Trang mới   https://gpquinhon.org

Lược sử Giáo xứ Tịnh Sơn

Đăng lúc: Thứ hai - 15/04/2013 08:17
LƯỢC SỬ GIÁO XỨ TỊNH SƠN


 
 


I. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ:

Phần đất giáo xứ Tịnh Sơn ngày nay gồm các xã thuộc huyện Sơn Hoà : Sơn Hội, Sơn Phước, Suối Trai, Cà Lúi, thị trấn Củng Sơn và các xã thuộc huyện Sông Hinh : Đức Bình,Thị trấn Hai Riêng. Trên đường liên tỉnh lộ số 07 ( Quốc Lộ 25) từ Tuy Hoà đi đến thị trấn Củng Sơn, cách Củng Sơn khoảng 02 km về hướng Tây, nhà thờ Tịnh Sơn nằm trên khu đất cao thoáng mát.

II. ĐÔI DÒNG LỊCH SỬ :

Phần đất giáo xứ Tịnh Sơn là vùng núi cao của Phú Yên, đường đi hiểm trở, các cụm dân cư thường cách xa nhau. Trong báo cáo của Đức Cha Stêphanô Thể gởi về Hội Thừa Sai Ba Lê năm 1850, chưa thấy có tên một giáo điểm hoặc một nhà thờ nào thuộc vùng đất giáo xứ Tịnh Sơn ngày nay. Trong báo cáo hằng năm của Đức Cha Hierocésaree năm 1897 có ghi rằng : “ Nhà thờ Trà Kê được hoàn thành. Nhà thờ nầy được xây lại trên nền nhà nguyện cũ đã có trước năm 1861”

(R.A.E d’Hierocésaree, Cp.V, 1897). Như thế Trà Kê là một giáo điểm được các Thừa Sai Ba Lê thành lập sau năm 1850 và trước năm 1861. Cha François Chatelet là vị thừa sai đầu tiên thường xuyên ở tại Trà Kê và đã gởi lại thân xác tại vùng Sơn cước Phú Yên đợi chờ ngày sống lại. Cha Chatelet sinh ngày 20/04/1855 tại Saint-Didier-sur-Beaujeu (Rhône), thụ phong linh mục ngày 26/09/1880, tháng 10/1880 lên đường đến Việt Nam, ngài được chỉ định đến Trà Kê. Khi cơn lốc bách hại của phong trào Văn Thân năm1885 làm cho vùng Trà Kê không được an toàn, cha Chatelet thiết lập điểm Cây Gia, tương đối hiểm trở, có suối bao bọc xung quanh (cách Trà Kê khoảng 08 km về hướng Đông-Bắc) nhằm bảo vệ nhóm tín hữu Trà Kê và các vùng miền xuôi tập trung về. Ngày 26/08/1885 quân Văn Thân đã phá được phòng tuyến, xông vào nhà thờ tiễn cha Chatelet và một số tín hữu về chầu Chúa. Thầy Anrê Cậy, đang giúp xứ Cây Gia, bị đâm vào cổ ngã nằm chung với các tín hữu đã đi chầu Chúa, quân Văn Thân tưởng thầy đã chết, sau đó được cứu sống và thụ phong Linh mục. Lòng đất Cây Gia đã được vinh hạnh đón nhận thân xác cha Chatelet và một số tín hữu cùng dâng hy lễ máu đào trong ngày lịch sử ấy, hiện nay cha Chatelet đã được cải táng về nhà An Bình giáo Xứ Tuy Hoà. Trong khi Văn Thân tàn phá tại nhà thờ Cây Gia, có một người hô lớn tiếng: “anh em ơi, nếu phải chết thì hãy giết một ít kẻ cướp nầy rồi hãy chết”. Những người còn sống vùng dậy , Văn Thân bị phản công bất ngờ, phải rút lui nhưng Văn Thân vẫn bao vây gần 02 tháng . Được sự ủy nhiệm của Đức Cha Van Camelbecke , ngày 03/10/1885 cha Auger (Cố Đoàn) và cha Phêrô Huề đưa 300 người có trang bị 50 súng trường từ Quy Nhơn vào tiếp cứu , sáng ngày 05/10/1885 tín hữu Cây Gia được giải vây. Để được an toàn hơn, cha Auger và cha Huề dẫn đoàn tín hữu còn sống sót về Qui Nhơn (R.A.E. 1885. Mgr. Van Camelbecke).
  • Đầu năm 1887 Đức ChaVan Calmelbecke bổ nhiệm Cha Guitton cùng 02 cha phụ tá là cha Gioakim Đạt và Cha Phêrô Huề đến Phú Yên. Cha Guitton phụ trách phía Tây (Cây Gia), 02 cha phụ tá phụ trách phía Nam ( Hoa Vông). Sau ngày 10/04/1888 Cha Lacassagne được bổ nhiệm đến Phú Yên với chức năng quản nhiệm toàn vùng truyền giáo Phú Yên, ngài được tự do chọn Hoa Vông hoặc Mằng Lăng làm trụ sở. Ngài đã chọn Mằng Lăng.
  • Tháng 09/1888 Đức Cha Van Camelbecke chia Phú Yên làm 02 vùng : Cha Guitton phụ trách vùng Nam Phú Yên có cha phụ tá người Việt Nam là cha Đạt đặt cư sở tại Hoa Vông. Cha Lacassagne phụ trách vùng phía Bắc đặt cư sở tại Mằng Lăng , có cha Huề (quê Phú Điền) làm phụ tá ở tại Cây Gia.
  • Tháng 02/1893 Tân linh mục Giuse Trần Nhi về Cây Gia, cha Huề đi Củng Sơn. Hơn 04 tháng sau cha Antôn Bản từ Ninh Hoà về Cây Gia, cha Nhi đi Củng Sơn, cha Huề về Phú Điền. Năm 1895 cha Wendling phụ trách vùng Trà Kê - Cây Gia, cha Nhi làm phụ tá về ở tại Tịnh Sơn. Cha Bản vẫn là phụ tá cho cha Lacassagne về ở tại Gò Duối.
  • Năm 1896 cha Wendling chính thức đảm nhiệm vùng miền núi Phú Yên. Sau khi ngài hoàn thành ngôi nhà thờ mới tại Trà Kê năm 1897, năm 1898 ngài đến Củng Sơn tậu đất cho giáo điểm mới nầy. Năm 1901 cha Wendling đổi về Mằng Lăng ( Fiche individuelle de Wendling ), cha Perreaux đến thay thế ở tại Cây Gia trong một thời gian ngắn, cùng năm 1901 cha Porcher được bổ nhiệm về Cây Gia, ngày 14/07/1901 Cha Antôn Cẩm về Tịnh Sơn thay thế cha Nhi. Theo báo cáo năm 1903 của Đức cha Grangeon, toàn vùng Trà Kê có 2055 tín hữu rải rác trong 20 cộng đoàn rất cách xa nhau.
  • Tháng 05/1904 cha Cẩm đổi đi nơi khác, Cha Huề được bổ nhiệm về phụ trách vùng Tịnh Sơn. Tháng 08/1905 cha Vêrô Giảng về Cây Gia phụ tá cho cha Porcher, sau đó cha Porcher về kiến thiết Đồng Tre, thường xuyên ở tại Đồng Tre cho đến năm 1918 được bổ nhiệm làm cha sở Hoa Vông.
  • Trong chuyến viếng thăm mục vụ Phú Yên, vào ngày 18/04/1907 Đức Cha Grangeon đến Trà Kê và ngày 20 làm phép nhà thờ Trà Kê, ngày 22 Đức Cha đi Tịnh Sơn, trước khi đến Tịnh Sơn Đức Cha ghé thăm 02 giáo điểm Gia Bá và Đá Trắng (Mm.1927, p.33).
  • Năm 1910 cha Giảng đổi đi Bàu Gốc, Cha Giacôbê Lê Kim Dung đến thay thế, thường xuyên ở Trà Kê.
  • Năm 1911 cha Huề nhận nhiệm vụ mới, cha Trần Huấn được bổ nhiệm làm cha sở Tịnh Sơn. (Mm. 04/1927, p.30-33). Từ thời điểm nầy Tịnh Sơn sánh vai đồng hành cùng các giáo xứ trong giáo phận. Trà Kê – Cây Gia lúc nầy là giáo họ thuộc Đồng Tre. Trong thống kê năm 1910-1911 vùng Phú Yên có 04 giáo xứ (Mm. No.77/1911, p.103):
          - Mằng Lăng : 19 giáo điểm với 1790 giáo dân.
          - Đồng Tre : 10 giáo điểm với 1093 giáo dân.
          - Hoa Vông : 13 giáo điểm với 1113 giáo dân.
          - Tịnh Sơn : 04 giáo điểm với 305 giáo dân.
  • Cha Huấn đến Tịnh Sơn lúc bấy giờ có họ Đá Trắng và Suối Sậy khoảng 15 nóc nhà. Cha Huấn bắt đầu khai quang, nuôi bò, làm ruộng nương thu hoạch nhiều lúa bắp, nhờ đó cha xây nhà thờ, nhà vuông lợp ngói âm dương (Tộc phả họ Trần – Ô.Trần Nhơn kể).
  • Năm 1916 Hoa Châu , một giáo họ thuộc Hoa Vông được cha Huấn chăm sóc mục vụ. Tháng 06/1924 Cha Toma Đoán từ Đồng Tre về làm cha phó Tịnh Sơn, Cha Phêrô Lê Vĩnh Phước được bổ nhiệm làm cha phó Đồng Tre. Cùng trong năm nầy, cha Huấn hợp tác với cha Porcher ở Hoa Vông mở trường dạy quốc ngữ tại Tịnh Sơn, nhờ 02 dì Phước viện Mằng Lăng dạy. Theo thống kê về các truờng học trong giáo phận, năm 1928 trường Tịnh Sơn có 25 em nam và 30 em nữ do dì giáo Agnès Nhơn phụ trách ( Mm. 1916, p.92/ 1925, p.106./ 1928,p.73 ).
  • Cuối năm 1919 Cha Phêrô Lê Châu được bổ nhiệm làm cha sở Đồng Tre, cha Giacôbê Lê Kim Dung là cha sở Trà Kê, như thế Trà Kê đã hiện diện trong bảng thống kê hiện tình giáo phận năm 1919-1920 ( Vùng Phú Yên) : (Mm. 1920,p.66)
           - Mằng Lăng 1715 giáo dân
          - Đồng Tre 410 giáo dân
          - Trà Kê 555 giáo dân
          - Tịnh Sơn 630 giáo dân
          - Hoa Vông 570 giáo dân.
  • Năm 1927 Cha Huấn về Sông Cầu, Cha Antôn Chẩm về làm cha sở Tịnh Sơn. Tháng 06 năm 1928 cha Dung từ Trà Kê về làm cha sở Mằng Lăng, Trà Kê do cha sở Tịnh Sơn kiêm nhiệm. Tháng 08/1928 Cha Phêrô Huỳnh Quang Sinh được bổ nhiệm về làm cha phó Tịnh Sơn – Trà Kê. Tiếp nối cha Chẩm, từ năm 1931 đến nay Tịnh Sơn có các cha sở (Theo tài liệu của cha Huỳnh Kim Lăng và lời kể của ông câu Lê Ngọc Tịnh, hưỡng thọ 90 tuổi) :
  • Cha Tôma Triều
  • Cha Anrê Nguyễn Văn Tường
  • Cha Phêrô Lê Vĩnh Phước
  • Cha Phaolô Nguyễn Xuân Bàn
  • Cha Augustinô Thìn làm cha sở Trà Kê từ tháng 8/1943 đến tháng 04/1944 về làm cha sở Lạc Điền, cha Dẫn đến làm cha sở Trà Kê
  • (Mm.4/1944,p.01). Ngài bị bắn chết và thiêu đốt trên đống gỗ ở nhà kho tại Trà Kê trong thời chiến tranh Việt- Pháp(1947). Theo lời truyền khẩu thân xác ngài thành tro nhưng còn quả tim được người bà con đem về chôn cất ở Quảng Nam.
  • Cha Stêphanô Cao Tấn Truyện (Năm 1944 làm cha sở Đất Sét, Khánh Hoà).
  • Cha Đôminicô Châu Phận (1944 – 1945)
  • Cha Simon Tôn (1945 –1947). Cha bị Việt Minh bắt và mất tích, sau này tìm được xác ở Bãi Điệu, cải táng đưa về nhà thờ Tịnh Sơn. Trong thời gian không có cha sở, cha Phêrô Võ Hữu Tư từ Hoa Châu đến chăm sóc mục vụ, có ông câu Lê Đang cọng tác với cha Tư hướng dẫn cộng đoàn . Vì là vùng chiến tranh, nhà thờ Trà Kê bị đốt cháy, nhà thờ Tịnh Sơn bị sập mái, dân chúng di tản. Sau hiệp định Genève một số đông giáo dân trở về Tịnh Sơn trong cảnh nhà cửa tan hoang, nhà thờ dơ bẩn, ảnh tượng bị đập phá, trong thời gian chờ dựng lại nhà cửa, dân chúng ở tạm tại nhà thờ. Tại Trà Kê, nhà thờ không còn và là vùng núi cao hiểm trở, chiến tranh thường xảy ra nên hoang vắng, mọi sinh hoạt tôn giáo đều tập trung về Tịnh Sơn. Trà Kê – Cây Gia trở thành giáo họ của Tịnh Sơn.
  • Tháng 07/1955 cha Phaolô Huỳnh Đông Các được bổ nhiệm về làm cha sở Tịnh Sơn. Năm 1956 ngài được du học, năm 1974 làm Giám mục Giáo phận Quy Nhơn.
  • Cha Giuse Lê Khắc Tâm (1956 – 1957)
  • Cha Phêrô Nguyễn Kỳ Hội (1958 – 1970). Trong 12 năm làm cha sở, ngài củng cố giáo xứ, sửa lại nhà thờ và nhà xứ. Năm 1963 ngài xây nhà thờ Củng Sơn. Năm 1959 có số giáo dân trong tỉnh đi dinh điền lập nghiệp tại Phú Đức, xã Đức Bình huyện Sơn Hòa ( nay thuộc huyện Sông Hinh ), cha Hội cho dựng tạm nhà thờ mái tranh vách đất. Năm 1969 ngài xây nhà thờ Phú Đức bằng vật liệu rắn chắc gạch, tôn. Nhà thờ nầy được khởi công xây dựng lại vào ngày 04/12/1996 (âm lịch) sau một thời gian nhà nước trưng dụng làm kho lương thực, tháng 09/ 1997 hoàn thành.
  • Ngày 21/03/1971 cha Phêrô Tuần Nguyễn Cao Hiên về nhận xứ Tịnh Sơn.Vùng đất nầy bấy giờ là vùng chiến tranh, dân chúng tập trung về ở chung quanh quận lỵ Củng Sơn. Cha Hiên đặt cư sở tại Củng Sơn, nhà thờ Tịnh Sơn hoang vắng cho đến cuối năm 1991 cha được phép chính quyền dời cư sở lên Tịnh Sơn, nhà thờ và nhà xứ Tịnh Sơn dần dần được ngài tu sửa.
Từ năm 1989 nền nhà thờ Trà kê dần dần được dọn dẹp cỏ cây sau một thời gian dài hoang phế và một nhà thờ tạm dài 9 m rộng 7m cột kèo tre, mái tôn rách được thành hình, những buổi kinh hôm và thánh lễ hằng tuần dần dần được cử hành.

Năm 1979 có số đông giáo dân đi kinh tế mới tại Sơn Nguyên huyện Sơn Hoà và Thị trấn Hai Riêng huyện Sông Hinh cùng với số đông giáo dân sống rải rác, nhiều nơi đường đi xa xôi trắc trở không làm ngài quản ngại. Trong 10 giáo họ: Tịnh Sơn, Củng Sơn, Trà Kê, Tân Bình, Phú Đức, Sông Hinh, Cà lúi, Sơn Nguyên, Đồng Cam, Hòa Sơn nơi nào cũng có sự hiện diện thường xuyên của ngài, thăm viếng, an ủi, ủy lạo, giải tội, dâng lễ.Năm 1983, Đại Chủng Viện Làng Sông giải thể, Thầy Giuse Lê Thu Thâu về với cha mẹ ở Sơn Nguyên, như Chúa quan phòng gởi thầy giúp xứ đến cho cha Hiên đang quá tải trong việc chăm sóc mục vụ cho đoàn chiên. Tình Chúa càng lớn hơn, vào ngày 01/05/1992 thầy Giuse Thâu được thụ phong linh mục, làm cha phó ở tại giáo họ Sơn Nguyên. Giáo họ Sơn Nguyên được tách khỏi Tịnh Sơn, nâng lên hàng giáo xứ ngày 01/07/2003. Từ đây giáo xứ Tịnh Sơn còn 07 giáo họ: Tịnh Sơn, Củng Sơn, Trà Kê, Tân Bình, Cà Lúi, Phú Đức, Sông Hinh, tập họp sinh hoạt phụng vụ tại 04 nhà thờ: Tịnh Sơn, Trà Kê, Củng Sơn, Phú Đức.

Sau 27 năm phục vụ giáo xứ miền sơn cước, năm 1998 cha Hiên được bổ nhiệm làm cha sở Đông Mỹ, cha Phêrô Nguyễn Cấp từ Đông Mỹ về làm cha sở Tịnh Sơn. Cha Cấp trùng tu nhà thờ Tịnh Sơn, xây dựng tượng đài Đức Mẹ và thánh Giuse, năm 2002 khởi công xây dựng nhà thờ Trà Kê và khánh thành ngày 02/04/2003.
  • Ngày 01/07/2003 Cha Thâu được bổ nhiệm làm cha sở Tịnh Sơn.
III. CÁC TU SĨ DÒNG MẾN THÁNH GIÁ QUI NHƠN GIÚP XỨ :
 
1 Dì Nhơn và Dì Hoa Phước Viện Mằng Lăng 1922 – 1928
2 Théophine Nguyễn thị Mỹ Hảo 1992 - 1998
3 Anna Nguyễn Thị Bích Nga 1992 - 1993
4 Têrêxa Thái Thị Huyền Linh 1998 – 2003
5 Marie Lorette Trương Thị Minh Đức 1993 - 1998
6 Anna Trương Thị Huyền 1998 – 2003
7 Matta Đinh Thị Mỹ Dung 2003 –
8 Têrêxa Phạm Thị Tuyết Ngân 2003 –
 
IV. DỰ KIẾN TƯƠNG LAI :
  • Xây nhà thờ thị trấn Hai Riêng – huyện Sông Hinh.
  • Khuyến học, cổ động ơn gọi tu trì.
 
 
Tác giả bài viết: Lm. Gioan Võ Đình Đệ
Nguồn tin: Gpquinhon.org

Ý kiến bạn đọc

 

   

LƯỢT XEM TRANG

  • Đang truy cập: 17
  • Hôm nay: 9130
  • Tháng hiện tại: 88393
  • Tổng lượt truy cập: 12065180