Các bài suy niệm Chúa nhật 24 Thường niên B

Thứ sáu - 14/09/2018 08:15

CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN – B
Lời Chúa:  Is 50,5-9a;  Gc 2,14-18;  Mc 8,27-35

  
ĐỨC TIN TRỌN VẸN (ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

Đức tin là ơn ban của Thiên Chúa mà chúng ta nhận được khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy. Vì là một ơn ban hay quà tặng, nên ta có thể gìn giữ hoặc có thể đánh mất đức tin. Thiên Chúa ban đức tin cho mọi người đều giống nhau, tuy vậy, có người có đức tin mạnh mẽ, người khác lại có đức tin yếu kém. Như vậy, đức tin yếu kém hay mạnh mẽ là do cá nhân người đã lãnh nhận. Để được xứng danh người tín hữu, chúng ta phải có một đức tin trọn vẹn.
Đức tin được gọi là “trọn vẹn” được thể hiện qua ba khía cạnh: Tuyên xưng đức tin, Sống đức tin và Loan truyền đức tin. Thiếu một trong ba khía cạnh này, có thể nói chúng ta chưa được một đức tin trọn vẹn.
Để tuyên xưng đức tin, chúng ta phải hiểu nội dung của đức tin như Giáo Hội dạy. Những chân lý đức tin được truyền lại từ bao thế hệ. Qua những “tín điều” được Giáo Hội chính thức tuyên xưng trong kinh Tin Kính, người tín hữu nhận ra sự hiện diện của Chúa trong đời, đồng thời cảm nhận được sự dẫn dắt của Ngài giữa bao sóng gió của trần gian. Đức tin được tuyên xưng cách cá nhân: “tôi tin”, và cũng được tuyên xưng cách tập thể, tức là với sự hiệp thông trong Giáo Hội: “chúng tôi tin”. Đức tin được tuyên xưng trong phụng vụ, nhưng cũng phải được tuyên xưng trong cuộc sống hằng ngày.
Để sống đức tin, chúng ta phải thực hiện Lời Chúa dạy trong mối tương quan với anh chị em. Nhiều người tín hữu quên mất khía cạnh quan trọng này. Vì thế, đời sống hằng ngày đi ngược với điều họ tuyên xưng trong nhà thờ. Đức tin phải thấm nhập đời sống người tín hữu và thể hiện qua việc làm, để rồi, những người chưa tin Chúa sẽ nhận ra Ngài nơi chính cuộc đời của chúng ta. Nói cách khác, cuộc đời người tín hữu là một “cuốn Tin Mừng thu gọn”, diễn tả cuộc đời Chúa Giêsu, làm chứng nhân cho Người giữa đời.
Để loan truyền đức tin, người tín hữu phải hiểu biết Chúa và trình bày giáo huấn của Người cho anh chị em mình. Loan báo Tin Mừng là bổn phận của mỗi Kitô hữu. Tuy vậy, việc loan báo Tin Mừng chỉ đem lại những hiệu quả thiết thực, nếu người loan báo thực sự tuyên xưng và sống đức tin, như đã nói ở trên. Họ như người đã thực sự gặp gỡ Chúa và chia sẻ cho anh chị em về kinh nghiệm gặp gỡ ấy.
Lời Chúa hôm nay giúp ta nhận ra đâu là đức tin trọn vẹn. Thánh Giacôbê khẳng định: Đức tin không có việc làm là đức tin chết. Đức tin chết có nghĩa là đức tin không được tuyên xưng, không được sống (thực hiện) và không được loan truyền. Đối với những người có đức tin mà không có việc làm, món quà đức tin bị họ giấu kín, thậm chí chôn vùi sâu trong lòng đất, vì thế, đức tin không sinh hoa kết trái.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bất ngờ đặt cho các môn đệ câu hỏi: “Người ta nói Thầy là ai?”. Trước câu hỏi này, các ông tỏ ra lúng túng. Thì ra, mặc dù đã có một thời gian dài làm môn đệ Chúa Giêsu, các ông vẫn chưa hiểu rõ về thân thế Thầy mình. Các ông chỉ biết nói theo lời đồn và theo dư luận: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.”
“Thầy là Đức Kitô!”. Đó là lời tuyên xưng Đức tin của thánh Phêrô. Phêrô thận trọng để cho những anh em khác trả lời dựa trên dư luận của quần chúng xung quanh chân tính của Đức Giêsu, và ông là người có tiếng nói sau cùng. Cũng có thể lúc đó, ông mới nhận ra điều ông biết về Chúa là điều chắc chắn.
Mặc dù thận trọng như thế, xem ra Phêrô vẫn chưa có một đức tin trọn vẹn. Sau khi các môn đệ có một định nghĩa chính xác về sứ mạng thiên sai của Chúa, Người mới tỏ cho các ông biết, Đấng Kitô phải trải qua cuộc thương khó, nhưng sẽ phục sinh. Mác-cô không ghi lại lời khen của Chúa như Matthêu, nhưng ông cũng nhắc lời Chúa khiển trách Phêrô là Satan, khi ông này muốn can gián Chúa về ý tưởng thập giá và khổ nạn. Kể cả sau khi đã tuyên xưng Đức tin, các môn đệ chưa thể chấp nhận được quan niệm về một Đấng Thiên sai khổ nạn để cứu chuộc con người. Nơi Phêrô cũng như nơi mỗi chúng ta hôm nay, chúng ta vừa tuyên xưng Đức tin vào Chúa, đồng thời cũng vẫn gặp khó khăn khi đối diện với thập giá. Đó là lý do tại sao một số tín hữu ngày nay, tin vào Chúa Giêsu mà khước từ thập giá, hoặc chỉ chọn lựa Chúa Giêsu mà loại bỏ thập giá. Chúa Giêsu không có thập giá không phải Chúa Giêsu của mặc khải và cũng không phải là Đấng Cứu độ trần gian. Thập giá không có Chúa Giêsu chỉ là biểu tượng của sự hận thù, cam chịu và chẳng có giá trị bày tỏ tình yêu. Khi Phêrô có ý khước từ thập giá, Chúa Giêsu đã khiển trách ông nặng lời và gọi ông là Satan.
Thập giá gắn liền với Đức Kitô. Thập giá cũng gắn liền với mỗi Kitô hữu. Tác giả sách Ngôn sứ Isaia đã diễn tả người Tôi tớ đau khổ của Giavê như một nạn nhân bị bạc đãi đến mức tột cùng (Bài đọc I). Sau này, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã trải qua đòn vọt tra tấn giống y như vậy. Dù bị sỉ nhục hành hạ, người Tôi tớ của Đức Giavê vẫn một lòng tín thác ở Thiên Chúa, là Chúa Thượng và là Đấng phù trợ trung thành. Đây cũng là gợi ý cho mỗi chúng ta trong việc tuyên xưng và sống đức tin. Muốn trung thành với Chúa, đòi hỏi phải vượt lên những khó khăn, với lòng tín thác nơi Chúa, luôn xác tín rằng Ngài không bao giờ bỏ rơi chúng ta.
Hành trình cuộc đời còn nhiều gian nan vất vả. Đã là người chẳng có ai tránh khỏi những thử thách. Tuy vậy, trước một khó khăn, người có Đức tin cảm thấy lối thoát nhờ Đấng Tối cao; người vô thần cảm thấy như mình đứng trước ngõ cụt. Người tin Chúa tìm thấy sức mạnh và an ủi; người vô tín thấy mình chơi vơi giữa con sóng biển đời. Chúa Giêsu đã đến trần gian, Người không hủy bỏ thập giá nơi kiếp sống con người, nhưng Người cùng vác thập giá với họ để chia sẻ gánh nặng cuộc đời. Con người không còn đơn lẻ trong chặng đường thập giá, vì có Con Thiên Chúa vác cùng. Sau thập giá là vinh quang của phục sinh. Chấp nhận thập giá và kiên cường bước đi, đó là bằng chứng của người tín hữu có đức tin trọn vẹn.
“Tin là chịu đựng sự khó hiểu của Thiên Chúa suốt đời” (Karl RAHNER, Linh mục  dòng Tên và thần học gia người Đức, 1904-1984).


TỪ BỎ CHÍNH MÌNH (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)

Từ bỏ là hy sinh. Hy sinh là mất mát. Do đó, lời mời gọi của Chúa Giêsu “ Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình “ ( Mc 8, 34 ) có ý nghĩa cao vời bởi vì đây chính là nét đẹp của tình yêu. Thánh Gioan đã định nghĩa :” Thiên Chúa là Tình Yêu “. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng máu, bằng chính cả mạng sống của mình. Lời mời gọi của Chúa Giêsu có tính tự do, Người không bắt buộc con người. Con người hoàn toàn tự do khước từ hoặc chọn đi theo Chúa. Người mời gọi con người, chúng ta từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ mọi sự, kể ngay cả mạng sống.
Đức Giêsu hôm nay, sau khi đã nghe các câu trả lời, những điều nhiều người nghĩ về Người, gán ghép cho Người và đặc biệt đã hiểu rõ các môn đệ biết Người là ai qua lời tuyên tín của Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô “ ( Mc 8,29 ). Phêrô tuyên xưng một Đức Kitô Cứu thế, nhưng không chấp nhận con đường thập giá của Người. Chúa Giêsu gọi đó là thái độ của Satan bởi vì ngay sau tuyên tín Thầy là Đấng Cứu thế. Chúa đã loan báo con đường đau khổ Ngài phải đi, Phêrô đã cản ngăn Chúa. Phêrô và các môn đệ thực sự giờ phút,lúc đó vẫn chưa hiểu được con đường thập giá của Chúa. Các Ngài chỉ hiểu được sứ mệnh của Chúa Giêsu khi Ngài từ trong cõi chết sống lại.Phêrô và các môn đệ đã cảm nghiệm con đường Thầy mình đã đi qua, các Ngài đã sống đến tận cùng lời tuyên xưng của mình.Nên, tất cả các môn đệ đều chấp nhận cái chết khổ hình của Chúa. Tất cả các Ngài đều hy sinh mạng sống vì tình yêu.Tất cả đều từ khước vinh hoa, địa vị, tiền tài để được lặp lại cái chết của Thầy mình.
Chúa Giêsu nói :” Ai muốn theo Ta, vác thập giá mỗi ngày mà theo Ta “. Lời mời gọi của Chúa được gửi tới tất cả mọi người mang danh Kitô. Chúa mời gọi tất cả tham gia vào cuộc tử nạn của Người. Chúa Giêsu mời gọi con người vác thập giá của mình, mỗi người một thập giá, mỗi ngày một thập giá. Chúa không bảo con người đi tìm thập giá bởi vì nếu tìm thập giá là tìm sự đau khổ, như vậy đạo chúng ta là một đạo chuyên gieo rắc sự đau khổ, làm cho con người chán ngán, rút lui. Đạo của Chúa là đạo tình yêu. Thiên Chúa không bao giờ đặt trên đôi vai, trên con người thánh giá quá sức mỗi người.Làm môn đệ của Chúa là chấp nhận thập giá. Chúa đã biết trước, đã tiên liệu, đã hiểu được giới hạn, sức chịu đựng của mỗi người. Ngài trao thập giá cho mỗi người tùy theo sức vác, sức chịu đựng của mình.
Vâng, môn đệ của Chúa không bao giờ được khước từ thập giá vì mỗi lần chúng ta, mỗi lần con người từ chối sống bác ái, yêu thương là mỗi lần con người chối từ thập giá. Mỗi lần chúng ta không chấp nhận cuộc sống hiện tại Chúa tặng ban là chúng ta minh nhiên từ khước thập giá của Chúa. Mỗi lần chúng ta tự đóng khung trong vỏ sò, không chịu đến với anh em nghèo, chia sẻ với họ lương thực, hay lời động viên là chúng ta chối từ thập giá Chúa trao.  Điều Chúa muốn con người, muốn chúng ta hãy hết lòng tín thác, cậy trông vào Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, vào sự quan phòng kỳ diệu của Ngài, chứ đừng sống theo những ảo ảnh, phù vân, những dễ dãi, đam mê, dục vọng, xác thịt, tội lỗi…” Ai liều mạng sống vì Ta sẽ được sống “ ( Mc 8, 35 ). Mất đời này vì Chúa sẽ nhận được sự sống vĩnh cửu.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn can đảm dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, vác thập giá mỗi ngày mà theo Chúa bằng việc từ bỏ những ham muốn, những thói hư, tật xấu, những điều tiêu cực,đam mê, dục vọng.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Đạo của Chúa Giêsu là đạo gì ?
2.Từ bỏ theo ý Chúa là gì ?
3.Đạo của Chúa Giêsu có phải là đạo đi tìm thập giá không ?
4.Vác thập giá hằng ngày là gì ?
5.Liều mất mạng sống vì Chúa là gì ?


NHẬN BIẾT CHÚA KITÔ (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
         1) Nhận biết Đức Kitô
Toàn bộ Tin Mừng thánh Marcô nhằm mục đích trả lời cho câu hỏi: “Chúa Giêsu là ai?” Nhưng trong trích đoạn Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu lại minh nhiên đặt cho các môn đệ câu hỏi : “Các con bảo Thầy là ai? ” Chúng ta, những Kitô hữu giờ đây nghe và đọc lại cũng buộc phải trả lời.
Trong các chương Tin Mừng của Chúa nhật trước, Chúa Giêsu đã không minh nhiên trả lời câu hỏi đặt ra về chính mình, nhưng các việc Người làm tự nó là những câu trả lời về chính Chúa.

  • Người làm cho kẻ què đi được, ý nói, Người ban cho con người khả năng bước đi trong cuộc sống;
  • Người làm cho kẻđiếc nghe được và người câm nói được, như thế, Người là Đấng có lời ban sự sống và lý giải vê cuộc sống;
  • Người làm kẻ chết sống lại, chứng tỏ, Người là Đấng bảo trợ sự sống;
  • Ngườilàmcho người mù thấy được, chứng tỏ Người là Ánh Sáng, đến chiếu tỏa ánh trần gian;
  • Người làm cho sóng yên biển lặng, như vậy, Người là Chúa tể trời đất ;
  • Người hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn trong sa mạc, thể hiện,Người là Đấng nuôi dưỡng nhân loạicả xác lẫn hồn.
 Đọc lại và thấy tất cả những việc Chúa “làm”, chúng ta đi đến kết luận : “Người là Đấng Mêssia” (tiếng Hy lạp là : Đức Kitô)”. Tiếc thay, nhiều người đương thời, ngay cả chúng ta ngày hôm nay nữa vẫn không nắm bắt được sự mới mẻ vĩ đại của Chúa Giêsu, vì thế với câu hỏi, “Người ta bảo Thầy là ai?” Phần lớn trả lời “người làm việc ” không hơn không kém các tiên tri trước Người. “Còn các con, các con bảo Thầy là ai? ” Là câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ của mình, nhân danh cả nhóm Phêrô trả lời : “Thầy là Đức Kitô! Phêrô đưa ra một câu trả lời chính xác, không nói khác được, vì ông biết rõ Chúa Giêsu là Đấng Mêssia. Việc Chúa chết và sống lại là điều không tưởng, nhưng điều không tưởng tượng được ấy Chúa Giêsu đã hoàn tất cách vinh quang, điều duy nhất có thể thay đổi lịch sử nhân loại. Nói theo kiểu Heidegger, nếu không có Chúa, con người chỉ là một “sinh vật phải chết“, cái chết của Chúa “gắn” liền với Thập giá; Người “giải thoát chúng ta khỏi ràng buộc” của sự chết.
Cần phải nhắc lại, câu trả lời của thánh Phêrô hàm chứa sự hiểu biết sâu xa về tình yêu chịu đóng đinh. Chính con đường Thập giá hoàn tất mục đích cứu độ của Chúa Giêsu. Khi Phêrô, vị Thủ lãnh các Tông Đồ thưa Chúa : “Thầy là Đức Kitô“. Chúa Giêsu, Đấng Mêsia cảm thấy cần phải nhấn mạnh, Con Thiên Chúa phải chịu đau khổ nhiều. Vì thế, vấn nạn “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” Chúa Giêsu đặt ra cho chúng ta hôm nay. Câu trả lời : “Thầy là Đức Kitô, Tình Yêu bị đóng đinh và sống lại” mới đủ ý nghĩa. Thánh Phaolô viết : “Nếu Đức Kitô không sống lại, đức tin của chúng ta là mơ hồ“, Chúa biết Thập giá, tự nó không phải là một trở ngại cho ơn cứu rỗi. Thập giá là điều kiện. Thập giá không phải là cây cột của người La Mã, nhưng là cây gỗ để Thiên Chúa viết Tin Mừng.
Đấng Mêsia mời gọi chúng ta lên núi Calvariô với Chúa và bước theo Chúa chịu đóng đinh trên Thập giá, Đấng bị kết án tán dương sự công chính, Đấng chết đi để xác nhận sự sống, Người bị đóng đinh để bước vào vinh quang.
Bằng cách bước theo Chúa Kitô và tin tưởng vào lòng từ ái của Người, chúng ta hãy rang rộng cánh tay và mở rộng lòng mình như Đấng bị đóng đinh trên Thập giá. Tất nhiên, để làm điều ấy, như thánh Phêrô, chúng ta phải nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, Đấng Cứu Độ, chấp nhận Thập giá như “chìa khóa” Chúa dùng để mở Trời và đóng cửa địa ngục. Đấng Cứu Chuộc đã vác “chìa khóa” nặng nề trên vai, anh cảm thấy gánh nặng và trách nhiệm khi bị đóng đinh treo trên thập giá đó. Đức Kitô trao cho thánh Phêrô “chìa khóa” Nước Trời và kêu gọi ông đóng đinh với Người, vác lấy gánh nhẹ nhàng trên vai Ngài như Người, dạy cho ông biết sự khiêm nhường và dịu dàng để “cởi trói” những người nô lệ thế gian, xác thịt và ma quỉ “ràng buộc” họ với Chúa Kitô trong một giao ước vĩnh cửu làm cho họ trở nên con cái của Cha vĩnh cửu trên trời.
         2) Tình yêu đích thực vì bị đóng đinh                 
Tất nhiên, chúng ta cũng vậy, như Thánh Phêrô, chúng ta cũng muốn rời xa Thập giá Chúa. Nhưng Ma quỉ, Tên Cám Dỗ, nỗ lực lôi kéo chúng ta ra khỏi (Con đường Thánh Giá), thay thế nó bằng một con đường được thiết lập bởi sự khôn ngoan loài người.
Chúa Kitô đã vạch trần Tên Cám Dỗ và vượt qua hắn : Cả cuộc đời Người là một lời “xin vâng” không ngừng đối với Thiên Chúa và là một lời “từ chối” luôn mãi đối với Ma quỉ. Chúa Giêsu đã chiến thắng Ma quỉ. Ma quỉ lại cố gắng lôi kéo môn đệ của Thầy Giêsu : để tách rời Đấng Mêssia khỏi thập giá, tách họ ra khỏi niềm tin vào Chúa Giêsu- Vua và ngaivàng của Người là cây Thập giá.
Sau khi thể hiện thiên tính của mình và vạch mặt sự hiện diện của Tên Cám Dỗ, Chúa Giêsu mạc khải cho các môn đệ và nhân loại biết con đường Chúa đi. Không có hai con đường, một cho Chúa Giêsu, một cho các môn đệ, mà chỉ có một : “Ai muốn theo Thầy, phải từ chối chính mình và vác thập giá mình mà theo“, vì Thánh giá là biểu tượng của tình yêu bị đóng đinh.
 Quả thật, Thánh giá là “hình phạt đối với người Do thái và sự điên rồ đối với dân ngoại” (1 Cor 1,18-24) chúng ta thật khó để hiểu và chấp nhận nó.
Tình yêu bị đóng đinh không phải là tình yêu bị chết, nhưng là tình yêu “hy sinh”. Để yêu thương, Chúa Giêsu đã tự nộp mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Nếu chúng ta muốn yêu thương như Chúa Kitô, chúng ta phải biết và làm điều đó. Thánh giá là dấu chỉ lớn nhất của tình yêu Thiên Chúa đối với con người.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con vui mừng đón nhận và đi theo Chúa chịu đóng đinh, nhưng sống lại để cứu chuộc chúng con. Amen.


THẦY LÀ AI? (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

Câu hỏi có lẽ rất thường, nhưng lại rất quan trọng, vì để biết được mình đang theo ai? Có sai lầm chăng? Có hoang tưởng chăng? Để chắc chắn biết mình theo ai và mình là ai, nhất là ảnh hưởng đến cả vận mệnh cuộc đời?
Người ta nói Thầy là ai?
Câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra để thẩm định người theo Chúa, là theo ai ?
Theo một số người cho là Gioan Tẩy Giả. Nghĩa là họ đã nhận ra nơi Chúa một sứ điệp hoán cải vì Nước Trời gần đến. Họ đã không nhận ra Chúa chính là Nước Trời đang ở giữa họ..
Sự hoán cải Gioan Tẩy giả kêu gọi nơi mỗi người họ để ngoài tai, họ chỉ mong thay đổi một thế giới bên ngoài thay đổi, còn chính họ thì không. Chúa mời gọi mỗi người hoán cải ngay nơi chính mình, chứ không ai khác hay điều gì khác. Và đó là một điều khó khăn vì người ta có thể thắng bên ngoài nhưng lại khó thắng nổi chính mình. Thánh Phao lô diễn tả, đó là cuộc chiến nội tâm.
Một số người nhận ra là Elia, người phải đến để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế xuất hiện.
Nhóm người này chờ đợi từ một nhân vật, làm thay cho họ tất cả để thay đổi.
Con người thường đi tìm cho mình một vị chúa theo ước mong của mình. Vị chúa ấy đến để cải tổ xã hội, mang lại cơm no, áo ấm, trật tự và an sinh. Tiếc rằng Chúa không đến mang an bình theo ước mơ ru ngủ của họ. Chúa đến mang lại sự chống đối (Lc 12, 49 – 53) vì sự dữ chống lại sự thiện hảo Chúa mang lại, sự sáng đẩy lùi bóng tối. Con người theo Chúa luôn được mời gọi chiến đấu để thắng được tội lỗi và sự dữ bao quanh. Không thể nhờ vào một sức mạnh của nhân vật nào mà cần nhờ vào sức mạnh Chúa ban cho.
Một số người nhận định là Giêrêmia.
Nhóm người này khát mong một người hùng đến giải thoát họ khỏ đế quốc Roma, nhưng lại thấy Chúa Giêsu hiền lành quá, như một tiên tri chịu nhiều đau khổ, bị loại trừ. Họ cảm thương cho số phận của Chúa, đôi khi họ cũng thấy cảm thương cho số phận của mình, gặp nhiều nguy khốn, cả người ngay thẳng vả người tỗi. Điều khó giải thích nhất đối với người Do Thái, chỉ có người tội lỗi mới chịu nhiều đau khổ, mà Chúa là người công chính cũng chịu nhiều đau khổ như các ngôn sứ thời xưa. Đau khổ là một vấn đề nan giải, kẻ sống trong sự dữ đôi khi lại thành đạt, sống sung sướng hơn người công chính?
Với các tông đồ.
Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Câu trả lời của Thánh Phêrô thay cho các tông đồ khác được Chúa khen đúng lắm. Nhưng theo nghĩa nào? Theo cách hiểu của Thánh Phêrô, Chúa là Đấng giải thoát con người khỏi sự dữ, khỏi đau khổ và sự chết.  Thánh Phêrô không lý giải tại sao Chúa lại chịu bắt bớ, sỉ nhục và cả cái chết trên thập giá. Sau này Thánh Phêrô và các Tông đồ đã hiểu ra, đó là Tình Yêu Cứu Chuộc, một tình yêu chết cho người mình yêu.
Đí xa hơn nữa, Thánh Irene giải thích đó là một tình yêu hoán đổi : Thiên Chúa làm người, để con người trở nên con Thiên Chúa. Tình yêu hoán đổi là tình yêu mang lấy chính thân phận của con người, Người là Đấng vô tội lại trở nên tôi nhân, để cứu những người mang tội.
Trong tình yêu mang lấy con người mới hiểu về Đấng Cứu Thế cách dồi dào. Một tình yêu mang lấy sẽ là một tình yêu : đón nhận tất cả, hy sinh tất cả, chịu đựng tất cả và tha thứ tất cả. Một tình yêu Thánh Phao lô trình bày trong bài ca đức mến (1Cor 13, 4 – 7).
Xin cho chúng con nhận biết Chúa đích thật để chúng con được đổi mới trong Chúa.


CHÚA KITÔ (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

Trở về làng nhỏ nơi đây,
Đọc đường Chúa hỏi, vậy Thầy là ai?
Các ông đáp lại đều sai,
Gio-an Tẩy Giả, mở khai lối đường.
Ê-li-a đấng phi thường,
Tiên tri nào đó, yêu thương xuống trần.
Môn đồ lúng túng tinh thần,
Nhìn quanh Người hỏi, thần nhân thế nào?
Được ơn linh hứng trên cao,
Phê-rô đại diện, cao rao chính Thầy,
Ki-tô Đấng Thánh này đây,
Năng quyền dấu chỉ, đong đầy thánh ân.
Giê-su nghiêm cấm biện phân,
Loan tin khổ giá, gian trần giết đi.
Ba ngày sống lại phát huy,
Thương ban sự sống, gẫm suy sống đời.
Chúa Kitô là trung tâm điểm của vũ trụ. Ngài chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa. Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống. Chúa Kitô là Ngôi Hai Thiên Chúa Nhập Thể. Chúa Giêsu xuất hiện rao giảng tin mừng, nhưng người ta không biết thực sự Chúa là ai. Bài Phúc âm hôm nay, Chúa hỏi các môn đệ rằng: Người ta bảo Thầy là ai? Các ông đáp: Thưa là Gioan Tẩy giả, là Êlia hay một vị tiên tri nào đó. Như vậy, chưa ai biết về nguồn gốc chính xác về Chúa Giêsu.
Chúa lại hỏi các Tông đồ: Còn các con, các con bảo Thầy là ai? Phêrô đại diện các Tông đồ liền tuyên xưng: Thầy là Đấng Kitô. Lời tuyên xưng thật chính xác, nhưng vượt ngoài sự hiểu biết của ông. Đấng Kitô có nghĩa là Đấng được xức dầu. Khi Chúa Giêsu mặc khải về Đấng Kitô sẽ phải chịu đau khổ, bị các kỳ lão chối bỏ, bị giết và sẽ sống lại. Phêrô lại là người đầu tiên can ngăn Chúa. Như vậy Phêrô tuyên xưng Chúa là Đấng Kitô, nhưng ông đã không hiểu sứ mệnh của Chúa Kitô.
Ai trong chúng ta cũng có tâm trạng giống thánh Phêrô. Chúng ta đâu muốn thầy mình bị đau khổ và chúng ta cũng không muốn chịu đau khổ. Đôi khi chúng ta vác thánh giá theo Chúa, chúng ta còn tìm mọi cách để thánh giá được giảm nhẹ và dễ dàng hơn. Chúa Kitô mở con đường dẫn đến ơn cứu độ qua con đường thập giá. Đường thập giá là con đường dẫn tới vinh quang và sự sống đời đời.
Muốn có triều thiên chiến thắng phải bước qua đau khổ. Phải chết đi mới có thể sống lại. Hạt lúa miến phải gieo xuống đất và thối đi mới sinh bông hạt. Muốn được vinh quang, chúng ta không thể đi con đường tắt. Muốn theo Chúa phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa. Chúng ta nhìn thấy thánh giá ở mọi nơi, trên nóc nhà thờ, trong nhà thờ, nơi đất thánh, trong các tư gia và trong cuộc sống hằng ngày. Chúng ta làm dấu thánh giá nhiều lần mỗi ngày. Khi làm dấu thánh giá, chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm chịu chết và sống lại của Chúa Kitô.
Mỗi khi làm dấu thánh giá, nhắc nhở chúng ta thuộc về Chúa Kitô. Ghi dấu thánh giá trên mình là chúng ta cùng hiệp thông đau khổ của chúng ta với sự đau khổ của Chúa trên cây thánh giá. Thánh giá trở thành dấu chỉ niềm tin của các Kitô hữu. Ngày xưa cha ông của chúng ta bị bách hại vì tin cây Thánh Giá. Quan quyền chỉ đòi hỏi các ngài bước qua thánh giá là được tha chết. Các ngài kiên trung tin tưởng vào Chúa Kitô chịu chết và Phục Sinh, chẳng có lời hứa nào làm cho các ngài nao núng.
Chúa Kitô đã chọn con đường Thánh giá để cứu độ. Muốn được ơn cứu độ, chúng ta hãy vác thánh giá lên và đi theo Chúa. Thánh giá chính là những khổ đau trong cuộc sống hằng ngày. Hãy tháp nhập những khổ đau của chúng ta vào những đau khổ của Chúa. Chúng ta sẽ tìm được nguồn an ủi tuyệt vời.


THẦY LÀ AI?.(Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

Từ xưa đến nay, câu hỏi: “Người ta nói Con Người là ai?” của Đức Giêsu vẫn luôn là đề tài để người đời suy nghĩ, dù tin hay phủ nhận vẫn phải khắc khoải về Con Người này: Do thái, Hồi giáo, Phật giáo, Cộng sản, chính trị…
“Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đó là đức tin Kitô giáo. Từ đây phát sinh Kitô giáo vì người tin vào Đức Giêsu thành Nazareth đã tuyên xưng Người là Đức Kitô, là Cứu Chúa của họ. Lời tuyên xưng “Đức Giêsu Kitô” có hai vế: Đức Giêsu thành Nazareth và Đức Kitô. Đức Giêsu thành Nazareth là con người lịch sử đã sống, đã chết và đã phục sinh. Qua biến cố đó, nhiều người đã nhìn nhận và tuyên xưng Người là Đức Kitô. Câu tuyên xưng “Đức Giêsu Kitô” gói trọn con người lịch sử Đức Giêsu thành Nazareth và Đấng được tuyên xưng là Cứu Chúa, là Đức Kitô, Đấng được niềm tin của Kitô hữu tôn vinh.
1. Gặp gỡ “Đức Giêsu Kitô”.
Ignace Lepp là một chứng nhân của hành trình thao thức tìm kiếm và cuối cùng đã gặp gỡ “Đức Giêsu Kitô”.
Ignace Lepp đã viết cuốn sách “Từ Các Mác đến Giêsu Kitô”. Tác giả kể lại đời mình và những lý do làm ông tham gia phong trào cộng sản thế giới, để rồi sau đó trở thành tín hữu, rồi làm Linh Mục của Giáo Hội Công Giáo.
a. Thao thức tìm kiếm
Ignace sinh trong một gia đình giàu có, trưởng giả, ăn mặc sang trọng, nói năng lễ độ, cư xử hòa nhã, lịch thiệp. Giai cấp này khinh bỉ giới thợ thuyền mà họ cho là một bọn thất học, thô lỗ, cộc cằn thiếu tư cách làm người, và đáng sống trong cảnh bần hàn.
Một hôm tình cờ Ignace đọc được cuốn tiểu thuyết “Người Mẹ” của Marxim Gorky trong đó tác giả mô tả đời sống cơ cực, lầm than của dân lao động Nga làm việc trong các nhà máy kỹ nghệ hồi đầu thế kỷ 20.
Gorky không những đã tả hết những nổi nhọc nhằn, đời sống lam lũ của giới thợ thuyền, và bằng một nhận xét sắc bén ông cho thấy đời sống cơ cực của những người này chính là hậu quả của sư bóc lột của giới chủ nhân, sống xa hoa trên mồ hôi và sự khổ cực của dân lao động. Lần đầu tiên Ignace biết được chi tiết đời sống của hạng người mà bấy lâu cậu vẫn thường khinh rẻ và chỉ nhìn thấy từ xa. Và cũng nhờ cuốn sách đó mà cậu biết rằng chính giai cấp tư sản đã bần cùng hóa dân lao động.
Sau khi đọc thêm một vài cuốn nói về đời sống cùng khốn của dân lao động, như những tác phẩm của Anatole France, Victor Hugo, Tolstoi, v.v., Ignacce cương quyết từ bỏ giai cấp của mình để hoạt động cho giới cần lao. Cậu bị thu hút bởi những hứa hẹn của phong trào cộng sản thế giới : tạo nên một xã hội không có giai cấp, không phân chia ranh giới quốc gia, trong đó mọi người được sống bình đẳng, không bị bóc lột và áp chế. Từ đó, đối với cậu, tất cả những tín điều của thuyết duy vật biện chứng đều là những chân lý tuyệt đối, hợp với khoa học.
Cậu được thu nhận vào một tiểu tổ Thanh Niên Cộng Sản lúc vừa 15 tuổi. Trong thời gian này, Ignace đã đi phát truyền đơn, dán bích chương, dự những cuộc biểu tình, mít tinh và diễn thuyết nhân các ngày kỷ niệm Cách Mạng Tháng Mười và Lễ Lao Động.
Việc cậu lên diễn đàn phát biểu trong một buổi lễ lao động đã được báo chí trong thành phố tường thuật chi tiết. Hay được tin này, gia đình cậu đã rất tức giận và buộc cậu phải từ bỏ phong trào nếu không sẽ cắt mọi yểm trợ tài chánh. Nhất quyết theo đuổi lý tưỏng của mình, cậu bỏ nhà ra đi, không mang theo một tý gì, ngoài bộ quần áo đang mặc và ít tiền túi.

Cậu sang ở một thành phố khác và trở lại nhà trường học xong cấp trung học. Ở đó cậu cũng được một tờ báo cộng sản nhận vào làm biên tập và thông tín viên. Cậu bắt đầu viết sách báo, ghi tên vào đại học và học thêm vài ngôn ngữ khác. Vì có trình độ học vấn khá và biết nhiều thứ tiếng, cậu được cất nhấc vào nhiều chức vụ quan trọng trong đảng, như cầm đầu tổ chức tuyên truyền khích động trong một vùng, tổng bí thư một hội trí thức cách mạng quốc tế. Sau đó Ignace được cử đi hầu hết các quốc gia Âu châu để tuyên tuyền cho chủ nghĩa cộng sản và giúp thành lập những tiểu tổ địa phương. Trong giai đoạn này, cậu theo học nhiều lớp do các giáo sư cộng sản giảng dạy và đọc nhiều sách về lý thuyết cộng sản.
Trong lúc hoạt động cho phong trào cộng sản trong các nước độc tài và bảo thủ, Ignace bị bắt nhiều lần. Lần cuối cùng ông bị bắt ở Đức, lúc đó Hitler đã lên cầm quyền. Ông bị kết án tử hình, nhưng lúc sắp bị đem ra pháp trường thì ông được cứu thoát và được bí mật đưa sang Nga.
b. Đỉnh cao danh vọng.
Vui mừng được đến nước cầm đầu phong trào cộng sản thế giới, ông xin ở lại Nga để phục vụ cho cách mạng. Ông rất được trọng vọng và được giao phó công tác đi diễn thuyết và được bổ làm giáo sư triết học cộng sản ở nhiều trường đại học. Nhờ chức vụ đó, ông được đi hầu hết khắp nước Nga và tiếp xúc với mọi giới. Kinh nghiệm này đã làm ông vỡ mộng một cách ê chề.
Cái thiên đường vô sản ở Nga mà phong trào cộng sản quốc tế thường khoe khoang với thế giới bên ngoài thật ra là một nhà tù khổng lồ, trong đó mọi người, tù nhân cũng như cai ngục, đều sống trong lo âu và sợ hãi. Mỗi lời nói, hành vi và thái độ đều được cân nhắc kỹ lưỡng xem có phù hợp với đường lối của đảng không (mà đường lối thì thay đổi rất bất thường) vì mỗi sơ suất, dù nhỏ nhặt đến đâu cũng có thể dẫn đến tù đày.
Vì được xem là một lý thuyết gia lỗi lạc của chế độ nên đi đâu Ignace cũng được đón tiếp nồng hậu. Điều này khiến ông càng thất vọng hơn nữa. Trong khi, vì chính sách kinh tế khắc nghiệt của Stalin, dân chúng Nga sống trong cảnh đói rách bần cùng thì giới lãnh đạo cộng sản sống một cuộc đời vương giả. Họ chiếm cứ những biệt thự sang trọng và những nhà nghỉ mát của giới quý tộc và chủ nhân thời Nga hoàng. Các bữa tiệc của họ đầy cao lương mỹ vị, rượu volka và caviar không bao giờ thiếu. Các “mệnh phụ phu nhân” cũng khoe khoang áo quần, nữ trang với nhau như giới tư sản trong các xã hội tư bản. Những gia đình quyền quý này cũng có kẻ hầu người hạ mà họ sai bảo và đối xử còn trịch thượng hơn các chủ nhân tư bản Tây Âu.
c. Thất vọng
Chàng Ignace, bây giờ đã trưởng thành mới nhận thức được rằng xã hội Xô Viết thực chất chỉ là một xã hội phân chia giai cấp, trong đó giai cấp công nhân, thay vì được giải phóng khỏi mọi áp bức như đảng cộng sản rêu rao với thế giới bên ngoài, thực ra bị bóc lột tối đa, và tất cả mọi người, có lẽ chỉ trừ Stalin, đều sống trong sự sợ hãi, nghi kỵ lẫn nhau kể cả bạn bè thân nhất hay vợ chồng, con cái.
Ignace hoàn toàn thất vọng với chế độ Xô Viết, mà chàng cho là đã phản bội lý tưởng cách mạng. Chàng thấy mình không thể nào tiếp tục sống trong bầu không khí ngột ngạt, đầy nghi kỵ và lo lắng như vậy được nữa. Chỉ trích sự sai lầm của chế độ không còn được đặt ra nữa vì Ignace biết sẽ không mang lại lợi ích gì mà còn có thể nguy hiểm cho tính mệnh của mình. Chàng cũng không thể xin ra khỏi đảng hay xin ra nước ngoài, vì làm như vậy người ta có thể buột cậu tội phản đảng, hay nguy hơn nữa, bị nghi là gián điệp của các nước tư bản trà trộn ngay từ đầu để lũng đoạn cách mạng. Với một cáo trạng như vậy, cái chết chắc như cầm trong tay.
May thay trong thời gian đó nhiều người vẫn được phép thư từ với bạn hữu nước ngoài. Dịp may hiếm có đó đã xảy ra khi một “Hội nghị về Hòa bình thế giới” được tổ chức ở Luân đôn, Ignace đã vận động để được mời dự. Với giấy mời trong tay, chàng xin xuất cảnh và rất ngạc nhiên khi được cấp hộ chiếu. Tuy nhiên chàng chỉ thấy an toàn khi ra khỏi biên giới Liên Bang Xô Viết.
d. Chán nản
Khi trở về lại Tây Âu, Ignace rất chán nản. Lý tưởng mà chàng hăng say phục vụ trong mười mấy năm trời thật ra chỉ là môt sai lầm khổng lồ. Đem thử nghiệm vào một quốc gia, lý thuyết này chỉ đem lại cho nhân dân lao động xứ đó một xã hội đầy bất công, áp bức, thù hận và tạo ra một chế độ độc tài cực kỳ tàn ác. Thất vọng chua cay đó đã làm Ignace mất hết tin tưởng vào cuộc sống mà chàng cho là vô nghĩa. Để lấp khoảng trống trong tâm hồn, chàng đã chìm đắm vào những bê tha trụy lạc. Nhưng ngay sau những cuộc chời bời trác táng đó chàng lại càng chán nản hơn. Có lần chàng đã nghĩ đến tự tử, và đã dự định nhiều lần nhưng không đủ can đảm tự kết liễu đời mình.
e. Lý tưởng huyền diệu
Một hôm đi chơi về khuya, Ignace tình cờ thấy trên cái bàn của phòng khách, nơi chàng ở trọ, một cuốn sách có nhan đề “Quo Vadis?” (Thầy Đi Đâu ?). Vì khó ngủ, chàng tò mò mở sách ra đọc. Đó là một cuốn tiểu thuyết tả lại cảnh những người Ki-tô hữu đầu tiên bị bách hại dưới thời Neron. Lần đầu tiên, sau khi thất vọng về chế độ cộng sản Xô Viết, Ignace đọc cuốn sách này một cách say mê, chàng đã đọc thẳng một mạch cho đến sáng. Chàng thấy những nạn nhân của cuộc bách hại này chỉ vì theo đuổi một lý tưởng mà họ cho là cao đẹp đã chịu để cọp và sư tử xé xác ăn tươi nuốt sống mình trong các đấu trường còn hơn là chối bỏ niềm tin đó.
Để tìm hiểu thêm những lý do gì mà những tín đồ Thiên Chúa giáo này đã dám liều chết đến như vậy, chàng tìm đọc thêm những sách khác nói về tôn giáo này. Những sách tả về đời sống của các cộng đồng Thiên Chúa giáo đầu tiên làm chàng thích thú. Chàng thấy họ sống một đời sống đúng như lý tưởng mà chàng thường ấp ủ : chia sẻ của cải cho nhau, thương yêu nhau như anh em môt nhà. Chàng tự hỏi không biết các cộng đồng Thiên Chúa giáo tiên khởi có sống thật như vậy không, hay đó chỉ là những tài liệu tuyên truyền như các chế độ cộng sản thường làm. Chàng tìm đọc thêm nhiều sách khác của nhiều tác giả khác, có người theo Thiên Chúa giáo, có người vô thần. Nội dung những sách đó có khác nhau về chi tiết, nhưng đại cương thì rất giống nhau. Tất cả đều nói lên sự yêu mến, việc chia sẻ của cải cho nhau trong các cộng đồng đó là hợp lẽ phải. Chàng thấy lối sống đó hợp với lý tưởng mà chàng hằng mơ ước, một xã hội cộng sản chân chính không dựa trên hận thù và đấu tranh mà dựa trên tình yêu thương vô điều kiện.
Tất cả những sách vở chàng đọc được về lối sống của các cộng đồng nói trên đều dẫn đến lời giảng của một người : Giêsu ở thành Nazareth, và một nguồn tài liệu: các sách Phúc Âm. Ignace cảm thấy bị lôi cuốn vào những lời giảng dạy tuyệt vời của Giêsu. Bài giảng trên núi và các dụ ngôn không những rất thi vị, mà còn chứa một học thuyết huyền diệu. Nhưng điều gây ấn tượng mạnh mẽ nhất cho Ignace chính là con người Giêsu, một người rất mực giản dị và nhân hậu với tất cả những người cùng khổ. Giêsu sống hoàn toàn bình đẳng không những với các môn đệ mà với những người nghèo khó nhất. Cách Giêsu đối xử với những người tội lỗi như bà Marie ở Magdala và những người thâu thuế thật khác xa với các phương pháp mà công an và cảnh sát ở Liên Bang Sô Viết đối xử với công dân của họ.
Sau khi đọc kỹ sách Phúc âm và nhiều sách khác, Ignace cho rằng những điều viết về Giêsu là có thật.
Với một tính tình hiếu động, chàng nhất quyết dâng hiến trọn vẹn đời mình cho lý tưởng mới cũng như trước kia chàng đã từng hăng say hoạt động cho chủ nghĩa cộng sản. Ignace đã xin rửa tội theo đạo Công Giáo và xin được làm linh mục để phục vụ mọi người, không phân biệt tôn giáo, giai cấp, quốc gia hay chủng tộc trong một tình yêu tuyệt đối.
Ignace Lepp thao thức tìm kiếm và cuối cùng đã gặp gỡ “Đức Giêsu Kitô” và đã trở nên Linh mục. Câu chuyện tuyệt đẹp về một hành trình ơn gọi. Đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: “Còn anh em bảo Thầy là ai?” là thao thức cho những ai khao khát chân lý.
2. Ba bức chân dung về Đức Giêsu
Ðức Giêsu đặt một câu hỏi quan trọng cho các môn đệ: “Người ta bảo Thầy là ai?”. Dân chúng chỉ có một cái nhìn mơ hồ và thiếu sót về Ðức Giêsu. Họ coi Ngài là Gioan Tẩy Giả, là tiên tri Êlia hay một tiên tri nào đó. Họ cũng dành cho Ngài những danh hiệu cao quý nhất: là Êlia, bậc tôn sư lỗi lạc trong hàng ngũ ngôn sứ; là Giêrêmia, vị ngôn sứ giúp quốc gia trong cơn khốn khó. Cả hai vị này bất quá chỉ là người dọn đường cho Đấng Kitô. Vì thế đối với người đương thời, Đức Giêsu cao lắm chỉ được coi là người dọn đường, chứ không phải là chính Đấng Cứu Thế. Chỉ có Phêrô, đại diện cho các môn đệ, mới có thể nhận diện đúng chân tướng của Chúa: Ngài là chính Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.
“Thầy là ai?”, Ðức Giêsu là ai? Ðó là một câu hỏi được đặt ra cho mọi thời đại. Câu hỏi được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời. Câu hỏi này ngày nay cũng gặp được nhiều câu trả lời khác nhau, và mỗi câu trả lời kéo theo một nếp sống khác nhau.
Tuy nhiên điều quan trọng ở chỗ là mỗi người Kitô hữu đặt cho mình câu hỏi: đối với tôi, Đức Giêsu là ai? Bức chân dung nào đã điều khiển những tư tưởng, tâm tình và hoạt động của tôi? Phải làm thế nào để trình bày chân dung sống động của Đức Giêsu cho anh chị em của tôi hôm nay?
Phần tôi, rất thích ba bức chân dung về Đức Giêsu: Hài nhi trong máng cỏ, Tử tội trên thập giá và Tấm Bánh trên bàn thờ.
– Là Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai, nhưng khi chấp nhận làm người, Đức Giêsu đã được sinh ra trong một chuồng chiên, được mẹ bọc tả đặt nằm trong máng cỏ (Lc 2,12). Ngôi Hai làm người là “một tin mừng trọng đại” cho toàn dân, lại phải “ở nhờ” nhà súc vật (Lc 2,11).
– Đức Giêsu lên ngôi vua trên Thập giá. Cái chết đau thương tủi nhục của một tử tội lại trở nên hiến tế, nguồn ơn cứu độ cho nhân loại.
– “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19). Đấng ban sự sống cho muôn loài (CV 17,25), Đấng mà vừa nghe Danh thánh thì cả trên trời dưới đất và trong âm phủ, muôn vật phải bái quỳ (Pl 2,10) đã trở nên Tấm Bánh nuôi nhân loại qua Thánh lễ mỗi ngày.

Máng cỏ là nhà Chúa sinh ra. Thập giá là ngai Chúa lên ngôi vua. Tấm bánh là Mình Thánh Chúa. Bức tranh máng cỏ – chuồng chiên là sự chiến thắng cám dỗ về của cải vật chất. Bức tranh Thập giá- Đồi Sọ mô tả chiến thắng về chức quyền. Bức tranh Tấm Bánh- Thánh Thể giải bày chiến thắng cám dỗ về danh vọng.
Thiên Chúa làm người và đã trở nên tôi tớ. Thiên Chúa đã đóng đinh mọi sức mạnh áp chế, mọi quyền lực thống trị. Người đã trở nên anh em để phục vụ và hiến dâng mạng sống cho con người.
Đấng mà chúng ta tôn thờ và yêu mến không chỉ là Đức Chúa, Đấng Tối Cao, Đấng Thánh, mà còn là Con Người, là anh em, là người trao ban sự sống dồi dào.
Lạy Chúa Giêsu, tựa như thánh Phêrô, con cũng tuyên xưng Chúa là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Con muốn sống với trọn con tim điều mình tuyên xưng: Chúa có vị trí quan trọng nhất trong những chọn lựa hằng ngày của con. Amen.


THEO ĐỨC KITÔ BỊ ĐÓNG ĐINH (Lm. Đinh Lập Liễm)

Đức Giêsu là ai? Câu hỏi đã được đặt ra không phải chỉ vì tò mò muốn biết dư luận nghĩ sao về nhân vật Giêsu, nhưng nó được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời. Trong đời mỗi người, hữu thần hay vô thần, sẽ có lần trực diện với câu hỏi: Giêsu Kitô, ông là ai? Trên bàn viết của Lênin, ông tổ cộng sản, được lưu giữ như một bảo tàng nhỏ từ khi ông nằm xuống ngày 21/01/1924, người ta thấy bên cạnh cặp kiếng, có một cuốn sách nói về Chúa Giêsu.
Thánh Marcô kể: bấy giờ Đức Giêsu đang đi với các môn đệ ở vùng Cêsarêa của Philip, tức miền cực bắc nước Do Thái, nơi bắt nguồn của dòng sông Giorđan. Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: ”Người ta nói Thầy là ai?” Các ông đáp liền: ”Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một tiên tri nào đó” (Mc 8,28),
Ngày xưa, nhiều người Do Thái cho rằng Giêsu cũng chỉ là một người nào đó như các tiên tri, như Êlia, như Gioan hay như bất cứ một tiên tri nào khác. Mà theo họ nghĩ thì tiên tri là những người tuy rao giảng một giáo thuyết hay, tuy làm được một số việc lạ lùng hơn người, nhiều khi cũng quấy rầy cuộc sống an bình của họ. Bởi thế khi không muốn bị quấy rầy nữa thì họ không ngại giết các tiên tri: họ lùng bắt Êlia (I King 19:10), họ đã bỏ tù Giêrêmia (Jer 26:8), họ đã chém đầu Gioan Tẩy giả… Đức Giêsu đối với họ thì cũng chỉ có thế thôi.
Chúa Giêsu lại hỏi các ông: ”Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”Ông Phêrô tức khắc trả ời: ”Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8,29). Các ông chưa kịp trả lời thì ông Phêrô đã thay cho Nhóm 12 mà tuyên xưng Đức Giêsu với danh hiệu là Kitô hay Messia. Câu trả lời của ông Phêrô vượt xa những câu trả lời thông thường của quần chúng.
Tước vị “Christos – Messiah” trong tiếng Hêbrơ có một ý nghĩa rất mạnh như một biến cố bùng nổ ở Israel: Đó là Đấng được Thiên Chúa xức dầu (Act 10:38). Đó là Đấng được mọi ngươi mong đợi đến để “hoàn tất lịch sử.” Đấng các tiên tri đã báo trước, Đấng sẽ cho đời sống con người có ý nghĩa.
Tuy tuyên xưng Đức Giêsu là Kitô, có lẽ Phêrô vẫn quan niệm như người Do Thái về một Đức Kitô vinh quang. Người Do Thái chỉ muốn Đức Kitô làm vua như Maisen, như Đavít. Như Maisen, Đức Kitô sẽ chiến thắng muôn dân, làm cho nước Do Thái trở nên hùng cường, cai trị khắp địa cầu, thịnh vượng hơn thời Salômôn. Cho nên, Đức Kitô mới được tôn vinh là Cố Vấn kỳ diệu, Thiên Chúa hùng mạnh, Cha muôn thuở, Hoàng tử hoà bình, danh Người siêu việt, sự việc Ngài đã lừng vang trên toàn cõi đất. Người là Đấng Thánh của Israel và Nước Người tồn tại đến vô cùng tận (Is 9:5-6).
Đức Giêsu đồng ý với lời tuyên xưng của ông Phêrô và cấm ngặt các ông đừng nói với ai về Người. Rồi Người bắt đầu tiết lộ cho các ông biết: ”Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng các luật sĩ loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8,31).
Đó là sứ mạng cốt yếu của Đức Kitô, hy sinh hiến mạng sống mình chịu đau khổ, chịu chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại tội lỗi. Người đến không phải để thiết lập nước vinh quang trần gian mà thiết lập Nước Trời vinh phúc vĩnh cửu. Người đến trần gian không dạy đường lối vào trần gian hư nát, nhưng dạy đường lối vào Nước Trời muôn thưở. Người đến trần gian chỉ để hy sinh phục vụ như một tôi tớ hiền lành, khiêm tốn để chứng tỏ tận cùng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, để con người nhận biết “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống và được sống dồi dào” (Ga 3,16).
Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: ”Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,34-35).
Trở lại bài đọc 1 (Is 50:4-9), ta thấy tiên tri Isaia có một bài ca nói về Người Tôi Tớ đau khổ, mà người Tôi Tớ đau khổ ấy chính là Đức Kitô. Và mọi Kitô hữu cũng một phần nào là người tôi tớ ấy. Chúng ta không hiểu vì sao lại là người tôi tớ đau khổ! Nhưng rõ ràng đó là ý muốn của Thiên Chúa và là kế hoạch cứu thế của Người. Người muốn cứu độ bằng đường thánh giá: ai muốn được ơn cứu độ của Ngài, phải bằng lòng đi vào con đường ấy. Nhiệm vụ của chúng ta hằng ngày là tự hỏi Thiên Chúa muốn cho tôi ngày hôm nay, trong giờ phút này vác thập giá nào đây để tôi được cứu độ và góp phần vào việc cứu thế.
Lavallière Lepaux là một nhân viên thượng hội đồng quốc gia Pháp, ghét đạo Công Giáo. Ông lập một đạo mới gồm những triết thuyết và có vẻ khoa học. Ông cho cán bộ chữ nghĩa đi tuyên truyền khắp nước Pháp, nhưng rất ít người theo.      Một hôm ông nói với một ông bạn tên là Barras: “Tôi không hiểu tại sao, tôn giáo của tôi là một công trình triết lý và khoa học, cán bộ của tôi là người có học, có huấn luyện, mà không được mấy người theo. Còn ông Giêsu dùng mấy người chài lưới thất học, mà cả thế giới theo ông?” Barras trả lời: “Nếu ông muốn thiên hạ theo đạo mình, thì ông hãy để cho người ta đóng đinh ông ngày thứ sáu, rồi sáng ngày Chúa Nhật, ông cố sống lại đi.”
Muốn theo Chúa thì phải thi hành hai điều kiện là phải từ bỏ mình và vác thập giá mình. Từ bỏ chính mình để nhận lấy thập giá mà bước theo Chúa. Từ bỏ để khỏi bận tâm tính toán, so sánh hơn thiệt trong việc theo Chúa. Không từ bỏ, con người vướng bận nhiều thứ, nào là cái tôi kềnh càng, tự ái, ích kỷ; nào là vật chất, đẳng cấp, vị thế xã hội. Muốn thong dong trong việc đi theo Chúa phải từ bỏ những thứ phụ thuộc đó, đặt niềm tin vào Chúa mới mong theo trọn con đường Chúa mời gọi.
Lý tưởng mà Thánh Phaolô muốn nhắm tới là được trở nên “đồng hình đồng dạng” với Đức Giêsu (Rm 6:5). Hơn nữa đây thực sự không phải là “tha hoá” mà là tìm lại chính mình, bởi vì từ đầu Thiên Chúa đã tạo dựng con người “giống hình ảnh” Ngài. Chỉ sau đó do tội lỗi nên con người bị “tha hoá.” Nay cố gắng trở nên giống Đức Giêsu chính là tìm lại hình ảnh ban đầu (Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm B, tr 653).
Thập giá, theo Tin Mừng, chính là chấp nhận và làm ngược lại mọi sở thích và khuynh hướng tự nhiên của con người. Thập giá là tự chủ, tự chế, là vượt lên những đòi hỏi của bản năng thấp hèn. Thập giá là nỗ lực hoàn thiện, gột bỏ con người thú tính, để mặc lấy nhân phẩm, nhân cách của thụ tạo duy nhất được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, và có khả năng đối thoại với Thiên Chúa.
Như vậy, kiểu nói “vác thập giá mình” có ý nói con người phải nhận những khổ cực của mình, cũng như Đức Giêsu đã đón nhận những khổ cực của Ngài. Ngoài ra, theo luật hình sự Rôma, người bị kết án đóng đinh phải tự mình vác lấy thập giá của mình ra pháp trường (Jn 19:17). Như thế, “vác thập giá mình” cũng đồng nghĩa với mình đã bị án tử rồi.
Từ xưa đến nay, có một vấn đề gai góc, một vấn đề nan giải, một vấn đề làm cho nhiều người thắc mắc và thất vọng. Đó là vấn đề đau khổ. Người ta sinh ra trong tiếng khóc, trải qua cuộc đời đầy nước mắt, rồi âm thầm nằm xuống trong tiếng khóc chân thật hay giả dối của người khác. Phải chăng đời là bể khổ như Phật Giáo chủ trương? Vấn đề đau khổ này cũng đã được đề cập đến trong sách Gióp, nhưng chưa tìm được câu giải đáp thoả đáng, phải chờ Đức Giêsu đến để giải thích và cho nó một ý nghĩa.
Chúng ta có thể ví những đau khổ, phiền muộn như cơn bão táp, lụt lội xẩy đến. Chúng là một phần cuộc sống mà chúng ta không thể nào tránh né được. Tuy nhiên, đối với Chúa, điều quan trọng trong cuộc sống không phải là nỗi phiền muộn hay đau khổ xẩy đến trên chúng ta, mà chính là thái độ chúng ta đáp ứng chúng, cách thức chúng ta xử lý chúng. Có lẽ chúng ta không thể nào tránh né được đau khổ phiền muộn, nhưng chúng ta vẫn có thể biến chúng thành nguồn trợ lực thay vì huỷ diệt, nguồn mang sức sống thay vì chết chóc; nhờ đó, chúng trở nên tốt đẹp hơn thay vì chua chát hơn.
Khi còn là một thiếu nữ, Golda Meir rất thất vọng về nhan sắc của mình. Cô viết: “Mãi về sau, tôi mới nhận ra rằng không được đẹp lại là một cái may mắn ẩn chìm, bởi vì điều ấy buộc tôi phải khai triển những tài năng sâu kín hơn. Cuối cùng tôi hiểu được rằng phụ nữ không thể ỷ lại vào sắc đẹp của mình, mà phải làm việc chăm chỉ để nhờ đó mang lại ích lợi cho mình hơn. Nói cách khác, Golda Meir đã biết chấp nhận thập giá của mình. Cô đã không kêu gào than khóc, không bẳn gắt, căm hờn. Cô biết cam nhận vác nó lên với lòng can đảm, để rồi cuối cùng cô đã trở nên Nữ Thủ Tướng đầu tiên của Israel (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật B, tr 327).
Chúng ta thấy dòng Mến Thánh Giá có một khẩu hiệu để làm câu tâm niệm hằng ngày rất có ý nghĩa: ”Per crucem ad lucem”: qua thập giá tới vinh quang (Lc 24:26). Đúng vậy, Chúa Kitô phải trải qua ngày Thứ Sáu Tuần Thánh mới tiến tới ngày Chúa Nhật Phục Sinh được. Thực sự, đạo của chúng ta không phải là đạo tử nạn, nhưng là đạo phục sinh. Chết chỉ là điều kiện để tiến tới sự sống lại.
Thập giá không còn là cái gì ghê rợn mà là vinh quang (Gal 6:14). Chúng ta thường hát: ”Vinh quang của ta là thập giá Đức Kitô, nơi Người ơn cứu độ của ta, phục sinh của ta. Nhờ Chúa ta được cứu độ, nhờ Chúa ta được giải thoát.”
Ngày nay, có quá nhiều tiện nghi, có nhiều phương cách thoả mãn các nhu cầu thể chất của con người, nên ngươi ta “sợ” thập giá, người ta “ngại” hy sinh, người ta “tránh” từ bỏ. Nhưng không thể khác được, nếu con người muốn vươn lên, muốn thành đạt, muốn có một cuộc sống có ý nghĩa với những hoa trái thơm tho cho cuộc đời thì phải chấp nhận thập giá, chấp nhận gian nan thử thách vì như người xưa đã nói: “Không vào hang cọp, làm sao bắt được cọp con?”
Hiểu được ý nghĩa cao quí của thập giá, chúng ta phải hãnh diện về cây thập giá. Hãy nói một cách tự hào như Thánh Phaolô nói với tín hữu Galata: ”Vinh dự của tôi là Thập giá Đức Kitô” (Gl 6,14). Hãy mang lấy trọn vẹn thập giá mà Chúa trao cho hằng ngày, không thêm, không bớt. Chính thập giá là chiếc cầu dẫn ta vào Thiên đàng.
Anh kia được Chúa ban cho một cây thập giá và được căn dặn rằng khi nào về thiên đàng nhất thiết phải vác theo. Suốt ngày anh ca thán, phân bua vì thập giá của mình quá dài và nặng hơn thập giá của những người khác. Thế rồi, sẵn cưa, anh cưa bớt đi mười phân. Và anh cảm thấy ưng ý với thập giá mới.
Ngày về thiên đàng đã đến, anh cùng mọi người vác thập giá ra đi. Đường vào thiên đàng buộc phải vượt qua một con suối nước chảy xiết. Những người khác có sáng kiến đặt thập giá của mình xuống làm cầu để có thể bước qua bên kia. Anh này cũng bắt chước đặt thập giá xuống để làm cầu. Tiếc rằng thập giá của anh lại thiếu mất mười phân khiến vĩnh viễn anh không thể vào thiên đàng được.


CÁI GIÁ PHẢI TRẢ (Lm. Nguyễn Thái)

Câu chuyện được kể về Sherlock Holmes và bác sĩ Watson. Hai người đi cắm trại và ở trong một cái lều trại. Holmes là một nhà trinh thám đại tài của Anh trong những tiểu thuyết giả tưởng của A. Conan Doyle. Và Dr. Watson là bác sĩ sinh vật học chuyên môn về ngành DNA của Mỹ. Một đêm nọ khi họ nằm ngủ say sưa, bỗng Holmes đánh thức Watson dậy và nói: “Watson, hãy nhìn kìa, anh trông thấy gì không?” Watson dụi mắt trả lời: “Thấy, tôi trông thấy hằng triệu ngôi sao.” Holmes hỏi: “Và cái điều đó nói gì với anh?” Watson trả lời: “Xét về thiên văn học, nó nói với tôi rằng có hằng triệu giải ngân hà và có thể có hằng tỉ các hành tinh. Xét về thần học, nó nói với tôi rằng Thiên Chúa quá vĩ đại, và chúng ta quá ư là nhỏ bé và vô nghĩa. Xét về khí tượng học, nó nói với tôi rằng ngày mai chúng ta sẽ có một ngày đẹp trời. Còn anh? Nó nói với anh cái gì nào?” Holmes trả lời: “Một người nào đó đã ăn cắp hết đồ của chúng ta rồi!”
Có người rất giỏi về kiến thức, nhưng khi gặp những việc thực tế và cụ thể trong đời sống, họ lại chẳng để ý gì. Đó là trường hợp của bác sĩ Watson nằm ngủ nhìn lên trời với những tư tưởng cao siêu, trong khi bị mất hết đồ mà không biết. Và Thánh Phêrô nói được chân lý cao siêu “Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8:29), nhưng lại không hiểu Đấng Kitô có nghĩa là gì!
Theo linh mục Eugene LaVerdière câu chuyện tuyên xưng đức tin của Phêrô trong bài Phúc Âm hôm nay là phần chuyển tiếp. Nó đóng vai trò như một kết luận của phần thứ nhất của Phúc Âm Máccô (Mc 1:14 – 8:21): Chúa Giêsu là ai? Câu hỏi này đã được trả lời “Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8:30). Và như một sự giới thiệu cho phần thứ hai (Mc 8:22 – 16:8): Đấng Kitô có nghĩa là gì? Câu hỏi này được trả lời trong phần thứ hai (Mc 8:22 – 16:8) của Phúc Âm Mác-cô. Sau khi thấy Chúa Giêsu tắt thở trên thập giá, viên đại đội trưởng liền nói: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15:39).
Các môn đệ là những người đã được Chúa Giêsu mời gọi bước theo Ngài ở phần thứ nhất, nhưng theo Chúa Giêsu sẽ đòi hỏi họ điều gì ở phần thứ hai của Phúc Âm. Phêrô đã trả lời đúng khi Chúa hỏi ông: “Các con bảo Thầy là ai?” Phêrô lên tiếng đáp: “Thầy là Đấng Kitô”. Theo Phúc Âm của Mátthêu, sau câu trả lời này, Chúa đã thưởng ông bằng cách đổi tên là Phêrô, nghĩa là Đá, thay vì Simon (Mt 16: 27). Nhưng khi hiểu về ý nghĩa của Đấng Thiên Sai thì Phêrô bất đồng quan điểm với Chúa Giêsu, và bị quở trách rằng: “Satan, hãy lui đi, vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người” (Mc 8: 33). Chính ở điểm này, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy sự khác biệt về cách đánh giá trị theo quan điểm của Thiên Chúa và loài người. Bởi chỉ có người sống theo Thần Khí thì mới xét đoán được mọi sự (1 Cr 2:15).
Tháng 10 năm 1999, Regis Philbin khai trương một show mới trên đài truyền hình ABC của Mỹ với tên là “Who Wants to Be a Millionaire – Ai Muốn Thành Triệu Phú”. Sau hai tuần thử nghiệm để thăm dò, chương trình bắt đầu lại vào tháng 11, và đã thu hút số khán giả kỷ lục là 26 triệu người xem TV vào ngay đêm đầu tiên đó. Từ đấy Regis nổi tiếng với câu hỏi: “Final answer?”
Mới chỉ có 1 triệu đô la thôi mà đã thu hút số người ham muốn đông đảo nhiều đến như vậy, huống chi là 10 triệu đô la? Năm 1991 có vài anh chàng cũng đã nghĩ ra một câu nghi vấn tương tự. Họ muốn biết xem là người Mỹ sẽ dự tính làm gì, không phải với 1 triệu đô la, nhưng là với 10 triệu đô la. Họ thực hiện một cuộc thăm dò và đã xuất bản kết quả của cuộc thăm dò đó trong một cuốn sách mang tên “The Day America Told the Truth – Cái Ngày Người Mỹ Nói Lên Sự Thật”. Bạn có bao giờ tự hỏi sẽ làm gì với số tiền to lớn đó không? Con người ngày nay đang bị lôi cuốn, quyến rũ bởi sức mạnh của tiền bạc. Họ nghĩ rằng với tiền bạc và của cải vật chất, họ sẽ giải quyết được tất cả mọi vấn đề. Và có lẽ họ cũng chẳng cần để ý tới Thiên Chúa nữa!
Hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta về ý nghĩa sứ mạng của Ngài, và cái giá phải trả dành cho những người môn đệ muốn theo Ngài: “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế, và kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại” (Mc 8:31). Lời tiên báo này thật khó nghe và khó chấp nhận. Nó hoàn toàn ngược lại với những giá trị của xã hội hiện đại. Một xã hội đề cao tiền bạc vật chất, lợi ích cá nhân, thúc dục lòng ham muốn, tạo tiện nghi hưởng thụ thoải mái. Đối nghịch với những giá trị của người đời, hẳn nhiên người môn đệ của Chúa Kitô cũng phải trả bằng một giá rất đắt giống như Ngài.
Chúng ta đã nghe nói về cuộc đời của Dietrich Bonhoeffer, một thần học gia và triết gia Tin Lành. Những tác phẩm của ông có ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng của Kitô giáo hiện đại. Ông đã viết một cuốn sách mang tựa đề “The Cost of Discipleship – Cái Giá Phải Trả Để Làm Môn Đệ Chúa Kitô”. Bonhoeffer không những nói, và bàn về cái giá phải trả cho ơn gọi làm môn đệ của Chúa Kitô, nhưng còn sống nó một cách anh dũng và trả bằng chính mạng sống của mình.
Theo Bonhoeffer có hai loại ân sủng: Ân sủng giá rẻ, cheap grace, và ân sủng giá đắt, costly grace. Ân sủng giá rẻ là việc xin Chúa tha thứ tội lỗi cho ta mà không chịu có lòng thống hối. Ta muốn chịu phép rửa tội, mà không muốn giữ kỷ luật của Giáo Hội. Ta muốn rước Mình Máu Thánh Chúa mà không muốn đi xưng tội, muốn được tha tội nhưng không muốn thành thật sám hối và chừa bỏ tội lỗi. Ân sủng giá rẻ là ân sủng không có kỷ luật, ân sủng không có Thánh Giá, ân sủng không có Chúa Giêsu Kitô hiện diện và nhập thể.
Còn ân sủng giá đắt là kho tàng giấu ẩn trong cánh đồng; vì ích lợi của nó sinh ra mà một người phải bán tất cả tài sản mình có để mua lấy nó. Đó là viên ngọc quý mà người thương gia đi tìm. Tìm được rồi anh về bán tất cả những gì mình có để mua viên ngọc ấy (Mt 13:44-45). Đó là lời kêu gọi của Chúa Giêsu mà các môn đệ đã bỏ chài lưới để đi theo ngài. Ân sủng giá đắt chính là Tin Mừng phải được tìm kiếm liên lỉ mới thấy; là món quà phải được năn nỉ xin xỏ mãi mới cho; là cánh cửa mà một người gõ mãi mới được mở. Ân sủng giá đắt như vậy là vì nó mời gọi chúng ta theo Chúa Kitô, và phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Nó là ân sủng thực sự vì nó cho ta sự sống đời đời. Ân sủng giá đắt chính là sự đau khổ và cái chết của Chúa Kitô để mang lại sự cứu rỗi cho nhân loại. Đó là sứ điệp của bài Phúc Âm hôm nay.
Ngày 5/4/1943, quân Đức quốc xã đã bắt Bonhoeffer tại nhà của cha mẹ ông. Bonhoeffer đã trải qua nhiều nhà tù và trại tập trung, và ngay cả cái chết luôn luôn đe dọa vì tinh thần môn đệ theo Chúa Kitô một cách trung kiên và anh dũng của ông. Người môn đệ này đã có thể chọn ở lại chủng viện ở Mỹ thay vì trở về Đức để chiến đấu cho công lý bằng chính mạng sống của mình. Chỉ vài ngày trước khi Quân Đội Đồng Minh giải phóng trại tập trung ở Flossenburg, ngày 9/4/1945, Bonoeffer đã bị hành quyết vì đức tin của mình. Ông đã sống trọn vẹn là một môn đệ Chúa Kitô.
Nhờ “Cái Ngày Người Mỹ Nói Lên Sự Thật” mà chúng ta biết được những điều họ ước muốn khi có 10 triệu đô la. Nhưng trước khi có những anh chàng làm cuộc thăm dò dân Mỹ muốn gì khi có 10 triệu đô la, thì Chúa Giêsu đã nói lên sự thật đó cho Phêrô và các môn đệ của Ngài biết rồi: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm thì sẽ cứu được mạng sống mình” (Mc 8:35-36).
Theo truyền thống kể lại, Hoàng Hậu Helen, mẹ của Hoàng Đế Constantine, thế kỷ thứ tư, đã tìm thấy được Cây Thánh Giá mà Chúa Giêsu đã chịu đóng đinh ở Giêrusalem. Sau đó quân Persian đã bao vây và chiếm đóng thành Giêrusalem. Chúng phá hủy các giáo đường và ăn trộm các di tích thiêng thánh trong các nhà thờ đó, gồm cả Cây Thánh Giá được tin là của Chúa Giêsu đã chịu đóng đinh. Vài năm sau, Hoàng Đế Heraclius đã lấy lại được Cây Thánh Giá quý báu đó.
Cũng theo truyền thống kể lại, sau khi Cây Thánh Giá được phục hồi rồi phải mang trở lại Giêrusalem. Đích thân Hoàng Đế, trong xiêm y sang trọng và lộng lẫy, đã cố gắng vác Cây Thánh Giá theo đoàn rước từ Giêrusalem đến Núi Calvary. Hoàng Đế lấy hết sức mình nâng Cây Thánh Giá lên, nhưng quá nặng, ông không thể nhấc lên nổi. Thấy vậy, Đức Giám Mục của thành Giêrusalem mới nói với Hoàng Đế rằng cái cách duy nhất để vác được Cây Thánh Giá là phải hành động như Chúa Giêsu đã làm. Cách ăn mặc sang trọng của Hoàng Đế đã không thích hợp. Do đó, ông phải cởi bỏ xiêm y, giầy dép sang trọng ra và mặc vào quần áo đơn giản, đi chân không và vác Thánh Giá như Chúa Giêsu xưa kia đã làm. Sau đó ông đã vác được Cây Thánh Giá lên đỉnh núi Calvary.
Ngày nay, chúng ta cũng giống như Hoàng Đế Heraclius, muốn vác được Thánh Giá mà Chúa Giêsu đã trao cho chúng ta, chúng ta phải cởi bỏ tất cả mọi của cải vật chất, lạc thú trần gian xuống. Ngài đã dạy chúng ta rằng để theo Ngài, phải từ bỏ mọi sự, ngay cả chính mạng sống của mình. Lúc đầu Phêrô phản đối, nhưng sau cùng, Phêrô và các môn đệ đã hiểu. Họ đã từ bỏ mọi sự và trả bằng mọi giá, ngay cả việc dùng chính mạng sống của mình để làm chứng cho Tin Mừng.
Điều phải trả bằng mọi giá này cũng áp dụng cho chúng ta nếu chúng ta muốn theo Chúa. Nhưng hãy nhớ rằng giá phải trả để theo Ngài không rẻ đâu! Cho dù có đắt cũng không bằng cái giá mà Đức Giêsu đã trả để chuộc lấy chúng ta (1 Cr 6:20; 7:23).


CHÚA KITÔ LÀ AI? (Lm. Louis M. Nhiên)

“Đối với bạn, Chúa Kitô là ai?” Khi suy nghĩ về đoạn Kinh Thánh, Chúa mời gọi dân chúng và các tông đồ: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta”. William Barclay, một nhà chú giải Thánh Kinh nổi tiếng, đã cho rằng Đức Kitô là một vị lãnh đạo thành thật. Không ai có thể tố cáo cho rằng Chúa dụ dỗ người ta theo Chúa qua những lời hứa hão huyền. Chúa đã không hối lộ người ta bằng những con đường dễ dàng. Ngài không trao tặng an bình nhưng trao tặng vinh quang.
Thời thế chiến thứ hai, khi ông Winston Churchill làm thủ tướng nước Anh, tất cả những gì ông có thể trao tặng là “máu, lao nhọc, nước mắt, và mồ hôi.” Garibaldi, một nhà ái quốc người Ý đã kêu gọi tuyển mộ rằng: “Tôi không trao tặng tiền bạc, nhà ở, lương thực, tôi chỉ có sự đói, khát, trận chiến, và sự chết. Ai yêu tổ quốc với tất cả tấm lòng, chứ không phải chỉ ở môi miệng, hãy theo tôi.”
Chỗ khác ông thêm: “Các chiến sĩ thân mến, tất cả những cố gắng chống lại sức mạnh siêu cường đều đã không thể. Tôi không có gì để trao tặng các bạn trừ sự đói, khát, vất vả và sự chết, nhưng tôi kêu gọi tất cả những người yêu quê hương hãy cùng hợp sức với tôi.”
Chúa Giêsu không bao giờ tìm lôi cuốn, hấp dẫn con người đến với Chúa bằng con đường dễ dàng. Ngài thách đố con người bằng cách đưa ra một con đường không gì có thể cao hơn và khó hơn. Ngài đến không để làm cho cuộc sống dễ chịu hơn nhưng để làm cho con người trở nên cao cả.
Một điểm đặc biệt khác nơi Chúa Giêsu là Ngài không bao giờ kêu gọi người ta làm điều gì mà Ngài đã không làm. Đây thực sự là một đức tính của nhà thủ lãnh mà người ta sẽ theo.
Chuyện kể rằng A lịch Sơn Đại Đế trong cuộc viễn chinh chinh phục Darius, trong mười một ngày vua và binh lính của vua đã hành trình vất vả và dường như muốn bỏ cuộc vì khát không có nước uống. Trong lúc họ đang khổ cực, tình cờ có mấy người Macedonia mang ít vò nước đi ngang qua nơi A Lịch Sơn đang ở, thấy vua gần chết khát nên lấy ra một ít nước trao cho vua.  Vua hỏi xem họ lấy nước cho ai, họ trả lời cho các em nhỏ và thêm rằng nếu vua được sống thì đó là điều đáng kể còn họ sẵn sàng chấp nhận thiệt thòi dầu tất cả đều phải chết. Vua cầm lấy bình nước nhìn chung quanh và thấy các binh lính ai nấy đều giơ tay ra phía trước xin nước uống, vua nói: “Nếu chỉ mình ta được uống nước này thôi, thì thật là không công bằng chút nào.” Nói xong, vua đưa trả lại bình mà không uống một giọt nước nào. Nhìn thấy hành động cao cả của nhà vua, tất cả các binh lính lên tinh thần, quên mệt nhọc đói khát hoàn tất cuộc hành trình. Thật dễ dàng để theo một vị lãnh đạo không bao giờ đòi hỏi thuộc cấp những gì mình không làm nổi.
Một tướng thời danh Rôma, Quintus Fabius Cunctator, một hôm bàn trận chiến với các vị cố vấn. Một vị nêu lên một phương thức hành động: “Điều này có thể làm được vì chỉ phải hy sinh một số nhỏ người thôi.” Fabius nhìn người vừa đề nghị và nói: “Are you willing to be one of the few?” “Ông có sẵn lòng chịu hy sinh là một trong những người đó không?”
Chúa Giêsu đã có quyền gọi chúng ta vác thập giá theo Chúa, vì chính Người đã vác thập giá trước.
Vác thập giá theo Chúa không dễ, từ bỏ mình không dễ. Tuy nhiên chúng ta có thể dùng tự do của mình để quyết định theo Chúa, từ bỏ mình, và đây là điều tách biệt con người với con vật. Con vật tự nó không thể từ bỏ mình, con vật tự nó không thể kiêng nhịn. Chúng ta có thể huấn luyện con vật tuân theo một số kỷ luật nhưng con vật không thể tự quyết định cho nó được.  Chỉ có con người mới có  tự do, mới có khả năng tự kỷ luật cũng như tự kiềm chế ước muốn của mình.
“Đối với bạn, Chúa Kitô là ai?” Đây là một câu hỏi quan trọng mỗi người chúng ta được mời gọi suy nghĩ và tìm câu trả lời bằng chính cuộc sống của mình. Một câu hỏi khác cũng không kém phần quan trọng đó là: “Đối với bạn, bạn là ai?” Nhiều người đã sống suốt cuộc đời của họ với nhiều mặt nạ: Mặt nạ này mặt nạ kia, không dám sống thật với lòng mình, và có người bảo một điều chắc chắn đó là họ không thể bước vào cuộc sống đời đời và lại tiếp tục đeo mặt nạ được.
“Đối với bạn, Chúa Kitô là ai?” 
“Đối với bạn, bạn là ai?”


THẦY LÀ ĐỨC KITÔ (Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải)

Thưa anh chị em,
Trong những tháng ngày cuối cùng sứ vụ loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu muốn làm một cuộc trắc nghiệm hỏi xem các môn đệ dân chúng hiểu gì về Ngài. Người ta nói Thầy là ai?. Và các ông đã trả lời: “Người thì bảo là Gioan tẩy giả; kẻ khác lại bảo là Êlia hay một ngôn sứ nào đó…” (Mc 8,28). Qua những câu trả lời trên cho chúng ta thấy rằng, dân chúng không nhận ra khuôn mặt của Đấng cứu thế.
Lý do dân chúng không hiểu là vì họ cứ tưởng Đấng Cứu thế sẽ uy nghi từ trên mây trời ngự đến. Nhưng ai ngờ Ngài lại sinh bởi một trinh nữ làng quê dưới đất. Người ta cứ tưởng Đấng Thiên sai phải cư ngụ trong lâu đài sang trọng của các bậc vua chúa. Nhưng không ngờ Ngài lại sinh ra trong hang bò lừa thiếu thốn. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu độ trần gian phải oai phong lẫm liệt. Nhưng có ai ngờ Ngài lại quá hiền lành khiêm nhường giàu lòng xót thương. Người ta cứ tưởng Đấng Mêsia đến đánh đông dẹp bắc, đập tan quân thù, đưa nước Do thái lên hàng bá chủ thế giới. Nhưng không ngờ Ngài chịu thua hết mọi người, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, chịu kết án tử như một phạm nhân. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu thế là một vị vua có kẻ hầu người hạ. Nhưng không ngờ chính Ngài lại quỳ gối xuống hầu hạ, rửa chân cho các môn đệ. Cho nên, dân chúng không hiểu về sứ mạng của Đức Giêsu.
 Đến lượt Chúa hỏi các môn đệ: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?”. Phêrô đại diện cho nhóm 12 trả lời: “Thầy là Đức Kitô” (Mc 8, 29). Câu trả lời của Phêrô thật chính xác, làm cho Chúa rất hài lòng. Tuy nhiên, không phải tự nhiên Phêrô nói được như thế, nhưng là nhờ ơn trên mặc khải cho ông biết.
Phần thứ hai của bài Tin mừng, Đức Giêsu mời gọi: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo. Vì chưng, “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sống ” (Mc 8, 34-35).
Ở đời ai cũng muốn được và sợ mất, nhưng làm thế nào để được và không mất thì không phải là dễ. Vì không phải cứ thu vào là được và buông ra là mất. Trái lại, nhiều khi phải chịu mất trước rồi mới được sau. Mất nhỏ để được lớn. Mất ít để được nhiều. Đó là qui luật tất yếu trong hành trình đi theo Chúa. Nên Chúa mời gọi: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo” (Mc 8, 34). Thế nhưng, trước khi Chúa mời gọi chúng ta từ bỏ đi theo Chúa thì Ngài đã theo chúng ta trước rồi.
Ngài từ bỏ trời cao đi xuống đất thấp để theo chúng ta. Từ bỏ địa vị Thiên Chúa mặc lấy thân phận con người giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi để theo chúng ta. Từ bỏ ngôi nhà êm ấm để ra đi rao giảng Tin Mừng để theo chúng ta. Từ bỏ ý riêng, để xin vâng theo thánh ý Chúa Cha để theo chúng ta. Từ bỏ mạng sống để làm giá cứu chuộc cho muôn người để theo chúng ta. Và đỉnh cao của sự từ bỏ đến tận cùng ấy là khi Ngài chết trần trụi trên thập giá. Đến nỗi không còn chút hơi thở. Không còn một giọt máu, mất hết danh dự. Nói tóm lại để theo chúng ta, Chúa đã từ bỏ không còn gì cả.
Và trước khi Chúa mời gọi chúng ta vác thập giá đi theo Chúa thì Ngài đã vác trước rồi. Ngài không chỉ vác thập giá gỗ trên đường lên Núi Sọ, mà còn là thập giá trải dài suốt cuộc đời Ngài. Thập giá bởi kiếp sống nghèo. Thập giá bị người đời ngược đãi. Thập giá do môn đệ phản bội. Thập giá bị dân chúng loại trừ. Thập giá bởi tội lỗi nhân loại đè nặng trên vai, nên nhiều lần Chúa ngã quỵ xuống đất, nhưng rồi Ngài lại đứng lên tiếp tục vác đi cho đến cùng lên Núi Sọ, lúc đó lại mở ra con đường phục sinh vinh hiển.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu đã đi con đường từ bỏ, con đường thập giá để cứu chuộc nhân loại. Vì thế, Ngài mời gọi chúng ta ai muốn làm môn đệ của Ngài, thì cũng phải đi theo con đường từ bỏ như Ngài.
Từ bỏ những của cải chóng qua để được của cải hạnh phúc vĩnh cửu đời sau; từ bỏ ý riêng làm theo ý Chúa, đời sau Chúa sẽ làm theo ý ta.
Chúa không đòi chúng ta từ bỏ những điều vĩ đại lớn lao, nhưng là những hy sinh nho nhỏ trong đời sống thường ngày.
Chẳng hạn như: mỗi lần đến nhà thờ tham dự Thánh lễ thì cố gắng ngồi ở trong nhà thờ tham dự, đó là một chút từ bỏ mình. Tắt tivi để đọc kinh chung gia đình là một chút từ bỏ. Không chiều theo những thói hư tật xấu như là rượu chè, bài bạc, cá độ…. Kìm hãm miệng lưỡi không nói hành nói xấu hay phê bình người khác cũng là một hi sinh từ bỏ.
Rồi Chúa không bảo chúng ta đi tìm thánh giá, nhưng Ngài bảo chúng ta vác lấy thánh giá mình. Mỗi người một thánh giá, mỗi ngày một thánh giá, Thiên Chúa không bao giờ đặt trên vai chúng ta một thánh giá nặng quá sức đâu.
Những thánh giá trong đời sống hằng ngày. Ví dụ như: thánh giá trong đời sống gia đình; thánh giá do Chúa an bài gửi đến như: bị bệnh tật, bị hiểu lầm, bỏ vạ cáo gian.
Ước gì là những người đi theo Chúa, niềm tin của chúng ta được thể hiện bằng thái độ sống từ bỏ những đam mê bất chính. Đồng thời, vui lòng vác Thánh giá mình theo Chúa mỗi ngày. Với ý thức sống như thế, là chẳng những chúng ta sống làm chứng cho Chúa, nhưng còn là lời tuyên xưng sống động “Thầy là Đức Kitô”. Amen.


SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN_B (Jorathe Nắng Tím)

Sau nhiều phép lạ đã làm, Đức Giêsu đặt cho các môn đệ một câu hỏi hóc búa, nhưng then chốt , và là nền tảng, trung tâm của Tin Mừng : “Anh em bảo Thầy là ai?”.
Câu hỏi này tất nhiên đã là câu hỏi trong óc và trên môi miệng của tất cả mọi người đã gặp Đức Giêsu hoặc đã nghe nói về Ngài. Trước những việc Ngài làm, lời Ngài dậy, người ta bàn tán xôn xao về Ngài ; người ta hỏi han về danh tính, lý lịch của Ngài ; người ta đoán già đoán non tương lai của Ngài ; và không ít người đã đặt nghi vấn về Ngài. Bởi thế, khi nói về Ngài, người ta đã không thống nhất một ý, nên “có người bảo Ngài là Gioan Tẩy Giả, kẻ bảo là Êlia, số khác bảo là một ngôn sứ nào đó” (Mc 8,28). Riêng các môn đệ, khi được hỏi : “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Phêrô đã nhanh nhẩu thay anh em trả lời : “Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8, 29).
Phêrô đã trả lời chính xác, đã nói đúng danh tính của Đức Giêsu: Đấng Kitô, nghiã là xác tín căn cước đích thực của Thầy mình : Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu dân.
Nhưng Phêrô có hiểu đúng ý nghiã của danh tính Đấng Kitô của Thầy mình, hay cũng như những người Do Thái đương thời khao khát mong đợi một Đấng Kitô đầy uy lực để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ?
Chắc chắn Phêrô đã hiểu không đầy đủ ý nghĩa danh tính Đấng Kitô, nên Đức Giêsu mới “bắt đầu dậy cho các ông biết” Con Người là ai và phải chịu đau khổ thế nào (Mc 8,31), điều mà các môn đệ không bao giờ dám và muốn nghĩ đến. Nhưng sự thật còn bẽ bàng hơn, khi Phêrô tỏ ra chẳng hiểu gì về sứ mệnh và thông điệp của Đấng Kitô, khi ông “kéo riêng Đức Giêsu ra và bắt đầu trách Người” (Mc 8,32), vì “Người đã dậy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế, cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại” (Mc 8,31). Và hậu qủa là ông đã bị Đức Giêsu quở trách : “Xatan ! Lui lại đằng sau Thầy ! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8,33).

Chúng ta nhận thấy Đức Giêsu đã dứt khoát không muốn các môn đệ tiếp tục hiểu sai về sứ mệnh Đấng Kitô của Ngài, và muốn chấm dứt giai đọan các môn đệ hiểu lơ mơ, mù mờ về sứ vụ Cứu Thế của Ngài, và một cách trực tiếp, rõ ràng, Ngài cho các ông biết : Ngài sẽ phải chịu khổ hình và chết, nhưng sẽ sống lại sau ba ngày.
Qủa thực, khi được mặc khải về cuộc thương khó sắp tới, hình ảnh Đấng Kitô vốn có trong đầu óc các môn đệ từ những ngày đầu, đã lập tức tan tành, vỡ vụn, thay bằng những hình ảnh thất bại tang thương, khổ hình đẫm máu, và chết chóc sầu thảm. Trước đe dọa của đau khổ và sự chết, các ông đã đi từ bỡ ngỡ đến hoảng hốt, từ ngỡ ngàng đến hoang mang, từ nghi ngờ đến lo sợ. Và hầu hết các ông đã không còn muốn tin Thầy mình là Đấng Kitô, khi ước mơ Thầy sẽ giải phóng Ítraen, và nhóm môn đệ thân tín sẽ được ngồi bên phải, bên trái Thầy trong vương quốc vinh quang hoàn toàn tan biến, sụp đổ.
Ngày hôm nay, cũng như Phêrô xưa, chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu độ nhân loại, nhưng chúng ta muốn một Đấng Cứu Thế không biết đau khổ, một Hiến Chương Nước Trời không Thánh Giá, một tình bạn với Đức Kitô không cần sám hối, trở về, và một lịch sử nhân loại không ơn cứu độ. Chúng ta cũng mơ ước một Đấng Cứu Thế quyền năng và chỉ làm phép lạ ; đồng thời người môn đệ đi theo Đức Kitô sẽ không theo một Thiên Chúa vác Thánh Giá và chịu đóng đinh, nhưng theo một minh quân, một “Thiên Chúa các đạo binh” nghiền nát quân thù dưới chân và lẫy lừng chiến công hiển hách.
Khi loan báo cuộc khổ hình và cái chết, Đức Giêsu không biện hộ cho đau khổ, vì đau khổ không phải là điều Ngài tìm, nhưng điều làm vinh danh Thiên Chúa chính là tình yêu, và với Đức Giêsu, cao điểm của đau khổ trùng hợp với tuyệt đỉnh của Tình yêu.Tình yêu và đau khổ gặp nhau trên Thánh Giá. Tình Yêu và Đau Khổ trùng phùng nơi Ngài. Tình Yêu và đau khổ là một mầu nhiệm, và mầu nhiệm này hệ tại ở việc Thiên Chúa Cha đã cho phép đau khổ “hành hạ” chính Con Một yêu dấu của mình.
Là mầu nhiệm, đau khổ và cái chết đi qua cuộc sống con người, nhưng không bao giờ chúng có thể làm phai nhạt hoặc xóa bỏ tình yêu và niềm hy vọng, bởi Đức Giêsu, Thiên Chúa Cứu Độ đã sống mầu nhiệm đau khổ và chung phần thân phận phải chết với con người. Chính Đức Kitô, nhờ mầu nhiệm khổ nạn và chết của Ngài sẽ làm sống lại những ai phải chết và làm hoan lạc những ai phải khổ đau bằng sự phục sinh vinh quang của Ngài.
Như thế, sự sẵn sàng trước đau khổ và cái chết sẽ là thái độ phó thác của tình yêu, nhờ tín thác vào Đức Kitô, Đấng biết giá trị cứu độ của đau khổ, và luôn âu yếm nhìn chúng ta trong thử thách với đôi mắt của người cha yêu thương, nhân hậu. Lòng tín thác ấy cho phép chúng ta bước đi bình an trong sức mạnh và ánh sáng của Đức Kitô, để không ngần ngại mang lấy gánh nặng của khổ đau với một tình yêu luôn hiện diện. Cũng với lòng tín thác, chúng ta không tưởng tượng hay vẽ trước những khổ đau của ngày mai, nhưng vui lòng đón nhận khi khổ đau hôm nay đến từ tay Thiên Chúa, như lời mời gọi của Đức Kitô chịu đóng đinh đối với những người Ngài yêu, để họ được cùng Ngài đi vào vinh quang qua đau khổ, đến sự sống qua sự chết, vào hạnh phúc đời đời qua hành trình thử thách trần gian.
Lậy Chúa, như thánh Tông đồ Phêrô, chúng con đã không hiểu sứ mệnh của Đức Giêsu và nhiều lần, chúng con đã theo Xatan ngăn cản sứ vụ cứu thế của Ngài, khi khước từ đau khổ như đường vào hạnh phúc, chối bỏ Thánh Giá như đường dẫn đến sự sống, và phủ nhận Đức Giêsu chịu đóng đinh là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Qùy dưới chân Thánh Giá, chúng con xin Chúa ban Thánh Thần để chúng con chân nhận Thánh Giá là mầu nhiệm cứu độ của Đức Kitô và suốt đời được ở lại với Đức Kitô, Đấng đã chết và sống lại trong niềm vui bao la, sâu thẳm của mầu nhiệm Tình Yêu và Thánh Giá.


SUY NIỆM CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN_B (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta: Đức Giêsu là Đấng Messia, tôi tớ phải chết thay cho muôn người. Tin mừng ghi lại những nhận định về dung mạo của Đức Giêsu: “Người ta bảo con người là ai?”. Đa số dân Do Thái cũng như các tông đồ đều có quan niệm về một Đấng Messia vinh quang, ưu phiền. Họ mong chờ Ngài đến để giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống trị của ngoại bang.
Dư luận quần chúng nhìn nhận Đức Giêsu là một ngôn sứ, là một vĩ nhân làm được nhiều việc lạ lùng phi thường. Nhận thức của quần chúng chưa xác thực về Đấng Messia. Sau khi nghe dư luận của dân chúng, Đức Giêsu muốn thẩm định lập trường, ý kiến của các tông đồ “Còn các con bảo Thầy là ai?”. Phêrô đại diện anh em tông đồ tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô”. Đây là lời tuyên xưng chính xác về Đức Giêsu Đấng Cứu Thế. Nhưng Phêrô không hiểu Đấng Kitô là ai? Vì thế khi nghe Chúa Giêsu loan báo về cuộc tử nạn và phục sinh: “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, bị giết, rồi sau ba ngày sẽ sống lại”. Phêrô không hiểu và không chấp nhận một Đấng Messia phải chịu đau khổ, nên ông có phản ứng theo kiểu trần tục và cản nngăn Chúa Giêsu đi vào con đường khổ nạn, con đường Thập giá. Đức Giêsu đã quở trách Phêrô rất nặng lời: “Satan hãy lui đi, vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người”.
Chúa trách mắng Phêrô là vì cuộc khổ nạn của Người là ý định cứu độ của Thiên Chúa. Cản ngăn Người là xúi giục Người bất tuân ý Thiên Chúa. Sự xúi giục chống lại ý định của Thiên Chúa chỉ có thể là công việc của Satan muốn phá đổ công trình cứu độ của Thiên Chúa. Như thế Phêrô không hiêỷ biết việc Thiên Chúa và phản ứng hoàn toàn theo kiểu loài người.
Sau khi loan báo về cuộc khổ nạn và phục sinh, Đức giêsu bắt đầu giảng dạy dân chúng và các môn đệ về con đường Ngài phải đi là con đường Thập Giá. Môn đệ theo Chúa cũng phải đi vào con đường Thập Giá mà Thầy mình đã đi: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta”. Đức Giêsu đã đưa ra hai điều kiện cho những ai muốn đi theo Chúa:
– Từ bỏ mình nghĩa là dám từ bỏ tất cả: cha mẹ, của cải, danh vọng, địa vị, ý riêng, từ bỏ những điều xấu để trung thành với Thiên Chúa, để làm theo thánh ý Thiên Chúa.
– Vác thập giá là bước đi theo Chúa trên con đường khổ nạn: hy sinh, quên mình, vui nhận mọi đau khổ, thất bại, sự bắt bớ, mọi khó khăn, bệnh tật… để thông phần vào cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu.
Đức Giêsu đã đón nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại, một tình yêu cao cả: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu dám chết cho người mình yêu”. Mọi sự sống đều ngang qua sự chết. Đau khổ là hy sinh không tunhf yêu. Hy sinh là đau khổ kèm theo tình yêu. Không có tình yêu thì thập giá không là thánh giá. Chính Chúa Giêsu đã chết treo trên thập giá vì yêu thương nhân loại, để từ đó thập giá trở thành Thánh Giá, dấu chỉ tình yêu cứu độ.
Xã hội hôm nay dồi dào của cải vật chất, đầy đủ mọi tiện nghi, sống chủ trương hưởng thụ, sống hiện sinh, Vì thế vui nhận thập giá, chấp nhậ hy sinh đau khổ là một điều khó hiểu… Ai cũng muốn sống sung sướng. Cuộc sống gian khổ thiếu thốn là điều bất đắc dĩ.
Sống ở đời không ai được miễn chuẩn thập giá. Thập giá luôn bám chắc con người như bóng với hình. Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa nhắc bảo người Kitô hữu chúng ta:
– Khi gặp gian nan thử thách, chúng ta nhìn lên thập giá Chúa Giêsu chịu đóng đinh để phát hiện ra tình thương cứu độ của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Giêsu, Đấng đã chết vì yêu thương chúng ta, để dâng lời tạ ơn Thiên Chúa.
– Khi gặp tai ương hoạn nạn, đau yếu, bệnh tật, chúng ta nhìn lên thập giá Chúa Kitô để noi gương Đức Kitô, can đảm vui nhận thập giá cuộc đời.
– Khi chán nản thất vọng, không còn biết cậy trông vào ai, hãy nhìn lên Đức Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá để xác tín rằng con đường thập giá là con đường dẫn đến vinh quang Nước Trời.
– Khi gặp bách hại, vu khống, đối xử bất công, hãy nhìn lên Đức Giêsu chịu đóng đinh để tin rằng qua sự chết mới tới được nguồn sống đích thực và tin rằng mình được thông phần vào cuộc khổ nạn của Đức Giêsu Kitô.
Đi theo Đức Giêsu là phải từ bỏ cính mình, vác thập giá sống mầu nhiệm tự hủy như Đức Giêsu Kitô: từ bỏ ý riêng, tính ích kỷ, hận thù, kiêu căng, tự mãn, tính hư nết xấu để luôn vâng phục thánh ý Thiên Chúa như Đức Giêsu Kitô: “Vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá” (Phil 2,8).


SUY NIỆM CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN_B. (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

Câu hỏi xưa kia Chúa Giêsu đặt cho các môn đệ: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai.” hôm nay Ngài cũng muốn đặt cho mỗi người chúng ta.
Có thể trả lời hai cách.
Hoặc trả như Phêrô: “Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống.”(Mc 28,27)
Trả lời như vậy là rất đúng. Nhưng sợ rằng đó là một câu trả lời lý thuyết, hiển nhiên, có sẵn, theo sách vở. Chúng ta học trong sách thế nào thì thưa lại như vậy, chứ chưa chắc đã là một xác tín của bản thân.
Cách thứ hai là trả lời theo kinh nghiệm bản thân. Sau khi suy nghĩ, cân nhắc mình nghĩ thế nào, cảm nghiệm điều gì thì nói lên trung thực như vậy.
Theo cách này thì trả lời không dễ và mỗi người phải có câu trả lời riêng của mình.
Anh chị em sẽ trả lời như thế nào? Riêng tôi, tôi sẽ thành thật thưa cùng Chúa như thế này: Thầy là người gây rất nhiều phiền toái cho người khác, là một gương mẫu không thể theo nổi nên dễ làm nản lòng… nhưng đồng thời Thầy cũng là người mà con cần đến nhất, không thể thiếu trong đời con.
  1. MỘT NGƯỜI GÂY PHIỀN TOÁI
Vâng! Chúa Giêsu gây rất nhiều phiền toái cho mọi người, nhất là cho những ai muốn theo Ngài. Ngài đòi hỏi quá nhiều. Và những điều Ngài đòi hỏi thường đi ngược lại với bản năng của con người. Ngài mời gọi theo con đường hẹp, và qua cửa hẹp, vác thập giá mỗi ngày. Ngài còn đòi hỏi phải từ bỏ tất cả, kể cả chính bản thân. Tin mừng hôm nay kể lại: Đức Giê-su gọi đám đông cùng với các môn đệ lại và Người nói với họ rằng: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.(Mc 8,34-35)
Nhiều lúc Ngài đặt người môn đệ trước những lựa chọn rất nghiêm ngặt và gay cấn. Muốn trung tín với Ngài nhiều khi phải chịu những thiệt thòi rất lớn, chẳng hạn phải hy sinh tiền của, tình yêu, gia đình, sự nghiệp, tương lai… Và trong thực tế nhiều người đã không có đủ nghị lực để chấp nhận những hy sinh đó.
Một nhà kinh doanh nói: Nếu làm đúng theo lương tâm Kitô giáo thì chúng tôi bị thiệt thòi quá lớn, biết lấy gì mà bù lại được!
Một bà mẹ gia đình nói lên tình trạng bối rối: Nếu giữ đúng luật Chúa thì đời sống chúng tôi sẽ vô cùng chật vật, bấp bênh.
Một đôi trẻ tâm sự: Nếu không phải là người có đạo thì chuyện tình duyên của chúng tôi gỡ rối cũng chẳng có gì khó. Nhưng khổ là mình có đạo nên mới thành bế tắc.
Còn có nhiều lời khác tương tự, nhiều hoàn cảnh bi thảm khác. Quả thật Chúa Giêsu gây không ít phiền toái, rắc rối… làm nhiều người đau khổ.
Vâng! Theo Chúa Giêsu còn khó hơn leo núi. Mà chiều cao của ngọn núi này không thể đo được bằng thước trần gian. Càng leo càng thấy cao và càng thấy dốc. Làm sao đôi lúc có thể tránh được cơn cám dỗ ác hại nhất là bỏ cuộc vì nản lòng.
  1. NHƯNG CHÚA LÀ NGƯỜI MÀ TA CẦN ĐẾN NHẤT
Nhưng xét cho cùng, Chúa Giêsu vẫn là người mà ta cần đến nhất. Thiếu Ngài là ta sẽ chới với, ngả nghiêng. Cuộc đời sẽ chao đảo, lạc hướng, mất hết ý nghĩa.
Cuộc sống cũng như tâm hồn chúng ta có nhiều mơ ước. Có những mơ ước dễ nhìn thấy như những mơ ước về một cuộc sống giầu sang, một cuộc sống có đầy đủ mọi phương tiện, mơ ước về một sự thành đạt để đuợc sống cao hơn, sung sướng hơn… Nếu chỉ dừng lại ở những mơ ước thường ngày, có liên quan đến cuộc sống thể xác, vật chất trước mắt như thế thì có lẽ sự hiện diện của Chúa Giêsu cũng chẳng có ích gì nhiều cho chúng ta.
Nhưng nếu suy nghĩ sâu xa hơn một chút nữa, chúng ta sẽ thấy cuộc sống của con người còn có nhiều mơ ước khác, chúng thầm kín, thâm sâu, luôn âm ỉ dưới chiều sâu, ẩn giấu… nhiều khi chính mình cũng không thể ý thức được hết. Đó là những ước mơ có liên quan đến vận mệnh và ý nghĩa của đời người. Chúng ta vẫn nhận ra mình luôn mơ ước, ít ra một cách mơ hồ về cái gì chân thật, hoàn hảo, vĩnh cửu… nghĩa là mơ ước người chân lý, về sự toàn thiện.
Vấn đề là ai có thể thỏa mãn được những ước mơ thâm sâu và thầm kín đó của chúng ta?
Chắc chắn chỉ có mình Đấng đã tự giới thiệu mình là Chân lý và là Sự sống: “Ta là Đường, là Sự thật và là Sự sống”.
Chúa Giêsu là Chân lý bất biến và tối hậu. Ngài là Sự sống tràn đầy và vô tận… trong khi sự sống thân xác chỉ là một tia lửa lóe lên chốc lát rồi lại tắt ngấm trong đêm dài bất tận. Ngài còn là đường an toàn, chắc chắn, đưa hết thảy chúng ta tới Chân lý và Sự sống trọn vẹn.
Chính vì thế mà Ngài là người mà chúng ta cần đến nhất, một người không thể thiếu… mặc dầu sự hiện diện của Ngài có gây phiền toái, và sự thánh thiện của Ngài đôi khi có làm cho chúng ta nản lòng.
Cho nên lời tuyên xưng xưa của Phêrô còn phải trở thành kinh nghiệm riêng của mỗi người chúng ta hôm nay: ”Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết đi theo ai Ai”.
  1. CÔNG VIỆC PHẢI LÀM: TIN TƯỞNG VÀO CHÚA
Có người kể lại giấc mơ của mình như sau: Tối hôm qua, tôi mơ thấy mình đang cầu nguyện, bỗng chốc một luồng ánh sáng xuất hiện; trong ánh sáng huy hoàng đó, tôi nhận ra Chúa Giêsu đang đứng trước mặt tôi, Ngài mỉm cười nhìn tôi và nói:
– Con hãy đến ngồi trên tấm thảm này với Ta.
Lòng tràn đầy vui sướng, tôi tiến lại gần bên Chúa và ngồi xuống tấm thảm bên cạnh Ngài. Tấm thảm từ từ bay bổng lên không trung đưa theo Chúa Giêsu và tôi ngồi trên đó. Tôi mỉm cười, lòng đầy vui sướng và tự nhủ: thật không còn gì hạnh phúc cho bằng được ở gần bên Chúa.
Một lúc sau, tôi quay nhìn Chúa Giêsu để bày tỏ niềm vui của tôi; thế nhưng tim tôi bắt đầu đập mạnh, vì tôi có cảm tưởng như Chúa Giêsu không còn bận tâm đến tôi nữa, bởi lẽ Ngài đang chăm chú rút từng sợi chỉ của tấm thảm rồi quăng chúng vào không trung. Chẳng mấy chốc tấm thảm chỉ còn lại phân nửa. Hết sợi chỉ này đến sợi chỉ khác từ từ bay lên theo gió, chân tay tôi bắt đầu run lên vì hoảng sợ, thế nhưng Chúa Giêsu vẫn thản nhiên tiếp tục rút từng sợi chỉ. Sau cùng tôi kêu lên:
– Lạy Chúa, Chúa đang làm gì thế? Chúa không thấy là chẳng còn mấy chốc nữa tấm thảm của chúng ta sẽ tan tành hay sao?
Chúa Giêsu mỉn cười nắm lấy tay tôi và nói:
– Sao con lại nhát đảm và kém lòng tin như thế? Con hãy bám chặt vào Ta, con sẽ không phải sợ gì nữa, mặc dù con sẽ bị tước đoạt hết mọi sự, cả đến sợi chỉ cuối cùng”.
Chúa Giêsu vừa dứt lời, thì qủa thực sợi chỉ cuối cùng của tấm thảm cũng bị rút đi luôn, và tôi giật mình thức giấc.


CÒN ANH EM BẢO THẦY LÀ AI? (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)

“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”
Ðức Giêsu đặt câu hỏi trên cho các môn đệ
sau khi họ đã ở với Ngài và được Ngài sai đi (x. Mc 3,14),
sau khi họ đã thấy việc Ngài làm, nghe lời Ngài giảng.
Hôm nay Ðức Giêsu cũng đặt câu hỏi này cho tôi
sau khi tôi đã theo đạo một thời gian dài,
đã cầu nguyện và tham dự các bí tích…
“Còn anh, anh bảo Thầy là ai?”
Câu hỏi này nhắm thẳng vào tôi, đòi tôi phải trả lời.
Tôi không được trả lời qua loa hay máy móc.
Câu trả lời của tôi phải bắt nguồn từ một kinh nghiệm,
kinh nghiệm gặp gỡ và quen biết Ðức Giêsu.
Chẳng nên theo một người mà mình không quen và tin tưởng.
Ðời tín hữu là một hành trình tìm kiếm không ngừng
để khám phá ra khuôn mặt luôn mới mẻ của Ðức Giêsu.
Ngài thật là một mầu nhiệm khôn dò và quá phong phú.
Chúng ta chỉ mon men đến gần,
nhưng không sao múc cạn được mầu nhiệm ấy.
Phải thanh lọc những hình ảnh ta vốn có về Ngài.
Người làng Nadarét cứ nghĩ Ðức Giêsu chỉ là bác thợ.
Gioan Tẩy Giả nghĩ Ngài là một Mêsia vinh quang toàn thắng.
Phải gột bỏ cái biết cũ về Ngài
để đón nhận một Ðức Kitô khác, vượt xa điều mình nghĩ.
“Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa.”
Cần trở nên trẻ thơ để nhận ra khuôn mặt thật của Giêsu.
Hôm nay, chúng ta dễ dàng trả lời như Phêrô:
“Thầy là Ðức Kitô”,
và hơn Phêrô: “Thầy là Ngôi Lời nhập thể, là Con Thiên Chúa.”
Nhưng vấn đề không phải chỉ là trả lời đúng câu hỏi
mà còn là sống tận căn thân phận của Thầy.
Ngay sau khi loan báo con đường khổ nạn mình sắp đi,
Ðức Giêsu loan báo con đường dành cho người môn đệ.
Môn đệ chỉ có một con đường, con đường của Thầy.
Thầy đã sống phận người với tất cả bấp bênh tăm tối,
tôi có dám sống phận người của tôi trong niềm vui không?
Thầy đã chịu chết vì làm chứng cho sự thật,
tôi có dám hiến mạng tôi vì Thầy và vì Tin Mừng không?
Thầy đã vượt qua đau khổ để vào vinh quang bất diệt,
tôi có dám chọn con đường khiêm hạ và nghèo khó không?
“Người ta bảo Thầy là ai?”
Ta cần biết cái nhìn của con người hôm nay về Ðức Giêsu.
Nhiều cái nhìn đúng nhưng chưa đủ.
Truyền giáo là giúp người ta biết đúng và đủ về Ngài.
Không phải là cái biết lý thuyết trong sách vở,
nhưng là cái biết thân tình của người môn đệ.
Cuộc sống của ta vén mở căn tính của Ðức Giêsu.
Dung mạo của ta phải mang nét đặc trưng của Ngài.
Ðức Giêsu đã nói: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9).
Chúng ta ao ước nói: “Ai thấy tôi là thấy Ðức Giêsu.”
CẦU NGUYỆN:
Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,
Chúa đã làm người như chúng con,
nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc
mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,
và giữa ánh sáng, cũng có những bóng mờ đe dọa.
Lạy Chúa Giêsu,
nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,
xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu
Chúa đã buồn muốn chết được.
Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,
xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá
Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?
Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.
Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.
Xin cho con yêu đời luôn
dù đời chẳng luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm
đối diện với những thách đố
vì biết rằng cuối cùng chiến thắng
thuộc về người có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.


TẤT CẢ VÌ YÊU (Lm. Jos. DĐH.)

Tầm sư học đạo, với ước mơ có kiến thức, có chỗ đứng trong xã hội, hy vọng một tương lai tươi sáng hơn, bao giờ cũng thực tế, hào hứng, vì người ta luôn khao khát một cuộc sống thật ý nghĩa. Tìm kiếm một thế lực để che chắn, bảo vệ mình khỏi gặp nguy hiểm trên hành trình đời này, chung chung vẫn được coi là người khôn ngoan. Bước vào trường đời, cho dù mỗi người mỗi vẻ, nhưng tất cả đều phát xuất bởi tình yêu, và đi đến cùng đích là gặt hái niềm an vui hạnh phúc. Khởi đầu cho ơn gọi làm người, dù không sinh ra trong nhung lụa, không may mắn có các vệ sĩ bao bọc, mỗi người vẫn có cơ hội chọn lựa phong cách sống hữu hiệu nhất, tự do học và hành, để rồi sẽ không phải hối tiếc khi cuộc đời của mình khép lại.
Trọng thầy mới được làm thầy, muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy, phải chăng đó chỉ là câu thành ngữ nhằm khích lệ mọi người phát huy nét đẹp giữa tình thầy trò ? “Người ta bảo Thầy là ai” ? Có phải đó là câu hỏi thăm dò dư luận, hay đó chỉ là câu hỏi vô tình như biết bao cuộc hàn huyên tâm sự ? Câu trả lời rất phong phú của số học trò liền ngay đó, Vị Thầy không gật không lắc, Ngài đưa dẫn các trò tới mức độ thân tình, cụ thể hơn: “phần các con, các con bảo Thầy là ai” ? Thực ra Thầy Giêsu quá biết tâm tính các học trò xưa cũng như nay của Ngài, câu hỏi và câu trả lời giữa tình Thầy-trò sẽ chỉ rõ cường độ được yêu thương, sẻ chia, và sẽ âm vang mãi, đầm ấm dài lâu.
Vì yêu thương, Đức Giêsu công khai tuyên bố cho các học trò về sứ mạng của Ngài ở phía trước: “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ, và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại”. Vì yêu, các học trò được nghe, được hiểu, được biến đổi, rồi sẽ được người ta gọi là thầy, và tất cả sẽ được nên một trong tình yêu Giêsu. Nếu sứ mạng của Đức Giêsu không có đau khổ, không mang vác thập giá, chắc chắn sẽ dễ chịu hơn, sẽ không khó khăn gì cho những ai là học trò, là thần dân của Ngài. Chính vì yêu, người học trò mới nhận ra Đức Giêsu chịu đóng đinh là Thầy, là Chúa, là Đấng cứu độ ; vì yêu, sức nặng của thập giá và tội lỗi thế gian không ngăn cản được Đức Giêsu chịu tử nạn và phục sinh, cứu nhân loại khỏi chết.
Tục ngữ có câu: nói một đàng, quàng một nẻo, hẳn cha ông chúng ta không có ý trách một vài cá nhân cẩu thả trong công việc ; thực ra các ngài lưu ý con cháu ý thức tinh thần làm việc của mình phải nghiêm túc với trọng trách được giao phó. Tuyên xưng Đức Giêsu là Thầy, là Chúa, đã không đơn giản đối với nhóm 12 rồi, sống niềm tin, sống sứ mạng như Thầy vác thập giá và dám mất mạng sống vì Thầy, vì yêu, vì Tin mừng, càng phức tạp biết bao. Hữu tâm tất thành sự, có đầy trong lòng mới tràn ra, có thật sự yêu mến Thầy, mới hiểu Đức Giêsu chịu đóng đinh thập giá và Đức Giêsu sống lại vinh quang chính là Thiên Chúa cứu độ.
Là học trò theo Đức Giêsu hàng ngày, hàng tuần, hàng năm và cả cuộc đời, không những có cơ hội tuyên xưng Thầy là Đức Kitô, là Đấng cứu độ, mỗi người còn có dịp để từ bỏ mình, vác thập giá để minh chứng tình yêu mà chúng ta đang nhận lãnh, chia sẻ. Là học trò, là môn đệ Đức Kitô, tất cả phải chấp nhận để Đức Kitô gọt giũa hàng ngày, phải để Ngài biến đổi, hầu biết minh chứng tình yêu và lòng mến trước sứ mạng theo Chúa là bỏ mình, bỏ cái tôi ích kỷ. Thời đại công nghệ số hôm nay, lại một lần nữa nhắc nhớ chúng ta thế nào là từ bỏ, là quên mình ? Từ bỏ một giờ, một ngày, một tuần, ngưng sử dụng điện thoại, facebook, máy tính, mà chú tâm cầu nguyện, đi lễ, tĩnh tâm, quả là khó biết chừng nào ?
Tất cả vì yêu, tất cả là hồng ân, tất cả dũng cảm khi giặc tấn công, và khi giặc bỏ chạy, ai cũng là anh hùng. Có biết yêu mới theo Chúa được, có tin Chúa, mới thấy cuộc đời mỗi người đều được bao bọc bởi tình yêu thương của Chúa. Có vác thập giá theo Chúa hàng ngày, người ta mới thấy quyền năng và phép lạ Chúa đang biến đổi con người bất toàn của mình. Xưa kia Đức Giêsu kêu gọi ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình vác thập giá hàng ngày mà theo Ta, Ngài còn lưu ý chúng ta hãy đi đằng sau Thầy để hiểu rõ hơn như thế nào là yêu.
Mang thân phận là con cái Chúa, là học trò của Đức Giêsu, dù trong ơn gọi là thường dân, là tu sĩ, là linh mục, chúng ta đều cơ hội để sống yêu thương, phục vụ, với điều kiện riêng của mình. Đức Giêsu sẽ không hài lòng, nếu chúng ta tuyên xưng niềm tin về Thiên Chúa cách chung chung, Ngài cũng không đồng ý khi chúng ta sống niềm tin hời hợt lý thuyết, nhưng là biết hành động khôn ngoan theo ý Chúa, đi đằng sau Chúa. Ý chí quyết tâm, cần thiết cho những ai muốn đến điểm đích của hạnh phúc, tình yêu lại là căn bản để những ai sống tương quan với Chúa và tha nhân. Chúa gọi nhóm 12 làm học trò, biến đổi các ông làm tông đồ xây dựng nước Chúa, nhưng vì yêu, Ngài chịu đóng đinh thập giá để giải thoát tội lỗi và sự chết cho cả nhân loại. Dù ơn gọi của chúng ta là linh mục, tu sĩ, người giáo dân bình thường, tất cả đều là đối tượng của Thiên Chúa yêu thương, cứu độ. Amen.


CON NGƯỜI NGÀY NAY NÓI ĐỨC GIÊSU LÀ AI? (Lm.Jos Tạ Duy Tuyền)

Những nhà đạo đức hôm nay dường như không bằng lòng với cách suy nghĩ và hành động của đa sốcác bạn trẻ về tôn giáo. Bởi vì cách biểu hiện hành vi thờ phượng của họ có vẻ phàm tục nhiều hơn là thánh thiêng. 
Nếu hỏi họ lý do nào bạn tới Nhà Thờ và Chùa Chiền, ta sẽ nhận được nhiều câu trả lời đại loại như: “đi nhà thờ, chùa để gặp gỡ nhiều người, đi lễ để có dịp mặc áo mới, tích cực một chút là đến nhà thờ thấy tâm bình an hơn”. Ngược lại có người lại bảo theo đạo là tại tâm. Đi lễ đi chùa không quan trọng mà quan yếu là sống tốt là được . . .Họ cho rằng theo đạo làm chi, phải đi lễ hằng ngày, hằng tuần, ngủ cho sướng. Và theo đạo làm chi để bị ràng buộc bởi quá nhiều lề luật. . .
Có một lần nói chuyện với một người bạn, tôi hỏi: “Theo bạn, tôn giáo nào tốt nhất?”.
Tôi nghĩ bạn ấy sẽ nói: “Thiên Chúa giáo” là tốt nhất. Nhưng anh bạn ấy trả lời: “Tôn giáo tốt nhất là tôn giáo đưa anh đến gần Đấng Tối Cao nhất. Là tôn giáo biến anh thành con người tốt hơn”.
Quả thực, một tôn giáo tốt là phải biến các môn sinh thành những con người biết thương cảm hơn, biết theo lẽ phải hơn, biết từ bỏ hơn, dịu dàng hơn, nhân hậu hơn, có trách nhiệm hơn, có đạo đức hơn.
Hôm nay Chúa Giê-su hỏi các môn đệ và cũng là hỏi từng người chúng ta: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Chúa Giêsu vẫn tôn trọng tự do của các môn đệ. Ngài vẫn hằng tôn trọng tự do của chúng ta hôm nay. Ngài mời gọi chứ không ép buộc. Nhưng đã tin theo Ngài thì phải từ bỏ, phải hy sinh vác thập giá, phải đi qua cửa hẹp và phải sống thanh thoát với của cải trần gian. Nghĩa là Ngài vẫn đòi hỏi chúng ta phải sống vượt lên trên nhu cầu thể xác tầm thường, phải sống làm chủ bản năng của mình bằng hy sinh, khổ chế để sống như những con người tự do đích thực. Không bị những đam mê danh lợi thú ràng buộc. Không bị những cám dỗ tội lỗi làm mất lương tri, mất phẩm giá cao qúy của con người.
Đây là đòi hỏi của Tin mừng nhưng lại vượt sức của con người, nếu không có ơn Chúa thì con người sẽ khó có thể vượt qua những đòi hỏi gắt gao này. Phêrô và các môn đệ đã nhìn thấy Thầy là Chúa, là Đấng hằng sống và các ông còn hiểu rằng: “ai bước đi theo Thầy sẽ không phải chết đời đời”. Đây là điều để các ngài dám đánh đổi cuộc đời này để đổi lấy hạnh phúc bất diệt đời sau. Các ngài đã dám khước từ vinh hoa phú qúy đời này để lãnh triều thiên vinh hiển noi quê trời.
Vâng cuộc đời này sẽ đi qua. Tiền tài, danh vọng, lạc thú tất cả chỉ là phù vân. Cái chết sẽ làm chúng ta đoạn tuyệt tất cả. Nhưng cuộc đời không dừng lại ở cái chết. Cái chết là ngưỡng cửa mở ra sự sống vĩnh cửu. Và ở cõi đời đời con người đau khổ hay hạnh phúc lại tuỳ thuộc ở cuộc đời hôm nay. Vì thế, nếu bạn chọn sự sống đời đời phải từ bỏ tham sân si, từ bỏ mọi đam mê bất chính. Từ bỏ đòi hy sinh, đòi khổ chế để vượt thắng cám dỗ. Các tông đồ đã vượt thắng tất cả vì tin rằng Chúa là Đường là sự thật, là sự sống. Các Ngài đã từ bỏ mọi sự để theo Chúa, còn chúng ta có dám vì sự sống bất diệt ngày mai bên Chúa để can đảm từ khước những đam mê bất chính, những bon chen danh lợi thú để sống theo giáo huấn của Chúa hay không? Hạnh phúc hay đau khổ còn tuỳ thuộc vào chọn lựa của chúng ta hôm nay?
Ước gì chúng ta có cái nhìn đức tin như Phêrô để làm chứng cho thế giới hưởng thụ hôm nay về một cuộc sống hạnh phúc trường sinh mai sau. Xin cho những người tin vào Chúa biết sống biểu lộ niềm tin của mình qua đời sống công bình, bác ái và yêu thương. Amen



CÓ MẤY THỨ THẬP GIÁ?  (Lm. An Phong Nguyễn Công Minh)

Phêrô sau khi được điểm 10 vì trả lời xuôi câu hỏi Giêsu là ai, lại bị ngay điểm 0, vì chẳng hiểu gì về đường lối của Thiên Chúa : “Satan, hãy lui lại đàng sau, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là tư tưởng của loài người”
Tư tưởng của Thiên Chúa là Đức Kitô phải chịu đau khổ rồi mới được vinh quang. Rồi sau đó Đức Giêsu dạy các môn đệ phải từ bỏ mình và hãy “vác thập giá” mà đi theo Chúa.
Nếu vác thập giá có nghĩa là mang thánh giá, đeo thánh giá, thì nhiều người trong chúng ta – nhất là các bà các cô, và các chàng hippy cao bồi xưa đã thực thi Lời Chúa triệt để : Họ mang thánh giá trên ngực, giờ họ mang toòn teng cả 2 lỗ tai. Có thời thánh giá nhỏ, có lúc mang thánh giá thật to. Lúc vàng, lúc gỗ….
Mang thánh giá như vậy cũng có điều tốt, vì một cách nào đó làm cho bóng thánh giá hiện diện đó đây. Nhưng cũng có khi – và nhiều khi – không mang những thánh giá như vậy mà vẫn là vác thánh giá thật. Những thánh giá thật đó là những thánh giá nào ? Ta hãy nương theo thánh Giêronimo, để liệt kê 4 loại thánh giá :
1- Thánh giá vì đạo
-Thánh giá vì đạo đạt tới bậc cao là chết vì đạo, cho dù chết trên thập tự hay chết vì thú dữ xé thây, hay chết vì lưỡi gươm lý hình, thì cũng là vác thập giá tử vì đạo.
Vào những thế kỷ đầu của kỷ nguyên Kitô giáo, ở Roma xa xôi, xa về không gian lẫn thời gian ; ở những nước gần chúng ta hơn như Triều Tiên, Nhật Bản, Philippines ; hoặc ngay tại quê hương đất nước chúng ta, cách đây hơn 100 năm thôi : đã có bao nhiêu kẻ vì muốn theo Chúa Kitô mà đã phải vác lấy thập giá tử vì đạo này. 117 + 1 vị còn đó, lễ kính ngày 24/11: thánh Anrê Dũng Lạc và các bạn tử đạo. Nhật có Phaolo Miki và các bạn, lễ kính 6-2. Đại Hàn có 103 vị tử đạo được ĐGH JP2 đến Seoul phong thánh 1984, lễ mừng 20-9: thánh Kim Taegon và Chung Hasan cùng các bạn. Phi Luật Tân có thánh Laurenso Ruiz và các bạn, kính ngày 28-9 ; và những vị tử đạo tiên khởi Roma, kính ngày 30-6.
Thánh giá vì đạo ở đỉnh cao là Tử vì đạo.
-Thánh giá vì đạo ở bậc trung là những bách hại vì đạo : vì là người Công Giáo, vì là người theo Đức Kitô mà ta bị trù dập, mất việc, xếp ở cột 12 trong sơ yếu lý lịch !
Cũng có thể được xếp vào bậc trung thánh giá vì đạo, là loại thánh giá đặc biệt, không phải vì đạo mà là do Đạo gây ra. Trong lịch sử ta thấy điển hình có Galilê, bị chính Đạo o ép suýt bị hoả thiêu khi ông chứng minh trái đất quay chứ không phải mặt trời chạy.
Vào khoảng năm 1990, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình đi “ad limina” ở Roma về, ngài vui mừng, chia sẻ : lần này Toà Thánh đã xem tôi là người Công Giáo rồi ! Là vì trong quá trình sống chung với anh em sau năm 1975, ngài đã bị báo cáo này nọ, chẳng hạn ngài là giám mục chưa đến nỗi “quốc doanh” nhưng là loại “công tư hợp doanh.”
Có những bổn đạo “được” cha xứ để ý cách riêng, gọi thẳng ra là trù dập, o ép. Thánh giá bởi đạo là thế, tuy không phổ biến, không nhiều, nhưng cũng khá nặng. Nặng hạng trung.
-Thánh giá vì đạo ở bậc thấp là tuân giữ lề luật của đạo. Chẳng ai bách hại trù dập vì đạo, chẳng ai chặt đầu đóng đinh vì đạo, thì ở mọi thời ta vẫn còn phải vác thập giá vì đạo loại cấp thấp này : Ăn chay, kiêng thịt, đọc kinh, đi lễ …, đó là những thánh giá do đạo mà ta phải vác nếu ta muốn theo Đức Kitô.
2- Thánh giá do Chúa [Quan Phòng]
Có khi là chính Chúa gửi tới, có khi là Ngài quan phòng để cho sự việc xảy ra. Thánh giá loại này bao gồm tất cả những bệnh tật, lo âu, sợ hãi, chán nản, thất bại, mà ta gặp trong cuộc sống. Bi quan hơn một chút, thì cả cuộc sống là thập giá.
“Đã mang tiếng khóc chào đời” – chẳng bé thơ nào – chẳng ai bước chân vào đời mà nở nụ cười cả. Phật thì bảo : Đời là bể khổ. Bởi đó có thể nói thánh giá loại này được gọi là khổ giá. Nếu vác cho khéo sẽ thành thánh giá.
-Hiệp sĩ Phanxicô vì một cơn bệnh thập tử nhất sinh mà hoán cải thành thánh. Khổ giá biến thành thánh giá.
-Anphôngsô thất bại trước một vụ kiện mà quay về với Chúa. Khổ giá thành thánh giá.
Nhiều người do cha mẹ chết sớm, vác thập giá nuôi bầy em, mà nên những vĩ nhân. Nhiều bạn trẻ thi rớt, nhiều bạn trai bị bồ đá, đau quá, dốc quyết đi tu, đỗ cụ làm cha !
3- Thập giá do ma quỉ
Ma quỉ có thật chứ không phải chuyện huyền thoại, thần sầu quỉ khốc đâu. Và ma quỉ lại không ở yên. Ma quỉ hành động, hành động tích cực. Cứ đọc sách Job thì biết. Những trang đầu của sách Sáng Thế cũng vậy. Và nhất là trong cuộc đời của Chúa Giêsu, quỉ ma cũng không buông tha Ngài.
Vì thế thập giá do ma quỉ là những chước cám dỗ: mưu ma chước quỉ. Ở thời nào cũng có, ở nơi nào cũng có, ở lứa tuổi nào cũng có, ở ngành nghề nào cũng có.
Nghề buôn thì có cám dỗ làm giàu bằng con đường tắt, con đường lậu ; nghề xây cất thì có cám dỗ xây một, cất (giấu) hai.
Tuổi trẻ có cám dỗ về ăn chơi phung phí. Tuổi già có cám dỗ về kể lể thành công. Học sinh có cám dỗ cóp bài, tìm phao. Công nhân có cám dỗ câu giờ lao động.
Người chồng có cám dỗ thấy vợ người khác duyên dáng thuỳ mị hơn bà xã ở nhà. Người vợ có cám dỗ thấy chồng nhà bên cạnh tháo vát lanh lợi hơn ông chồng nhà mình…
Ta không thể kể xiết, bởi có những cám dỗ tinh vi mưu mô hơn nữa kìa. Nhất là những cám dỗ len lỏi vào cả trong việc đạo đức cầu kinh.
Vác những cám dỗ đó, mà không sa vào những cám dỗ đó, nhưng vác đem đi xa : chứ không phải sa chước cám dỗ (trong kinh Lạy Cha) – quả là một cách vác thập giá theo chân Chúa.
4- Thánh giá do chính mình
Đây là tên gọi của những hy sinh, hãm mình. Hy sinh, hãm mình là những điều mình đáng ra không phải làm, nhưng mình làm thêm. Đáng ra mình được hưởng, nhưng mình không hưởng.
Được xem Tivi giải trí, mình hãm mình không xem.
Không phải quét nhà, nhưng hy sinh cầm cái chổi…
Người ta kể Phanxicô thường rắc thêm tro vào thức ăn, để ăn bớt ngon hơn hầu hãm mình. Mặc áo, thì lót thêm ít vải gai bố hầu ép thân ép xác (như mặc áo nhặm).
Phải đi với người ta một dặm, mình hi sinh đi thêm một dặm nữa.
Gương các vị thánh về hy sinh cũng đầy dẫy, và trong gia đình, gương hi sinh của cha mẹ anh chị cũng không thiếu.
Mẹ thức thêm để vá cho con chiếc áo, cha làm thêm giờ để lo cho con một món đồ chơi. Mẹ nhịn miếng thịt để cho con trai lớn, bố nhường trái chuối cho bé út trong nhà.
Trên đây là ta dựa theo cách liệt kê của thánh Giêrônimo để mô tả 4 loại thập giá mà ta thường phải vác : thập giá vì đạo, thập giá vì Chúa, thập giá do ma, thập giá bởi mình.
Nhưng cũng có nhiều cách vác.Vác mà càu nhàu lẩm bẩm thì giá đã nặng lại nặng thêm mà không sinh ích gì. Còn vác cùng với Chúa, theo chân Chúa, thì ánh sáng mới loé ở chân trời.
Per crucem ad lucem : qua thập giá đến ánh sáng là một châm ngôn của Dòng Mến Thánh Giá, được sáng lập từ Việt Nam. Và gẫm Năm Sự Thương, thứ tư thì ngắm : Đức Chúa Giêsu vác thánh giá – Ta hãy xin cho được vác thánh giá theo chân Chúa. Hãy “vác thánh giá theo chân Chúa,” sẽ thấy tương lai tươi sáng cuối đường hầm vậy.


SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA – CHÚA NHẬT 24 TN_B (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

Chúa Nhật XXIV này được định vị vào trong viễn cảnh của cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh. Theo Tin Mừng Mác-cô, đây là lần đầu tiên Đức Giê-su loan báo cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài.
Is 50: 5-9
Bài đọc I trích từ tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị là bài ca thứ ba trong bốn bài ca về Người Tôi Trung chịu đau khổ; Người Tôi Trung này tìm gặp nơi Chúa sức mạnh của mình và chấp nhận mọi thử thách đau thương.
Gc 2: 14-18
Trong đoạn trích thư của thánh Gia-cô-bê hôm nay, thánh nhân dạy rằng “đức tin không việc làm là đức tin chết”.
Mc 8: 27-35
Trong Tin Mừng Mác-cô, sau khi nghe lời tuyên xưng của thánh Phê-rô: “Thầy là Đấng Ki-tô”, Đức Giê-su loan báo cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh sắp đến của Ngài.
BÀI ĐỌC I (Is 50: 5-9)
Bản văn này được trích dẫn từ một trong bốn bài thơ về một dung mạo bí ẩn của Người Tôi Trung thập toàn của Đức Chúa trong tác phẩm của I-sai-a đệ nhị (Is 40-55). Hai bài thơ sau cùng đều cho thấy Người Công Chính này chịu mắng nhiếc phỉ nhổ (bài thơ thứ ba mà chúng ta đọc hôm nay), đoạn bị giết chết một cách nhục nhã nhưng tiếp đó tràn đầy vinh quang (bài thơ thứ tư). Chúng ta gặp thấy ở nơi dung mạo của Người Tôi Trung chịu đau khổ này, dung mạo của Chúa Giê-su, Đấng chịu đau khổ để đem lại ơn cứu độ cho nhân loại.
  1. Dung mạo của Người Tôi Trung chịu đau khổ
Người Tôi Trung này là sứ giả của Thiên Chúa, ông đã được thông báo cho biết sứ mạng được trao phó cho ông không là dễ dàng, nhưng ông “không cưỡng lại cũng chẳng tháo lui” 50: 5). Sứ mạng này được xác định ở đoạn trên: “biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức” (50: 4). Ông chẳng đón nhận gì ngoài những vô ơn bạc nghĩa: bách hại, đánh đòn, nhục mạ; ông cam chịu mà không hề than vãn một lời. Sức mạnh và sự thanh thản của ông đến từ niềm tín thác vào Thiên Chúa, Đấng phù trợ ông, Đấng tuyên bố rằng ông công chính, Người ở kề bên ông. Vì thế chẳng có gì phải nao núng cả: “Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu tòa! Ai muốn kiện cáo tôi ? Cứ thử đến đây coi!” (50: 8).
  1. Dung mạo của Đức Ki tô
Ở nơi dung mạo của Người Tôi Trung này chúng ta đọc thấy dung mạo của Đức Ki-tô. Chính Ngài cũng là Đấng được Thiên Chúa sai đến. Sứ điệp mà Ngài mang đến là Tin Mừng cho những người nghèo khổ. Ấy vậy, chính Ngài phải gánh chịu muôn vàn đau khổ và bách hại mà không hề than van một lời. Và cũng chính Ngài công bố: “Ai có thể bắt lỗi tôi điều gì?”. Ngài biết rằng Chúa Cha sẽ tôn vinh Ngài và Chúa Thánh Thần sẽ minh oan cho Ngài.
BÀI ĐỌC II (Gc 2: 14-18)
Chúng ta tiếp tục đọc Thư của thánh Gia-cô-bê.
  1. Đức tin không việc làm là đức tin chết
Đoạn trích hôm nay tập trung vào một chủ đề: “đức tin không hành động là đức tin chết”. Đức tin tích cực năng động là đức tin hướng đến việc thực thi đức ái. Lời khuyên bảo của thánh Gia-cô-bê rất thực tế: lời khuyên này được một ví dụ cụ thể minh họa và được trình bày rất thấm thía. Những lời hay ý đẹp chỉ là như gió thoảng qua, thậm chí chỉ là giả hình, nếu người ta không đề ra những phương sách cứu giúp những người anh chị em đau khổ của mình.
  1. So sánh giáo huấn của thánh Gia-cô-bê và của thánh Phao-lô
Khi tuyên bố “Đức tin không việc làm là đức tin chết”, phải chăng thánh Gia-cô-bê chủ trương một lập trường trái ngược với thánh Phao-lô như được trình bày trong các thư gởi tín hữu Ga-lát và Rô-ma: “Con người được nên công chính không phải nhờ làm những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Ki-tô” (Gl 2: 16; x. Rm 3: 20)? Nói đúng hơn, thánh Gia-cô-bê cảnh giác những người Ki-tô hữu gốc Do thái coi chừng một lối giải thích lạm dụng giáo huấn của thánh Phao-lô. Người ta không thể trách cứ thánh Phao-lô là không ca ngợi việc làm, đặc biệt là đức ái, vì nếu không có đức ái thì đức tin “chỉ là tiếng phèng la inh ỏi”.
Tuy nhiên, thánh Phao-lô, vị Tông Đồ dân ngoại, muốn chứng minh rằng những việc lành phúc đức của luật Mô-sê không thể đạt được ơn cứu độ, từ nay chỉ có một nguồn ơn cứu độ duy nhất là “tin vào Đức Ki tô”. Mục đích của thánh Gia-cô-bê là làm nổi bật những thành quả của luật mới, mà hàng đầu là Đức Ái. Đành rằng đức tin là Thiên Ân và nhờ đức tin chứ không vì công nghiệp mà chúng ta được nên công chính, nhưng việc làm của chúng ta chứng tỏ rằng đức tin ấy đầy sức sống, chứ không èo uột héo khô.
TIN MỪNG (Mc 8: 27-35)
Chúng ta đang ở giai đoạn Đức Giê-su tìm kiếm một sự yên tỉnh ngoài biên giới miền Ga-li-lê để được ở một mình với các môn đệ và dành trọn thời gian vào việc huấn luyện họ.
  1. Bối cảnh của cuộc chuyện trò
Như chúng ta đã biết, Đức Giê-su đã rút lui vào vùng Tia, đoạn miền Thập Tỉnh. Bây giờ Ngài rời Bết-sai-đa để tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp, vùng cực Bắc xứ Pha-lê-tinh. Lãnh địa này không thuộc quyền của tiểu vương Hê-rô-đê An-ti-pát, nhưng em của ông là tiểu vương Phi-líp-phê, một nhà cai trị cẩn trọng và khôn ngoan. Chính tiểu vương Phi-líp-phê là người xây dựng thành Xê-da-rê mang tên ông để phân biệt với thành Xê-da-rê duyên hải. Như vậy Đức Giê-su đã dẫn các môn đệ đi sâu vào vùng đất lương dân, lên đến thượng nguồn của dòng sông Giô-đan. Trên lãnh địa này, người ta có thể đi lại một cách thanh bình. Đức Giê-su đồng hành với các môn đệ của Ngài. Những dòng suối của sông Giô-đan thì rất gần, cảnh vật êm ả, chính trong khung cảnh êm ả và thanh bình này mà cuộc nói chuyện giữa Thầy trò diễn ra.
Thánh Lu-ca đặt câu chuyện này vào trong bối cảnh Đức Giê-su cầu nguyện một mình và có các môn đệ ở đó với Ngài (Lc 9: 18-21: thánh Lu-ca không bao giờ quên kể ra việc Đức Giê-su cầu nguyện vào những giờ phút trang trọng), trong khi thánh Mác-cô nói với chúng ta rằng Đức Giê-su và các môn đệ vừa đi vừa trò chuyện với nhau. Đối với thánh Mác-cô, chính nhờ đồng hành với Đức Giê-su, lắng nghe Ngài, mà chúng ta có thể hiểu được dung mạo đích thật của Ngài hơn.
  1. Thăm dò niềm tin của các môn đệ về Ngài
Trước hết Đức Giê-su hỏi các môn đệ về dư luận quần chúng: họ nói gì về Ngài, ngõ hầu giúp các ông hiểu rõ hơn niềm tin của họ vào Ngài. Các môn đệ đáp: “Họ bảo Thầy là Gioan Tẩy Giả; có kẻ bảo là ông Ê-li-a; kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó”.  Trong những dư luận này, việc đồng hóa Đức Giê-su với ông Gioan Tẩy Giả thật lạ lùng nhưng nhắc nhớ lời phát biểu của tiểu vương Hê-rô-đê khi nghe danh tiếng Đức Giê-su: “Đó chính là ông Gioan Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ” (Mt 14: 1-2). Việc dân chúng nhận biết Đức Giê-su là một trong những đại ngôn sứ đã là một bước tiến đáng kể trên con đường đức tin rồi, tuy nhiên vẫn còn rất xa chân tính của Ngài.
Thật ra, câu hỏi của Đức Giê-su: “Người ta nói Thầy là ai?” chỉ là câu hỏi khởi động cuộc nói chuyện nhằm giúp các môn đệ cởi mở tấm lòng với Thầy, nhưng câu hỏi mà Ngài muốn hỏi các ông chính là “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Với câu hỏi này, Đức Giê-su muốn trắc nghiệm niềm tin của các môn đệ về Ngài sau những ngày tháng được sống bên Ngài, lắng nghe những lời Ngài nói và thấy những việc Ngài làm. Thay mặt cho các môn đệ, ông Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki tô”. Tại thánh Mát-thêu, thánh Phê-rô thưa: “Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16: 16). Tại thánh Lu-ca, thánh Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa” (Lc 9: 20). Quả thật, đây là một câu trả lời vượt quá khả năng của thánh Phê-rô mà trong cùng một câu chuyện, thánh Mát-thêu ghi lại nhận xét của Đức Giê-su: “Không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều này, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16: 17). Bởi vì chỉ mới vừa trước đây thôi Ngài đã quở trách các ông vì lòng trí các ông quá chậm hiểu trước sứ điệp và con người của Ngài. Theo Tin Mừng Mác-cô, lời tuyên xưng của thánh Phê-rô: “Thầy là Đấng Ki-tô” là đỉnh cao của phẩn thứ nhất về “mầu nhiệm Đấng Ki-tô” (Mc 1-10) và lời tuyên xưng của viên quan ngoại giáo dưới chân thập giá: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (15: 39) là đỉnh cao của phần thứ hai về “mầu nhiệm Con Thiên Chúa” (Mc 11-16).
Ngay lập tức Đức Giê-su cấm ngặt các ông không được nói với ai về Ngài. Lệnh cấm này được lập đi lập lại nhiều lần trong Tin Mừng Mác-cô mà các nhà chuyên môn gọi “bí mật Đấng Mê-si-a”. Bí mật Đấng Mê-si-a này thường liên quan đến các phép lạ, bây giờ chính là chân tính Mê-si-a của Ngài. Tại sao lại có lệnh cấm này? Bởi vì Ngài sợ người ta hiểu lầm tước hiệu Mê-si-a theo nghĩa một vị vua toàn thắng trên bình diện trần thế và chính trị. Mặt khác, lúc này các môn đệ không thể hiểu hết được mầu nhiệm Mê-si-a hàm chứa trong ý định của Thiên Chúa. Rõ ràng, Đức Giê-su sắp vén bức màn mầu nhiệm này.
  1. Loan báo đầu tiên về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài
Đây là lần đầu tiên Đức Giê-su loan báo cho họ cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, các thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại”. Cái tất yếu mà Đức Giê-su nêu lên: “Con Người phải…”, không là tất yếu của định mệnh, nhưng là cái tất yếu thuộc trật tự thần học, chính là cái tất yếu của chương trình Thiên Chúa. Cuộc Khổ Nạn không là một tai nạn mà biến cố Phục Sinh sẽ sửa sai, nhưng là một phần của mầu nhiệm cứu độ nhân loại. Vào giây phút này, Đức Giê-su không cho các ông bất cứ lời giải thích nào khác ngoài cái tất yếu (“phải”) này.
  1. Phản ứng của thánh Phê-rô
Trong lời loan báo đầu tiên về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài, Đức Giê-su cẩn trọng tránh nói đến việc Ngài bị đánh đập và bị đóng đinh vào khổ giá. Nhưng như thế cũng đủ gây nên một sự choáng váng ở nơi các môn đệ. Một cách tế nhị, “thánh Phê-rô liền kéo riêng Người ra mà trách”. Chúng ta có thể hiểu được phản ứng của thánh Phê-rô. Trong tâm trí của mình, thánh nhân đã hình thành nên ở nơi Thầy mình một Đấng Mê-si khải hoàn và vinh quang: thánh nhân ôm ấp những kỳ vọng trần thế; nhưng chắc chắn lời trách cứ của thánh nhân hàm chứa lòng yêu mến của mình đối với Thầy mình. Không ai có thể chấp nhận người mình thương yêu có thể bị đau khổ.
  1. Phản ứng của Đức Giê-su

 Đức Giê-su phản ứng rất quyết liệt; thái độ của thánh Phê-rô tái hiện trong tâm trí của Ngài cơn cám dỗ mà Ngài đã kinh qua trong hoang địa (Mt 4: 8-9; Lc 4: 5-7); Đức Giê-su đáp trả vị Tông Đồ của Ngài cũng bằng những lời mà Ngài đã dùng để trục xuất Tên Cám Dỗ: “Xa-tan kia, xéo đi!” (Mt 4: 10; x. Mc 8: 33), nhưng với thánh Phê-rô, Ngài còn nói thêm: “Lui ra đằng sau Thầy”, nghĩa là “Anh phải hiểu rằng nếu là môn đệ trung thành, anh phải bước đi theo con đường của Thầy”.
Và với tất cả những ai muốn làm môn đệ của Ngài, Đức Giê-su cũng căn dặn một lời như vậy: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Hễ mỗi lần gợi lên cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài, Đức Giê-su đều liên kết các môn đệ của Ngài, và qua họ, tất cả các Ki tô hữu, vào con đường đau khổ để đạt đến vinh quang này: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì cứu được mạng sống ấy”. Ở đây Đức Giê-su sử dụng một từ hai nghĩa: “mạng sống” vừa là cuộc sống trần thế tạm thời này vừa là cuộc sống muôn đời mai sau.
Những lời này âm vang xuyên suốt nhiều thế kỷ và đã tạo nên niềm tin tưởng và phó thác vô bờ của các thánh tử đạo mọi thời, hôm qua cũng như hôm nay.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

lich cong giao 2022 - 2023
tapsanmucdong
THỐNG KÊ
  • Đang truy cập24
  • Máy chủ tìm kiếm9
  • Khách viếng thăm15
  • Hôm nay19,549
  • Tháng hiện tại348,054
  • Tổng lượt truy cập29,327,592

Chúng tôi trên mạng xã hội

CÁC GIÁO HẠT
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây