng con luôn biết kế thừa niềm tin, sự hăng say và nhiệt huyết của các Ngài, sẵn sàng ra đi để rao truyền danh Chúa bằng chính đời sống bác ái, hy sinh, phục vụ quên mình. Xin giúp chúng con biết dùng cuộc sống yêu thương để làm chứng cho Tin Mừng ngay trong cộng đoàn và trong môi trường sống của chúng con.


 
Tác giả bài viết: Lm Phanxicô Phạm Đình Triều
Nguồn tin: Gpquinhon.org
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

 

   

LƯỢT XEM TRANG

  • Đang truy cập: 61
  • Khách viếng thăm: 43
  • Máy chủ tìm kiếm: 18
  • Hôm nay: 13518
  • Tháng hiện tại: 96226
  • Tổng lượt truy cập: 12385938