Một vài đặc thái trong tư tưởng thần học của thánh Phaolô

Thứ năm - 11/07/2019 20:53
CHƯƠNG IV

MỘT VÀI ĐẶC THÁI TRONG TƯ TƯỞNG THẦN HỌC CỦA THÁNH PHAOLÔ


1. THẦN HỌC GIA PHAOLÔ

san paoloKhi đọc các tác phẩm Tân Ước, chúng ta thấy mọi tác giả đều chủ ý diễn tả lòng tin kitô, nhưng mỗi vị theo một chủ đích thần học riêng và diễn tả một số nội dung nhất định. Đây cũng là trường hợp của các soạn gỉa bốn Phúc Âm. Tuy nhiên, không phải soạn giả nào cũng dùng một thứ ngôn ngữ thần học chính xác hay cống hiến cho chúng ta một suy tư thần học có tính chất phê bình và do lòng tin thúc đẩy. Nhưng đây lại là trường hợp của thánh Phaolô. Trong tất cả các soạn giả của Kinh Thánh Tân Ước thánh Phaolô đã là người có thứ tiếng nói thần học dễ nhận ra nhất. Thánh nhân đã biết soạn thảo ra các phạm trù tư tưởng có sức diễn tả mạnh mẽ và đi sâu vào thực tại lòng tin kitô. Chẳng hạn các phạm trù như: ơn thánh, sự công chính hóa, hòa giải, giải phóng, hòa bình, ơn cứu độ, sự sống và sự chết, vinh quang, tội lỗi, đền chuộc, khôn ngoan, thập giá, giáo hội, hiệp thông, tin mừng, phục vụ, tông đồ, các đặc sủng, ”mầu nhiệm”, sự mạc khải, và trong lãnh vực nhân chủng học có cả phạm trù ”thịt xác” và ”thân thể” nữa.
 
Dĩ nhiên thánh Phaolô không phải là người sáng chế ra các phạm trù tư tưởng này, bởi vì đa số chúng đều là các ý niệm đã có trong truyền thống kinh thánh, truyền thống do thái và truyền thống kitô tiên khởi. Nhưng thánh Phaolô đã mặc cho chúng một ý nghĩa và một nội dung chưa hề được biết tới cho tới thời đó. Thí dụ như tước hiệu ”Kyrios”, ”Chúa” áp dụng cho Chúa Kitô phục sinh. Đây là tước hiệu mà tín hữu trong cộng đoàn kitô tiên khởi nói tiếng aramây đã dùng để gọi Chúa Kitô phục sinh. Nhưng khi được thánh Phaolô dùng lại trong các thư, tước hiệu này mang nội dung thần học sâu đậm đến trở thành một phạm trù diễn tả nét thần học về Chúa Giêsu. Khi dùng tước hiệu ”Kyrios”, ”Chúa” để gọi Đức Giêsu, thánh Phaolô muốn nêu bật gương mặt của Đức Giêsu Kitô phục sinh khải hoàn, được Thiên Chúa Cha tôn vinh cất nhắc lên cao cho ngự bên hữu Ngài, trao ban cho mọi quyền bính và đặt làm Chúa của toàn vũ hoàn, có toàn quyền trên mọi loài thụ tạo trên trời cũng như dưới đất và dưới lòng đất. Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô chương 16,22 thánh Phaolô đã dùng lại lời tuyên xưng của cộng đoàn kitô tiên khởi nói tiếng aramây khi viết: ”Nếu ai không yêu mến Chúa, thì hãy là đồ bị chúc dữ! Marana tha!”. Ở đây Chúa Giêsu Kitô phục sinh được tín hữu gọi là ”Kyrios”, và thánh Phaolô ghi lại tước hiệu cộng đoàn kitô tiên khởi dùng trong công thức phụng vụ tiếng aramây để kêu xin Chúa đến ”Marana tha”, có nghĩa là ”Lậy Chúa chúng con xin hãy đến”. ”Marê'” trong tiếng aramây có nghĩa là ”Chúa”, ”Kyrios”. Đây cũng là trường hợp của các tước hiệu khác như ”Kristos” ”Đấng được xức dầu” hay ”Đấng Cứu Thế” và ”hô huios tou Theou”, ”Con Thiên Chúa” (W. Kramer, Christos Kyrios Gottessohn, Zuerich 1963). Trường hợp nền Thánh Thần học hay định nghĩa thần học về Chúa Thánh Thần trong thư của thánh Phaolô cũng vậy. Thánh Phaolô gọi Chúa Thánh Thần là ”Thần Linh của Đức Kitô” (R. Penna, Lo spirito di Cristo, Brescia 1976).

 Bên cạnh đó thánh Phaolô cũng đã đào sâu ý nghĩa thần học của các bí tích Rửa Tội và Thánh Thể. Chương 6 thư gửi giáo đoàn Roma là một khảo luận thần học tuyệt diệu về bản chất và ý nghĩa của bí tích Rửa Tội. Thánh Phaolô khẳng định rằng khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội là tín hữu đã cùng chết và được mai táng với Đức Kitô, để được bước vào cuộc sống mới như Chúa Kitô phục sinh. Khi tin nhận Chúa và lãnh bí tích Rửa Tội, là tín hữu cùng đóng đinh con người cũ vào thập gía với Chúa Kitô, để hủy diệt thân xác tội lỗi, và không còn là nô lệ của tội lỗi nữa. Vì kẻ đã chết thì được giải thoát khỏi tội lỗi. Khi cùng chết với Đức Kitô, thì tín hữu cũng sẽ được sống lại với Ngài, và sống cho Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Cũng chính vì đã có được sự sống mới ấy, nên tín hữu không được để cho tội lỗi ngự trị trong thân xác của mình nữa, và không được dùng các chi thể của mình để phục vụ tội lỗi như dụng cụ của bất công nữa, nhưng phải dùng chúng như dung cụ của sự công chính và phụng sự Thiên Chúa. Nếu trước khi trở thành con cái Chúa, tín hữu đã phải sống dưới ách thống trị của luật lệ, thì gìơ đây họ không sống dưới luật lệ nữa mà sống dưới ơn thánh. Nếu trước đây họ nô lệ tội lỗi và dùng chi thể của họ để phục vụ ô uế và gian ác dẫn đưa họ tới cái chết, thì giờ đây họ phải cố gắng sống vâng phục sự công chính dẫn đưa họ tới chỗ nên thánh. Qua bí tích Rửa tội họ đã được giải phóng khỏi kiếp sống nô lệ tội lỗi, để trở thành tôi tớ của sự công chính và của Thiên Chúa, để được trở nên thánh thiện và hưởng sự sống vĩnh cửu. Bởi vì đồng lương của tội lỗi là cái chết, còn ơn nhưng không Thiên Chúa ban cho là sự sống trường sinh trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta.
 
Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Corintô chương 10,14-22, và chương 11,17-34 Thánh Phaolô đã đào sâu ý nghĩa thần học của bí tích Thánh Thể, bằng cách đả phá hai thái độ sống phản Tin Mừng. Thứ nhất là tâm thức trộn lẫn tôn giáo, theo Chúa nhưng cũng tôn thờ các thần linh và ngẫu tượng khác, thứ hai là biến việc cử hành bí tích Thánh Thể trở thành dịp ăn uống say sưa và khoe khoang cái giầu sang của mình, khiến cho các anh chị em tín hữu nghèo khó hơn phải tủi nhục và xúc phạm tới phẩm gía của họ. Trong chương 10 thánh Phaolô khuyên tín hữu hãy xa lánh các tà thần. Nếu đã quyết định tin nhận Chúa và trở thành con cái Chúa, tín hữu phải từ bỏ mọi tà thần khác. Bởi vì không thể tham dự tiệc Thánh Thể, ăn Mình và uống Máu Thánh của Chúa Giêsu, kết hiệp với Chúa và với cộng đoàn Giáo Hội, rồi lại đi tham dự các lễ nghi cúng bái các thần linh khác và ăn thịt cúng tế cho ma qủy và hiệp thông với ma qủy. Không xét trên phương diện xác tín và hiểu biết lòng tin, người có lý trí và trung thực với mình cũng sẽ không hành xử như thế.
 
Trong chương 11 cùng thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô thánh Phaolô đã đả phá các tệ đoan nảy sinh trong cộng đoàn liên quan tới việc cử hành bí tích Thánh Thể. Trước hết là thái độ thiếu bác ái và hiệp nhất trong các cộng đoàn cử hành Thánh Thể (ekklesia). Các tín hữu chia rẽ nhau thành các nhóm giầu nghèo và ngồi ăn riêng rẽ. Bình thường trong các buổi cử hành tiệc Thánh Thể, hay còn gọi là lễ nghi Bẻ Bánh, hoặc bữa Tiệc Chiều, mọi tín hữu thuộc cộng đoàn cùng chia sẻ bữa ăn huynh đệ sau đó với nhau. Họ góp chung tất cả những gì mỗi người đem theo rồi cùng chia nhau ăn uống trong yêu thương, hòa hợp không phân biệt giai cấp. Nhưng trong cộng đoàn Côrintô tín hữu đã không trung thành với thói quen này nữa. Thay vì góp các thức ăn lại rồi cùng chia cho nhau, thì họ lại chia bè chia nhóm theo giai tầng xã hội người giầu ngồi với người giầu, mạnh ai người ấy ăn, mà không đợi mọi người góp thức ăn lại với nhau và chia sẻ mọi thứ đồng đều cho nhau. Cung cách hành xử này đi ngược lại tinh thần yêu thương huynh đệ và hòa đồng của tiệc Thánh Thể, mà bữa ăn chia sẻ huynh đệ tiếp theo đó là kiểu cách diễn tả cụ thể. Khi chỉ ngồi với nhau và ăn các thức mình đem tới là các anh chị em kitô giầu khinh thị các anh chị em nghèo túng hơn và chê bai thức ăn thanh đạm của họ. Nhưng hành xử như thế là phản bội Tin Mừng yêu thương đại đồng của Chúa.
 
Tệ đoan thứ hai thánh Phaolô đả phá ở đây là sự kiện các anh chị em kitô giầu ăn uống qúa độ. Đã không đợi chung góp đồ ăn thức uống để chia sẻ đồng đều cho các anh chị em thiếu thốn hơn, họ lại còn dùng bữa ăn sau khi cử hành bí tích Thánh Thể như là dịp và như là kiểu phô trương cái giầu có của họ, bằng cách ăn uống chè chén, khiến xảy ra cảnh ”người còn đói meo, mà kẻ khác đã say mèm”. Nhưng khi hành xử như thế là họ làm cho các anh chị em nghèo túng hơn phải tủi nhục, cảm thấy mình như là loại tín hữu hạng hai, thấp kém hơn. Bữa ăn sau buổi cử hành bí tích Thánh Thể là kiểu cách cụ thể kéo dài tinh thần hiệp nhất yêu thương huynh đệ và chia sẻ cho nhau. Nhưng làm sao họ có thể duy trì và diễn tả tinh thần đó, khi họ phân chia giai cấp, không chia sẻ thực phẩm cho nhau và ngồi ăn riêng rẽ như vậy?
 
Để sửa dậy tín hữu thánh Phaolô nhắc nhớ cho họ biết giáo lý về bí tích Thánh Thể, mà chính ngài đã nhận được từ Chúa và truyền lại cho họ. Ở đây thánh Phaolô gián tiếp khẳng định rằng giáo lý về bí tích Thánh Thể mà ngài đã nhận được từ cộng đoàn kitô Damasco sau cuộc gặp gỡ đổi đời trên đường tới thành Damasco, bắt nguồn từ chính Chúa Giêsu Kitô. Công thức của bài giáo lý thánh thể này hoàn toàn phù hợp với công thức ghi trong Phúc Âm thánh Luca, nhưng không tương đồng với công thức trong Phúc Âm Mátthêu và Marcô. Sự kiện này chứng minh cho thấy tài liệu của Phaolô và tài liệu của Luca có cùng một nguồn gốc và cùng một môi trường là cộng đoàn kitô Antiokia. Giáo lý về bí tích Thánh Thể nêu bật cái chết hiến tế đổ máu của Chúa Kitô. Nó được diễn tả qua các kiểu nói bẻ bánh, ”mình Thầy trao ban cho các con” và ”chén tân ước trong máu Thầy”. Và Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ lập lại cử chỉ bẻ bánh ấy để nhớ tới Ngài. Mỗi lần cử hành bí tích Thánh Thể là kitô hữu loan báo cái chết của Chúa Giêsu cho tới khi Ngài lại đến. Trình thuật bí tích Thánh Thể cũng ám chỉ rõ ràng tới lễ Vượt Qua. Ngày lễ Vượt Qua sẽ được dân Do thái cử hành từ đời này sang đời khác như lễ kỷ niệm, và như là ngày lễ của Chúa (Xh 12,14). Cũng giống như lễ Vượt Qua là lễ kỷ niệm biến cố xuất hành giải phóng đối với dân Do thái, bí tích Thánh Thể là lễ Vượt Qua của kitô hữu. Nó cử hành cái chết cứu chuộc của Chúa Kitô, tháp nhập tín hữu vào cái chết cứu độ đó và dẫn đưa tín hữu tới sự sống phục sinh. Vì thế nên sau khi cùng nhau cử hành cái chết của Chúa Giêsu, ăn Mình và uống Máu Ngài, nghĩa là cử hành biến cố Chúa Kitô giải phóng họ khỏi tội lỗi và ách nô lệ áp bức của nó, mà tín hữu cộng đoàn Côrintô lại có cung cách phân chia giai cấp như vậy là họ tiếp tục biện minh cho sự áp bức và chia rẽ ấy. Và như thế là phản bội Tin Mừng và mầu nhiệm cứu chuộc mà họ đã cử hành trước đó.

2. THÁNH PHAOLÔ CÓ PHẢI LÀ MỘT NHÀ THẦN HỌC HỆ THỐNG KHÔNG?

 Trong các tác gỉa Tân Ước thánh Phaolô đã là thần học gia có thứ ngôn ngữ dễ nhận diện nhất, bởi vì thánh nhân đã cố gắng dùng lại các ý niệm thần học của truyền thống kinh thánh, truyền thống do thái giáo và truyền thống của cộng đoàn kitô tiên khởi để diễn tả thực tại lòng tin kitô, và trao ban cho chúng một ý nghĩa mới và một nội dung thần học sâu sắc hơn. Các phạm trù thần học đa diện được thánh Phaolô đề cập tới có thể cho chúng ta cảm tưởng ngài là một thần học gia hệ thống. Nhưng thật ra không phải vậy. Phaolô đã không có ý đưa ra một cái nhìn thần học tổng quát và thống nhất. Thánh nhân cũng không muốn xây dựng một tổng luận thần học. Thật ra, có một vài học giả đã gán cho thánh Phaolô ý tưởng này, nhưng ngày nay giới học giả Kinh Thánh Tân Ước không chấp nhận sự gán ghép nói trên. Lý do là vì thánh Phaolô đã không bao giờ đương đầu giải quyết toàn bộ các vấn đề liên quan tới thực tại của lòng tin kitô. Ngay cả trong thư gửi giáo đoàn Roma, mà chúng ta có thể coi là khảo luận đúc kết các vấn đề thần học đặc sắc nhất, thánh Phaolô cũng đã không đưa ra một tổng luận thần học, nhằm duyệt xét toàn bộ các vấn đề lòng tin. Trái lại, Phaolô đã chỉ chú ý tới các trường hợp cụ thể của các giáo đoàn thời đó và giải quyết các khó khăn mà tín hữu Giáo Hội thời khai sinh gặp phải trong môi trường sống cụ thể thường ngày của họ.
 
Chúng ta có thể định nghĩa thần học của thánh Phaolô là loại thần học thực dụng, hay thần học áp dụng vào môi trường mục vụ. Và như thế nó luôn luôn là một suy tư thần học phiến diện, liên quan tới một lãnh vực nào đó, hay một số lãnh vực nào đó, chứ không phải bao quát toàn bộ. Bằng chứng là thánh Phaolô đã lấy lại một số đề tài hay tư tưởng đã được nói tới, nhưng khai triển sâu hơn và mở rộng vấn đề cho một viễn tượng mới. Có hai lý do giải thích cho sự kiện này. Thứ nhất, thánh Phaolô được môi trường bên ngoài thúc đẩy. Các kinh nghiệm mới và nhiều tiếp xúc trên con đường truyền giáo khiến thánh nhân tìm hội nhập Tin Mừng vào các nền văn hóa địa phương, bằng cách khai triển thêm các đề tài thần học từng rao giảng cho tới lúc đó. Thứ hai thánh nhân cảm thấy nhu cầu cá nhân cần phải đào sâu hơn nội dung lòng tin kitô của mình, để có thể rao truyền nó một cách hữu hiệu hơn. Điển hình là vấn đề sống lại của Chúa Giêsu Kitô. Nếu so sánh những gì thánh nhân đã nói với tín hữu các cộng đoàn theo thứ tự thời gian, chúng ta sẽ nhận ra có sự biến chuyển cả phẩm lẫn lượng trong giáo lý về sự sống lại của Chúa Kitô. Thánh Phaolô đã đề cập tới vấn đề sống lại lần đầu tiên trong chương 4,14-18 thư thứ nhất gửi tín hữu Thêxalônica. Phaolô tới rao giảng Tin Mừng tại Thêxalônica vào năm 50, tức trong chuyến truyền giáo thứ hai. Nhưng công tác truyền giáo và thành lập cộng đoàn kitô chưa kéo dài được bao lâu, thì thánh nhân gặp sức chống đối của cộng đoàn do thái sinh sống tại đây và phải vội vã xa rời các tín hữu. Do đó Phaolô viết thư củng cố lòng tin của họ, và giảng giải giáo lý thêm cho họ, trong đó có vấn đề niềm tin vào sự sống lại của Chúa Kitô. Khi hay biết có một số tín hữu trong cộng đoàn buồn sầu đến như thất vọng vì có thân nhân qua đời, thánh Phaolô đã an ủi họ và khẳng định với họ mấy điểm nòng cốt sau đây. Cũng như Chúa Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại thế nào, thì các tín hữu đã qua đời cũng sẽ được sống lại với Chúa như vậy. Giáo lý do Chúa Giêsu truyền lại cho biết khi Chúa Giêsu Kitô quang lâm, các tín hữu đã chết trong Chúa Kitô sẽ được sống lại trước, rồi tới phiên các tín hữu còn sống sẽ được cất nhắc lên để gặp gỡ Chúa trên trời và sống mãi với Chúa.
 
Vấn đề kẻ chết sống lại sẽ được thánh Phaolô đề cập tới lần thứ hai trong chương 15 thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô. Ở đây niềm tin vào sự sống lại được khai triển rộng rãi thành ba phần. Trong phần đầu Phaolô trình bầy Tin Mừng liên quan tới sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô như thánh nhân đã nhận được từ truyền thống của cộng đoàn Kitô tiên khởi. Đó là Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi của mọi người. Ngài đã chịu mai táng và ngày thứ ba đã phục sinh theo lời Kinh Thánh. Tiếp đến Chúa Kitô phục sinh đã tỏ hiện ra cho cho Kêpha rồi cho Mười hai tông đồ. Rồi Ngài đã hiện ra với hơn 500 tín hữu cùng một lần. Khi thánh Phaolô viết thư này cho tín hữu Côrintô tức vào năm 56, đa số các anh chị em này vẫn còn sống. Và sau cùng Chúa Kitô phục sinh cũng đã hiện ra với Phaolô, là người bé mọn nhất trong các tông đồ và không xứng đáng mang danh hiệu ấy, vì Phaolô đã bắt bớ Giáo Hội Chúa. Nhưng Phaolô đã không để cho ơn thánh Chúa qua đi vô ích, trái lại đã tận dụng ơn thánh ấy để sinh lợi cho chính mình và cho người khác. Nghĩa là ở đây Phaolô lợi dụng dịp loan báo Tin Mừng phục sinh cho tín hữu, để kê khai các nhân chứng đã được tận mắt trông thấy Chúa Kitô phuc sinh, đồng thời cũng là để nhắc lại cuộc gặp gỡ đổi đời của mình với Chúa Kitô phục sinh.
 
Trong phần hai chương 15 thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô Phaolô dựa trên niềm tin và xác tín vào sự phục sinh trên đây của Chúa Kitô để trả lời những tín hữu tuyên bố họ không tin vào sự sống lại của người chết. Thánh nhân dùng chính khẳng định này của họ để làm tiền đề cho lý luận của mình. Nếu không có sự sống lại, thì Chúa Kitô cũng đã không thể sống lại được. Mà nếu Chúa Kitô đã không sống lại, thì các tông đồ là những người làm chứng gian và rao giảng điều dối trá. Và như thế lòng tin của các tín hữu cũng trở thành hư không, vì họ đã nghe lời phỉnh gạt và tin theo một điều hão huyền. Mà nếu Chúa Kitô đã không sống lại thực, thì những kẻ đã chết chắc chắn là phải hư mất và mọi tín hữu kitô đã đặt tin tưởng và hy vọng nơi Đức Giêsu Kitô trong đời này sẽ là những kẻ khốn nạn đáng thương nhất trần gian. Nhưng không, Chúa Kitô đã phục sinh và trở thành trưởng tử của đoàn ngũ những người sống lại. Do đó nếu vì Ađam mà họ phải chết, thì giờ đây nhờ Chúa Kitô họ sẽ được sống, mỗi người trong thứ bậc của mình. Sau khi quang lâm Chúa Kitô sẽ hủy diệt mọi quyền lực, kể cả cái chết, và thống trị mọi vật mọi loài. Lúc đó sẽ là ngày sau hết. Và Chúa Kitô sẽ trình diện trước mặt Thiên Chúa Cha để tuyên bố ngài đã hoàn thành sứ mạng cứu thế Thiên Chúa Cha đã trao phó. Cũng nhân dịp nói về sự sống lại của người chết, thánh Phaolô đề cập tới một thói quen lạ. Đó là thói quen lãnh nhận bí tích rửa tội cho người chết. Phaolô không lên án cũng không tán thành thói quen này, nhưng chỉ dùng nó cho lý luận của mình. Lịch sử các nhóm lạc giáo có nói tới bí tích rửa tội đại diện. Người còn sống nhận bí tích rửa tội đại diện cho người chết. Khi làm như thế, hình như họ tin rằng ông bà tổ tiên của họ đã qua đời không được rửa tội cũng tham dự vào ơn ích của bí tích Rửa Tội, mà giờ đây họ nhận lãnh thay cho các vị. Cũng chính vì tin vào Chúa Kitô phục sinh và sự sống lại nên thánh Phaolô và các cộng sự viên của ngài liều mạng xông pha hiểm nguy mọi ngày, mà không sợ phải chiến đấu với thú dữ tại thành Êphêxô.
 
Trong phần ba của chương 15 thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, Phaolô tìm cách trả lời cho vấn nạn liên quan tới thân xác của những tín hữu được sống lại. Thánh nhân dùng một hình ảnh tuyệt đep để so sánh thân xác phục sinh được hoàn toàn biến đổi có sự sống thiên quốc thần thiêng vinh quang vĩnh cửu với thân xác yếu hèn hay chết và rữa nát của con người trần gian. Đó là hình ảnh hạt giống biến thành cây. Và thánh Phaolô khuyên tín hữu hãy biết dùng các sự thật ấy để khuyên nhủ và an ủi nhau.
 
Trong chương 5 thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô Phaolô thuyết phục tín hữu đừng sợ hãi trước cái chết, vì nó chỉ là cánh cửa dẫn đưa tín hữu vào cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Trước đó vào cuối chương 4 thánh nhân khẳng định với tín hữu rằng con người thân xác bên ngoài càng đi tới sự hủy diệt của nó, thì con người bên trong càng được canh tân. Các khổ đau bây giờ mau qua và chúng sửa soạn cho tín hữu hưởng sự vinh quang bất diệt. Bởi vì đích tới của cuộc sống con người không phải là điều có thể trông thấy được, mà là thực tại con người không trông thấy. Những gì con người có thể trông thấy thì tạm bợ, điều con người không trông thấy mới vĩnh cửu. Trong chương 5 thánh nhân tiếp tục khai triển tư tưởng trên qua hình ảnh cuộc sống trên trần gian này như là một căn lều tạm bợ dễ bị hủy diệt, nhưng cuộc sống mai sau mới là tòa nhà xây vững chắc. Trong thời gian phải sống trong căn lều tạm bợ mong manh này tín hữu rên siết ước mong được căn nhà thiên quốc trùm lên trên căn lều hay hư nát này. Dĩ nhiên sự sống luôn luôn là ơn Chúa ban, nên tín hữu không muốn và không được cởi bỏ nó trong nghĩa hủy hoại chính mình, nhưng họ muốn mặc y phục cuộc sống vĩnh cửu lên trên y phục cuộc sống hư nát, để cho cái phải chết bị sự sống nuốt trửng. Và Thiên Chúa, Đấng đã tạo thành con người cho tương lai rạng ngời ấy, trao ban bảo chứng Thần Linh cho tín hữu. Cũng chính vì thế nên cho dù đang phải sống trong thân xác này, tức là ở bên ngoài tòa nhà cuộc sống thiên quốc vĩnh cửu, tín hữu vẫn hy vọng tin tưởng, luôn quy hướng về cuộc sống mai sau và cố gắng sống đẹp lòng Thiên Chúa. Vì mọi người đều phải ra trước tòa Chúa phán xét để lãnh nhận phần thưởng hay án phạt về mọi sự đã làm trong cuộc sống thân xác trên trần gian này.
 
Trong phần hai của chương 5 thánh Phaolô nhắc cho tín hữu biết rằng Chúa Kitô đã chết để đền bù tội tội thay cho tất cả mọi người, để mọi người sống không sống cho chính mình nữa, nhưng là sống vì Chúa Kitô và cho Chúa Kitô, là Đấng đã chết và sống lại cho họ, để hòa giải họ với Thiên Chúa Cha. Và các tông đồ là các thừa tác viên và sứ giả của Tin Mừng phục sinh và hòa giải đó. Đây cũng là lý do khiến thánh Phaolô khẳng định với tín hữu Philiphê rằng đối với thánh nhân sống chính là Chúa Kitô và chết đi là một mối lợi. Thánh nhân chỉ muốn chết để được kết hiệp với Chúa Kitô. Nhưng nếu sự hiện diện và công việc của ngài trên trần gian này còn ích lợi cho tín hữu, thì ngài sẽ ở lại để giúp họ trưởng thành trong lòng tin (Pl 1,21-24). Và Phaolô khuyên mọi người hãy luôn hướng về đích tới của đường đời là cuộc sống vĩnh cửu mai sau (Pl 3,12 tt.)
 
Thí dụ trên đây cho thấy thánh Phaolô đã khai triển cùng một đề tài thần học và giáo lý về sự phục sinh trong nhiều trường hợp khác nhau để đáp ứng nhiều nhu cầu cụ thể khác nhau của tín hữu.

3. CÁC CHẶNG TRONG TIẾN TRÌNH GIÁO HUẤN THẦN HỌC CỦA THÁNH PHAOLÔ
 
Như chúng ta đã thấy cho tới nay, thần học trình bầy trong các thư của thánh Phaolo không phải là nền thần học hệ thống, mà là thần học thực dụng. Vì là các câu trả lời cho các vấn nạn tín hữu gặp phải trong cuộc sống lòng tin của họ, nên giáo huấn thần học của thánh Phaolô cũng theo tiến trình hoạt động truyền giáo và mục vụ của thánh nhân.
 
Thư thứ nhất gửi tín hữu Thêxalônica là bức thư đầu tiên và có lẽ là tài liệu cổ xưa nhất của Kinh Thánh Tân Ước. Thánh Phaolô đã viết bức thư này giữa năm 50-51 với mục đích củng cố lòng tin của các tín hữu và bổ túc các giáo huấn mà ngài chưa kịp giảng giải cho họ. Đề tài nổi bật là các biến cố của thời cánh chung, sự sống lại của Chúa Kitô và của các tín hữu. Phaolô đã tới Thêxalônica rao giảng Tin Mừng và thành lập cộng đoàn kitô. Nhưng chưa được bao lâu thì cộng đoàn do thái tại đây phát động phong trào chống đối bách hại, bằng cách gây rối loạn trong thành phố rồi đổ tội cho các thừa sai kitô là chống lại các chỉ thị của hoàng đế Roma. Chưa hết, họ còn lôi một số kitô hữu ra trước mặt các quan tòa. Trước làn sóng bách hại này, tín hữu Thêxalônica đã buộc lòng phải đưa Phaolô và các cộng sự viên sang Berea. Nhưng nhóm do thái Thêxalônica cũng theo sang tận Berea để phản đối công tác truyền giáo của thánh Phaolô. Phải xa rời tín hữu của một cộng đoàn mới được thành lập như thế, thánh Phaolô âu lo cho số phận của họ. Do đó ngài viết thư củng cố và khuyến khích họ kiên trì trong gian nan thử thách. Thánh nhân khuyên họ noi gương Chúa Giêsu Kitô Người Tôi Tớ khổ đau của Giavê Thiên Chúa. Riêng đối với người do thái Thêxalônica, Phaolô đã đưa ra những lời kết tội rất nặng. Ngài gọi họ là những kẻ đã giết Chúa Giêsu và các ngôn sứ, là thù địch của mọi người và là dụng cụ của Satan (1 Ts 2,14-17).
 
Năm năm sau đó trong cộng đoàn Côrintô nảy sinh một vấn đề điển hình của công tác truyền giáo thuộc mọi thời đại: đó là vấn đề hội nhập Tin Mừng vào nền văn hóa địa phương. Các thừa sai và cộng đoàn Kitô phải đối diện với sự cách biệt hay khác biệt văn hóa của môi trường trong đó Tin Mừng được rao giảng. Cho tới lúc ấy Tin Mừng đã chỉ được loan báo trong môi trường do thái Palestina. Giờ đây Tin Mừng được rao giảng trong thế giới hy lạp. Sự chuyển tiếp này làm phát sinh ra tình trạng khủng hoảng, mà chúng ta có thể gọi là cuộc khủng hoảng trưởng thành. Nhưng nó cũng có thể dẫn tới nguy cơ biến thái, nghĩa là khiến cho Tin Mừng bị lệch lạc đi và không còn tinh tuyền nữa. Và đây đã là trường hợp xảy ra tại Côrintô. Với các cơ chế và kiểu sống của các môi trường ngoại giáo không do thái, thế giới hy lạp Côrintô tìm tiêu hóa Tin Mừng theo kiểu tiêu hóa sinh vật lý, nghĩa là chọn lựa, thu hút từ Tin Mừng kitô những gì thích hợp với mình, và loại bỏ tất cả các yếu tố khác. Đây là khuynh hướng thường xảy ra trong các trào lưu kitô ngộ đạo thuộc thế kỷ thứ II và trong dòng lịch sử Giáo Hội tại những nơi nào công tác rao truyền Tin Mừng đã được thi hành một cách hấp tấp vội vã. Hậu qủa là tín hữu duy trì các tín ngưỡng cổ xưa họ đã có, và trộn lẫn chúng với một số yếu tố của Kitô giáo. Hiện tượng trộn lẫn tôn giáo này chúng ta có thể tìm thấy tại nhiều nước trên thế giới như tại Brazil bên châu Mỹ Latinh, tại Haiti, và một số nước khác tại Phi châu. Điển hình là thứ tôn giáo trộn lẫn Kitô giáo với tôn giáo Phi châu cổ truyền gọi là ”Vudu”.

 Trước các lệch lạc này của cộng đoàn kitô hy lạp Côrintô, thánh Phaolô đã tỏ ra rất cứng rắn và mạnh mẽ lên án mọi tâm thức và thái độ sống không phù hợp với tinh thần Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Phaolô nhắc cho tín hữu Côrintô biết rằng khi tin nhận Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Ngài, họ đã dứt khoát bẻ gẫy với qúa khứ và việc tôn thờ các thần linh khác. Do đó họ phải trung thành với lòng tin và các giáo huấn của Chúa Giêsu mà Phaolô đã rao truyền cho họ. Dưới ánh sáng của nguyên tắc này thánh nhân đã duyệt xét một số thái độ sống lệch lạc của tín hữu Côrintô. Chẳng hạn như thái độ chia rẽ phân biệt giai cấp giầu nghèo, tâm thức sống theo cái khôn ngoan của con người trần gian, thái độ khinh miệt thân xác và hôn nhân hay ngược lại kiểu sống tính dục buông thả, vấn đề ăn thịt dâng cúng cho các thần linh hay tham dự các lễ nghi tiệc tùng trong khung cảnh tôn thờ các thần linh ngoại giáo, các lộn xộn, lạm dụng và lệch lạc xảy ra trong các buổi cử hành bí tích Thánh Thể như thói quen dùng dịp này để chia bè chia nhóm giàu nghèo và ăn uống say sưa. Sau cùng là vấn đề người chết sống lại. Do thái giáo và Kitô giáo quan niệm con người như một bản vị duy nhất. Do đó sự sống lại liên quan tới cả xác lẫn hồn. Nhưng đó là quan niệm khó chấp nhận đối với môi trường hy lạp mang nặng ảnh hưởng của các triết lý nhị nguyên.
 
Phaolô khẳng định với các tín hữu rằng mọi người sẽ sống lại, cả hồn lẫn xác. Nhưng trong cuộc sống hiện tại trên trần gian này tín hữu phải mang dấu vết của yếu đuối và sự dòn mỏng tạm bợ của kiếp người. Tính chất mới mẻ của Thần Linh như là nguyên lý cuộc sống của thế giới, tiềm ẩn trong các mâu thuẫn của lịch sử. Và cộng đoàn Giáo Hội được xây dựng trên nền tảng vững chắc của sự hiệp thông giữa mọi tín hữu, là khung cảnh và môi trường đặc biệt được Thần Linh Chúa ưa thích dùng để diễn tả sự mới mẻ ấy. Vì thế để đừng đánh mất ơn cứu độ, tín hữu phải cố gắng noi gương sống vâng lời của Chúa Giêsu Kitô trong mọi khó khăn của cuộc sống thường ngày, chứ không được có thái độ tươi vui vô lo trốn chạy sự thật của những người không dám nghĩ tới số phận mai sau của mình.
 
Chẳng bao lâu sau khi viết lá thứ thứ nhất cho tín hữu Côrintô, thánh Phaolô phải đương đầu với các thách đố mới. Trước hết là lời nguyền rủa của một tín hữu xúc phạm tới thánh nhân và toàn cộng đoàn. Tiếp đến là sự cạnh tranh và các vu khống tấn công của nhóm thừa sai kitô gốc do thái cũng như của các thừa sai ngoại giáo khác. Những nhóm này đề cao các khả năng và đặc sủng cá nhân cũng như các buổi phụng tự chữa bệnh và xuất thần. Họ lấy sứ điệp cá nhân lấp liếm sứ điệp Tin Mừng của Chúa, và đề cao một thứ đặc sủng lệch lạc nhằm thay thế tinh thần tông đồ phục vụ khiêm tốn, mà mọi thừa sai chân chính đều phải có đối với cộng đoàn dân Chúa. Cuộc chiến chống lại ảnh hưởng tiêu cực của các nhóm này trên cộng đoàn Côrintô đã vô cùng cam go đối với thánh Phaolô. Thánh nhân viết cho tín hữu nhiều lần để khuyến khích họ trung thành với hình ảnh vị tông đồ trung thực, mà họ đã thấy nơi con người và qua cung cách sống của ngài. Trên bình diện nhân loại mà nói, dù ngài có là người yếu đuối và tật bệnh, bất toàn thế nào đi nữa, Thiên Chúa nhân từ cũng đã dùng thánh nhân như dụng cụ quyền năng cứu độ của Ngài. Nói cách khác trường hợp của Phaolô cũng giống như trường hợp của Đức Giêsu Kitô. Trên bình diện nhân loại mà nói, Đức Giêsu Kitô bị đóng đanh trên thập gía là dấu chỉ của sự yếu đuối, bất lực và thất bại. Nhưng Thiên Chúa đã lại dùng chính cuộc khổ nạn, cái chết và thập gía hổ nhục của Chúa Kitô, nghĩa là sự yếu đuối, bất lực và thất bại đó để tỏ lộ quyền năng cứu độ và tình yêu thương vô bờ của Ngài đối với nhân loại tội lỗi, bởi vì Thiên Chúa là ”Đấng trao ban sự sống cho người đã chết và khiến cho những gì không có được hiện hữu” (Rm 4,17; Cf. 2 Cr 13,4). Trong nhãn quan đó, thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô trình bầy với chúng ta một nền thần học phục vụ sống động cụ thể, phát xuất từ quyết tâm của thánh Phaolô đối chiếu các hoạt động tông đồ mục vụ và cung cách hành xử của ngài với các hoạt động phá hoại của nhóm thừa sai giả hiệu, khua môi múa mỏ, lợi dụng thái độ thơ ngây dễ tin của tín hữu để trục lợi và củng cố địa vị cá nhân. Họ là dụng cụ Satan dùng để đánh phá cộng đoàn tín hữu.
 
Bầu khí trong đó thánh Phaolô viết thư cho tín hữu cộng đoàn Galát vào giữa năm 56-57, lại còn sôi bỏng và căng thẳng hơn. Phaolô thẳng mặt đốp chát với nhóm thừa sai kitô gốc do thái và lột mặt nạ của họ. Nhóm thừa sai này chủ trương bắt buộc mọi tín hữu không phải gốc do thái tuân giữ luật lệ Môshê, chấp nhận lễ cắt bì và mọi lễ nghi phụng tự do thái khác. Thánh nhân mắng tín hữu Galát là ”ngu đần dại dột”, vì đã nghe theo lời giảng dạy của nhóm thừa sai chủ trương tái lập Do thái giáo trong cộng đoàn kitô. Thế là từ chỗ được Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, mà thánh nhân rao giảng cho họ giải phóng, giờ đây họ lại chấp nhận quay trở về kiếp sống nô lệ luật lệ do thái, y như khi chưa biết và tin nhận Chúa Giêsu. Cuộc tranh luận này cho thánh Phaolô có dịp khai triển đề tài thần học liên quan tới sự công chính hóa dựa trên lòng tin vào Chúa Kitô, để kéo tín hữu cộng đoàn ra khỏi tình trạng chối bỏ Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài (Gl 1,6).
 
Một phần nào đó thư gửi tín hữu Philiphê (c.3) cũng nhằm mục đích cảnh cáo tín hữu trước các mưu chước thâm độc của nhóm tông đồ kitô do thái nói trên, nhằm biến họ trở thành nô lệ của luật Môshê. Họ không chỉ đối nghịch với Phaolô, mà còn là dụng cụ của Satan trong cuộc chiến đánh phá Giáo Hội Chúa. Thánh Phaolô cho tín hữu thấy nỗi âu lo đối với ơn cứu rỗi của họ thường xuyên ám ảnh ngài ngay trong lúc bị tù tội nữa (Gl 1,1-3,1).
 
Vào cuối sứ mệnh truyền giáo tại vùng Cận Đông, khi sửa soạn lên đường về Giêrusalem để chuyển tới giáo đoàn mẹ sự trợ giúp của tín hữu các giáo đoàn khác, Phaolô viết thư cho tín hữu Roma với một chủ ý đại kết rõ rệt. Phaolô muốn cho tín hữu thấy rằng Tin Mừng yêu thương đại đồng của chúa Kitô nối kết tín hữu thuộc mọi quốc gia và nền văn hóa với nhau, và đạp đổ mọi bức tường ngăn cách. Giáo hội Chúa, dân riêng mới của Thiên Chúa quy tụ người thuộc mọi dân nước chấp nhận sống lòng Tin, lòng Cậy và lòng Mến theo tinh thần Tin Mừng cứu độ đại đồng của Chúa Kitô trong môi trường cụ thể thường ngày.

4. KITÔ HỌC NHƯ ĐƯỜNG NÉT THỐNG NHẤT CĂN BẢN TRONG NỀN THẦN HỌC CỦA THÁNH PHAOLÔ
 
Khi duyệt xét các thư của thánh Phaolô, chúng ta thấy nền thần học thánh nhân trình bầy không có tính cách hệ thống, mà là thứ thần học thực dụng hay thần học áp dụng vào cuộc sống thường ngày của các tín hữu. Vì bao gồm các câu trả lời cho các vấn nạn lòng tin, nên nó đa diện và thay đổi tùy theo khung cảnh sống và các vấn đề của các cộng đoàn kitô. Tuy nhiên, sự khác biệt khung cảnh và cái đa diện của các vấn đề không cản trở thánh Phaolô khai triển và đào sâu ý nghĩa thần học của lòng tin kitô theo một đường nét thần học thống nhất. Thật thế, thánh Phaolô đã được một trực giác nền tảng chính xác hướng dẫn trong các suy tư thần học của mình: đó là Đức Giêsu thành Nagiarét chịu đóng đanh và sống lại là con đường định đoạt duy nhất dẫn đưa mọi người tới ơn cứu độ. Như thế có thể nói rằng kitô học chính là linh hồn và nõi tủy các suy tư thần học của thánh Phaolô. Mọi khía cạnh thần học khác đều tùy thuộc và nảy sinh từ đó.

 Dĩ nhiên, sự kiện Đức Kitô là Đấng Trung Gian của ơn tha tội và Con Người là Đấng sẽ giải phóng nhân loại hoàn toàn vào ngày cánh chung đã là các sự thật được truyền thống kitô giáo thời khai sinh tuyên nhận. Nhưng thánh Phaolô mới là người đã biết nêu bật các sự thật đó và đặc biệt đã khiến cho các sự thật này trở thành nền tảng vững chắc giúp giải quyết các vấn đề lòng tin và các khúc mắc, mà tín hữu trong các cộng đoàn kitô hy lạp dần dần gặp phải trong cuộc sống của họ. Do đó không phải là điều khó, nếu chúng ta muốn chứng minh rằng Chúa Giêsu Kitô lịch sử và ơn cứu độ Ngài đem lại cho nhân loại là trung tâm điểm các suy tư thần học của thánh Phaolô.
 
Thật vậy, trước hết điều thánh Phaolô loan truyền chính là ”Tin Mừng của Đức Kitô”. Nghĩa là tin vui liên quan tới con người Đức Kitô và đặc biệt liên quan tới cái chết và sự phục sinh của Ngài. Trong các thư gửi tín hữu Roma, Côrintô, Galát, Philiphê và Thêxalônica, Phaolô không ngừng lập đi lập lại cho mọi người biết rằng Tin Mừng mà ngài rao giảng cho họ là Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa (Rm 1,9; 1 Cr 9,12; 2 Cr 2,12; 9,13; 10,14; Gl 1,7; Pl 1,27; 1 Ts 3,2). Và tin vào Chúa Kitô có nghĩa là chấp nhận sống theo Tin Mừng ấy (Gl 2,16; Pl 1,29; Rm 3,22.26; Gl 2,16.20; Pl 3,9; Plm 5). Cuộc sống của kitô hữu được thánh Phaolô định nghĩa như là ”trong Chúa Kitô” và ”trong Chúa”. Tiền trí từ ”trong” ở đây không ám chỉ sự kết hiệp thần bí, mà diễn tả sự tham dự vào cuộc sống phục sinh của Chúa Kitô. Chính vì tin là sống theo tinh thần Tin Mừng của Chúa Kitô nên Tin Mừng, nên ”Luật của Đức Kitô” hướng dẫn cung cách hành xử của kitô hữu (Gl 6,2). Và ơn cứu độ sau hết là được bước vào sự kết hiệp bất diệt với Chúa Kitô. Kiểu nói ”chúng ta sẽ luôn luôn ở với Chúa” được thánh Phaolô lập đi lập lại trong các thư của Ngài (1 Ts 4,17; Cf. 1 Ts 5,10; Pl 1,23). Nghĩa là Chúa Giêsu Kitô là mẫu mực của nhân loại mới, như Adam xưa kia đã là mẫu mực của nhân loại cũ. Đây là sự thật được thánh Phaolô khai triển rộng rãi trong chương 5,12-21 thư gửi tín hữu Rôma và trong chương 15,21-22.54-59 thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô.
 
Tuy nhiên còn hơn thế nữa, dưới con mắt của thánh Phaolô Đức Kitô chính là chìa khóa giúp giải thích con người. Từ nay trở đi sự hư mất hay ơn cứu rỗi, sự chết hay sự sống, kiếp sống nô lệ hay sự tự do, tất cả đều là các điều kiện sống được thánh Phaolô định nghĩa trong tương quan với Chúa Kitô. Tất cả những ai sống trong thứ luận lý của một thực tại xa lạ với con người của Chúa Kitô, cho dù thực tại đó không thể trách cứ được trên bình diện tôn giáo và luân lý đi nữa (Cư. Pl 3,4-11) những người đó cũng đều đang bước đi trên các con đường dẫn đến sự hư mất. Nhưng trái lại, tất cả những ai, qua lòng tin và qua tình yêu thương, tham dự vào lịch sử và cuộc đời của Chúa Kitô chịu đóng đanh và phục sinh, thì sẽ được hưởng mọi hoa trái thiêng liêng phát xuất ơn cứu độ mà họ nhận lãnh được từ Chúa Kitô phục sinh. Tóm lại, trong tư tưởng của thánh Phaolô kitô học xác định và trao ban ý nghĩa cho nhân chủng học. Đây là điều chúng ta có thể kiểm chứng, đặc biệt trong 11 chương đầu thư gửi giáo đoàn Roma.
 
Thật thế, trong 11 chương đầu thư gửi tín hữu Roma Phaolô đã khai triển 4 mấu điểm kitô học và nhân chủng học sau đây. Thứ nhất, thảm cảnh sống buồn thương mà dân ngoại và người do thái phải gánh chịu dưới án phạt của Thiên Chúa, vì họ không tin nhận ơn cứu độ (1,18-3,20). Trong khi đó tất cả những ai tin nhận Đức Giêsu Kitô và Tin Mừng của Ngài đều được công chính hóa qua ơn thánh cứu độ Chúa ban (3,21-4,25). Thứ hai, thảm cảnh sống buồn thương mà toàn nhân loại phải gánh chịu trong hệ lụy với Ađam thứ nhất (5,1-14), và ơn cứu độ nhân loại nhận được trong tương quan gắn bó với Chúa Giêsu Kitô (5,15-6,23). Đặc biệt trong chương 5 đề tài thảm cảnh sống bị án phát và cuộc sống trong ơn cứu độ giao thoa và trộn lẫn với nhau. Mấu điểm kitô học và nhân chủng học thứ ba là thảm cảnh sống của nhân loại nô lệ của lề luật (7,1-25) và ơn giải phóng bởi Thần Linh Thiên Chúa (8,1-39). Thứ tư là thảm cảnh sống của dân Israel khước từ Chúa Kitô (9,1-10,21) và ơn cứu độ của dân Israel mới, gồm các tín hữu kitô gốc do thái cũng như không do thái (11,1-36).
 
Thánh Phaolô cũng hiểu bản chất của Giáo Hội dưới ánh sáng nền Kitô học và nhân chủng học nói trên. Đối với thánh nhân Giáo Hội là ”thân mình của Chúa Kitô” (1 Cr 12,27; Cf. Rm 12,5; 1 Cr 6,15; 10,17; 12,13), nghĩa là môi trường sinh động nơi các tín hữu xác quyết và tôn vinh quyền năng là Chúa của Đức Kitô phục sinh và diễn tả thái độ sống gắn bó vâng phục Ngài. Từ cái chết và sự sống lại của Chúa Kitô thánh Phaolô cũng rút tỉa ra ý nghĩa thần học tràn đầy của các bí tích. Vì thế thánh nhân mới viết trong chương 6,4 thư gửi tín hữu Roma: ”Như vậy nhờ bí tích Rửa Tội chúng ta được mai táng với Ngài qua cái chết, để như Chúa Kitô đã sống lại từ cõi chết thế nào thì chúng ta cũng có thể sống một cuộc sống mới như thế”. Trong chương 10 thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô thánh Phaolô giải thích ý nghĩa bí tích Thánh Thể như sau: ” Chén rượu mà chúng ta uống trong cử chỉ tạ ơn Thiên Chúa lại không có nghĩa là hiệp thông vào máu của Chúa Kitô hay sao? Bánh mà chúng ta bẻ lại không ám chỉ sự hiệp thông vào mình của Chúa Kitô hay sao?”. Qua kiểu suy tư trên đây chúng ta thấy giáo hội học của thánh Phaolô cũng mang sắc thái kitô học.
 
Nhưng chưa hết, thần học về Chúa Ba Ngôi cũng được thánh Phaolô khai triển từ kitô học. Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần cũng được gọi tên và định nghĩa từ Đức Giêsu. Phaolô gọi Thiên Chúa là ”Cha của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta”, như viết trong thư gửi tín hữu Roma chương 15,6 và trong thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô chương 1,13 và chương 11,31. Trong biến cố cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu trên thập gía, Thiên Chúa Cha được mạc khải như là ”Đấng trao ban sự sống cho người chết và gọi những gì không có bước vào hiện hữu” (Rm 4,17). Chương trình cứu độ của Ngài nhằm biến mọi người trở nên ”giống hình ảnh Con của Ngài, để Người trở nên trưởng tử của nhiều anh chị em”. (Rm 8,29). Còn Chúa Thánh Thần thì được thánh Phaolô gọi là ”Thần Khí của Đức Kitô”, hay ”Thần Khí của Đức Giêsu Kitô” hoặc ”Thần Khí của con Ngài”. Đây là các kiểu gọi độc đáo của riêng thánh Phaolô. Trong chương 8,9 thư gửi tín hữu Roma thánh Phaolô viết: ”Còn anh chị em, anh chị em không ở dưới sự thống trị của xác thịt nhưng sống dưới sự cai quản của Thần Linh. Bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ở trong anh chị em. Nếu ai không có Thần Khí của Đức Kitô thì kẻ đó không thuộc về Ngài”. Trong thư gửi tín hữu Philiphê, sau khi bày tỏ nỗi vui mừng của mình vì biết rằng Tin Mừng được rao truyền rộng rãi và các tín hữu thêm lòng can đản vì chứng tá của mình là kẻ đang bị tù tội vì Chúa Kitô, thánh Phaolô viết trong chương 1,19 như sau: ”Vì tôi biết điều đó đem lại ơn cứu rỗi cho tôi nhờ lời cầu của anh chị em và sự trợ lực của Thần Khí của Đức Giêsu Kitô”. Trong bài ca chúc tụng lòng xót thương quan phòng của Thiên Chúa đối với nhân loại nơi chương 4 thư gửi giáo đoàn Galát, thánh Phaolô tóm tắt các chặng chính trong chương trình cứu độ và viết trong các câu từ 4 tới 6: ”Nhưng khi đã tới thời viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh bởi người nữ, sinh ra dưới sự thống trị của luật lệ, để cứu chuộc những ai còn ở dưới sự thống trị của luật lệ và để cho chúng ta được nhận làm con nuôi. Sự kiện anh chị em là con được minh chứng bằng việc Thiên Chúa đã gửi xuống trong tâm lòng chúng ta Thần Khí của con Ngài, là Đấng kêu lên : ”Abba, lậy Cha”.
 
Tóm lại, qua các dữ kiện nêu trên liên quan tới các tư tưởng kitô học, nhân chủng học, giáo hội học, bí tích học và thần học về Chúa Ba Ngôi, chúng ta thấy thánh Phaolô qủa thực là một thần học gia sâu sắc. Tuy nền thần học thánh nhân trình bầy trong các thư của ngài không phải là một nền thần học có hệ thống khai triển mọi khía cạnh của giáo lý lòng tin kitô, nhưng nó cống hiến cho chúng ta rất nhiều giải đáp cụ thể trả lời cho nhiều vấn nạn thần học mà tín hữu thuộc mọi thời đại có thể gặp phải trong cuộc sống thường ngày giữa các cộng đoàn có các nền văn hóa khác nhau. Trong nghĩa này thần học của thánh Phaolô là thứ thần học thực dụng và là thí dụ điển hình của nỗ lực hội nhập Tin Mừng cứu độ của Chúa Giêsu vào các nền văn hóa địa phương.

5. NÉT ĐỘC ĐÁO TRONG TƯ TƯỞNG THẦN HỌC CỦA THÁNH PHAOLÔ BẮT NGUỒN TỪ ĐÂU?
 
Khi duyệt xét các mấu điểm thần học nổi bật trong các thư của thánh Phaolô người ta tự hỏi không biết các nét độc đáo bắt nguồn từ đâu. Chúng do thánh Phaolô sáng chế ra hay chịu ảnh hưởng từ bên ngoài. Có một số học giả cho rằng kinh nghiệm gặp Chúa Kitô phục sinh trên đường đi thành Damasco đã trở thành suối nguồn làm phát sinh ra chúng. Thật ra thánh Phaolô đã tiếp nhận được các tư tưởng thần học này từ các cộng đoàn kitô tiên khởi, đặc biệt từ cộng đoàn kitô nói tiếng hy lạp có liên hệ mật thiết với thầy sáu Stephanô, mà giáo đoàn Antiokia bên Siri là đại biểu điển hình nhất. Phaolô đã lấy lại các công thức tuyên xưng lòng tin của các anh chị em kitô tiên khởi này, cũng như tiếp nhận cách thức cử hành bí tích Thánh Thể (1 Cr 11,17 tt.) và Rửa Tội (Rm 6,1 tt.) của các cộng đoàn kitô Palestina và Siria. Thánh nhân cũng dùng lại thứ ngôn ngữ thần học phong phú đã có từ trước và thông dụng trong Giáo Hội thời khai sinh (B. Rigaux, Vocabulaire chrétien antérieur á la première épitre aux Thessaloniciens, in Sacra Pagina, II Paris-Grembloux 1959, 380-389). Nói cách khác, thần học của thánh Phaolô thật sự có nền tảng lịch sử không thể phủ nhận được. Biến cố gặp gỡ Chúa Kitô phục sinh trên đường đi Damasco hẳn đã là một khúc rẽ toàn diện quan trọng trong tiến trình phát triển, nhưng xem ra nó không phải là suối nguồn duy nhất gợi hứng cho tư tưởng thần học đặc thù trong các thư của thánh nhân.
 
Trên bình diện văn hóa chúng ta có thể khẳng định rằng thánh Phaolô đã là một người có tâm trí rộng mở cho tư tưởng do thái cũng như cho tư tưởng hy lạp, biết tiếp thu và vay mượn các quan niệm, các phạm trù và từ ngữ của cả hai thế giới. Phaolô là công dân của hai cả thế giới do thái cũng như hy lạp. Do đó có thể định nghĩa các thư của thánh nhân là ngã tư gặp gỡ giao thoa giữa các nền văn hóa khác nhau. Thật vậy, chúng ta có thể tìm thấy trong các thư của ngài các truyền thống Kinh Thánh do thái, các tư tưởng thần học và kiểu khai triển, chú giải của do thái giáo cũng như các cách diễn tả của triết lý hy lạp đương thời. Đây là dữ kiện được giới học giả kinh thánh ngày nay công nhận. Nó trái nghịch với lập trường một chiều trong qúa khứ, chỉ muốn coi Phaolô như là một tư tưởng gia do thái hay một tư tưởng gia hy lạp.
 
Tuy lập trường giải thích một chiều của các học giả kinh thánh đã lỗi thời, nhưng nó không phải hoàn toàn vô ích. Bởi vì nó giúp chúng ta có nhiều yếu tố giúp nhận định vấn đề một cách chính xác hơn. Chúng ta có thể tóm gọn nỗ lực giải thích lịch sử các thư của thánh Phaolô trong các chặng chính yếu sau đây. Thứ nhất là lập trường của học giả C. Bauer cho rằng có thể giải thích các thư của thánh Phaolô trong tiến trình lịch sử nội tại của Kitô giáo thuộc thế ký thứ I. Theo đó tư tưởng thần học của Phaolô chủ trương ơn cứu độ đại đồng là phản đề, đối kháng với tư tưởng thần học của các kitô hữu gốc do thái, mà thánh Phêrô là đại biểu, chủ trương ơn cứu rỗi chỉ dành để cho người do thái. Tuy lược đồ đơn giản này của học giả Bauer, người sáng lập trường phái Tuebingen, mang nặng ảnh hưởng triết lý của Hegel và đã lỗi thời, nhưng nó cũng có phần gía trị riêng. Học giả Bauer và trường phái Tuebingen có công trong việc đọc hiểu các thư của thánh Phaolô trong nhãn quan lịch sử, đặc biệt trong việc nhận ra nơi kitô giáo gốc do thái khuynh hướng lịch sử đối kháng với Phaolô. Nó giải thích lý do các cuộc tranh luận gắt gao giữa Phaolô với Phêrô và các kitô hữu gốc do thái.
 
Thứ hai là lập trường của trường phái tôn giáo. Các học giả thuộc trường phái này cũng tìm giải thích tư tưởng của Phaolô theo phương pháp phê bình lịch sử, nhưng ngoài khung cảnh kitô giáo và theo hai chiều hướng đối nghịch nhau. Một số học giả như Cumont và Reizenstein thì tìm nguồn gốc tư tưởng của Phaolô trong các tôn giáo thần bí của thế giới hy lạp. Theo họ quan niệm về cái chết và sự sống lại của thánh Phaolô đã tùy thuộc quan niệm về cái chết và sự sống lại của các thần linh thuôc tôn giáo thần bí. Một số học giả khác như A. Schweitzer thì tìm giải thích tư tưởng thần học của thánh Phaolô trong môi trường do thái, đặc biệt là khuynh hướng khải huyền. Tiếp đó khuynh hướng dùng các tôn giáo để giải thích tư tưởng thần học trong các thư của thánh Phaolô đã phát triển theo các hướng mới. Hướng hy lạp nghiên cứu thuyết ngộ đạo và coi thần thoại ngộ đạo như là khuôn mẫu văn hóa tôn giáo cho tư tưởng của thánh Phaolô. Theo các học giả thuộc khuynh hướng này, điển hình là Bultmann, thánh Phaolô đã tiếp thu thần thoại ngộ đạo và lịch sử hóa nó. Hướng do thái chủ trương ngược lại bằng cách tìm nghiên cứu môi trường do thái bao gồm Cựu Ước, trào lưu rabbi, và trường phái Qumrân. Đây là lập trường của các học giả như Lyonnet, Cerfaux, Dupont và Davies vv... Các học giả thuộc khuynh hướng này nêu bật sự kiện do thái giáo thời thánh Phaolô, đặc biệt là trong các cộng đoàn do thái sống ngoài đất Palestina, không phải là một thế giới khép kín, nhưng cũng chịu ảnh hưởng của tư tưởng hy lạp nữa.
 
Ngày nay hai lập trường một chiều kể trên không đứng vững nữa. Lý do là vì thánh Phaolô không chỉ là một tín hữu thuần do thái, cũng không chỉ là một người thuần hy lạp, mà là một người do thái có tâm trí rộng mới đối với thế giới và tư tưởng hy lạp. Trước hết thánh nhân là một người tùy thuộc các truyền thống kinh thánh cựu ước và rất thấm nhuần tư tưởng của Kinh Thánh Cứu Ước. Rất nhiều lời thánh Phaolô trích từ Cựu Ước chứng minh cho sự thật này. Đặc biệt hơn cả là các văn bản cựu ước thánh Phaolô đã dùng để nói về tội của dân do thái và hình phạt họ phải chịu trong chương 10,1-13 thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, hay trong các chương 9-11 thư gửi giáo đoàn Roma. Từ thế giới do thái thánh Phaolô cũng lấy lại một vài đề tài khải huyền và cánh chung như sự sống lại, cuộc sống đời sau và ngày Chúa quang lâm vv... như chúng ta có thể kiểm chứng trong thư thứ nhất gửi tín hữu Thêxalônica 4,13-5,10; thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô 15,12 tt; thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô 5,1-10; thư gửi giáo đoàn Philiphê 3,11.20-21. Kỹ thuật chú giải kinh thánh của trường phái rabbi được thánh Phaolô áp dụng trong thư gửi tín hữu Galát 3,6 tt.; 4,21-31 và thư gửi giáo đoàn Roma chương 4. Liên quan tới ảnh hưởng của giáo phái Essenien Qumrân trên tư tưởng thần học của thánh Phaolô như một số học giả chủ trương, cần phải cẩn thận hơn. Thật ra ở đây chúng ta chỉ có một vài đề tài thần học giống nhau như các cặp ý niệm ánh sáng-bóng tối và thịt xác-tinh thần (J.Murphy O'Connor (a cura), Paul and Qumran. Studies in the New Testament Exegesis, London-Chicago 1968).
 
Thánh Phaolô cũng vay mượn của thế giới hy lạp một ít tư tưởng và kiểu diễn tả, đặc biệt như các hình ảnh thể thao thể dục vv... Sự trùng hợp hay việc nhắc tới các tôn giáo thần bí chỉ có tính cách hình thức. Nghĩa là thánh Phaolô chỉ nhắc thoáng qua, chứ không có chủ ý trình bầy nội dung các tôn giáo này. Trường hợp chương 6,1 tt. thư gửi giáo đoàn Roma là thí dụ điển hình. Sau cùng chúng ta cũng phải ý tứ đối với lập trường cho rằng thánh Phaolô tùy thuộc các trào lưu ngộ đạo. Trong cộng đoàn Côrintô có một số tín hữu có khuynh hướng tiền ngộ đạo hay có khuynh hướng trộn lẫn giáo lý kitô với lý thuyết ngộ đạo thật, nhưng họ đã bị thánh Phaolô thẳng thắn phê bình và quở trách. Trong khi đề cập tới các khuynh hướng lệch lạc này của họ, thánh Phaolô dùng các từ ngữ ngộ đạo, nhưng để đả kích, chứ không phải để tán đồng.
 
Ngoài ra trong tương quan với triết lý khắc kỷ, chúng ta có thể nhận thấy thánh Phaolô dùng một số quan điểm và từ vựng của khuynh hướng này. Chẳng hạn như lương tâm (syneidêsis), tự do (eleuthería), nhân đức (aretê) và sau cùng là kiểu hành văn châm biếm đả phá của trường phái khuyển nho-khắc kỷ.
 
Tóm lại, là người do thái có tâm trí rộng mở đối với các nền văn hóa khác nhau, thánh Phaolô đã áp dụng một nguyên tắc, mà ngày nay chúng ta gọi là hội nhập Tin Mừng vào các nền văn hóa. Nghĩa là dùng các yếu tố văn hóa của dân bản xứ để chuyển đạt sứ điệp Tin Mừng tới cho họ. Chính điểm này trao ban nét độc đáo cho tư tưởng thần học của thánh Phaolô, đồng thời chứng minh cho thấy phương pháp sư phạm truyền giáo độc đáo thánh nhân đã dùng trong việc loan báo Tin Mừng cứu độ và thực hiện công tác tông đồ mục vụ. Đây cũng là khả năng mà mọi nhà truyền giáo cần có, để có thể rao truyền Tin Mừng cứu độ của Chúa cho mọi dân nước một cách cụ thể, sống động và hữu hiệu hơn.

6. THÁNH PHAOLÔ LÀ MÔN ĐỆ CỦA CHÚA GIÊSU HAY LÀ VỊ SÁNG LẬP THỨ HAI CỦA KITÔ GIÁO?
 
Khi so sánh các thư của thánh Phaolô với bốn Phúc Âm, chúng ta không khỏi ngạc nhiên ghi nhận sự kiện này: đó là thánh Phaolô hầu như hoàn toàn không biết gì về Đức Giêsu thành Nagiarét. Thật vậy, trong các lời rao giảng và trong các sinh hoạt của mình Phaolô hầu như không bao giờ nhắc tới Đức Giêsu thành Nagiarét, mặc dầu thánh nhân có trích một số lời của Chúa Giêsu đó đây trong các thư gửi cho tín hữu. Chẳng hạn như giới răn yêu thương: chúc phúc cho kẻ bắt bớ (Rm 12,14; 1 Cr 4,12); yêu thương tha nhân như chính mình, không làm hại người khác, không ngoại tình, giết người, trộm cắp, tham lam; bởi vì yêu thương là giữ trọn luật lệ (Rm 13,9-10) vv...(1 Cr 7,10.25; 9,14; 10,27; 11,23 tt.; 13,2; 1 Ts 4,15). Trong chương 4,4 thư gửi tín hữu Galát thánh Phaolô có nhắc tới sự kiện Thiên Chúa gửi con Ngài xuống thế, sinh bởi một người nữ, sinh ra dưới ách thống trị của luật lệ. Nhưng đó cũng chỉ là một kiểu nói chung chung, chứ không đề cập rõ ràng tới Đức Giêsu thành Nagiarét.
 
Ngoài ra cũng nên ghi nhận rằng đề tài nước Thiên Chúa mà Chúa Giêsu rất thích rao giảng, không lôi kéo sự chú ý của thánh Phaolô. Phaolô cũng không biết tới các giáo huấn bằng dụ ngôn của Chúa Giêsu và các trình thuật phép lạ như kể trong truyền thống phúc âm. Đàng khác các đề tài mà thánh Phaolô khai triển rộng rãi như sự công chính hóa duy nhất nhờ lòng tin, lời phê bình triệt để đối với luật lệ Môshê, thần học về thập gía vv... không thấy có trong truyền thống phúc âm. Thật ra, thánh Phaolô chỉ tập trung vào cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô mà thôi. Nhưng thánh nhân không chú ý tới cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô như là các sự kiện, mà tìm đọc hiểu ý nghĩa sâu thẳm của chúng như là biến cố trọng tâm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Có thể nói rằng cái nhìn của thánh Phaolô đối với Chúa Giêsu Kitô có tính cách tổng hợp. Trong nghĩa nó định nghĩa Chúa Kitô từ sự phục sinh mạc khải cho thấy căn cước dấu ẩn đích thực của Đấng bị đóng đanh trên thập gía. Tưởng cũng nên nhắc lại nét độc đáo trong thần học của thánh Phaolô: đó là cách kết cấu biện chứng pháp của nó. Thật vậy, thần học của thánh Phaolô tập trung trong cái phản đề mâu thuẫn, đâm rễ sâu trong thập gía. Thập gía diễn tả cái yếu hèn nhân loại bị đẩy tới độ tột cùng của sự bất lực và điên dại, nhưng đồng thời nó lại chính là nơi Thiên Chúa Cha tỏ lộ vinh quang và quyền năng của Ngài, là Đấng đã cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết và là Đấng tạo dựng sự sống từ hư không (Cf. 1 Cr 1,18-25; 2 Cr 13,4). Đứng trước thực tại siêu việt này, thánh Phaolô không chú ý tới những gì Chúa Giêsu nói và làm nữa, bởi vì đối với thánh nhân chúng không còn quan trọng nữa.
 
Dĩ nhiên quan điểm trên đây của thánh Phaolô chỉ là một cái nhìn phiến diện. Nó là lý do giải thích tại sao chúng ta lại không thể tìm thấy nơi thần học của thánh Phaolô suối nguồn chính thống duy nhất của lòng tin kitô. Phaolô đã bỏ qua giai đoạn loan báo Tin Mừng trong cuộc đời dương thế của Chúa Giêsu để chỉ nêu bật gương mặt Đức Kitô đã chết và đã phục sinh. Nghĩa là Phaolô đã chọn trình bầy biến cố quan thê thảm nhất nhưng quan trọng nhất trong cuộc đời Chúa Cứu Thế. Dĩ nhiên là trong sứ điệp kitô sự kiện Chúa Giêsu rong ruổi trên khắp các nẻo đường đất Palestina để rao giảng Tin Mừng cứu độ và làm các phép lạ chữa lành mọi người rơi vào ách thống trị của qủy dữ, cũng quan trọng chứ không phải là sự kiện phụ thuộc (Cv 10,31). Các Phúc Âm được biên soạn ra sau đó đã trình thuật các giáo huấn và các phép lạ của Chúa Giêsu chính là để cột buộc các cộng đoàn kitô vào Đức Giêsu thành Nagiarét một cách chặt chẽ hơn. Đồng thời chúng cũng nhằm mục đích ngăn chận kiểu giải thích lòng tin theo khuynh hướng quá thiêng liêng và hứng khởi, đề cao Đức Kitô phục sinh mà lãng quên Đức Giêsu lịch sử. Mặt khác cũng không được quên rằng thánh Phaolô đã không là môn đệ của Đức Giêsu thành Nagiarét. Khác với 12 tông đồ Phaolô đã không ”ăn uồng” với Chúa Giêsu lịch sử, nghĩa là chia sẻ cuộc sống thường ngày của Ngài trong những năm Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng cứu độ (Cf. Cv 10,41). Phaolô đã gặp gỡ Chúa Giêsu, đúng thế, nhưng trong ánh sáng rạng ngời của buổi sáng ngày phục sinh, chứ không phải trong chuỗi ngày lao nhọc hay cảnh tượng thê thảm tối tăm của cuộc tử nạn ngày thứ sáu. Và Chúa Kitô phục sinh đã thu hút trọn sự chú ý của Phaolô.
 
Tuy nhiên đây lại chính là điều khiến cho nhiều thần học gia thắc mắc đặt vấn đề. Họ tự hỏi không biết thái độ chỉ chú ý tới Đức Kitô phục sinh trên đây của thánh Phaolô có nghĩa là thánh nhân chỉ trung thành với Đức Giêsu Kitô có một nửa, hay phải kết án thánh nhân là đã phản bội lòng đạo đức đơn sơ và nhân bản của Đức Giêsu thành Nagiarét, vị ngôn sứ nổi danh của vùng Galilea, bởi vì Phaolô đã thay thế lòng đạo đức đó bằng một thứ cơ cấu tín lý xa lạ? Đây là lập trường của nền thần học tự do Đức với gương mặt điển hình là học giả Harnack. Còn học giả W. Wrede thì muốn gán cho thánh Phaolô vai trò vị sáng lập thứ hai của Kitô giáo. Thật ra kiểu cách đặt vấn nạn cực đoan và cuồng nhiệt như thế dễ đưa tới các kết luận lệch lạc. Để có thể lượng định vấn đề một cách quân bình và vô tư hơn, có lẽ phải nêu bật rằng việc đối chiếu tương quan giữa thánh Phaolô và Đức Giêsu phải được xây dựng trên các nền tảng gián tiếp và qua các trung gian. Nghĩa là phải đối chiếu Đức Giêsu thành Nagiarét với các cộng đoàn kitô tiên khởi, bởi vì thánh Phaolô liên hệ với Đức Kitô chính là qua trung gian của các cộng đoàn kitô tiên khởi gốc hy lạp, trong đó Phaolô đã lớn lên như là tín hữu và như là tông đồ. Khi nhìn vấn đề như thế, chúng ta sẽ nhận thấy khoảng cách giữa Phaolô và Đức Giêsu thành Nagiarét không đến nỗi qúa xa vời như chúng ta thường tưởng nghĩ, bởi vì những gì Phaolô khai triển cũng bắt nguồn từ niềm tin của các kitô hữu tiên khởi cũng như từ truyền thống tông đồ và tiếp tục trong cùng một nguồn mạch lịch sử ấy.
 
Thật thế, trước khi Phaolô, vị tông đồ dân ngoại, là nhân vật có cá tính rất mạnh xuất hiện, người ta đã chứng kiến một bước chuyển tiếp định đoạt trong lịch trình tiến triển thần học. Đó là sự kiện Đức Giêsu, người viết Tin Mừng Nước Trời bằng chính các lời rao giảng, các việc làm, cái chết và sự sống lại của Ngài, kể từ sau các lần hiện ra với các môn đệ, đã trở thành Chúa Kitô được các môn đệ rao giảng. Nghĩa là Đức Giêsu thành Nagiarét, Đức Giêsu lịch sử đã trở thành nội dung của Tin Mừng được các tông đồ loan báo cho thế giới. Thánh Phaolô đã chỉ là người tháp cuộc đời mình vào dòng phát triển sinh động ấy của Tin Mừng, và đẩy mạnh tiến trình phát triển ấy cho tới các kết qủa tột cùng của nó. Và điểm đặc biệt nhất là thánh nhân đã soan thảo ra cho môi trường kitô không do thái và hy lạp một thứ từ ngữ thần học thích hợp để rao truyền nội dung Tin Mừng ấy là Đức Kitô phục sinh.
 
Đàng khác chúng ta không thể phê phán sự tiếp nối lịch sử đó của công tác rao truyền Tin Mừng từ bên ngoài các biến chuyển tình thế còn kéo dài và tồn tại. Nghĩa là lịch trình phát triền thần học trong khoảng cách giữa Đức Giêsu thành Nagiarét và thánh Phaolô, và trong khoảng cách giữa Đức Giêsu thành Nagiarét và Kitô giáo của thập niên thứ nhất đã có thêm nhiều sự thật khách quan liên hệ tới biến cố Chúa Giêsu sống lại, tới công tác rao giảng của các tông đồ và sự kiện Giáo Hội phát sinh được lồng khung vào đó. Riêng trên bình diện xã hội-văn hóa cần phải ghi nhận sự chuyển tiếp từ thế giới Palestina sang thế giới hy lạp. Do đó sự trung thành với Đức Giêsu thành Nagiarét không thể cô đọng trong một thời điểm tất định máy móc không thay đổi của qúa khứ. Quan niệm sự trung thành với Đức Giêsu lịch sử như thế cũng tựa như ướp xác sứ điệp và ý nghĩa con người của Đức Giêsu, rồi đặt trong viện bảo tàng tích chứa các kỷ vật khảo cổ cho người ta thăm viếng nhin ngắm, mà không trình bầy chúng một cách linh hoạt và sống động như lòng tin vào Đức Kitô phục sinh đòi buộc. Nói cách khác, nếu muốn lượng định sự trung thành của thánh Phaolô với Đức Giêsu thành Nagiarét cần phải theo tiêu chuẩn thứ hai này. Nghĩa là phải duyệt xét ”trường hợp” của Phaolô theo tiêu chuẩn tiến trình sinh động của lòng tin và công tác rao truyền Tin Mừng trong các biến chuyển tình hình của Giáo Hội thời khai sinh. Đúng đắn mà nói, Đức Giêsu cũng như Phaolô đều đã ý thức rõ ràng được biến cố cứu độ đột nhập vào lich sử loài người như là một ơn của Thiên Chúa. Thời giờ định đoạt trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa đã điểm trên mặt đồng hồ lịch sử nhân loại, và mọi người đều được mời gọi đáp trả lại tiếng gọi cứu rỗi ấy.
 
Tóm lại, xác tín lòng tin trước sau vẫn là một. Nếu có gì thay đổi chăng, thì đó chính là sự thay đổi của ngôn ngữ. Và đây không phải là chuyện nhỏ. Đức Giêsu lịch sử, Ngôn sứ thành Nagiarét đã dùng thứ ngôn ngữ Nước Trời của Thiên Chúa để loan báo cho mọi người biết Nước Trời đã hiện diện trước ngưỡng cửa cuộc đời con người và được hiện thực trong hoạt động giải phóng của Ngài ( Mc 1,15). Trong khi thánh Phaolô người ”mắc nợ người hy lạp và dân ngoại cũng như mắc nợ kẻ khôn ngoan và ngừơi vô học” (Rm 1,14), thì tìm cách diễn tả Tin Mừng cứu độ đó với các phạm trù được khai triển trong ngôn ngữ mang nhiều sắc thái thần học hơn như: sự công chính hóa, hòa giải, giải phóng, cứu độ và ơn thánh vv...

7. TÍNH CHẤT XA LẠ VÀ THỜI SỰ TRONG CÁC THƯ CỦA THÁNH PHAOLÔ
 
Khi đọc các thư của thánh Phaolô, chúng ta nhận ra ngay khoảng cách không gian và thời gian phân chia chúng ta với thánh nhân và thế giới thời đó. Phaolô đã sống trong một khung cảnh xã hội văn hóa khác với khung cảnh xã hội văn hóa của chúng ta. Lòng tin kitô của thánh nhân cũng đã được sống trong một Giáo Hội rất khác với Giáo Hội hiện nay. Nếu duyệt xét kỹ lưỡng vấn đề chúng ta có thể nói rằng khoảng cách thời gian nhỏ hơn, nghĩa là ít được cảm thấy hơn là khoảng cách tinh thần. Thế giới thánh Phaolô đã sống là một thế giới hoàn toàn xa lạ với chúng ta. Đặc biệt chúng ta không thể nào hiểu được thái độ của thánh nhân coi biến cố Chúa Kitô quang lâm như thể là một sự kiện gần kề sắp xẩy ra trong thời đó.
 
Trong chương 4,15-17 thư thứ nhất gửi tín hữu Thêxalônica thánh nhân viết: ”Tôi xin nói cho anh chị em biết điều này: theo lời Chúa dậy, thì chúng ta là những người đang sống, nghĩa là những kẻ còn sót lại lúc Chúa quang lâm, chúng ta không đi đón Chúa trước các kẻ đã chết. Vì khi lệnh của thiên thần đựơc ban bố và khi tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên thì Chúa Giêsu sẽ từ trời hiện xuống và lập tức các kẻ đã chết trong Chúa Giêsu sẽ sống lại. Đoạn đến lượt chúng ta là những người đang sống trên mặt đất, chúng ta sẽ hợp với họ và được đưa qua các tầng mây đến gặp Chúa Kitô trên không trung. Sau đó, chúng ta sẽ được phúc ở với Chúa luôn mãi”. Trong chương 15,51-52 thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, thánh nhân cũng khẳng định với mọi người rằng: ”Đây tôi tỏ cho anh chị em một mầu nhiệm: Chúng ta sẽ không chết hết cả, song chúng ta hết thảy sẽ được biến đổi. Trong chốc lát, trong nháy mắt, lúc tiếng kèn cuối cùng nổi dậy, vì sẽ có tiếng kèn thổi lên, các kẻ chết sẽ sống lại không hư nát, còn chúng ta chúng ta sẽ được bién đổi. Thân xác trong hư nát này phải mặc lấy sự không hư nát và thân xác hay chết này phải trở nên bất tử”. Thật ra thái độ chờ đợi nôn nóng đó của thánh Phaolô cũng như của các kitô hữu tiên khởi đã là một ảo tưởng. Đây là điều sau này Phaolô và các kitô hữu trong Giáo Hội thời khai sinh từ từ hiểu ra, như chúng ta có thể nhận thấy trong Phúc Âm thánh Luca.

 Cũng thế, vũ trụ quan của thánh Phaolô và của dân chúng thời đó thật xa lạ với tâm thức hiện nay của chúng ta. Chẳng hạn đối với thánh Phaolô và kitô hữu tiên khởi, sự hiện hữu ác hại của Satan trong các biến cố cuộc sống con người là một sự thật qúa hiển nhiên, nhưng đối với con người thời nay nó lại không rõ ràng như thế. Trong chương 16,20 thư gửi giáo đoàn Roma thánh nhân khẳng định với tín hữu rằng: ”Thiên Chúa Đấng ban bình an sẽ mau chóng chà đạp qủy Satan dưới gót chân anh chị em. Chúc anh chị em được ơn phúc của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”(Cf. Rm 16,20). Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô khi đề cập tới tội loạn luân của nhiều tín hữu trong cộng đoàn thánh Phaolô viết ở chương 5,4-5 như sau: ”Theo ý tôi, anh chị em hãy nhân danh Chúa Giêsu họp nhau lại và dùng quyền phép Chúa Giêsu mà giao phó kẻ ấy cho Satan hủy hoại phần xác, mong phần hồn kẻ ấy được cứu rỗi, trong ngày của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”. Xa hơn trong chương 7 thánh Phaolô khuyên các tín hữu sống bậc vợ chồng ý thức rằng thân xác họ đã thuộc về nhau, chứ không phải là của riêng nữa. Do đó trừ thời gian hai người đồng ý không ăn ở với nhau để dành thì giờ cầu nguyện, còn bình thường hãy biết chu toàn bổn phận của mình trong việc đáp ứng các yêu cầu sinh lý của nhau, sợ rằng ma qủy cám dỗ họ, vì họ không giữ mình được (1 Cr 7,4.5). Nói cách khác, trong cuộc sống chồng vợ, đáp ứng yêu cầu sinh lý của nhau và yêu thương nhau là một bổn phận. Trong chương 2 thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô, thánh Phaolô đề cập tới một tín hữu đã đặt điều vu khống thánh nhân khiến cho mọi người phải buồn sầu. Phaolô khẳng định rằng vì thương mến, ngài cũng tha thứ cho tín hữu đó cũng như cộng đoàn đã tha thứ cho anh ta. Thánh nhân khuyên mọi người đừng để bị Satan lừa dối, vì không ai lạ gì các mưu mô qủy quyệt của nó (2 Cr 2,11).
 
Trong chương 11 cùng thư, khi tranh luận với những tông đồ giả vu khống nói xấu thánh Phaolô nhằm hạ uy tín của ngài và khoe khoang công đức của họ giữa cộng đoàn, thánh nhân khẳng định với tín hữu rằng: ”Họ là tông đồ giả, là thợ gian, dám tự xưng mình là tông đồ Chúa Kitô. Nhưng điều đó không có gì lạ. Bởi vì chính Satan cũng giả làm thiên thần sáng láng cơ mà!” (2 Cr 11,13-14). Cũng trong bầu khí tranh luận ấy, ở chương 12 thánh Phaolô đã bất đắc dĩ phải nói về các đặc ân Thiên Chúa ban cho Ngài, kể cả kinh nghiệm xuất thần được đưa lên tầng trời thứ ba. Nhưng thánh nhân khẳng định: ”Và để cho tôi khỏi sinh lòng kiêu ngạo vì các ơn lạ ấy, Chúa đã đặt một cái dằm trong thịt tôi, khác nào một thủ hạ của Satan tát vả tôi, để tôi mất tự kiêu, tự đắc” (2 Cr 12,7). Trong chương 2 thư thứ nhất gửi giáo đoàn Thêxalônica, là giáo đoàn trẻ mà Phaolô đã bất đắc dĩ phải rời xa vì sự thù nghịch của người Do thái, thánh nhân khẳng định với họ rằng đã hai lần ngài đã có ý định trở lại thăm họ, nhưng Satan cứ cản trở mãi (1 Ts 2,18).
 
Nhiều vấn đề, mà thánh Phaolô và tín hữu trong cộng đoàn kitô tiên khởi phải đối đầu, ngày nay đã được thắng vượt trong Giáo Hội. Chẳng hạn như vấn đề có nên áp đặt tục cắt bì theo luật do thái cho các anh chị em không phải gốc do thái theo Kitô giáo hay không (Gl; Rm), hay có đựơc ăn thịt đã cúng cho các thần linh ngoại giáo sau đó được người ta đem bán ngoài chợ hay không (1 Cr 8-10). Bên cạnh đó là các khuynh hướng lệch lạc và các nhóm đối nghịch khác nhau nảy sinh ra trong cộng đoàn, mà thánh Phaolô phải đả phá, để chấn chỉnh và giữ vững lòng tin cho các tín hữu. Bên ngoài là người Do thái không chấp nhận Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài, bên trong các cộng đoàn thì có các khó khăn do nhiều nhóm tạo ra: nhóm duy linh của cộng đoàn Côrintô, nhóm thừa sai kitô gốc Giuđea len lỏi vào các giáo đoàn bên Hy lạp và vùng Galaxia, các giới khác nhau trong giáo đoàn Giêrusalem vv... Đó là chưa kể tới môi trường hoạt động rất đặc biệt của thánh Phaolô: vừa là thừa sai loan báo Tin Mừng cho dân chúng các thành phố lớn bên Tiểu Á và châu Âu, vừa là mục tử chăm lo cho mọi nhu cầu thiêng liêng của các cộng đoàn kitô nhỏ bé phải sống lòng tin giữa môi trường xã hội ngoại giáo. Tình trạng là người từng bắt bớ Kitô giáo giờ đây trở thành người loan báo Tin Mừng và bênh vực Giáo hội là một kinh nghiệm đổi đời hết sức đặc thù trong cuộc sống của thánh Phaolô, một kinh nghiệm hấp dẫn, nhưng đặc thù và không thể nào bắt chước được.
 
Tuy nhiên không phải vì thế mà chúng ta có thể kết luận rằng chúng ta là các kitô hữu sống trong một thế giới khác và là tín hữu của một Giáo Hội khác. Kết luận như thế là đơn giản hóa vấn đề và là sai lầm, vì như thế cũng có nghĩa là chúng ta khẳng định rằng không thể đối thoại xây dựng với người xưa được. Thật ra cũng giống như tác phẩm của bất cứ tác giả nào khác trong qúa khứ, các thư của thánh Phaolô không chỉ dựng lại khung cảnh xã hội lịch sử trong hoạt động và tư tưởng của thánh nhân, mà còn giải thích nó và hiểu biết nó nữa. Do đó đọc các thư của thánh Phaolô cũng có nghĩa là lắng nghe điều thánh nhân nói với chúng ta và tìm lãnh hội sứ điệp, mà thánh nhân muốn nhắn gửi chúng ta, là những người đang sống trong thời đại ngày nay sau thánh nhân hai ngàn năm. Sứ điệp ấy là một kích thích. Cái hiểu biết và kiểu giải thích sâu xa của thánh nhân liên quan tới Đức Giêsu cũng như Thiên Chúa và con người vượt xa không gian và thời gian. Nó không chỉ được áp dụng cho môi trường lịch sử thời đó, mà còn là một lời mời gọi và phê bình có sức mở ra cho con người thời nay các kiểu cách và hình thức giúp xây dựng các tương quan liên bản vị trong xã hội một cách tốt đẹp và trung thực hơn. Riêng về phía chúng ta là những người sống trong thời đại hai ngàn năm sau thánh Phaolô, muốn lãnh hội được sứ điệp đó của thánh nhân chúng ta phải biết mở rộng tâm trí, từ bỏ mọi thành kiến và có thái độ lắng nghe, tiếp nhận. Chỉ như thế việc đọc hiểu các thư của thánh nhân mới thực sự ích lợi cho cuộc sống lòng tin của chúng ta.

Tác giả bài viết: Lm Giuse Linh Tiến Khải

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

CÁC GIÁO HẠT
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây