Trang mới   https://gpquinhon.org

Các bài suy niệm CN XIII TNB

Đăng lúc: Thứ năm - 25/06/2015 17:53
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Kn 1,13-15;2,23-24; 2Cr 8,7.9.13-15; Mc 5,21-43

 

1. Đụng đến áo

Suy Niệm
Giữa đám đông chen lấn chung quanh Đức Giêsu, có những người đụng vào áo Ngài. Nhưng chỉ có một cái đụng cố ý, đụng lén như sợ bị bắt quả tang. Đó là cái đụng của một người phụ nữ, mười hai năm mắc bệnh băng huyết, mười hai năm tìm thầy chạy thuốc mà không khỏi, mười hai năm bị coi là ô nhơ: không được đụng đến người khác, không được tham dự nghi lễ ở Đền thờ.
 
Người phụ nữ đụng vào áo Đức Giêsu bằng tay và bằng lòng tin, một lòng tin đơn sơ mà mạnh mẽ. "Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi." Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.
 
Trong đời sống Kitô hữu, chúng ta đã nhiều lần đụng vào Chúa. Đụng đến Lời Ngài, đụng đến Mình Máu Thánh Ngài. Đụng bằng tay, bằng miệng, bằng rung động của trái tim.
 
Có những lần đụng chạm hời hợt vì thói quen, không để lại một âm vang nào, không đem lại một biến đổi nào trong cuộc sống. Nhưng cũng có lần, như người phụ nữ, ta run rẩy đụng vào Ngài, dù biết mình ô nhơ tội lỗi. Hay nói đúng hơn, vì biết mình ô nhơ tội lỗi mà ta cả dám đụng vào Ngài. Đụng vào Đấng Thánh để được nên trong sạch.
 
Chúng ta cần đụng đến Đức Giêsu mỗi ngày và chúng ta cũng cần được Ngài đụng đến.
 
Ông trưởng hội đường xin Ngài đặt tay trên con mình. Ngài đã cầm tay cô bé để kéo cô ra khỏi cái chết.
Như con gái của ông trưởng hội đường, chúng ta cần được Chúa cầm tay và bảo: "Hãy chỗi dậy."
 
Chỗi dậy khỏi bệnh tật và cái chết. Chỗi dậy và đi lại, ăn uống như người bình thường. Chỗi dậy và sống vui tươi, tự do như con cái Thiên Chúa.
 
Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin.
Đức Giêsu xác nhận lòng tin vững vàng của người phụ nữ: "Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con" (c.34).
Ngài nâng đỡ lòng tin đang chao đao của Gia-ia: "Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi" (c.36).
 
Cần có lòng tin khi đụng chạm Chúa Giêsu. Cần nhạy cảm để nhận ra cái đụng nhẹ của Ngài.
Khi đụng vào Thân Mình Ngài nơi bí tích Thánh Thể, ta được mời gọi đụng đến nỗi khổ của anh em, là những chi thể của Nhiệm Thể Ngài.
Khi đụng đến Lời Chúa nơi những trang Tin Mừng, ta được mời gọi chạm đến Lời Chúa nơi mọi biến cố.
Chỉ cần để Chúa đụng đến bạn một lần thôi, đời bạn sẽ hoàn toàn đổi mới.
 
Gợi Ý Chia Sẻ
Có khi nào bạn được đánh động bởi một câu Lời Chúa không? Có câu nào đã gây nên một âm vang lâu dài trong đời bạn?
 
Việc rước lễ có giúp bạn sống vui tươi và can đảm không? Bạn thấy mình phải chuẩn bị thế nào cho cuộc gặp gỡ này, khi Chúa đụng vào bạn và bạn đụng vào Chúa?
 
Cầu Nguyện
 
Lạy Chúa Giêsu,
Dân làng Nazareth đã không tin Chúa vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công. Các môn đệ đã không tin Chúa khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự. Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa chỉ vì Chúa sống như một con người.
 
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa hiện diện dưới hình bánh mong manh, nơi một linh mục yếu đuối trong một Hội Thánh còn nhiều bất toàn.
 
Dường như Chúa thích ẩn mình nơi những gì thế gian chê bỏ, để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin.
 
Xin thêm đức tin cho chúng con để khiêm tốn thấy Ngài tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.

2. Lời kêu xin

Đoạn Tin mừng sáng hôm nay cho chúng ta thấy các tông đồ đang ở vào một tình thế tuyệt vọng. Lời van xin của họ dường như bị sóng biển vùi lấp:
- Lạy Thầy, xin cứu chúng con.
Chúa Giêsu rất có thể lên tiếng trách cứ các ông:
- Bộ các con không hiểu rằng bao lâu Thầy còn ở với các con, thì không một tai ương hoạn nạn nào có thể xảy ra.
 
Thế nhưng lời van xin ấy lại rất bình thường và gần gũi với bản tính của chúng ta. Lời van xin xuất phát từ trái tim của một tạo vật nhỏ bé, như muốn xác quyết rằng: Vấn đề thật vô phương cứu chữa, chỉ mình Chúa mới có thể giúp đỡ.
 
Thế nhưng ngày hôm nay, liệu chúng ta có còn tìm thấy những lời van xin đầy tin tưởng và hy vọng như thế hay không? Nếu chúng ta hỏi những người lính chiến rằng: Vào những lúc nguy hiểm có bao giờ các bạn đã nghĩ tới Chúa và xin Ngài giúp đỡ hay không. Hầu như tất cả đều trả lời rằng không.
 
Nếu chúng ta hỏi những người lái xe rằng khi xảy ra tai nạn có bao giờ các bạn nghĩ tới đời sau và xin Chúa phù trợ hay không. Hầu như tất cả đều trả lời rằng không.
 
Chiếc tàu Dora với một ngàn bảy trăm hành khách, chẳng may gặp nạn và chìm dần xuống biển, người ta đã ghi nhận được một cảnh tượng thật trái ngược trong thời điểm hoảng hốt đó. Các cô thì lo giữ lấy đôi giày của mình. Các bà thì lo giữ lấy những bộ áo của mình. Các ông thì lo giữ lấy ví tiền của mình. Chỉ có một em bé năm tuổi là đã quỳ gối cầu nguyện.
Ngay cả bản thân chúng ta cũng thế. Mỗi khi gặp phải tai ương hoạn nạn, chúng ta vùng vẫy, chúng ta kêu gào, chúng ta làm mọi cách để thoát khỏi tai ương hoạn nạn ấy, nhưng lại không biết mở miệng kêu xin:
- Lạy Chúa, xin Chúa cứu giúp con kẻo con chết mất. Chỉ mình Chúa mới có thể bảo đảm cho con được an toàn.
Chúng ta cũng giống như dân ngoại. Chẳng tìm thấy hướng đi cũng như ánh sáng cho cuộc đời chúng ta. Ngày xưa mỗi khi mất mùa đói kém giặc giã xảy ra, người ta kêu cầu Chúa:
- Lạy Chúa xin giúp đỡ con.
Người ta tổ chức những cuộc rước kiệu, những cuộc hành hương để kêu cầu Chúa. Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao?
Ngày hôm nay, người ta có rất nhiều phương tiện, chẳng hạn như thuốc trụ sinh, công ty bảo bảo hiểm, và người ta cảm thấy không còn cần đến sự trợ giúp của Chúa nữa. Và tệ hơn nữa, người ta muốn trục xuất Thiên Chúa ra khỏi những sinh hoạt cá nhân và xã hội. Người ta muốn thay trời vắt đất làm mưa. Người ta sống như không còn sự hiện diện của Ngài nữa.
Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi tới kết luận: Bao lâu Chúa Giêsu còn ở trong chúng ta thì không một tai nạn nào có thể xảy ra. Tuy nhiên con người thời nay lại không hiểu là như thế. Do đó, vấn đề cần phải đặt ra cho mỗi người, đó là Chúa Giêsu có thực ở trong thuyền đời chúng ta hay không. Tôi đã phản ứng và hành động như thế nào trong những hoàn cảnh đen tối. Tôi có biết hướng tới Chúa và xin Ngài giúp đỡ hay không? Đó là những câu hỏi mà mỗi người chúng ta phải tự tìm lấy lời giải đáp.

3. Cảm nghiệm về Chúa – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Hai người hưởng phép lạ hôm nay đều được đụng chạm đến Chúa.
 
Người đàn bà bị bệnh băng huyết lén lút sờ vào gấu áo Người. Vừa đụng chạm vào áo Người, lập tức bà thấy có biến chuyển: bệnh tật bao năm hành hạ bà, làm cho bà tốn biết bao công sức tiền của chạy chữa tưởng như vô vọng, nay bỗng tiêu tan trong phút chốc.
 
Em bé không đụng chạm đến Chúa vì em đã chết. Nhưng chính Chúa đụng chạm đến em. Chúa cầm tay dắt em chỗi dậy. Cuộc tiếp xúc với Chúa đã gây nên những biến đổi mãnh liệt nơi thân xác. Căn bệnh bị xua trừ. Thân xác khỏe mạnh lại. Người phụ nữ được sinh hoạt bình thường với xã hội. Thần chết bị trục xuất. Sự sống trở lại. Em bé được giải thoát khỏi thế giới tử thần, trở về với thế giới sự sống.
 
Nhưng những biến đổi trong tâm hồn còn mãnh liệt hơn. Khi Đức Giêsu gọi người phụ nữ đến để khen ngợi và khích lệ chị, tâm hồn chị hẳn phải rộn ràng hạnh phúc. Với thái độ khoan dung nhân hậu, Đức Giêsu đã biến đổi sâu xa tâm hồn chị. Từ mặc cảm là người ô uế, bị xã hội khai trừ, chị thấy mình được đối xử một cách trân trọng. Từ thân phận một người lén lút như kẻ ăn trộâm phép lạ, chị trở thành người được Đức Giêsu công khai khen ngợi. Từ một người xa lạ, chị trở thành người thân thiết của Đức Giêsu. Chắc chắn, chị sẽ chẳng bao giờ quên được những lời nói và thái độ của Đức Giêsu. Những lời nói, những thái độ ấy đã đem lại cho chị niềm tin, niềm bình an và lòng tự tín.
Còn em bé, khi trở lại sự sống, người đầu tiên mà em nhìn thấy là Đức Giêsu. Hơi ấm đầu tiên em cảm nhận được từ bàn tay Người đã làm em thấy yên tâm. Ánh mắt hiền từ của Người cho em niềm tin yêu phó thác. Và thái độ của Người thật như một người cha hiền. Việc đầu tiên Người bảo mọi người là cho em bé ăn. Thật là một sự quan tâm ân cần. Ơn lớn nhất Người ban là trả lại sự sống cho em bé. Em đã được cứu thoát khỏi bàn tay tử thần. Nhưng chính ánh mắt, cử chỉ và lời nói đầy tình yêu thương đã ghi khắc trong tâm hồn em bé một hình ảnh rất đẹp và rất sâu đậm về Người. Trọn đời em sẽ ghi nhớ mãi hình ảnh Người. Trọn đời em sẽ biết ơn Người. Trọn đời em sẽ sống xứng đáng với tình yêu thương mà em đã cảm nhận được.
 
Người phụ nữ và em bé đã được Đức Giêsu thương yêu vì họ đã có những phẩm chất đáng quí.
 
Phẩm chất thứ nhất mà họ có, đó là đức tin mạnh mẽ. Ông trưởng hội đường tin tưởng mãnh liệt nên đã đến tìm Đức Giêsu. Hội đường Do Thái vốn không ủng hộ Đức Giêsu, trái lại còn chống đối và tìm cách giết Người. Thế mà ông trưởng hội đường này vẫn đến cầu cứu Người, chứng tỏ lòng tin của ông mãnh liệt biết bao. Chính Đức Giêsu đã bảo ông: “Chỉ cần tin thôi!”. Còn người phụ nữ tuy sợ hãi không dám nói với Người, nhưng với lòng tin tưởng mãnh liệt đã sờ vào gấu áo Người. Đức Giêsu đã khen ngợi đức tin của họ: “Lòng tin của con đã chữa con”. Đức tin mãnh liệt như thế đã xứng đáng được Chúa thưởng công.
 
Phẩm chất thứ hai mà họ có, đó là đức khiêm nhường thẳm sâu. Sự khiêm nhường được biểu lộ không những qua sự nhận biết thân phận thiếu thốn, bất lực của bản thân, mà còn diễn tả qua thái độ bên ngoài. “Vừa thấy Đức Giêsu, ông sụp lạy dưới chân Người”. Sau khi bị phát giác, người phụ nữ cũng đến phủ phục dưới chân Người và tỏ bày tất cả mọi sự. Chính thái độ khiêm nhường ấy đã được Chúa thương.
 
Hằng ngày có nhiều lần ta đụng chạm đến Chúa hoặc Chúa đụng chạm đến ta. Ta đụng chạm đến Chúa trong khi đọc Sách Thánh. Ta đụng chạm đến Chúa khi ta rước Mình Thánh Chúa. Ta đụng chạm tới Chúa khi ta lãnh nhận các bí tích. Ta đụng chạm đến Chúa khi ta tiếp xúc với tha nhân, đặc biệt những anh em bệnh tật, nghèo túng, bị bỏ rơi. Nhưng những đụng chạm ấy dường như chẳng để lại dấu ấn nào trong ta. Điển hình là khi ta rước Mình Thánh Chúa. Ta trực tiếp đụng đến Chúa. Thế nhưng vì ta đã đụng đến Chúa cách hời hợt, máy móc, theo thói quen, thiếu lòng tin, thiếu tình yêu, nên đời sống ta chưa biến đổi.
 
Hôm nay, ta hãy noi gương ông trưởng hội đường và người phụ nữ bị bệnh băng huyết, đến với Chúa bằng một đức tin mãnh liệt và bằng sự khiêm nhường thẳm sâu. Với đức tin và sự khiêm nhường, ta sẽ cảm nghiệm được Chúa. Chỉ cần một lần nếm cảm được tình yêu Chúa, được thấy ánh mắt nhân từ của Chúa, được lắng nghe những lời êm dịu, khích lệ của Chúa, ta sẽ chẳng còn muốn làm gì khác hơn là đền đáp tình yêu thương của Chúa.
 
Lạy Chúa, xin hãy ban cho con một đức tin mạnh mẽ và một lòng khiêm nhường thẳm sâu. Amen.
 
 
 
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Có khi nào bạn được đánh động bởi một câu Lời Chúa không? Có câu nào đã gây nên một âm vang lâu dài trong đời bạn?
 
2) Việc rước lễ có giúp bạn sống vui tươi và can đảm không? Bạn thấy mình phải chuẩn bị thế nào cho cuộc gặp gỡ này, khi Chúa đụng vào bạn và bạn đụng vào Chúa?
 
3) Có lần nào bạn đã cảm nghiệm được Chúa đụng chạm vào bạn chưa?

4. Giữa lòng dân Chúa

Đoạn sách thánh hôm nay cho ta thấy một lần nữa rằng các phép lạ của Đức Kitô là những dấu chỉ tình thương. Đức Kitô là tình thương của Thiên Chúa đi vào trong nỗi khốn cùng và đau khổ của nhân loại để mặc cho chúng niềm tin và hy vọng. Đức Giêsu không phải là một nhà thuyết giáo xa xôi về một lý tưởng cứu rỗi mà con người phải một mình ra sức thực hiện nhờ các ý thức hệ và cách mạng cơ câú. Ngài chính là Thiên Chúa dấn thân vào đời sống nhân loại để cứu lấy nó. Đám đông dân chúng theo Đức Giêsu và chen lấn Ngài tứ phía. Ngài bị ngụp lặn trong đám đông. Nhưng về phía Ngài, đó không phải chỉ là một lúc, sau đó Ngài trở về lại với sự đơn độc của mình. Ngài luôn là Thiên Chúa hiện diện với quần chúng đông đảo nhân loại.
 
Một nữ bệnh nhân muốn lợi dụng cơ hội Đức Giêsu đi ngang qua để được chữa lành bà nghĩ chỉ cần chạm đến y phục Đức Giêsu để được lành, và bà đã không làm. Bà biết là Đức Giêsu có thể chữa lành bà bằng một lời nói, nhưng muốn thế phải kêu xin. Và giống bệnh của bà làm bà mắc cỡ. Bà không dám trình bày trường hợp của bà. Nhưng bà nghĩ là Chúa có thể chấp nhận lơiø cầu xin của bà một cách khác. Chạm vào y phục của Chúa là một loại ngôn ngữ và cầu xin mà Ngài có thể hiểu được. Bà liền chạm vào gấu áo Đức Giêsu và bà được lành.
 
Người ta cho rằng bà này đã vâng theo sự thúc đẩy của niềm tin ma thuật. Nói thế có lẽ hơi nông cạn. Về vấn đề này, xin mở một ngoặc đơn thuộc phạm vi tổng quát. Dĩ nhiên nhà chú giải có thể có 1 thứ lo lắng là chỉ chấp nhận điêù không thể chối cãi được trong các phép lạ Phúc Âm. Nhưng vô phúc thay, sự lo lắng này đôi khi lại được tiếp nhận do những đâù óc hấp tấp, hơi ngây ngô, lại quá chắc chắn về mảnh vụn kiến thức của mình, mà nội dung chỉ là sự thoả mãn để chiếu lên những Phúc Âm những khẩu hiệu và hình mẫu sẵn có nơi các “khoa học nhân văn”. Nói lên điêù này, để nhắc nhở độc giả Phúc Âm đừng để cho mình bị lay động bởi một số quảng cáo trong thời gian sau này là muốn giản lược con người cao cả cuả Đức Giêsu vào chiều kích con người chúng ta. Người ta đến với Phúc Âm bằng cách để mình lôi kéo lên cao nhờ việc chiêm ngắm Con Thiên Chúa, chứ không phải bằng cách uốn nắn các văn bản để làm cho chúng phù hợp với các dữ kiện chưa tiêu hoá đựợc của việc phân tích ngôn ngữ…
 
1) Đoạn văn cuả thánh Maccô: ‘Đức Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự mình’. Từ lâu các nhà thần học đã đề ra những lời giải thích cho phúc hợp với điều họ tưởng có thể đoán được về tâm lý của Đức Giêsu. Về phần chúng ta, chỉ nên nhớ rằng Đức Giêsu luôn phản ứng với một lương tâm thấm nhuần sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa, đối với mọi biểu lộ niềm tin nơi ngài.
 
2) “Hỡi bà, đức tin bà đã chữa bà”. Niềm tin của bà này như thế nào? Chắc hẳn là không cùng một niềm tin như niềm tin của chúng ta. Nhưng cũng đã là một khởi đầu niềm tin, một niềm tin đang khai mào. Đàng khác, nếu chúng ta khiêm tốn, chẳng phải, chúng ta cũng nhìn nhận rằng niềm tin của chúng ta hôm nay cũng chỉ là một niềm tin khai mào sau? Nhưng ngay cả niềm tin này, nếu có thành thật, cũng có thể lôi keó được một lời nói cứu độ. Và đó là điều tốt rồi.

5. Đức tin cứu sống

Văn hào Tu-ghê-nít của Nga có kể lại một giai thoại sau:
Thời chiến tranh ông bị cảm nặng. Người ta mang ông vào một quân y viện để chữa trị. Khi tỉnh dậy, ông thấy nhà thương đầy người, không có một chiếc giường trống nào, mà bệnh nhân mỗi ngày một thêm đông. Bác sĩ trực phòng của ông đi một vòng đến các giường. Đến bên cạnh ông, bác sĩ dừng lại và hỏi người y tế:
- Hắn vẫn còn sống ư?
Người y tế trả lời:
- Tôi chưa kiểm lại. Nhưng sáng nay thì hắn vẫn còn sống.
 
Bác sĩ cúi xuống và đặt ống nghe trên ngực ông. Nghe biết tất cả mọi sự, cho nên ông cố gắng thở thật mạnh. Sau khi nhấc ống nghe lên, bác sĩ thở dài và nói:
- Thiên nhiên thật ngu đần, lẽ ra người này phải chết, nhưng không hiểu sao hắn vẫn còn thở và như vậy là hắn chiếm mất chỗ của người khác
 
Tu–ghê-nít lắng nghe được tất cả những lời ấy. Ông tưởng số phận của ông đã được quyết định, nhưng không ngờ sau đó ông đã được khỏi bệnh một cách lạ lùng trước sự ngạc nhiên của viên bác sĩ trực và nhiều y tá khác trong quân y viện.
 
Những bệnh nhân biết được những gì người ta làm cho mình và còn sống sót để kể lại kinh nghiệm của mình như văn hào Nga trên đây không phải là hiếm. Một viên thuốc ngủ, một mũi thuốc mê cực mạnh, nhiều người đã bị cướp mất mạng sống dễ dàng. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu goị con người ngày nay hãy xây dựng một nền văn minh của sự sống chứ không phải của sự chết. Tin Mừng hôm nay có thể được coi như một câu trả lời của lòng tin cho một vấn đề từng gây thắc mắc nơi con người thuộc mọi thời đại: vấn đề sự sống. Hai phép lạ: chữa lành bệnh người phụ nữ băng huyết và cho một bé gái 12 tuổi sống lại, đều minh chứng Đức Giêsu là chủ sự sống, là nguồn cội sự sống, vì Ngài là Đấng đã làm cho kẻ chết sống lại.
 
Theo quan niệm của người Do Thái xưa, thì máu huyết tượng trưng cho sự sống. Người phụ nữ bị băng huyết có nghĩa là sự sống nơi chị mất dần đi, tiêu hao đi, nên coi như chị là người đã chết. Nhất là trong hoàn cảnh của chị, đau khổ không chỉ vì bệnh kéo dài, tiền mất tật mang, mà còn khổ về mặt tinh thần, vì tập quán tôn giáo xã hội coi những người mắc chứng bệnh này, cũng như bệnh cùi, bệnh hủi, khinh khi. Phải nói là người phụ nữ bị băng huyết này coi như đã chết hai lần, cả về mặt sự sống thể xác lẫn về mặt đời sống tinh thần. Phép lạ Chúa Giêsu làm đã cứu thoát chị, đã đem lại cho chị một cuộc sống dồi dào, cả trong ý nghĩa được sát nhập lại vào trong lòng cộng đồng tôn giáo.
 
Còn trong phép lạ Chúa Giêsu làm cho em bé sống lại, thì chúng ta thấy hành động của Chúa Giêsu vượt xa điều mà gia đình ông Giairô, trưởng hội đường, mong đợi: khi con gái duy nhất của ông hấp hối, ông đã chạy đi cầu cứu với Chúa Giêsu, vì ông tin rằng Ngài có thể cứu con ông khỏi cái chết. Nhưng khi hay tin con đã chết rồi, thì ông không còn hy vọng nào nữa, không còn muốn làm phiền Chúa Giêsu đến nhà làm gì nữa. Chúa Giêsu phải nâng đỡ tinh thần và niềm tin của ông: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Và phép lạ đã được thực hiện, trước nỗi kinh ngạc và hạnh phúc của gia đình ông. Trưởng hội đường, kinh ngạc và sung sướng đến nỗi ông và gia đình quên cả việc chăm sóc đến con gái của mình, khiến Chúa Giêsu phải nhắc khéo: “Hãy lo cho cô bé ăn đi!”.
 
Trong tất cả hai phép lạ, chúng ta đều thâáy nổi bật lên một yếu tố nối liền giữa Chúa Giêsu và người được phép lạ: đó là lòng tin. Người phụ nữ bị băng huyết, sau khi chạy thầy chạy thuốc không khỏi, mà lại nghe nói về quyền phép của Chúa Giêsu, thì dần dần trong lòng chị hình thành một niềm tin mạnh mẽ: “Tôi mà sờ được áo Ngài thôi, là sẽ được khỏi bệnh”. Chính lòng tin mạnh mẽ đó đã giúp chị vượt qua moị tập quán, mọi nếp suy nghĩ và quan niệm tôn giáo có tính trói buộc và cản trở con người, để mạnh dạn đến gần Chúa Giêsu. Chinh lòng tin mạnh mẽ đó đã như khiến quyền năng của Chúa Giêsu không thể từ chối được: “Chúa Giêsu thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra”.
 
Lòng tin của ông Giairô cũng là yếu tố quan trong để Chúa Giêsu là cho con ông sống lại. Chắc chắn lòng tin của ông đã được hỗ trợ bằng chính câu chuyện người phụ nữ lành bệnh, cũng như đã được nâng đỡ bởi lời khuyên chủ của chính Chúa Giêsu: “Đừng sợ, ông ạ, cứ vững tin đi!”.
 
Qua hai phép lạ trên, Chúa Giêsu còn bộc lộ cho thấy thế nào là Thiên Chúa, thế nào là Đấng Kitô của Thiên Chúa và loan báo một thời đại mới, thời đại cứu độ mà các Ngôn Sứ đã loan báo. Trước hết, Thiên Chúa là chủ sự sống, ban phát sự sống cho con người và muôn loài vật. Riêng đối với con người, thì không chỉ là đời sống vật chất, tinh thần mà còn cả đời sống ân sủng, đời sống làm con cái Thiên Chúa. Để thực hiện chương trình sáng tạo và cứu độ, Thiên Chúa đã hiến dâng cho loài người tất cả, kể cả Người Con yêu dấu, Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô.
 
Đức Giêsu có sứ mạng bộc lộ về Thiên Chúa, thực hiện chương trình của Thiên Chúa là ban sự sống, là cứu chữa những gì đã hư mất, là tìm đến với người đau ốm cần thầy thuốc. Ngài luôn quan tâm đến mọi nhu cầu cụ thể của con người. Ngài cúi mình ghé mắt nhì xem nhu cầu cụ thể của con người Ngài gặp: anh què, anh mù, chị phụ nữ bị băng huyết cũng như chị phụ nữ ngoại tình, người bị quỷ ám, con trai bà goá thành Naim, cũng như con gái ông Giairô. Tất cả những khổ đau, tật nguyền đều có âm hưởng mạnh mẽ trong tâm hồn Chúa Giêsu Kitô. Chính vì mang trong mình trái tim của Thiên Chúa, nguồn sống của Thiên Chúa, nên Chúa Giêsu đã cứu chữa người này, bình phục người kia, hồi sinh người khác, đem lại phẩm giá và sự tôn trọng cho những ai đang bị loại trừ, coi rẻ. Đối với Chúa Giêsu, không hề có một tiêu chuẩn nào để lại bỏ, vì tất cả thuộc về gia đình Thiên Chúa. Điều duy nhất ngài đòi hỏi là lòng tin của chúng ta nơi quyền năng và lòng thương của Ngài.
 
Lòng tin của chúng ta đối với Thiên Chúa là nguồn gốc, là chủ sự sống sẽ dẫn chúng ta đến một thái độ tất yếu này là: chúng ta phải biết tôn trọng sự sống, bảo vệ và phát triển sự sống. Không phải chỉ sự sống thể xác mà cả sự sống tinh thần và sự sống tâm linh nữa. Không chỉ sự sống nơi mình, mà còn sự sống nơi người khác, nơi dân tộc khác nữa.
 
Thế nhưng, chung quanh chúng ta không biết bao nhiêu sự sống con người đang bị xâm phạm, chà đạp, cách này hay cách khác. Bao nhiêu trẻ em không được quyền sinh ra, không có được những điều kiện thiết yếu nhất về vật chất, tinh thần, để sống một cuộc sống cho ra người.
 
Chúa Giêsu đã sinh ra làm người là để cho con người được sống và sống một cách dồi dào. Nhưng sự sống của chúng ta đón nhận từ nơi Chúa sẽ không trọn vẹn, nếu chúng ta chưa thực sự chia sẻ sự sống ấy cho những người chung quanh. Bao lâu nhiều người anh em chung quanh chúng ta chưa được sống xứng với phẩm giá con người, bao lâu niềm vui và quyền được sống như những con người vẫn còn bị khước từ nơi nhiều người đang sống bên cạnh chúng ta, thì có lẽ chính chúng ta cũng không thể nào hưởng được một cách dồi dào sự sống mà Chúa Giêsu mang lại cho chúng ta.

6. Thầy thuốc tối cao

Bác sĩ George Lewell đã nhiều năm làm nhà truyền giáo y khoa cho phái Tin lành Southern Baptist ở Trung Quốc. Truyền giáo y khoa là một bác sĩ, tá viên hay một người nào đó được huấn luyện để đầu tư thời giờ, tài năng vào việc chữa trị đau đớn thể xác như một phương thế để đem linh hồn người ta về cho Đức Kitô.
 
Bác sĩ Lewell nói về một bà lớn tuổi, bà được đem vào bịnh viện Stout Memorial ở Quảng Đông, mà ông là bác sĩ giải phẫu trưởng. Một ai đó đã nói với bà bệnh nhân rằng Đức Giêsu là bác sĩ sẽ chữa lành bà, nên khi bà thấy bác sĩ trong bộ đồ trắng cúi xuống trên bà, bà nhìn lên bác sĩ và hỏi: “Ông là Giêsu?”.
 
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Maccô kể rằng: “Một người đàn bà bị băng huyết, đã 12 năm. Nàng đã chạy chữa nhiều thầy thuốc, và tốn kém hết tiền bạc mà không giảm bớt, nhưng còn trầm trọng hơn. Mặc dù đám đông chen lấn nhau quanh Chúa Giêsu, nàng cũng ráng chen vào gần, với tay đụng tới gấu áo của Chúa, với hy vọng được chữa khỏi. Đức Giêsu biết có sức mạnh từ người phát xuất. Người quay về phía người đàn bà mắc bệnh và nói: “Hỡi con, đức tin của con đã làm cho con tất cả. Con về bình an và khỏi bệnh”.
 
Người đàn bà này tượng trưng cho chúng ta, những người đã một vài lần phải đi bác sĩ, hay ít nhất chúng ta cũng dẫn một người thân thương đi bác sĩ.
 
Như những người theo Chúa Kitô, bạn và tôi có lợi và sự nâng đỡ đặc biệt khi phải cầu cứu bác sĩ hay thầy thuốc. Khi bạn hay một người thân yêu, hoặc người bạn phải đến bác sĩ, bạn hãy tín nhiệm, cộng tác và tin cậy họ như một dụng cụ của Chúa. Một bác sĩ giỏi, tài ba, cũng chỉ có giới hạn. Vì lý do đó, khi bạn phải tìm một bác sĩ, bạn phải đến với Chúa trước. Hơn nữa, trên mọi khả năng, tài khéo của một bác sĩ giỏi nhất, Đức Kitô vẫn còn chữa lành một cách mầu nhiệm.
 
Khi bạn phải đi bác sĩ, bạn nhớ dâng lời cầu nguyện lên Đức Kitô, Đấng chữa lành để bạn chọn đúng một bác sĩ. Để nhờ ơn Chúa. bác sĩ định bệnh và cho bạn liều thuốc hiệu nghiệm. Ngay cả trước khi bạn phải đi bác sĩ, bạn nhớ cám ơn Chúa về sức khỏe hằng ngày của bạn. Thường thường, người ta chỉ thấy sức khỏe là quý giá sau khi đã mất nó.
Không như người phụ nữ trong bài Tin Mừng hôm nay. Bà đến với các thầy thuốc trước, chỉ sau cùng, thất vọng, bà buộc phải tìm đến và đụng tới Đức Kitô. Bạn và tôi sẽ đến với Đức Kitô trước và trong khi được bác sĩ chữa trị.
Chúng ta tiếp xúc với Đức Kitô trong mỗi phép bí tích, nhất là trong Thánh Lễ và Rước Lễ. Chúng ta không như những người tin càn dở, họ chối bỏ mọi phương pháp trị liệu y khoa. Trái lại chúng ta dùng mọi phương pháp y học nhưng không quên chạy đến Đấng có thể chữa lành mọi bệnh tật là Đức Giêsu Kitô, Chúa mọi thiện hảo, nhất là Chúa mọi sức khỏe linh hồn và thể xác.
Ước gì chúng ta có được niềm tin của người phụ nữ trong bài Tin Mừng. Ước gì Đức Giêsu khen thưởng niềm tin của chúng ta bằng ơn trợ giúp nhân từ và quyền năng của Người.
Xin Chúa chúc lành bạn.

7. Lòng tin của con đã cứu con

Có chuyện kể rằng Đức Giêsu và một thanh niên đồng hành trên bãi biển. Bốn dấu chân in hằn trên cát. Nhưng lúc gặp chuyện khó khăn, chàng thanh niên nhìn xuống chỉ còn thấy có hai dấu chân thôi. Anh kinh ngạc kêu lên:
- Thưa Thầy, nãy giờ Thầy đi đâu mà để con bước một mình? Đức Giêsu nhỏ nhẹ bảo anh:
- Con nhìn kỹ xem đó là dấu chân của ai nào?
Nhìn kỹ lại, chàng thanh niên mới thấy đó là dấu chân của Chúa. Anh la lên:
- Vậy thưa thầy, nãy giờ con ở đâu?
Đức Giêsu trả lời:
- Này con, những lúc gặp khó khăn, Thầy biết con không đủ sức chịu đựng, vì thế Thầy đã vác con trên vai đó.
 
Thực sự, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi kẻ tin cậy Người, nhất là khi thấy niềm tin của ta bị thử thách quá sức, Chúa liền tạo điều kiện để chúng ta vượt qua. Người vác ta trên vai, có nghĩa là triệt để nâng đỡ ta, ngoài sức tưởng tượng của ta.
 
Người phụ nữ bị hoại huyết trong Tin Mừng hôm nay được chữa lành hoàn toàn do lòng thương của Chúa. Dĩ nhiên, muốn được chữa lành, người ta phải biểu lộ lòng tin. Mà bệnh nhân này theo luật Môisê, là một người ô uế, không được ra trước công chúng, làm sao dám đến xin Chúa chữa bệnh cho mình. Chúa đã soi sáng cho bà, và bà hiểu chỉ cần biểu lộ lòng tin một cách nào đó, cũng hy vọng được ơn lạ. Nghĩ thế, bà đã len lỏi phía sau Chúa, lén chạm vào áo Chúa, và sự lạ đã xảy ra: bà được khỏi bệnh.
Người bệnh chạm vào Chúa là đã vi phạm luật cấm. Nhưng bà nghĩ rằng giữa đám đông chen lấn như thế ai mà biết được. Chính các môn đệ cũng ngạc nhiên khi nghe Chúa hỏi xem đã có ai đụng chạm vào Ngài. Còn Chúa, Ngài biết rõ mọi chuyện. Thay vì lặng thinh để khỏi bị tai tiếng vì đã chạm tới một phụ nữ ô uế, Chúa lại muốn đưa sự thật ra ánh sáng, để mọi người thấy lòng tin của bệnh nhân và thấy rằng Chúa hài lòng với một lòng tin như thế. Nhờ lòng tin, người bệnh chẳng những được chữa lành, lại còn được ơn cứu độ, đó là ơn cao quí hơn được lành bệnh thể lý, và đó là điều Chúa quan tâm hàng đầu. Nhân dịp này, Chúa đã dạy các môn đệ một bài học mà sau này Thánh Phaolô đã khai thác và viết thư khuyên dạy các Giáo đoàn: Nhờ đức tin mà có ơn cứu độ.
 
Khi Chúa đòi hỏi phải có lòng tin, Người không đòi hỏi quá đáng. Chỉ cần ta thực tâm và cố gắng rồi Chúa sẽ tạo điều kiện cho chúng ta biểu lộ lòng tin và ban thưởng cho lòng kiên trì của ta, dù đó là những phấn đấu nội tâm thầm kín.
 
Lạy Chúa, xin giúp con biết tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, biết âm thầm cố gắng biểu lộ lòng tin trong cuộc sống, mặc dầu chỉ mình Chúa biết mà thôi.

8. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux

CON GÁI ÔNG GIAIRÔ VÀ
NGƯỜI ĐÀN BÀ MẮC CHỨNG BỆNH BẤT TRỊ
Giống như Matthêu (9,18-26) và Luca (8,40-56) ở đây Maccô cũng gói ghém hai mẩu chuyện vào chung một trình thuật. Ngoài ra người ta cũng tìm thấy ở đây cách mô tả Maccô vẫn thường dùng (x.3,20-35). Trình thuật diễn tiến như sau: Giairô van nài (c.21-24); chữa lành người đàn bà mắc bệnh bất trị (c.25-34) Phục Sinh con gái ông Giairô (c.35 -43).
 
Sở dĩ các trình thuật được nối với nhau như thế là vì chúng có những điểm chung với nhau. Trước hết hai khuôn mặt chính trong trình thuật này là phái nữ: một người đàn bà và một bé gái. Và ở cả hai trường hợp, đức tin vẫn đóng vai trò trọng tâm trong tiến trình đến gặp Chúa Giêsu.
 
Vậy là Chúa Giêsu và các môn đệ đã về lại bờ hồ ở mạn tây thuộc vùng đất Israel. Một lần nữa, đám đông đã chờ sẵn ở đó (c.21). Họ tụ lại để xem Chúa Giêsu biểu diễn quyền năng cứu độ của Ngài. “Một ông trưởng hội đường tên là Giairô tiến đến” (c.22a). viên chức sắc Do Thái này tỏ ra rất kính trọng và tin cậy Chúa Giêsu (c.22b). lời cầu xin của ông ta biểu lộ một lòng tin sâu xa. Con gái nhỏ của ông đang trong cơn thập tử nhất sinh (c.23). Chẳng cần thốt một lời, Chúa Giêsu đủ nhạy cảm trước nỗi đau của một con người mang trong lòng niềm tin vào Ngài lớn lao như thế. Ngài liền đi theo ông ta, đàng sau là đám đông chen lần nhau tò mò sấn tới…
 
Và trong đoàn người chen chúc này xuất hiện một người phụ nữ. Bà ta bị rong huyết mạn tính từ mười hai năm rồi (c.25). trong các tác giả Tin Mừng, chỉ mỗi Maccô nêu rõ tình trạng vô vọng của bệnh nhân, các y sĩ thời đại tiền khoa học ấy chỉ tổ làm cho bệnh của bà ta tệ hơn mà thôi (c.26). Tuy nhiên, điều cần chú ý hơn hết ở đây là theo luật Do Thái, người phụ nữ này bị rơi vào tình trạng ô uế xét về mặt luật pháp, và tuyệt đối cấm không ai được đụng chạm với chị (Lv 15,19-27). Thế mà niềm tin mạnh mẽ đã thôi thúc bà ta rán lấn tới đụng cho được vào áo Chúa Giêsu từ phía sau lưng Ngài, dù chỉ là trong chớp nhoáng (c.27). Đối với chúng ta ngày hôm nay, cử chỉ này xem ra có vẻ khôi hài, nhưng Maccô đã cho chúng ta rõ lý do tại sao bà ta lại làm thế (c.28).
 
Ở phương Đông thời xưa, y phục là biểu tượng của nhân cách. Chạm vào y phục ai tức là đụng vào chính kẻ ấy. Và thời xưa ấy thường thấy có sự đụng chạm giữa người bệnh và thân thể người điều trị. Ở đây sự đụng chạm này đã có kết quả, bệnh rong huyết của người phụ nữ này dừng lại lập tức. Chi ta cảm thấy mình đã được bình phục (c.29). Về phía Chúa Giêsu, Ngài nhận thức ngay quyền năng nơi Ngài hoàn toàn hữu hiệu (c.30a). Ở đây khía cạnh sinh lý của việc lành bệnh được nhấn mạnh, tuy nhiên màn kế tiếp lại lôi kéo người ta chú ý đến vấn đề tôn giáo có liên quan. Chúa Giêsu hỏi ai đã chạm vào Ngài (c.30b). Âm giọng và câu hỏi Ngài thốt ra nghe như có vẻ trách cứ. Các môn đệ xem ra chẳng chú tâm đến câu Ngài hỏi bởi vì giữa một đám đông đang chen lấn xô đẩy tứ phía như thế mà Thầy lại hỏi: “Ai đã chạm đến Ngài?” thì quả là tức cười! Tuy nhiên, như thường lệ, Chúa Giêsu đảo mắt dò xét đám đông. Ngài muốn biết chủ nhân của hành vi táo bạo ấy (c.32). Bấy giờ người phụ nữ run sợ, thú nhận với Ngài lý do bà ta được chữa lành (c.33). Bà ta cảm thấy ái ngại, chờ đón lời quở trách của vị Tôn Sư thượng tôn luật lệ. Thế mà Chúa Giêsu lại trao cho bà sứ điệp giải phóng: “Lòng tin của con đã chữa con, hãy đi về bình an” (c.34). Lời nói của Chúa Giêsu làm nổi bật ý nghĩa sự cố này, đức tin mang lại ơn cứu rỗi mới là điều quan trọng, còn hơn cả việc lành bệnh về mặt thể lý. Không phải tình cờ mà Chúa Giêsu lập lại thành ngữ người phụ nữ đã sử dụng khi bà ta cầu mong: “Tôi sẽ được chữa khỏi” (c.28b). Và toàn bản văn trên nhằm cho thấy rõ đức tin vào Chúa Giêsu có thể mang lại kết quả là được Ngài ban cho một phép lạ hoàn toàn bất ngờ. Kể từ đó, dù cho người phụ nữ vô danh này không bao giờ được nhắc tới nữa thì Maccô cũng vẫn đã thành công trong công việc chứng tỏ Chúa Giêsu là Đấng giải thoát khỏi mọi sự dữ. Bởi vì ở đây gồm hai chiều kích vừa là căn bệnh bất trị vào thời đó, và còn hơn thế nữa, vừa hầu như bị khai trừ “ra khỏi lề luật” của cộng đoàn tôn giáo khởi nguồn từ các tổ phụ.
 
Tiếp nối việc chữa lành cho người phụ nữ bị xuất huyết là câu chuyện dang dở về đứa con gái của ông Giairô (c.21-23), Chúa Giêsu đang theo ông ta để tới chữa trị cho con gái của ông đang hấp hối (c,24), thì người nhà chạy tới báo cho ông ta hay đứa bé đã qua đời. Thế thì “làm phiền Thầy chi nữa” (c.35). Lời họ cho thấy rõ họ thiếu đức tin. Chúa Giêsu đâu chịu đầu hàng trước trở ngại mới xảy đến này. Ngài nói với người cha đang chịu thử thách: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (c.36). Trong trường hợp thực sự bi đát này, đây quả là lời kêu gọi hãy cẩn trọng một cách thật phi thường. Và không chần chờ thêm, Chúa Giêsu đã bắt tay vào hành động (c.37). Bên cạnh Ngài là bộ ba môn đệ được Ngài mến chuộng, ba vị này sẽ được Ngài cho tham dự vào cuộc biến hình (9,2) và cơn hấp hối của Ngài (14,33). Điều này đủ nói lên tầm quan trọng của sự kiện Chúa Giêsu sắp làm. Sau khi tới nhà ông Giairô, Chúa Giêsu đụng ngay đám người đang than khóc (c.38). Ở phương Đông tang chế thường om sòm huyên náo như thế muốn khỏa lấp đi sự bất lực của con người trước cái chết. Chúa Giêsu bước vào và muốn thuyết phục đám người than khóc nín đi. Theo Ngài thì đứa bé không chết, nó chỉ ngủ thôi (c,39b). Nghe thế người ta liền chế nhạo Ngài (c.40a). Maccô cẩn thận ghi rõ sự “không tin” của đám người này. Thế rồi Chúa Giêsu đuổi họ ra (c.40b). Và Ngài bước vào trong căn phòng đứa bé đã chết, chỉ bố mẹ đứa bé và ba môn đệ đươc phép theo vào (c.40c). Ở đây, trong bầu khí đức tin thân mật, Ngài thực hiện một cử chỉ đơn giản và thốt ra một lời cứu độ (c.41). Maccô đã cẩn thận bảo tồn những lời chính Chúa Giêsu thốt ra bằng tiếng mẹ đẻ của Chúa, tức tiếng Aram đồng thời dịch lời đó ra cho các độc giả của ông. Nên nhớ kỹ thuật dụng ngữ “hãy chỗi dậy” – nghĩa văn chương là hãy thức dậy – chính là dụng ngữ sẽ được dùng để chỉ cuộc Phục Sinh của Chúa Giêsu (16,6). Em bé lập tức được hồi sinh (c.42). Em đứng dậy bước đi. Sau đó các nhân chứng ra về nhưng như thường lệ Chúa Giêsu yêu cầu họ phải giữ im lặng tuyệt đối (c.43a). Sở dĩ Chúa Giêsu thường đòi buộc các người thân của Ngài giữ bí mật về Đấng Mêsia là vì đám quần chúng không đủ khả năng nhận biết Chúa Giêsu có quyền năng siêu việt trên sự chết. Quyền năng ấy chỉ có thể được nhận biết và được loan báo cho mọi người sau khi Chúa Phục Sinh. Và Maccô đã kết thúc bức tranh đầy màu sắc này bằng một chi tiết thi vị nói lên được nhiều ý nghĩa (c.43b). Toàn thể gia đình Giairô sau khi xáo động về sự cố đứa bé vừa sống lại, có thể trở về cuộc sinh hoạt bình thường và chính cô bé (12 tuổi) nữa cũng thế, như thể không có việc gì xảy ra.
 
Dù vẫn mang nét rung động trước hành vi nhân đạo của Chúa Giêsu, trình thuật trên vẫn để lộ ra đặc tính truyền đạt giáo lý. Maccô đang ngỏ lời với các Kitô hữu Rôma khá lâu sau biến cố Phục Sinh. Được đọc lại dưới ánh sáng Phục Sinh của Chúa Giêsu, trình thuật trên giống như một dự báo về những sự cố sẽ đến. Người ta có thể hiểu câu nói “Họ chế nhạo Ngài” là câu ám chỉ đến những giễu cợt, nhạo báng mà sau này Chúa Giêsu sẽ chịu trước mặt các trưởng tế và luật sĩ khi Ngài bị treo trên thập giá (15,31). Và đồng thời người ta cũng nhận ra cuộc Phục Sinh của Chúa Giêsu đã được đề cập tới qua việc Chúa làm cho cô bé đứng dậy (c.41).
 
Trình thuật này kết thúc một chuỗi bốn hành vi quyền phép của Chúa Giêsu (4,35-5,43). Dẹp yên bão tố, chữa lành kẻ bị quỷ ám ở Giêrasa, chữa lành người phụ nữ vô danh và bé gái con ông Giairô là những bằng chứng về quyền năng tối thượng của Chúa Giêsu trên sự sống lẫn sự chết. Người ta có thể đặt đề tựa cho toàn bộ các hành vi quyền phép này bằng câu tuyên bố trong thư thứ nhất thánh Phaolô gởi Kitô hữu Côrintô: “Hỡi thần chết, chiến thắng ngươi ở đâu” (15,55).
 
Và sau lời giảng dạy dựa trên dụ ngôn (4,1-34), tiến trình trên đây đã trình bày cho chúng ta thấy Chúa Giêsu là một vị tiên tri quyền năng không chỉ trong lời nói mà còn trong cả hành động. Ngài hoàn toàn chiến thắng sức mạnh Thần dữ và Thần chết. Qua đó các môn đệ hẳn phải suy nghĩ về nhân cách kỳ lạ của Thầy mình!

9. Chú giải của William Barclay

 
TRONG GIỜ CẦN KÍP (Mc 5,21-24)
Ở đây có đầy đủ các yếu tố của một thảm kịch. Khi có một đứa trẻ lâm bệnh, bao giờ cũng là chuyện đáng lo. Câu chuyện này cho chúng ta biết ông trưởng hội đường có đứa con gái mười hai tuổi ngã bệnh nặng. Theo tập tục Do Thái, một cô gái được kể là trưởng thành vào lúc được mười hai tuổi một ngày. Cô gái này đang đứng trước ngưỡng cửa để trở thành người lớn mà cái chết lại đến đúng vào lúc ấy thì bi thảm gấp bội.
 
Câu chuyện cho chúng ta biết đôi điều về ông trưởng hội đường này. Người này chắc phải là một nhân vật quan trọng, ông là chủ tịch Ban Quản Trị hội đường và là chủ tịch Hội đồng Kỳ mục có trách nhiệm thu xếp mọi việc trong hội đường cho tốt đẹp. Ông có trách nhiệm trong việc chỉ đạo các buổi hội họp, có trách nhiệm phân phối công việc và xem xét mọi việc thực hiện đúng khuôn phép và trật tự. Ông là nhân vật rất quan trọng và khả kính nhất trong cộng đồng, nhưng khi con gái ông ngã bệnh, ông nghĩ ngay đến Chúa Giêsu.
 
1/ Ông đã quên đi các thành kiến. Chắc trước đó ông đã coi Chúa Giêsu như một người xa lạ, một người giảng tà giáo rất nguy hiểm, bị các hội đường cấm cửa, một người mà bất luận người nào coi trọng chính thống giáo cũng phải xa tránh. Nhưng ông đủ khôn ngoan để biết từ bỏ các thành kiến của mình vào giờ cần thiết. Thật ra thành kiến có nghĩa là sự phê phán, xét đoán trước. Đó là một phán đoán đã hình thành trước khi xem xét bằng chứng, hoặc một án lệnh đưa ra vì không chịu xem xét những chứng cớ. Hầu như mỗi sự tiến bộ đều là một cuộc đấu tranh chống lại các thành kiến trước kia người ta đã có về nó. Lúc Sir James Simpson phát minh ra cách dùng Chloroform làm thuốc mê, nhất là khi sanh nở, người ta cho rằng đó là “mồi của Satan, thoạt nhìn dường như đem lại hạnh phúc đến cho phụ nữ nhưng rốt cuộc khiến họ cứng lòng và cướp mất của Thiên Chúa những tiếng kêu xin sâu xa, nhiệt thành đáng lẽ phải được dâng lên cho Ngài trong cơn hoạn nạn”. Một thành kiến ngự trị trong con người sẽ phải đóng chặt tâm trí làm mất khả năng lãnh nhận các phúc lộc.
 
2/ Ông đã quên đi phẩm giá của mình. Ông là trưởng hội đường mà lại đến hạ mình dưới chân Đức Giêsu, là một ông thầy giảng đạo nay đây mai đó. Lắm khi người ta phải quên đi phẩm giá của mình để cứu lấy một mạng sống, cứu lấy linh hồn của mình. Trong câu chuyện xưa được kể lại, có trường hợp của Naaman (2V 5). Ông ta phải đến thưa với Êlisê để được chữa khỏi bệnh phong. Đơn thuốc Êlisê kê ra là ông ta phải xuống sông Giođan tắm bảy lần. Thật là cách đối xử hết sức tồi tệ với ngài đại tướng nuớc Syri. Êlisê cũng không đích thân truyền thông điệp ấy, mà sai đầy tớ ra bảo Naaman như vậy. Hơn nữa, các sông nước bên Syri không tốt hơn nước của con sông Giođan bé nhỏ, ngầu đục hay sao? Đó là những ý nghĩ đầu tiên của Naaman, nhưng ông ta biết dẹp tánh kiêu ngạo của mình qua một bên và bệnh phong của ông ta được sạch.
 
Có một câu chuyện nổi tiếng kể lại về Diogenes một triết gia phái hoài nghi. Ông ta bị bọn cướp bắt và đem bán làm nô lệ. Khi quan sát đám người đứng chung quanh để trả giá mình, ông ta nhìn vào một người và nói “Hãy bán tôi cho ông này đi, ông ta đang cần một ông thầy (hay là chủ)”. Người ấy mua ông, giao cho ông làm quản gia và dạy dỗ các con mình. Ông ta thường nói “Ngày mà Diogenes đã đặt chân vào nhà tôi, đúng là một ngày tốt lành”. Điều đó quả đúng như vậy, nhưng nó đòi hỏi việc phải từ bỏ phẩm giá. Tiếc thay, con người thích khư khư giữ chặt phẩm giá của mình mà đành đánh mật ân huệ.
 
3/ Ông đã quên đi tính kiêu ngạo. Việc đến và xin Đức Giêsu, người Nazaret giúp mình là một nỗ lực ý thức về sự hạ mình mà người này phải làm. Thật chẳng ai muốn phải mắc nợ người khác cả. Chúng ta muốn tự lo liệu lấy cho đời sống mình. Nhưng bước đầu tiên của đời sống là nhận thức mình chẳng có thể làm gì khác hơn là chịu mắc nợ Thiên Chúa.
 
4/ Đến đây chúng ta bước vào địa hạt của suy luận, vì theo thiện ý, chúng ta có thể bảo người này đã quên hết bạn bè. Rất có thể họ sẽ chống đến cùng việc ông cầu cứu Chúa Giêsu. Điều khá lạ lùng là ông đích thân đến với Chúa Giêsu chứ không sai người nhà. Điều cũng khó hiểu là ông lại chịu bỏ mặc đứa con gái đang hấp hối nằm đó một mình. Có lẽ sở dĩ ông ta phải đi vì chẳng còn ai khác chịu đi. Người nhà ông đều tỏ ra nghi ngờ và bảo ông rằng đừng đi tìm ông Giêsu đó làm gì cho mất công. Theo tinh thần câu chuyện, nếu ông không đi tìm Chúa Giêsu để xin Ngài giúp đỡ, họ còn hài lòng hơn. Người này đã bất chấp dư luận và thách đố cả những lời khuyên bảo của người nhà khi ông ta đến kêu cứu Chúa Giêsu. Nhiều người đã trở thành khôn ngoan nhất khi các bạn bè khôn ngoan của họ trên đời này nghĩ họ đang hành động như người ngu dại.
Đây là một con người đã quên hết mọi sự, trừ việc muốn được Chúa Giêsu cứu giúp mình, chính vì ông biết quên hết cho nên ông nhớ mãi rằng Chúa Giêsu là Chúa Cứu Thế.
 
HY VỌNG CUỐI CÙNG CỦA KẺ ĐANG ĐAU KHỔ (Mc 5,25-29)
Người đàn bà trong câu chuyện này mắc một chứng bệnh hết sức thông thường nhưng rất khó chữa trị. Chính kinh Talmud đã đề ra không dưới mười một cách chữa trị bệnh ấy. Có vài phương pháp là tốt nhưng phần lớn hoàn toàn do mê tín, chẳng hạn như mang tro của một trứng chim đà điểu đựng trong miếng vải lãnh rách vào mùa hè và trong miếng vải bông rách vào mùa đông, hoặc mang theo trong người một bông lúa mạch lượm từ đống phân của con lừa cái lông trắng. Chắc chắn bà này đã khổ công làm thử mọi thứ thuốc, và ngay cả thử những cách trị liệu mê tín này. Điều rắc rối là chứng bệnh đó chẳng những làm hại sức khoẻ, mà còn khiến bà luôn luôn bị ô uế, ngăn trở việc thờ phượng Thiên Chúa, và giao thiệp với bè bạn của bà nữa (Lv 15,25-27).
 
Ở đây, Maccô có một câu chễ giễu nhẹ nhàng mấy ông thầy thuốc. Bà ta đã tìm đến đủ mặt các lương y rồi, nhưng tiền mất tật mang, chẳng những bệnh không thuyên giảm mà lại nặng thêm. Văn học Do Thái có nhiều ám chỉ lý thú về mấy ông y sĩ. Có một nhân vật bảo “Tôi thường đến với một thầy thuốc mong được chữa bệnh, nhưng ông ta càng xức dầu, bôi thuốc cho tôi, thì hai mắt tôi càng mờ, cho đến khi tôi đui hẳn” (Tb 2,10). Trong khi Mishnah có một đoạn tóm tắt luật truyền thống, đề cập đến những nghề mà người ta có thể truyền lại cho con trai mình. Rabbi Giuđa nói “Bọn “tài” lừa phần đông đều gian ác, bọn “tài” lạc đà đa số là dân thường, thuỷ thủ phần lớn là lương thiện, kẻ tốt nhất trong các thầy thuốc đáng ở địa ngục, còn tên đồ tể quê mùa hơn hết cũng là phe đảng của dân Amaléc”. Nhưng rất may và cũng công bằng, là cũng có những tiếng nói ngược lại. Một trong những sự bày tỏ lòng kính trọng vĩ đại nhất được dành cho các thầy thuốc được nêu trong “Sách của Sirach (một trong ccac1 thứ kinh được viết vào giữa Cựu Ước và Tân Ước)” chương 38,1-15 như sau:
 
“Hãy bồi dưỡng thầy thuốc tuỳ theo nhu cầu của ông ta, vì ông ta cũng được Thiên Chúa tấn phong. Chính từ nơi Thiên Chúa mà thầy thuốc nhận được sự khôn ngoan, và từ nơi nhà vua mà ông ta được bổng lộc.
 
Tài năng của người thầy thuốc khiến ông ta ngẩng đầu lên khỏi vai, có thể đứng trước mặt những người quý phái. Thiên Chúa đã khiến thuốc men ra từ đất, vậy người có nhận thức đừng chối từ chúng.
 
Nhờ thuốc men, thầy thuốc xoa dịu nỗi đau thương, cũng vậy, nhà làm thuốc chế ra dầu, để công trình của Ngài không bao giờ ngưng lại, cũng như sức khoẻ không bị cất khỏi mặt đất.
 
Hãy dành cho thầy thuốc một chỗ, cũng đừng để ông ấy ở xa vì chúng ta cần đến ông. Có lúc chỉ có tài năng của ông mới tạo được sự giúp đỡ cần thiết. Vì ông cũng cầu khấn Thiên Chúa, giúp cho việc chữa bệnh của mình thành công, và việc chữa trị sẽ khiến bệnh nhân bình phục”.
 
Nhưng về chứng bệnh của người phụ nữ này thì các y sĩ đều bó tay và bà có nghe nói về Chúa Giêsu. Nhưng bà gặp chuyện khó xử: chứng bệnh của bà thật rắc rối. Công khai ra trước đám đông là việc bà không thể làm được, do đó bà quyết định chỉ lén chạm vào Ngài mà thôi. Vào thời Chúa Giêsu, tất cả những người Do Thái ngoan đạo đều mặc một chiếc áo khoác ngoài có bốn cái tua, ở mỗi góc vạt áo có một cái. Đó là theo sách Dân số 15,38-40, để khi nhìn thấy chúng thì người khác và bản thân người mặc áo nhớ đây là một người thuộc tuyển dân của Thiên Chúa. Các tua đó là dấu hiệu của một người Do Thái tin kính. Người đàn bà nọ đã chen đám đông, lén đến rờ vào một trong các tua áo ấy, và sau khi đã rờ vào, bà kinh ngạc thấy mình được lành bệnh.
 
Đây là một phụ nữ đã tìm đến Chúa Giêsu như một lối thoát cuối cùng, sau khi đã thử tất cả những gì đời này có thể cung cấp, cuối cùng bà ta phải thử chính Chúa Giêsu. Biết bao người đã đến với Chúa Giêsu khi chính họ lâm vào bước đường cùng. Có lẽ họ từng chiến đấu với cám dỗ cho đến khi sức cùng lực tận, để chỉ còn đưa bàn tay lên và kêu lớn “Lạy Chúa, xin cứu lấy con, con sắp chết mất”. Có lẽ người ấy từng chiến đấu với một trọng trách nào đó cho đến khi kiệt sức, cho đến khi cuối cùng, người ấy chỉ còn có thể kêu cứu một sức mạnh không phải là sức lực riêng mình. Có lẽ người ấy từng khổ tâm nhọc sức để đạt được điều kiện vẫn ám ảnh mình, để thấy cái lý tưởng ấy cứ lùi xa dần cho đến khi thất vọng hoàn toàn. Không ai chịu đến với Chúa Cứu Thế bằng áp lực của hoàn cảnh, nhưng có nhiều người phải đến bằng con đường đó, và cả khi chúng ta đến với Ngài như thế, Ngài cũng chẳng bao giờ để chúng ta ra về tay không.
 
 
GIÁ PHẢI TRẢ ĐỂ CHỮA BỆNH (Mc 5,30-34)
Đoạn sách này có nói với chúng ta về ba hạng người.
1/ Chúa Giêsu. Nó cho ta biết giá trị phải trả để chữa bệnh. Mỗi lần Chúa Giêsu chữa lành cho một người, có cái gì đó ra khỏi Ngài. Đây là một định luật phổ quát cho đời sống. Chúng ta sẽ chẳng làm nên chuyện gì lớn lao, nếu không sẵn sàng đặt một cái gì của chính bản thân, chính đời sống và chính tâm hồn chúng ta vào đó. Không một nhạc sĩ nào có thể chơi đàn thật hay nếu chỉ trình tấu khúc nhạc với một kỹ thuật hoàn hảo, ngoài ra chẳng có thêm gì nữa. Sự trình tâú chẳng có gì là vĩ đại nếu cuối cùng nhạc sĩ không kiệt lực vì đã dốc đổ chính bản thân mình. Một kịch sĩ sẽ chẳng bao giờ thể hiện trình diễn cách xuất sắc, nếu anh chỉ lập lại các câu nói cho đúng, làm những động tác phải lẽ, như một người máy. Khi anh khóc trên sân khấu, nước mắt anh ta phải là nước mắt thật, các cảm xúc phải là cảm xúc thật, phải có một cái gì từ chính người anh ta tuôn đổ vào đó khi diễn xuất. Không có một nhà truyền giáo nào giảng một bài giảng có hồn, nếu người ấy không bước xuống khỏi toà giảng với cảm giác đã có một cái gì đó trong người mình như bị vắt cạn, vắt kiệt đi.
 
Nếu chúng ta sẵn sàng trợ giúp người khác, chúng ta cũng phải sẵn sàng chịu hao tốn, chịu mất đi một điều gì đó của bản thân ta. Mọi sự đều do thái độ của chúng ta đối với tha nhân. Mathew Arnold, nhà phê bình văn học nổi tiếng có lần đã nói về giới trung lưu “Hãy nhìn giới ấy mà xem, nhìn quần áo họ mặc, sách báo họ đọc và cái tạo thành các ý tưởng của họ, liệu có khoản tiền nào bù trừ nổi cho việc họ trở thành người như thế chăng?”. Ý của câu nói ấy có thể đúng, có thể không và vấn đề chính là lòng khinh ghét đã phát sinh. Ông đã nhìn những người này như một thứ đáng ghê tởm; và không một ai nhìn con người theo cách đó lại có thể giúp đỡ họ được.
 
Mặt khác, hãy nhớ xem tâm tình của Môsê khi thấy dân Israel đúc một con bò vàng lúc ông đang ở trên đỉnh núi. Hãy nhớ lại ông đã xin Chúa xoá tên ông khỏi sổ trường sinh, miễn sao dân được tha tội. Hãy nhớ lại, Phaolô đã nói thà ông chịu hư mất, miễn sao cả thế giới ngoại đạo đang hư mất kia được cứu.
 
Chỗ vĩ đại của Chúa Giêsu là Ngài sẵn sàng trả giá để chữa lành cho người khác, và giá ấy là một phần sự sống của Ngài bị tiêu hao. Chúng ta chỉ thật sự noi dấu chân Chúa khi phải sẵn sàng chịu hao phí vì kẻ khác, chẳng những là của cải vật chất mà cả đến sức lực, linh hồn nữa.
 
2/ Các môn đệ. Tại đây chúng ta thâý cách sống động về giới hạn của điều vẫn được gọi là lương tri. Các môn đệ của Chúa có quan điểm theo lương tri. Đi giữa một đám đông như thế làm sao Chúa Giêsu tránh khỏi bị chèn ép, đụng chạm? Đó là cách nhìn mọi sự việc bằng cảm giác. Ở đây đã nổi bật sự kiện lạ lùng và đau lòng là họ chẳng hề nhận thấy hay nhận thức được rằng khi chữa bệnh cho người ta, Chúa Giêsu đã phải trả giá nào đó.
 
Một trong những tấn thảm kịch ở đời là sự không nhạy cảm của tâm trí con người. Chúng ta thường chẳng nhận biết chút gì về chuyện người khác đang trải qua. Có lẽ bản thân ta chưa hề kinh nghiệm gì về việc đó, nên ta chẳng bao giờ nghĩ một ai đó đã phải trả một giá như thế nào. Có thể một việc gì đó đã đến quá dễ dàng cho ta, nên chẳng bao giờ ta hay biết rằng người khác phải nỗ lực đến mức nào đó mới có thể có được như thế. Chính vì thế lắm khi chúng ta gây tổn thương trầm trọng cho những người mà ta yêu mến. Người ta có thể cầu nguyện để biết cư xử theo lương tri, nhưng nhiều khi chúng ta phải cầu nguyện để có thể nhạy cảm, hiểu biết sáng suốt để thấy được những điều ẩn kín trong lòng người khác.
 
3/ Người đàn bà đã được chữa lành. Bài học này cho chúng ta biết về sự xưng tội cất được gánh nặng trên con người. Mọi sự trước đó thật khó biết bao, nhục nhã biết bao. Nhưng sau khi nói hết ra sự thật với Chúa Giêsu, nỗi kinh hoàng run rẩy đều tiêu tan, một đợt sóng thoải mái, nhẹ nhõm tràn vào lòng bà. Sau khi đã xưng nhận tình cảnh đáng thương của mình, người đàn bà đã nhận thấy sự nhân từ, dịu hiền của Chúa.
 
Xưng tội với Đấng vốn thương cảm với chúng ta như Chúa Giêsu chẳng có gì là khó khăn, nặng nề. Và chỉ một mình Ngài mới ban ơn tha thứ toàn diện, chữa lành kỳ diệu, cưú chuộc tâm linh trọn vẹn và phục hồi nhân phẩm nhanh chóng nhất.
 
THẤT VỌNG VÀ HY VỌNG (Mc 5,35-39)
Các tập tục về tang chế của người Do Thái rất sinh động, tỉ mỉ, nhưng thật ra mọi điều đó chỉ nhằm tăng thêm cô quạnh của sinh ly tử biệt.
 
Ngay sau khi có người qua đời, thì tiếng khóc vang lên để mọi người đều hay biết là thần chết vừa hành động. Việc than khóc sẽ tái diễn bên cạnh phần mộ. Những người than khóc vây quanh thi thể người chết, thỉnh cầu từ đôi môi im lặng đó một câu trả lời. Họ đấm ngực, bứt tóc, xé áo mình.
Việc xé áo được thực hiện chiếu theo một số luật lệ và quy tắc. Nó được thi hành trước giây phút cuối cùng, khi xác chết bị che khuất không còn nhìn thấy được nữa. Áo bị xé đến chỗ trái tim, cho đến khi da thịt banh ra nhưng không được xé sâu qua rốn. Với bậc cha mẹ, thì chỗ áo bị xé ở về phía bên trên chỗ quả tim về phía trái, còn đối với những người khác thì xé phía bên mặt. Phụ nữ xé áo trong chỗ riêng tư, sau đó, mặc ngược áo từ sau ra trước, tiếp theo là xé áo ngoài, để da thịt khỏi phơi bày ra. Áo bị xé được mặc luôn suốt ba mươi ngày tiếp theo đó. Sau bảy ngày chiếc áo được may sơ sài lại, sao cho chỗ khâu lại cũng được thấy rõ ràng. Sau ba mươi ngày, chiếc áo được may lại hẳn hoi.
 
Những kẻ thổi sáo đóng vai trò chính yếu trong tang lễ. Hầu như khắp nơi thuộc thế giới thời cổ từ Roma đến Hy Lạp, Phênixi, ASyri và Do Thái, than khóc bằng tiếng sáo, được kết hợp chặt chẽ với chết chóc và chuyện đau buồn. Luật quy định rằng dù người đàn ông nào nghèo đến đâu chăng nữa khi làm đám tang cho vợ, cũng phải có ít nhất hai người thổi sáo. W. Taylor trong bộ từ điển về “Chúa Cứu Thế và Phúc Âm” do nhà xuất bản Hastinh ấn hành, đã dẫn chứng hai thí dụ thú vị về việc sử dụng phường thổi sáo, cho thấy tập tục ấy đã được phổ biến rộng rãi đến mức độ nào. Trong tang lễ của Claudius, hoàng đế Roma có phường thổi sáo. Năm 67 SCN, khi tin Jotapata thất thủ vào tay quân đội Roma được đưa đến Giêrusalem, sử gia Josephus kể lại rằng: “Hầu hết dân chúng thuê phường thổi sáo để hướng dẫn việc than khóc của họ”.
 
Tiếng sáo kêu gọi người chết, áo xống bị xé rách, bứt đầu, tạo cho nhà tang thành một nơi khiến ai nấy phải xúc động đau lòng.
Khi có người trong nhà chết, kẻ chịu tang bị cấm làm việc, không xức dầu và không mang giày dép. Cả đến những người nghèo nhất cũng phải nghỉ việc ba ngày. Người ấy không được đi ra ngoài mà mang theo hàng hóa, lệnh cấm làm việc cũng lan cả đến tôi tớ của người ấy. Người ấy ngồi trùm đầu lại, không được cạo râu hoặc làm “Bất cứ việc gì để bản thân được thoải mái, dễ chịu”. Người ấy không được đọc sách luật và ngôn sứ, vì đọc các sách ấy là một niềm vui. Người ấy được đọc sách Gióp, Giêrêmia, Aica. Chỉ được ăn trong nhà mình, phải hoàn toàn kiêng cữ rượu thịt, cũng không được phép rời khỏi thành phố hay làng mình đang ở trong ba mươi ngày. Phong tục không cho phép người ấy ăn tại bàn ăn, phải ngồi bệt trên sàn nhà, dùng một chiếc ghế ngồi làm bàn ăn. Theo phong tục vẫn còn thịnh hành ngày nay, người ấy phải ăn trứng chấm tro với muối.
 
Cũng có một phong tục kỳ dị. Phải đổ hết mọi thứ nước trong nhà và cả ba nhà bên cạnh ở hai phía, vì người ta cho rằng thần chết gây ra cái chết bằng một lưỡi gươm nhúng trong nước lấy từ nơi gần tầm tay. Cũng có một tập tục rất cảm động, với người chết còn quá trẻ, chưa lập gia đình, thì một lễ cưới được thực hiện như một phần trong tang lễ. Suốt thời gian chịu tang, kẻ cư tang được miễn giữ luật, vì người ấy được kể như đang bị bối rối, bị điên đầu vì nỗi buồn khổ gây ra.
Kẻ chịu tang phải đến hội đường. Khi người ấy bước vào, tất cả sẽ nhìn thẳng mặt anh ta và nói “Đáng chúc phúc Đấng an ủi kẻ bị tang chế”. Sách Kinh của Do Thái giáo, có một bài cầu nguyện đặc biệt dùng trước bữa ăn nhà có tang: “Đáng chúc phúc Chúa là Chúa, là vua toàn cõi vũ trụ, Thiên Chúa của các tổ phụ chúng tôi. Đấng Taọ Hóa, Đấng Cứu Chuộc, Đấng khiến chúng tôi nên thánh, Đấng Thánh của Giacóp. Vua của sự sống, Đấng vốn thánh thiện và làm điều thánh thiện. Thiên Chúa của chân lý, Vị quan tòa chân chính, xét đoán trong sự công chính, Đấng đem linh hồn con người ra phán xét, một mình Ngài cai trị cả vũ trụ, làm việc đó theo ý Ngài và mọi đường lối Ngài đều dẫn đến phán xét, còn chúng tôi là dân Ngài, các tôi tớ của Ngài, trong mọi sự chúng tôi cảm tạ, tán tụng Ngài, Đấng che chở mọi tai họa cho dân Israel, sẽ che chở chúng tôi trong tai họa này và do việc tang chế này sẽ đem đến cho chúng tôi sự sống bình an. Lạy Thiên Chúa chúng tôi, xin an ủi toàn thể kẻ tang chế của Giêrusalem, đang khóc lóc vì nỗi đau buồn của chúng tôi. Xin an ủi họ trong tang chế của họ, khiến họ được vui vẻ trong cơn đau đớn như một người được mẹ mình vỗ về an ủi vậy. Đáng cảm tạ Ngài là Thiên Chúa, là Đấng an ủi của Sion, Đấng sẽ lập lại Giêrusalem.
Bài cầu nguyện ấy có từ trước thời Tân Ước cho nên chúng ta đọc câu chuyện về cô bé gái chết ở đây trong bối cảnh xa xưa, nhằm diễn tả trọn vẹn nỗi đau buồn đó.
 
CHỖ KHÁC NHAU MÀ ĐỨC TIN TẠO RA (Mc 5,40-43)
Có một điều thật đẹp đẽ ở đây. “Talitha kum” là tiếng Aram, có nghĩa là “Hỡi con gái nhỏ, hãy trỗi dậy”. Làm thế nào câu nói bằng tiếng Aram đó có thể chen vào quyển sách Phúc Âm viết bằng chữ Hy Lạp này? Chỉ có một lý do duy nhất, là Maccô đã nhận phần tài liệu này từ Phêrô. Ngay đến Phêrô, ít nhất, trong lúc sống ngoài xứ Palestine, ông cũng phải nói tiếng Hy Lạp. Nhưng Phêrô đã có mặt chính thức lúc xảy ra sự việc, ông vốn là một trong ba môn đệ thân cận đã được chọn để cùng đi với Chúa Giêsu đến đó. Hẳn ông đã không bao giờ quên được giọng nói của Chúa Giêsu. Trong tâm trí và ký ức ông vẫn nghe vang vọng “Talitha kum” suốt cả cuộc đời. Tình yêu thương, vẻ hiền từ, âu yếm trong câu nói ấy đã ở trong ông mãi mãi, cho nên ông không thể nào suy nghĩ về nó bằng tiếng Hy Lạp, vì ký ức ông chỉ nghe nó bằng giọng nói của Chúa Giêsu, bằng chính lời lẽ mà Chúa Giêsu từng thốt ra.
Đoạn sách này là một câu chuyện của những tương phản.
1/ Có tương phản giữa tuyệt vọng của những kẻ tang chế đang khóc than với niềm hy vọng của Chúa Giêsu. Họ bảo “Còn làm phiền thầy chi nữa? Bây giờ còn ai làm được gì nữa đâu? Chúa Giêsu phán “Đừng sợ, chỉ tin mà thôi”. Một bên là tiếng nói tuyệt vọng, bên kia là tiếng nói hy vọng.
 
2/ Có tương phản giữa cơn bối rối vô bờ bến của những kẻ than khóc và vẻ thanh thản bình tĩnh của Chúa Giêsu. Họ khóc lóc than vãn, bứt tóc, bứt đầu, xé áo trong cơn bối rối cực độ. Chúa thì hoàn toàn bình thản, tự chủ.
Tại sao có chỗ khác nhau ấy? Do Chúa Giêsu hoàn toàn tin cậy vào Thiên Chúa. Những điều bất hạnh tệ hại nhất con người có thể đối phó cách can đảm và nhẹ nhàng nếu chúng ta đối phó cùng với Thiên Chúa. Chúng cười nhạo Chúa Giêsu vì tưởng rằng niềm vui của Ngài vô căn cứ, và Ngài đã bình thản sai lầm. Nhưng sự kiện quan trọng trong đời sống Kitô hữu là điều xem như hoàn toàn bó tay đối với loài người thì Thiên Chúa làm được, điều mà xét trên lãnh vực con người là việc không hề dám mơ ước đã trở thành hạnh phúc thực sự khi có hiện diện của Chúa. Chúng cười nhạo Ngài, nhưng cười nhạo đó trở nên mối kinh ngạc sững sờ khi nhận biết được điều Thiên Chúa làm. Họ tin tưởng sai lầm. Họ nghĩ Chúa Giêsu thất bại, đứa bé đã vĩnh viễn ra đi. Bây giờ họ sửng sốt khi thấy Chúa Giêsu đã cứu sống, nó bước đi ngay truớc mặt họ. Chẳng có gì bất khả đối diện và chinh phục trong tình yêu Thiên Chúa được thể hiện trong Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

10. Chú giải của Noel Quesson

Đông đảo dân chúng tụ lại quanh Người. Lúc đó Người đang ở trên bờ biển hồ. Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông ta phủ phục dưới chân Người, và năn nỉ: "Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đặt tay lên cháu, để nó qua khỏi và được sống". Đức Giêsu liền ra đi với ông. Đông đảo dân chúng đi theo và chen lấn Người.
 
Tôi bắt đầu đọc lại đoạn này, tả một cảnh rất sinh động. Thánh Maccô ghi lại những lời rao giảng của Thánh Phêrô, một con người thực tế và có óc quan sát đúng đắn. Tôi tưởng tượng khung cảnh; tôi nhìn ngắm con người, tôi ghi nhận những sự kiện như trong một phim xi nê, hay hơn nữa tôi tưởng tượng tôi là một trong những người tham dự, đang ở giữa đám đông.
 
Có hai chi tiết đáng lưu ý: ông Giairô "khẩn khoản nài xin, khá lâu. Đức Giêsu bề ngoài không đáp tiếng nào, nhưng liền ra đi với ông ấy" và chúng ta thấy hai người cùng sánh vai lên đường với đám đông.
 
Trong tiếng Hêbdrơ tên Giairô (Yair) có nghĩa là "người soi sáng" hay là "người đánh thức".
 
Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, bao năm khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. Được nghe đồn về Đức Giêsu, bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người.
Thánh Maccô nhấn mạnh đến tình trạng tuyệt vọng của người đàn bà này: Bà đã đau đớn “rất nhiều”, chữa trị "lâu rồi", hao tổn "cả tài sản" mà "không thuyên giảm chút nào"; bệnh tình lại có phần "tệ hơn". Điều này muốn nhấn mạnh cho chúng ta rằng, Đức Giêsu có một quyền lực mà không một phương thế nhân loại nào có thế vượt qua được. Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một đức tin sâu xa, ngõ hầu chúng con không bao giờ tuyệt vọng!
 
Vì bà tự nhủ: "Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ khỏi".
Theo tâm thức người Do Thái thời đó, người đàn bà này bị coi như "ô nhơ" theo luật Môisen (Lv 15,25) và bà có thể làm cho những người khác cũng bị nhơ chỉ vì tiếp xúc với bà. Tôi cố hình dung ra thái độ của người đàn bà đáng thương này, vừa xấu hổ vừa e sợ: Bà sờ vào áo choàng của Đức Giêsu và cảm nghĩ như mình đang làm một việc bị cấm. Người có thể khước từ sự đụng chạm nhơ bẩn này. Và nếu đám đông biết điều này, mọi người sẽ gớm giếc tránh xa bà.
 
Và tôi ngắm nhìn Đức Giêsu, Đấng "đã đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì bị hư mất". Người đón tiếp những kẻ nghèo nhất. Không có một sự khốn khổ nào, dù dấu kín, xấu hổ đến đâu mà bị Đức Giêsu xua đuổi. Không có một luật nào đứng vững trước Đức Giêsu, khi cần phải cứu một người.
 
Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi thói quen câu nệ lề luật, khỏi mọi sợ hãi và xấu hổ.
 
Tức khắc máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc đó, Đức Giêsu thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra. Người liền quay lại đám đông mà hỏi: "Ai sờ vào áo tôi vậy?" Các môn đệ thưa: Thầy coi dân chúng chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: "Ai đụng vào tôi?" Đức Giêsu ngó quanh để xem người phụ nữ nào đã làm điều đó".
 
Chúa không muốn chỉ tiếp xúc với đám đông vô danh.
Người muốn có một sự tiếp xúc cá biệt, Người cũng muốn cho người đàn bà vượt lên trên sự tin tưởng mang tính ma thuật dị đoan ("nếu tôi sờ được áo Người, tôi sẽ được lành mạnh"), để bước vào một đức tin đích thực là phải nhận biết con người Đức Giêsu - Chúng ta nên nhớ rằng, Đức Giêsu là một nhà sư phạm thật tài ba: Người lưu ý đến đức tin chưa hoàn hảo và hồn nhiên, nhưng Người cũng muốn chúng ta đạt đến một đục tin trưởng thành và hữu lý hơn.
 
Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì Chúa thương yêu con với thực trạng của con. Xin Chúa giúp chúng con trở nên như Chúa muốn.
Bà này sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và trình bày hết sự thật. Người nói với bà ta: "Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy đi về bình an và khỏi hẳn bệnh".
 
Hai chữ "khỏi bệnh", "được cứu rỗi". Những phép lạ của Đức Giêsu, dưới cái nhìn của người Kitô hữu "Sau biến cố Phục sinh", là những điềm loan báo "sự cứu rỗi do đức tin" mà chúng ta được hưởng nếu ta nhận biết Người.
 
Vâng, đối với Đức Giêsu, điều cốt yếu không phải là điều "huyền diệu”, phép lạ, nhưng là sự cứu rỗi. Vậy tôi cầu xin Chúa những gì?
 
Đức Giêsu còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo ông: "Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?". Tình cờ nghe được câu nói đó, Đức Giêsu bảo ông trưởng hội đường: "ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi".
 
Đối với Đức Giêsu, chính đức tin mới quan trọng: ông Giai - rô đã chứng kiến sự hiện diện trước đó. Thánh Maccô kể lại cho chúng ta hai phép lạ này, như lồng vào nhau để cho chúng ta một cảm tướng về sự tăng trưởng trong đức tin: Tin rằng Đức Giêsu có thể chữa lành bệnh tật, tin rằng Người có thể làm cho kẻ chết sống lại.
 
“Ông còn phiền Thầy làm gì?". Đối với người đồng thời với Đức Giêsu. Họ không thể nghĩ rằng, xin Chúa làm cho người chết sống lại là một việc có thể được. Chữa bệnh thì được, nhưng hồi sinh kẻ chết thì không phiền Thầy làm gì vì điều đó không thể làm được. Điều này nhấn mạnh đến sự nghịch lý trong đức tin.
 
Rồi Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phêrô, ông Giacôbê và em ông này là ông Gioan. Các Ngài đến nhà ông trưởng hội đường.
 
Một lần nữa, Đức Giêsu không muốn làm điều gì bề ngoài dễ gây kích động. Mỗi lần có thể được, Người kín đáo làm phép lạ. Hôm nay, Người chỉ dẫn theo ba nhân chứng có đủ tư cách nhất. Ba vị này cũng sẽ là nhân chứng lúc Người biến hình (Mc 9,12) và lúc Người hấp hối (Mc 14,33). Chúa không muốn quyền lực của Chúa trở thành một quyền lực ma thuật: Chính Người cũng sẽ có kinh nghiệm đau thương về cơn hấp hối và cái chết. Nhưng điều này đã xảy ra cho cô bé gái. Sự cứu rỗi duy nhất và vĩnh viễn đó là cuộc vượt qua cuối cùng, để bước vào cuộc sống vĩnh cửu.
 
Đức Giêsu thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. Người bước vào nhà và bảo họ: "Sao lại khóc lóc om sòm như vậy? Con bé có chết đâu nó ngủ đấy?". Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết.
 
Đức tin của ông Giai-rô và của ba Tông đồ bị thử thách nặng nề do thái độ không tin của đám đông chung quanh, và việc họ nhạo báng Đức Giêsu.
 
Rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người vào nơi nó đang nằm, Người cầm lấy tay nó.
Ôi bàn tay của Đức Giêsu đang làm những điều kỳ diệu! Bàn tay Người đang nắm một bàn tay đã chết. Sự tiếp xúc với thân thể Chúa cũng thế. Khi chúng ta rước Chúa, mầu nhiệm sống động này được tái thực hiện.
 
Và Người nói: "Talitha Kum".
Chỉ mình Maccô ghi lại lời này bằng tiếng Aramên, tiếng mẹ đẻ của Đức Giêsu. Maccô biết được chuyện này do Thánh Phêrô, người hiện diện ở đó thuật lại. Chính những chi tiết nhỏ ấy cho thấy Phêrô là người đã mục kích. Những kỷ niệm này được một nhân chứng đã nghe, đã xúc cảm ghi giữ. Thực vậy, suốt đời Thánh Phêrô luôn nhớ hai chữ "Talitha Kum".
 
Nghĩa là "Này con, Thầy truyền cho con chỗi dậy đi!".
Thực ra, hai chữ tiếng Aramên này có thể dịch ngắn hơn nhiều: "Bé gái, đứng dậy". Nhưng Thánh sử Maccô đã muốn diễn dịch dài hơn và đã dùng một từ chủ yếu của những Kitô hữu đầu tiên. Sau “Phục sinh": "Hãy chỗi dậy", tiếng Hy Lạp là "egeiré", có nghĩa là “thức dậy". Đó là từ đã được dùng để nói về sự Phục sinh của Đức Giêsu. Chữ này có một ý vị Phục sinh. Đó là chữ đối nghĩa với "ngủ” mà Đức Giêsu đã dùng trước đây để nói về cái chết. Vâng, đối với Đức Giêsu, cái chết không còn thật sự là chết nữa, đó là một giấc ngủ.
 
Một bài Thánh ca rất xưa của những người Kitô hữu đầu tiên được hát trong nghi lễ rửa tội như sau: "Hỡi người đang ngủ thức dậy đi, ngày đã sáng lên rồi. Từ cõi chết hãy đứng lên. Chúa sẽ chiếu sáng trên ngươi". (Chúng ta đã nói là chữ faire, có nghĩa là "người soi sáng", "người đánh thức", đấy là biểu tượng của phép rửa tội) (Ep 5,14).
 
Đó là Phép rửa của tôi. Đó là sự sống của tôi, người đã được rửa tội. Tôi có tin thực rằng tôi đã nhận được cùng một ơn lành như cô bé này không? Qua phép rửa tội của tôi tôi đã đi từ cái chết đến sự sống. Cuộc sống vĩnh cửu của tôi đã bắt đầu. Phải chăng tôi là một người không ngừng "chỗi dậy", "thức dậy"? Tôi có nghe Đức Giêsu cũng nói lại với tôi: "Đứng lên", "chỗi dậy", "thức dậy", "sống lại" không? Nói những tình trạng chết chóc mà đức tin giải thoát cho tôi là gì?
 
Con bé liền đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười tuổi. Vừa thấy thế, người ta kinh ngạc sững sờ. Đức Giêsu căn dặn họ đừng cho ai biết việc ấy, và bảo họ cho đứa trẻ ăn.
Sự sống chiến thắng cái chết, đặt những người chứng kiến cảnh này vào trung tâm của huyền nhiệm: Họ bị “xuất hồn" kinh ngạc tột độ. Lệnh Chúa truyền phải im lặng lại càng nhấn mạnh cảm tưởng bí mật mà chúng ta đã có: Mầu nhiệm đích thực của Đức Giêsu không thể hiểu được đối với những người không có đức tin. Cho người ta thấy "phép lạ" bề ngoài là vô ích, người ta sẽ cho đó là "trò ma thuật", và Đức Giêsu không muốn người ta coi Người như một nhà phù thủy. “Người bảo cho cô bé ăn". Đó không chỉ là một sự chăm sóc ưu ái và cảm động. Trong biểu tượng của phép rửa, người "đi từ cõi chết đến cõi sống nhờ phép rửa, được đưa vào bàn Tiệc Thánh Thể: Một người sống thì phải ăn, một người đã được rửa tội phải ăn "Bánh hằng sống", Thánh Thể và Phép rửa tội liên kết mật thiết với nhau. Đó là Mầu nhiệm Đức Tin.

11. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

CHỮA LÀNH MỘT PHỤ NỮ BĂNG HUYẾT
VÀ PHỤC SINH CON GÁI GIAIRÔ
 
1) Ơn cứu rỗi được ban trong Chúa Giêsu Kitô.
Cả hai phép lạ đều cho thấy ơn cứu rỗi được ban cho con người. Giairô đến xin Chúa Giêsu cho con gái ông "được sống và được cứu”; bà băng huyết tìm cách sờ đến Chúa Giêsu vì tin chắc sẽ được cứu. Cả hai đã kinh nghiệm về sự bất lực của con người trong việc tìm lấy ơn cứu rỗi. Chính trong ý thức ấy đã vạch ra niềm tin vào Chúa Kitô, Đấng duy nhất có thể cứu con người ra khỏi tình thế tuyệt vọng mà trong đó họ đã chìm đắm. Nhưng đức tin không phải là một sự hiển nhiên, vì Chúa Kitô bị che dấu giữa đám đông đang mỉa mai Người và đang chuẩn bị từ bỏ Người. Người là Đấng duy nhất có thể cứu, nhưng cũng chỉ những ai tin mới phân biệt được trong sự yếu đuối phàm nhân của Người sức mạnh của Thiên Chúa và như thế mới nhận được ơn cứu rỗi. Trong Giairô và người đàn bà bị băng huyết, Maccô trình bày cho ta hai tấm gương giống nhau về thái độ tự ý của kẻ tin và việc Chúa Giêsu trả lại họ. Bên kia các phép lạ của thể lý, thánh sử cho ta cảm nhận sự sống tràn đầy mà Cứu Chúa ban cho Kitô hữu từ khi Người được tôn vinh nhờ cuộc tử nạn và phục sinh của Người.
 
2) Biến cố.
Nhưng nếu giáo huấn của hai trình thuật song song với nhau, thì độc giả ngày nay có thể thắc mắc: trường hợp sau phải chăng là một cuộc sống lại thực sự? Không thể chấp nhận rằng truyền thống Kitô giáo đã bày đặt toàn thể các phép lạ được gán cho Chúa Giêsu và óc khoa học vô tôn giáo chẳng triệt để từ chối sự có thể có nhiều hiệu quả phi thường do một vài mãnh lực huyền bí phát xuất từ những nhân vật ngoại hạng. Hiển nhiên óc khoa học đó không thể chấp nhận sự phục sinh của Chúa Kitô cũng như của một kẻ nào khác. Còn Kitô hữu tin vào sự phục sinh của Chúa Kitô và vào quyền lực hiện tại của Người đối với sự chết, quyền lực mà Người sẽ thi thố trên thân xác chúng ta trong ngày cánh chung. Nhưng có phải trình thuật chúng ta quá rõ rệt đến nỗi phải kết luận rằng đây đúng là cuộc phục sinh con gái Giairô không?
 
Khi lấy lại trình thuật của Maccô, và hơn cả Luca, Matthêô đã nhấn mạnh đến thực tại cái chết của đứa bé; thật vậy nơi ông, Giairô đã minh nhiên đến cầu xin cho con gái sống lại. Ta phải chấp nhận rằng truyền thống Maccô là xưa nhất và cũng là phù hợp với thực tế nhất: thật vậy, người ta không thấy tại sao truyền thống Matthêô là truyền thống tường thuật rõ ràng một cuộc phục sinh, lại có thể đã bị Maccô che dấu đến nỗi trong trình thuật của Mc, lời Chúa Giêsu tuyên bố "Đứa bé không chết, nó ngủ đấy thôi" có thể cho hiểu là theo ông, nó không chết thật. Như cha Lagrange đã viết Maccô "không làm yếu đi những điểm xem ra dẫn đến giả thuyết một sự hôn mê" (Evangile selon saint Marc, Paris, 1942, tr. 146).
 
Khi thốt lên câu ấy, Chúa Giêsu chưa thấy đứa trẻ và sự vô tri mà Người vừa biểu lộ trong trường hợp người đàn bà băng huyết khiến ta nghĩ rằng Người không biết trạng thái chính xác của đứa trẻ. Không thể giải thích câu "Nó không chết, chỉ ngủ đấy thôi" như là lời khám bệnh của một bác sĩ. Vì thế phải tránh xác định câu đó, dầu trong nghĩa hôn mê hay chết thật. Chúng ta không thể biết điều mà Chúa Giêsu đã nghĩ trong trường hợp ấy và Maccô không cho phép ta trả lời câu hỏi nầy vì ông đã chẳng viết với một não trạng khoa học như não trạng chúng ta ngày nay. Đối với ông, sự khác biệt căn bản mà chúng ta đặt giữa cái chết và hôn mê không có vì trong não trạng tôn giáo của ông, cái chết và bệnh tật đều phát xuất từ ảnh hưởng của tội và của ma quỷ. Thành ra chúng ta không thể xác định lời tuyên bố của Chúa Giêsu, dù cho theo nghĩa chết thật hoặc hôn mê. Chúng ta sẽ không bao giờ biết điều Chúa Ciêsu đã nghĩ trong trường hợp ấy, vì những lời của người được truyền lại cho ta trong một bối cảnh thuần túy tôn giáo muốn loan báo ơn cứu rỗi được ban cho người tin hơn là xác định bản chất đích thực của phép lạ được thực hiện. Vì dù đề cập đến một cuộc chữa lành hay một sự phục sinh thật, thì trình thuật Maccô cũng chỉ muốn thúc giục ta trả lời câu hỏi sau đây: hôm nay chúng ta có tin là Chúa Kitô phục sinh có thể loan ơn cứu rỗi và sự chiến thắng cái chết cho chúng ta không?
Jean Potin, Assemblécs du Setgneur 44, tr.38-47.
 
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Qua bài Tin mừng, ta thấy được thế nào là sức mạnh của đức tin. Đức tin giúp thắng vượt những nghi ngờ: Giairô mà không cần những hiển nhiên, những lý luận nhân loại. Đức tin giúp thắng vượt những rụt rè nhút nhát: nhờ tin mà người đàn bà băng huyết chế ngự được nỗi sợ hãi, sợ gây ô uế cho người ta, sợ đám đông phát giác; bà đã tin rằng năng lực chữa bệnh và cho sống lại của Chúa Giêsu còn mạnh hơn sự truyền nhiễm cơn bệnh mà bà đau khổ đã 12 năm. Thật là một niềm tin mạnh mẽ, mạnh mẽ như niềm tin của người bất toạt dám dỡ mái nhà để moi cho được lòng tốt của Chúa (Mc 2,1-12) như niềm tin của người trộm lành, trong một lần hành nghề cuối cùng, đã ăn trộm Thiên đàng khi tin vào lòng thương xót vô biên của Chúa Giêsu. Đức tin có thể chuyển núi dời non lay động được quả tim Thiên Chúa.
 
2) Nên chú ý tới hai khía cạnh trong câu hỏi của Chúa Giêsu đối với người phụ nữ bị bệnh băng huyết. Chúa Giêsu dùng việc chữa lành bệnh mở đầu một cuộc đàm thoại. Thứ đến Người dạy: việc Người làm vượt xa hơn việc chữa lành thể xác: Người cứu được nếu người ta tin vào Người.
 
Bà ấy không lầm khi hy vọng rằng chỉ sờ vào gấu áo của Chúa Giêsu là sẽ được lành bệnh. Nhưng Chúa Giêsu không phải là một sức mạnh tác động nặc danh. Một thành phần bị quên lãng, bị khuất giữa đám đông đều là người mà Chúa Giêsu lưu ý đến. Tại đây chúng ta thấy Chúa nói với bệnh nhân: Đối với người, bà không phải là một con số giữa đám đông. Người đưa dịp cho bà trở lại, cho bà ý thức, cho bà đàm thoại. Người hành động như thế để cho bà hiểu: đối với Chúa, bà cũng có phẩm giá con người. Cuối cùng Người nói với bà: "Con ơi, đức tin đã cứu con". Trong kiểu nói của thánh Maccô, chữ Cứu có nghĩa là Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã đưa chúng ta từ cảnh trụy lạc, tội lỗi đến sự sống lại với Người. Lúc đó bà băng huyết chưa hiểu nổi lời Người. Chúng ta nhờ Tin mừng hiểu được điều ấy.
 
Đức tin của tôi vào Chúa Kitô có sống động đến nỗi thấm nhiễm vào các nỗi đau khổ của tôi và sự chết của tôi, một sức mạnh, một sự sống cao độ không? Tôi có cảm thấy vui mừng khi thiết rằng Chúa Giêsu lưu ý đến một cách riêng không?
 
3) Bài Tin mừng hôm nay còn cho thấy đức tin có nhiều cấp độ. Đầu tiên là đức tin sơ khai của ông Giairô lúc mới đến gặp Chúa Giêsu. Bất lực trước đau khổ, ông đi tìm Chúa Giêsu vì nghe rằng Người có một quyền năng thần thông nào đó thứ đến là đức tin tính toán, vụ lợi, hơi mê tín của người đàn bà lén đến bên Chúa Giêsu, mong ăn cắp được sức mạnh kỳ diệu từ nơi Người, nhưng rồi khi bị phát giác, đức tin của bà tiến lên cao hơn, trở thành một cuộc gặp gỡ, đối thoại, tương giao với Chúa Giêsu; và sau cùng là đức tin trọn vẹn của Giairô tin vào Đấng phục sinh được kẻ chết.
 
Trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, hình như đức tin cũng vượt qua các cấp độ đó. Đầu tiên chúng ta đã tin vào Thiên Chúa vì thất vọng trước sức con người, vì tự bản năng cảm thấy phải bám víu, cầu khẩn một Đấng cao hơn. Rồi tới khi biết được quyền năng của Thiên Chúa, thấy bao kỳ công Ngài đã làm trong lịch sử, qua Thánh Kinh, ta lại có khuynh hướng lợi dụng Ngài, giữ đạo là chỉ mong được muôn ơn phúc hồn xác, bất mãn khi gặp thất bại hoạn nạn. Dần dần đức tin ta được thanh lọc, biến thành một cuộc gặp gỡ đối thoại với Thiên Chúa, gắn bó vào Ngài trải qua mọi thử thách. Nhưng rồi phải tiến lên cao hơn nữa, biến thành đức tin vào sự phục sinh, tin rằng dù bề ngoài có vẻ như tan vỡ, tận diệt, vẫn có một đời sống mới cả hồn lẫn xác chờ ta bên kia thế giới, bên kia cái chết, bên kia thời gian, tin rằng Thiên Chúa có quyền năng đổi mới mọi sự cho ta và cho mọi người.

12. Suy niệm của Nha Trang

"Hỡi em bé, Ta bảo em hãy chỗi dậy!"
 
I. Ý CHÍNH:
Phụng vụ hôm nay muốn chúng ta xác tín rằng cho được chấp nhận Tin Mừng cứu rỗi và hưởng các ơn lành của Nước Trời, thì phải có đức tin. Qua bài Tin Mừng hôm nay Thánh Maccô cho ta thấy hai mẫu đức tin: đức tin sáng suốt của ông Trưởng hội đường là Giairô và đức tin chất phác của người đàn bà loạn huyết.
 
II. SUY NIỆM:
1) "Chúa Giêsu đã xuống thuyền trở về bờ bên kia":
Bỏ địa hạt Cêsarê. Chúa Giêsu lại trở về Capharnaum. Thấy Người trở lại, dân chúng đến đón Người rất đông. Họ xúm lại quanh Người, hy vọng Người tiếp tục giảng dậy và làm phép lạ.
 
2) "Bỗng có một ông Trưởng hội đường tên Giairô đến"
Giairô là Trưởng hội đường nghĩa là một người có địa vị và thế giá trong dân. Điều này nói lên việc ông làm là một việc có ý thức và có thế giá.
 
3) "Trông thấy Người ông sụp lạy và van xin rằng":
Thái độ của Giairô trước Chúa Giêsu diễn tả niềm tin của ông: "ông sấp mình dưới chân Thầy".
 
Thái độ của những người đến cầu khẩn Người (Mc 1, 40; 7, 25) hoặc nhận ra Người là kẻ được Thiên Chúa sai đến (Mc 10, 17; 15, 19).
Thái độ này cũng giống như thái độ của ma quỷ đã nhờ óc thông sáng mà nhận ra Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa (Mc 3, 11; 5, 6).
 
4) "Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống":
"Xin Ngài đặt tay trên nó": Cử chỉ đặt tay trên bệnh nhân là cử chỉ Chúa thường dùng khi cứu chữa bệnh nhân được khỏi bệnh (Mc 6,5; 7, 32; 8, 23). Xin Chúa đặt tay tức là tin rằng chỉ có Người mới chữa khỏi được bệnh cho con ông.
 
"Để nó được khỏi và được sống": Để nó được lành bệnh và được khoẻ mạnh, dù có hấp hối nguy ngập thì nó cũng được khỏi và được khoẻ mạnh. Thái độ này của Giairô biểu lộ một đức tin vững vàng, xác tín vào quyền năng của Chúa Giêsu.
 
5) Chúa Giêsu ra đi với ông:
Đây là thái độ Chúa Giêsu chấp nhận niềm tin của ông Giairô. Đám đông dân chúng đi theo là muốn được chứng kiến phép lạ Chúa sắp làm cho con ông Giairô.
 
6) "Vậy có người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã 12 năm":
Theo luật Môisen (Lv 15, 25) bệnh xuất huyết là thứ bệnh dơ nhớp, bệnh nhân không được công khai giao thiệp với dân chúng.
 
Ở đây nói lên tình trạng cô đơn, khốn khổ của bệnh nhân.
7) "Bà đã chịu cực khổ tìm thầy chạy thuốc..."
Đây là cách diễn tả nói lên nỗi khốn khổ của bà và sự bất lực của con người trước cơn bệnh cay nghiệt này.
8) "Khi bà nghe nói về Chúa Giêsu..."
"Nghe nói về Chúa Giêsu": Nghe cũng là cách dẫn đến đức tin. Mới chỉ nghe nói mà bà đã tin Chúa Giêsu là Người có thể cứu chữa bà.
 
"Chạm đến áo Người": Đây là thái độ liều lĩnh của bà đã xé rào luật lệ ngăn cấm, là thái độ chứng tỏ đức tin vững vàng của bà, vì bà tự nhủ.
 
"Miễn sao tôi chạm vào áo Người thì tôi sẽ lành": Cử chỉ chạm tới áo Chúa Giêsu cũng như cử chỉ Chúa Giêsu đặt tay trên bệnh nhân đã nói lên rằng sự động chạm thể lý rất cần thiết để sức mạnh thiêng liêng tác dụng trên con bệnh. Ở đây ám chỉ Bí tích, cử chỉ bên ngoài biểu lộ ơn thiêng liêng bên trong.
 
9) "Lập tức bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh":
Đức tin đã dẫn bà đến với Chúa Giêsu và bà đã được khỏi bệnh. "Ai đến với Chúa Kitô thì được cứu rỗi".
 
10) "Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh phát xuất từ mình":
Con người Chúa Giêsu có một quyền lực ẩn dấu mà kẻ vô tín không thể nhận biết, chỉ được mạc khải cho ai có con mắt đức tin.
 
11) "Ai đã chạm đến áo Ta?":
Đặt câu hỏi này Chúa Giêsu không có ý hỏi cho mình vì Người biết rõ mọi sự, nhưng hỏi để hướng dẫn, để giáo huấn người khác.
Ở đây cho người đàn bà biết rằng việc bà được khỏi bệnh không phải do việc bà sờ vào áo Người vì đây chỉ là dấu bên ngoài, nhưng là do sức mạnh phát xuất từ Người, nghĩa là hoàn toàn bởi Chúa, và do ý Chúa muốn.
 
Cho đám dân chúng đang chen lấn chung quang, biết có phép lạ đó. Vì phép lạ này xẩy ra trong âm thầm không ai biết đến trừ chính người bệnh và Chúa Giêsu. Chúa cho họ đang theo Chúa để chứng kiến việc xẩy ra cho con gái ông Giairô.
 
Cho các môn đệ đang theo Người được biết là có phép lạ, để tin nhận vào quyền năng của Người.
 
12) "Bà liền đến sụp lạy Người và thú nhận với Người":
Đức tin chất phác khiến bà tìm cách sờ đến áo Chúa, bây giờ được tuyên xưng một cách đích thực, qua thái độ sụp lạy của bà.
 
13) "Hỡi con, đức con đã chữa con":
Lời này nói lên ý nghĩa của phép lạ đây không phải chỉ là sự lành bệnh thể lý do việc đụng chạm bên ngoài đến con người Chúa Giêsu, nhưng còn là ơn cứu rỗi, là sự sống vĩnh cửu, ban cho những ai lấy đức tin đến cùng Người.
 
14) "Con gái ông chết rồi còn phiền Thầy làm chi nữa":
Qua lời báo tin này, ta thấy thái độ không tin của người nhà ông Giairô và cũng là thử thách cho đức tin của ông Giairô.
 
 
15) "Ông đừng sợ, hãy cứ tin":
Sự im lặng không phản ứng của người cha trước lời về báo tin của người nhà và cái chết của đứa con gái đã cho thấy ông vẫn kiên trì trong đức tin. Chính vì thế Chúa Giêsu đã khích lệ ông "Hãy cứ tin". Qua lời khích lệ này cho thấy Chúa Giêsu muốn cho ông Giairô đừng để lòng tin mình bị chao đảo, vì mọi sự đều có thể cho kẻ tin (Lc 9,23) như Chúa Giêsu sẽ nói với cha đứa trẻ bị kinh phong sau này.
 
16) "Cô bé không chết đâu, nó đang ngủ đó":
Lời báo tin của người nhà cũng như thái độ cười nhạo của những người chung quanh không tin vào quyền năng của Chúa Giêsu cho thấy cô bé đã chết thật. Nhưng ở đây Chúa Giêsu lại bảo cô bé đang ngủ. Người nói thế là vì Người muốn tỏ ra rằng Người làm cho kẻ chết sống lại cũng dễ dàng như người ngủ thức dậy vậy, đồng thời để người khó tin được dễ hiểu.
 
17) "Nhưng Người đuổi họ ra ngoài hết":
Chúa đuổi dân chúng đi vì họ chế nhạo Người khi Người nói cô bé đang ngủ. Những người không tin thì không đáng được nhìn xem phép lạ Chúa làm.
 
Chỉ đem theo cha mẹ đứa bé và những môn đệ đã theo Người vào chỗ đứa bé nằm. Được chứng kiến phép lạ chỉ có 5 người là cha mẹ cô bé và 3 môn đệ là Phêrô, Gioan và Giacôbê, cũng là 3 môn đệ sẽ chứng kiến việc Chúa Giêsu biến hình (Lc 9, 2) và việc Chúa đổ mồ hôi máu trong vườn Cây Dầu (Mc 14, 33). Đây là những người có thiện chí, có niềm tin nên được chứng kiến. "Đã có thì lại cho thêm".
18) "Người cầm tay đứa bé và nói: hỡi em bé Ta truyền cho em hãy chỗi dậy":
+ "Người cầm tay em bé": Cử chỉ này không những nói lên sự đụng chạm thể lý, nhưng còn ám chỉ sự can thiệp hùng mạnh của bàn tay Thiên Chúa trong việc cứu rỗi dân Người.
+ "Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy": Truyền lệnh cho ai là có quyền trên người đó. Ở đây tỏ ra Chúa có quyền trên sự chết và sự sống. Người làm chủ kẻ chết và người sống
 
19) "Họ sửng sốt kinh ngạc":
Đây là thái độ kinh ngạc linh thánh của những người được chứng kiến phép lạ tỏ uy quyền Chúa (Mc 1, 27; 2,12; 4,41).
 
20) "Nhưng Người cấm ngặt họ đừng cho ai biết":
Chúa muốn ngăn chân sự bồng bột của dân chúng trong quan niệm về Đấng Cứu Thế của họ. Đồng thời Người muốn tỏ ra chỉ có sự sống lại sau này của Người mới có thể soi chiếu hoàn toàn phép lạ này. Chính các môn đệ được chứng kiến phép lạ này sẽ là người làm chứng cho việc Chúa sống lại sau này.
 
21) "Và bảo họ cho em bé ăn":
Đây cử chỉ chứng thực em bé đã sống lại và khoẻ mạnh thực sự, đúng như sự khấn xin của người cha, và đây cũng là hiệu quả của niềm tin vào Chúa Kitô.
 
 
 
 
III. ÁP DỤNG:
1) Áp dụng theo Tin Mừng:
+ Giáo Hội muốn dùng bài Tin Mừng này để củng cố niềm tin của chúng ta vào quyền năng của Thiên Chúa và biết tín thác vào Người trong mọi sự.
+ Qua gương tỏ bày niềm tin của ông Giairô và của người đàn bà bị bệnh loạn huyết, Giáo Hội muốn chúng ta thực sự tỏ bày niềm tin của mình vào quyền năng và tình thương của Chúa mỗi khi chúng ta đến cầu xin với Người.
+ Lời Chúa hôm nay dậy ta: Mọi ơn lành ta được là do quyền năng Chúa ban và đòi hỏi ở ta lòng tin kính biết ơn, đồng thời cũng bảo ta phải lấy đức tin mà đọc Lời Chúa và chịu các Bí tích là những trung gian làm cho ta được tiếp nhận, tiếp xúc với Chúa là nguồn mạch mọi ơn lành ơn.
 
2) Áp dụng thực hành:
* Nhìn vào Chúa Giêsu:
a) Chúa Giêsu ra đi với ông ấy: Chúa Giêsu sẵn sàng đáp ứng lời van xin của ông Giairô. chúng ta hãy quảng đại và sẵn sàng đáp ứng bằng sự phục vụ và giúp đỡ khi tha nhân cần đến mình.
b) Ai đã chạm đến áo Ta?: Chúa hỏi để gây sự chú ý và nhờ đó Người giáo huấn. Chúng ta cũng cần phải biết dùng mọi biến cố, mọi hình thức cụ thể trước mắt để giáo dục, hướng dẫn và thăng tiến tha nhân.
c) Họ cười chê Chúa: Kẻ có trách nhiệm thì phải kiên nhẫn, chịu đựng lời ra tiếng vào của thiên hạ, để chu toàn công việc của mình và nêu gương can đảm cho người khác.
 
* Nhìn vào ông Giairô:
a) Đức tin có nhiều cấp độ:
- Đức tin sơ khai: Đến với Chúa vì thấy mình bất lực.
- Đức tin trọn vẹn: Tin vào Đấng phục sinh được kẻ chết, tin vào Chúa làm cho con mình sống.
Đức tin của chúng ta cũng phải tiến lên, lớn mạnh:
- Tin vào Chúa vì thấy mình bất lực.
- Tin vào Chúa vì thấy quyền năng của Người được bày tỏ qua các kỳ công, qua Thánh Kinh.
- Tin vào Chúa đến độ khao khát muốn tìm gặp Chúa, đối thoại với Chúa, gắn bó với Chúa.
- Tin vào sự Phục sinh: Dù có trải qua thử thách ta vẫn tin Chúa có quyền năng đối với mọi sự cho ta và cho mọi người.
b) Sự thinh lặng của ông trước lời báo tin con ông chết: chúng ta cũng phải bình tĩnh và duy trì niềm tin vào Chúa trước mọi thử thách, mọi cám dỗ, mọi đe doạ.
 
* Nhìn vào người đàn bà bị bệnh xuất huyết:
Nhờ tin mà bà đã chế ngự được sự sợ hãi, sợ gây ô uế cho người ta, sợ đám đông phát giác.
Giữa đám đông, bà đã được Chúa lưu ý cách riêng, vì bà biết tin vào Chúa. Dù sống hoàn cảnh nào Chúa cũng lưu ý đến ta, miễn sao ta tin vào Người.
 
* Nhìn chung cả hai trường hợp:
Ông Giairô và người đàn bà bị bệnh xuất huyết:
+ Hành vi đức tin luôn là một quyết định liều lĩnh (un rissque)
+ Duy trì đời sống đức tin là một chuỗi liên tục những dấn bước liều lĩnh được vượt thắng.
+ Công nghiệp của người tín hữu bắt nguồn từ những dấn bước kiểu Abraham ấy.
 
* Nhìn vào ba môn đệ, nhìn vào đám dân chúng:
"Ai tin ở Người thì được sự sống đời đời" (Ga 3,15) lời hứa đầy phấn khởi.
Đức tin ngày hôm nay của bạn có hiệu lực chung quyết về hạnh phúc vĩnh cửu. Hạnh phúc đó đã có nơi bạn, đang biến đổi bạn và gia tăng mức độ đức tin của bạn.
Thời đại nào cũng vậy, nhiều người có thiện cảm với đạo công giáo nhưng không tin vì đủ loại lý do. Đó là tại chúng ta chưa giới thiệu đủ cho họ về Đức Kitô.
"Nhờ Người mà thế gian được cứu". “Nhờ Người mà được sống đời đời”.
Đời bạn phải như chuyến đò đưa khách sang sông. Chuyến đò tiếp đón mọi thành phần đến với mình, đưa tha nhân sang bến bờ để gặp Thượng Đế.
Khi khách tới nơi, chiếc đò không đòi cám ơn. Và hết ngày này qua ngày khác, nó kiên trì với công việc đến khi không làm được nữa.

13. Sống lại
Tôi trông đợi kẻ chết sống lại.
Đó là lời tuyên xưng cuối cùng của bản kinh Tin Kính, đó cũng là điều chúng ta cùng nhau chia sẻ giờ đây.
 
Qua hình ảnh người đàn bà mắc bệnh loạn huyết được chữa lành và hình ảnh đứa con gái của ông Giairô được sống lại, Giáo hội như muốn nói với chúng ta rằng:
- Người đàn bà chỉ cần đụng tới gấu áo của Ngài là đã được Ngài chữa lành, thì vào ngày sau hết mọi bệnh tật, mọi đau khổ của chúng ta cũng sẽ biến mất. Hơn thế nữa Chúa chỉ cần phán một lời, đứa con gái đã chết liền sống lại. Cũng vậy, trong ngày sau cùng, mọi kẻ chết trong mồ sẽ được chỗi dậy và mang lấy một bộ mặt mới.
 
Nếu một ngày nào đó ra viếng nghĩa địa, chúng ta có thể nghĩ rằng:
- Phải chăng cái chết chỉ là một giấc ngủ dài. Tới một lúc nào đó họ sẽ chỗi dậy.
 
Thế nhưng chúng ta sẽ sống lại như thế nào? Thánh Phaolô, vị tông đồ dân ngoại, đã hé mở cho chúng ta thấy điều ấy. Thánh nhân viết như sau:
- Tất cả chúng ta, những Kitô hữu, chúng ta không thuộc về thế gian, nhưng chúng ta là những người công dân nước trời, và nước trời mới đích thực là quê hương của chúng ta.
 
Mặc dầu chân chúng ta đạp đất, nhưng đầu chúng ta phải đội trời. Hiện thời chúng ta đang mang lấy một thân xác đau thương, làm mục tiêu cho bệnh tật, đau khổ, tội lỗi và chết chóc. Nhưng tất cả những sự ấy chẳng kéo dài được bao lâu. Chúng ta đang trông chờ ngày Chúa trở lại để biến đổi thân xác tầm thường của chúng ta trở nên một thân xác quang vinh, giống như thân xác Phục sinh của Chúa, không còn đau khổ, không còn đổi thay, không còn chết chóc, nhưng sẽ trở nên thánh thiện vẹn toàn. Để được như vậy, thì ngay từ bây giờ, chúng ta phải ra sức hành động.
Người ta thường nói:
- Sống sao thì chết vậy.
 
Niềm vinh quang mai hậu lệ thuộc vào cuộc sống hiện tại của chúng ta. Nghĩa là cái tiến trình phục sinh, cái tiến trình vinh quang hóa thân xác phàm trần của chúng ta phải được bắt đầu ngay từ bây giờ. Như một con ngài phải dần dần cắn chiếc kén thì mới có thể hóa kiếp thành một con bướm xinh đẹp.
 
Nếu như đời sau, chúng ta không còn đau khổ, thì ngay từ giờ, chúng ta phải biết làm chủ những đòi hỏi của giác quan và biết thánh hóa những khổ đau gặp phải.
 
Nếu như đời sau, chúng ta không còn lệ thuộc vào vật chất, thì ngay từ giờ chúng ta phải biết siêu thoát với tiền bạc, gắn bó nhiệt thành với điều thiện.
 
Nếu như đời sau, chúng ta tỏa sẽ chiếu sáng bằng một vẻ đẹp tươi trẻ và thánh thiện, thì ngay từ giờ chúng ta phải biết trang điểm cho tâm hồn bằng những nhân đức.
 
Nói tóm lại, ngay từ giờ chúng ta phải biết uốn nắn sửa đổi lại những sai lỗi khuyết điểm và tẩy trừ tội lỗi ra khỏi cuộc sống, đồng thời chất đầy trên đôi tay chúng ta những công nghiệp là những hành động bác ái yêu thương.
 
Một trong những phương tiện giúp chúng ta có đủ nghị lực thực hiện những điều ấy, đó là Bí tích Thánh Thể, bởi vì khi rước lễ chúng ta không phải chỉ đụng tới gấu áo Chúa mà còn được tiếp xúc với chính thân xác vinh quang của Ngài.
 
Hơn nữa, chính Chúa cũng đã phán hứa với chúng ta:
- Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết.
 
Có sống như thế và có chuẩn bị như thế, thì giờ chết mới là giờ chúng ta được sinh ra cho hạnh phúc vĩnh cửu, mới là giờ chúng ta được Thiên Chúa đón nhận vào quê hương nước trời trong vòng tay yêu thương của Ngài.
 

14. Đức tin
Trong một trình thuật dài, đôi khi thánh Maccô xen vào một đoạn ngắn, theo lối hành văn riêng của ngài, để nhấn mạnh đến một điểm chung, Chúa Giêsu là Đấng chữa lành.
 
Chúa Giêsu hỏi: “Ai đã sờ vào áo tôi”. Nhưng người phụ nữ khốn khổ vẫn im lặng, bà đang bối rối. Căn bệnh của bà làm bà trở nên nhơ uế, không được phép đụng đến bất cứ ai. Phải chăng Chúa Giêsu muốn tố giác bà đã chạm đến áo của Ngài? Dù sợ hãi, bà tin quyền năng chữa lành của Chúa Giêsu đã ban cho bà một sức sống mới. Bà cảm thấy trong thân xác mình quyền năng chữa lành của Chúa, và sự nhơ uế của bà theo luật trong sách Lêvi 15: 25 không còn nữa. Đức tin của bà vào Chúa Giêsu đã làm cho luật trở nên lỗi thời. Chúa Giêsu khẳng định điều này khi Người nói: “Này con, đức tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”.
 
Trung thành với lối hành văn của mình, thánh Maccô trở lại lời cầu xin của ông Giairô, một vị trưởng hội đường, để nhấn mạnh đến “đức tin vào quyền năng chữa lành của Chúa”. Ông trưởng hội đường cầu xin Chúa cứu giúp. Ông muốn con gái được Chúa chữa lành.
 
Nhưng trước hết Chúa Giêsu đã chữa lành cho ông trưởng hội đường. Người bảo ông: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Rồi Người đến với đứa bé, cầm lấy tay nó và nói: “Này bé, Thầy truyền cho con trỗi dậy đi”. Lập tức, con bé đứng dậy và đi lại được. Nó đã được sống lại nhờ bàn tay của Chúa Giêsu, Đấng cứu chữa.
 
Rõ ràng Chúa Giêsu cho thấy “nỗi sợ” là một chướng ngại ngăn cản con người đến với Chúa. Nhưng chúng ta vượt thắng nỗi sợ nhờ lòng tin vào Chúa Giêsu, Đấng chữa lành. Một khi nỗi sợ được thay thế bằng lòng tin vào Chúa Giêsu, chúng ta sẽ cảm nghiệm được sự chữa lành của Chúa, và sẽ được sống trong bình an.
 
Lạy Chúa, xin Chúa hãy nói với con một lần nữa: “Lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy đi bình an”.
 
 
 
 
15. Mạnh mẽ
Bài Tin Mừng là hai phép lạ Chúa Giêsu đã làm gần nhau: phép lạ cho một phụ nữ được khỏi bệnh băng huyết, và phép lạ cho con gái ông trưởng hội đường Gia-ia được sống lại. Chúng ta thấy hai phép lạ như có một số điểm tương đồng: người phụ nữ mắc bệnh đã 12 năm, bằng với số tuổi của em bé kia, vì Tin Mừng cho biết khi em chết em được 12 tuổi. Cả hai phép lạ xảy ra đều do hành động thể lý là chạm tay vào tua áo Chúa và Chúa cầm tay em bé đã chết. Chủ đề của hai phép lạ này là ơn Chúa ban qua lòng tin.
 
Trước hết, chúng ta thấy Chúa Giêsu nhận lời kêu xin của ông Gia-ia đi chữa bệnh cho con gái ông. Dân chúng đông đảo đi theo có vẻ háo hức và chen lấn, các môn đệ cùng đi bên Chúa. Giữa lúc ấy các môn đệ nhận ra một người đến quì trước Thầy mình, nhưng lúc ấy phép lạ đã xảy ra rồi, đó là một phụ nữ đầy lòng tin đã được Chúa cho khỏi bệnh. Thực vậy, giữa đám đông dân chúng dày đặc, phụ nữ này nhận ra một vị Thiên Chúa ẩn dật nhưng đầy quyền năng, bà không dám công khai trực tiếp xin Chúa trước mặt mọi người, có thể là vì xấu hổ hoặc ngại ngùng. Ngoài ra, bà cũng biết luật Lêvi cấm ngặt về loại bệnh này. Đối với người Do Thái, băng huyết là một bệnh được liệt vào số các chứng bệnh nan y và ô nhục, làm cho người bệnh ra dơ bẩn trước mặt Chúa và cộng đồng. Hơn nữa, chứng bệnh này còn làm cho người khác lây sự dơ bẩn của bệnh nhân, tức là họ đụng chạm đến ai hay ai đụng chạm đến họ đều trở thành dơ bẩn và phải dâng lễ tẩy uế mới được sạch.
 
Vì thế, bà thẹn thùng, e lệ không dám đến trước mặt Chúa xin Chúa chữa, nhưng bà có một lòng tin chắc chắn vào sức mạnh uy quyền toàn năng của Chúa. Bà tự nhủ: “Không cần phải ra mặt, chỉ cần đụng chạm vào tua áo khoác ngoài của Ngài thôi thì chắc chắn sẽ được khỏi”. Chúng ta thấy bà thật khiêm tốn, có thể so sánh với người đàn bà xứ Canaan, hoặc như người trộm lành. Vì thế, bất chấp tất cả những luật lệ phiền phức và nghiêm ngặt, bà lén đến sau lưng Chúa, để thực hiện ý định rút ơn Chúa, và kết quả bà đã được toại nguyện. Bà đã thể hiện đức tin một cách sâu sắc, như chính Chúa đã xác nhận và thưởng công cho lòng tin của bà: “Lòng tin của con đã cứu chữa con”.
 
Phép lạ thứ hai Chúa Giêsu đã làm là nơi nhà ông trưởng hội đường Gia-ia. Ông có đứa con gái mắc bệnh nặng thập tử nhất sinh, ông đến xin Chúa cứu chữa con ông. Lòng tin mạnh mẽ của ông được bộc lộ ra qua tất cả con người ông, nghĩa là qua các cử chỉ cũng như lời yêu cầu của ông. Thực vậy, khi đến trước mặt Chúa, ông quì sụp dưới chân Chúa, đây là một cử chỉ dành riêng cho Thiên Chúa Giavê trong Cựu ước, cử chỉ này chứng tỏ ông tin và nhận ra Chúa là Đấng Thiên Sai. Cử chỉ thứ hai là ông xin Chúa đến đặt tay trên con ông, cử chỉ này về sau được Giáo hội dùng vào bí tích Thêm sức. Rồi trong lời kêu xin, chúng ta cũng thấy bộc lộ lòng tin vững chắc của ông. Ông tin chắc chắn chứ không hồ nghi như người cha có đứa con bị quỷ ám từ lúc còn nhỏ. Người cha này thưa với Chúa một cách ngập ngừng: “Nếu Thầy có thể làm gì được thì xin Thầy giúp đỡ chúng tôi”. Nghe thế Chúa kêu lên: “Sao lại nói nếu có thể, tất cả mọi sự đều có thể đối với người tin tưởng”. Còn ông Gia-ia thưa Chúa: “Thưa Thầy, con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay trên cháu, để nó được cứu thoát và được sống”. Chúng ta thấy ông không hồ nghi gì, ông tin chắc chắn sự việc sẽ xảy ra như thế, nếu Chúa muốn, vì Ngài là Chúa sự sống và sự sống lại. Ngài động đến đâu thì sức mạnh và sự sống lan tràn tới đó. Nhận thấy lòng tin mạnh mẽ của ông, Chúa đi tới nhà ông và cho con gái ông sống lại.
 
Niềm tin, lòng tin hay đức tin thì không thể nhìn thấy, bởi vì nó không phải là vật chất, nó là một cái gì có thật, nhưng thuộc về tinh thần. Người ta không thể thấy được nó nhưng người ta có thể biết nó có nhờ khi nó biểu lộ qua hành động bên ngoài. Cũng như không ai nhìn thấy lòng tin của ông Gia-ia và của người đàn bà băng huyết, nhưng qua thái độ, lời nói và cử chỉ của họ đã biểu lộ lòng tin của họ. Cũng vậy, chúng ta có đức tin hay không, chẳng ai biết, nhưng khi thấy chúng ta đi lễ, thấy chúng ta đi vào nhà thờ nghiêm trang, người ta có thể biết được chúng ta là người có đức tin. Như thế, một điều chúng ta có thể ghi nhận là: đức tin chỉ ở trong lòng thôi thì chưa đủ mà còn phải biểu lộ ra bên ngoài nữa.
 
Vì thế, chúng ta cần phải có một đức tin mạnh mẽ như ông Gia-ia, hiên ngang mà không hổ thẹn, vững chắc chứ không hồ nghi. Đàng khác, chúng ta cũng cần có một đức tin kín đáo nhưng dẻo dai như lòng tin của người phụ nữ trên đây, bà không cần kêu xin nài nẵng như ông Gia-ia, bà chỉ có một thái độ khẩn khoản khiêm nhường và đầy tin tưởng trong tâm hồn, thế là đủ. Chúa cũng đang chờ đợi ở chúng ta những tâm tình như thế.
 
 
 
16. Đau khổ
Chứng bệnh loạn huyết mười hai năm của người đàn bà, cái chết của đứa con gái yêu dấu, tất cả đều đem lại những khổ đau. Vậy thì khổ đau có ý nghĩa gì.
 
Giáo lý nhà Phật đã gọi đời là bể khổ mà mỗi người chúng ta là như một cánh bèo trôi dạt trên đó. Đồng thời bốn nguyên nhân chính sinh ra khổ đau, đó là: sinh, bệnh,lão, tử.
 
Trong kinh lạy Nữ Vương, chúng ta cũng thường đọc:
- Chúng con ở nơi khóc lóc than thở.
Vì thế nhiều người đã có lý khi nói:
- Đời là một thung lũng nước mắt. Bông hồng nào mà chẳng có gai, cuộc đời nào mà chẳng có những đắng cai của nó…
 
Hơn thế nữa, nhìn vào cách đối sử của Thiên Chúa, chúng ta thấy có một sự khác biệt căn bản.
 
Đúng thế, khi yêu thương ai chúng ta thường trao tặng cho họ những cánh hồng. Thiên Chúa thì trái lại, khi yêu thương ai, Ngài thường gửi đến cho họ những gai nhọn.
Điều này đã được chứng thực nơi con người Đức Kitô. Thực vậy, chúng ta có thể tự hỏi: Ai là người được Chúa Cha yêu dấu hơn cả nếu không phải là Đức Kitô. Đồng thời ai là người đã phải chịu nhiều khổ đau hơn cả, nếu không phải là Đức Kitô.
 
Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi tới một kết luận, đó là những người muốn bước theo Chúa, thì cũng phải vác thập giá và chấp nhận khổ đau.
 
Người tín hữu chấp nhận khổ đau sẽ là một hình ảnh trung thực nhất của Đức Kitô. Trái lại, người tín hữu chối từ đau khổ, thì chỉ là một bức vẽ tồi, làm sai lạc hình ảnh của Ngài mà thôi.
Chúng ta phải xác tín rằng:
- Chính khi đau khổ lại là lúc chúng ta được Chúa yêu thương, lại là lúc chúng ta gần gũi Chúa hơn cả.
 
Trái lại, khi gặp được may mắn và hạnh phúc, lại là lúc chúng ta phải đề cao cảnh giác, bởi vì rất có thể chúng ta đang xa lìa tình Chúa và đang chôn vùi tình người bằng những hành động bất công và gian tham của mình.
 
Hơn thế nữa, những giây phút hạnh phúc còn là những giây phút đáng sợ, còn là những giây phút ru ngủ chúng ta.
 
Trong đêm tối của đau khổ, chúng ta dễ dàng nhìn ra những ánh sao. Còn trong ngày nắng chói chang, những ánh sao ấy bị lấn át và biến mất.
 
Thánh Gioan đã định nghĩa:
- Thiên Chúa là tình yêu.
 
Và tình yêu dưới một góc cạnh nào đó cũng có nghĩa là đau khổ. Vì thế, đạo của Thiên Chúa phải là đạo của tình yêu và cũng phải là đạo của đau khổ. Người tín hữu sẽ không thể sống đạo nếu không chấp nhận thập giá.
 
Vậy thì những đau khổ sẽ đem lại lợi ích gì?
Tôi xin thưa lợi ích thứ nhất đó là cộng tác với Đức Kitô trong công cuộc cứu độ.
Thực vậy, cuộc tử nạn của Chúa Giêsu không phải là đã chấm dứt, trái lại nó còn đang được tiếp nối nơi những chi thể của Ngài là các tín hữu như lời thánh Phaolô đã viết:
- Tôi hoàn tất những gì còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Đức Kitô nơi thân xác tôi.
 
Những khổ đau chúng ta chấp nhận sẽ trở nên là một góp phần nhỏ bé vào thập giá Đức Kitô, để đền bù tội lỗi của bản thân cũng như của những người chung quanh.
 
Lợi ích thứ hai đó là thanh luyện tâm hồn chúng ta.
Thực vậy, có một câu danh ngôn đã bảo:
- Con người là một anh học trò, còn đau khổ sẽ là một vị thầy tuyệt vời nhất.
 
Thoạt nhìn qua, đau khổ là một sự dữ khiến cho chúng ta tuyệt vọng và muốn chống lại Thiên Chúa. Thế nhưng, dưới con mắt đức tin, đau khổ sẽ thanh luyện tâm hồn, củng cố các nhân đức, như tục ngữ đã bảo:
- Lửa thử vàng, gian nan thử đức.
Chính nhờ những đau khổ, cuộc đời chúng ta mới sẽ đem lại những hoa trái:
- Hạt lúa mì gieo xuống đất, phải mục nát, thì mới sinh nhiều bông hạt.
 
Đau khổ là như một lưỡi kéo cắt tỉa cuộc đời, để cuộc đời được sai trái. Đau khổ là như một nhát búa đập xuống trên con người, để con người chúng ta trở nên một tác phẩm nghệ thuật trước mặt Thiên Chúa.
 
Hơn thế nữa, nếu chúng ta biết chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa, đau khổ sẽ trở thành những sợi chỉ vàng, kết nên cuộc đời chúng ta.
 
Trong những giờ phút đen tối, chúng ta hãy ngước nhìn thập giá Đức Kitô, vì chính tại thánh giá Đức Kitô đã đau khổ trước chúng ta và hơn chúng ta bội phần.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
17. Sống đức tin
Khi chúng ta muốn xin ai hay thỉnh cầu ai điều gì, thì hoặc là chúng ta ưa thích điều đó, hoặc là chúng ta cảm thấy cần thiết điều đó, và chúng ta tin tưởng người kia sẽ đáp ứng được nhu cầu của chúng ta. Người đàn bà mắc bệnh băng huyết và người cha có đứa con gái bị bệnh nặng gần chết đã làm như thế. Cả hai đã tin Chúa Giêsu nên đến xin Chúa cứu chữa. Chính vì có lòng tin mạnh mẽ mà cả hai đã được hưởng phép lạ của Chúa Giêsu. Nhưng làm sao chúng ta thấy được hay biết được lòng tin của họ? Vì nó đã được biểu lộ ra qua thái độ, cử chỉ, lời nói và hành động của họ.
 
Chúng ta thấy người đàn bà này không dám công khai trực tiếp xin Chúa chữa bệnh cho bà trước mặt mọi người. Bà tự nhủ: “Tôi mà sờ được vào áo choàng của Người thôi, là sẽ được cứu chữa”. Thế là bất chấp tất cả những luật lệ cấm đoán phiền phức và khắt khe, bà lén lút chen tới sau lưng Chúa, để thực hiện ý định rút ơn Chúa, và kết quả bà đã được toại nguyện. Đó, chúng ta thấy được, biết được đức tin của bà qua việc làm đầy tin tưởng của bà. Chính Chúa Giêsu đã xác nhận và ban thưởng cho lòng tin ấy: “Lòng tin của con đã cứu chữa con”.
 
Trường hợp của ông trưởng hội đường Giaia cũng thế. Lòng tin của ông được biểu lộ qua tất cả con người của ông, nghĩa là qua cử chỉ, thái độ và lời nói của ông: Khi đến trước mặt Chúa Giêsu, ông đã quì sụp xuống dưới chân Chúa và khẩn khoản van xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu chữa và được sống”. Phải tin Chúa Giêsu là ai, phải tin Chúa có quyền phép thế nào ông ta mới có cử chỉ, thái độ và lời kêu xin như thế. Nhận thấy lòng tin mạnh mẽ của ông, Chúa Giêsu đã nhận lời đến nhà ông và làm phép lạ cho con gái ông sống lại.
 
Chúng ta hôm nay đã có đức tin, chúng ta đã tin Chúa Giêsu. Chúng ta phải làm gì? Chúng ta phải sống niềm tin đó. Sống niềm tin có nghĩa là chúng ta phải thể hiện niềm tin ấy trong đời sống hằng ngày. Đó là cách thẩm định đức tin của chúng ta. Niềm tin ấy, như Mẹ Têrêxa Calcutta đã nói: “Phải được biểu lộ và nuôi dưỡng, dù chỉ bằng một nụ cười hay một ánh mắt cảm thông”.
 
Một lần kia, trong cuộc phỏng vấn trên truyền hình, Mẹ Têrêxa phải đối diện với một phóng viên không mấy thiện cảm đối với Giáo Hội. Mẹ Têrêxa nói với ông: “Tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin”. Người phóng viên hỏi: “Tôi phải làm gì để có đức tin?”. Mẹ Têrêxa đáp: “Ông hãy cầu nguyện”. Ông chống chế: “Tôi không biết và không thể cầu nguyện”. Mẹ Têrêxa dịu dàng nói: “Tôi sẽ cầu nguyện cho ông. Nhưng về phần ông, ông hãy cố gắng mỉm cười với những người chung quanh ông. Một nụ cười có thể đánh động được tâm hồn người khác. Một nụ cười có thể cho chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa hiện diện trong cuộc sống chúng ta”.
 
Đúng thế, những hành động cụ thể thường hùng hồn hơn, có khả năng thuyết phục hơn những lời nói suông. Những thực hiện trước mắt có giá trị hơn những dự án viễn vông. Đó là cách thẩm định thông thường trong cuộc sống của chúng ta. Những người chung quanh có lẽ cũng đánh giá niềm tin của chúng ta khi nhìn vào cách sống đạo của chúng ta, nghĩa là niềm tin của chúng ta chỉ đáng tin cậy khi được thể hiện bằng những việc làm cụ thể.
Vì thế, chúng ta tin vào tình yêu Chúa Kitô, tin vào bản thân Ngài. Niềm tin ấy không chỉ là một hạt giống gieo trong lòng chúng ta rồi nằm yên đấy. Một niềm tin như thế có lẽ chẳng ích lợi gì cho chính mình hay cho bất cứ ai. Đức tin của chúng ta phải trổ sinh hoa trái bằng việc làm, để mọi người có thể nhận ra khuôn mặt của Đấng mà chúng ta suy phục, tôn thờ.
 
 
 
18. Sờ vào áo
Người đàn bà đến với Đức Giêsu đã tuyệt vọng, vì mười hai năm nay, bà chịu đau khổ vì một chứng bệnh và những lần chữa trị đau đớn và vô hiệu trong đôi tay của nhiều bác sĩ. Bà cũng đã trả tiền chữa trị cho đến những đồng bạc sau cùng. Bà đã tận dụng hết mọi khả năng chữa trị của con người.
 
Rồi bà nghe nói về Đức Giêsu. Bà tin rằng chỉ cần sờ vào áo của Người, bà sẽ khỏi bệnh (thời đó, người ta tin rằng chỉ cần sờ vào áo của một người thánh thiện sẽ được chữa lành). Bà tỏ quyết tâm khi chen qua đám đông. Tuy nhiên, bà không tìm cách gặp gỡ Đức Giêsu. Điều bà tìm là một sự “sờ lén”, “sờ vội”.
 
Thường thì, chúng ta cũng chọn cách “sờ lén” cho dù chúng ta biết rằng điều đó không làm chúng ta thỏa mãn và chúng ta bị đánh lừa. Chúng ta đi lễ vội vàng và xưng tội vội vàng (kể tội, đọc kinh ăn năn tội, nhận ơn tha thứ và chuồn!) Cũng thế khi đi khám bệnh – nhận toa thuốc và chuồn.
Vả lại, chúng ta không thích bị đối xử một cách hấp tấp và vô danh. Vậy tại sao chúng ta lại chọn cách “sờ vội”? Bởi vì trong chúng ta, phần nào có sự e thẹn muốn tránh một sự gặp gỡ riêng tư. Tại sao lại thế? Bởi vì chúng ta biết rằng điều đó là đòi hỏi hơi nhiều. Chúng ta muốn đạt được điều đó một cách mau lẹ và phiền toái vất vả càng ít càng tốt.
 
Niềm tin của người đàn bà được tưởng thưởng. Bà mau chóng được chữa lành. Tuy nhiên ngay khi bà định lẩn vào đám đông vô danh. Đức Giêsu đã tìm thấy bà. Người không ưa chuộng cách chữa bệnh ấy. Một vài người chữa bệnh giản lược đến mức tối thiểu sự tiếp xúc nhân bản. Nhưng Đức Giêsu thì không. Người luôn luôn đối xử với con người trên một bình diện cá nhân. Mặt khác, Đức Giêsu biết có năng lực từ Người phát ra, chứng tỏ có người sờ vào áo Người để được chữa bệnh và lấy năng lực đó từ Người.
 
Người khẳng định sự gặp gỡ mặt đối mặt với bà. Người không nghĩ đến mình nhưng nghĩ đến người đàn bà. Người biết sau đó bà sẽ lành bệnh; Người biết bà không những cần được chữa lành về thể chất và cả về mặt tâm lý và tinh thần. Sau bấy nhiêu năm bệnh tật bà cảm thấy mình xấu xa và Thiên Chúa cũng xa lánh bà.
 
Vì thế Người đã gặp bà. Trong cuộc gặp gỡ này, chúng ta thấy sự nhạy cảm và nhã nhặn của Đức Giêsu. Một người đàn bà bị băng huyết bị coi là ô uế về mặt nghi thức. Bà không được phép ở trong đám đông và khi sờ vào Đức Giêsu, bà đã làm cho Người cũng trở nên ô uế về mặt nghi thức, những người khác sẽ cho là thế. Đức Giêsu không quở trách bà về thái độ “đáng trách” ấy. Trái lại, Người khen ngợi đức tin của bà. Và đầy lòng yêu thương Người nói với bà: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”.
 
Nếu chỉ sờ vào Người không, chưa đủ. Những người khác cũng sờ vào Người. Bà sờ vào Người với đức tin, đức tin làm cho một người đàn bà nghèo nàn, nhút nhát, bệnh tật, hạ tiện có khả năng nhận ra quyền năng của Đức Giêsu, và làm cho quyền năng ấy tỏ hiện với một cái sờ.
 
Đức Giêsu muốn bà hiểu rằng Người hạnh phúc cho bà. Khi nói với bà “Lòng tin của con đã cứu chữa con”, Người muốn bà hiểu rằng bà có góp phần vào việc chữa lành cho mình. Người xác nhận sự kiện bà được chữa khỏi. Điều này đem đến cho bà sự an ủi và bảo đảm.
Điều ấy làm cho bà cảm thấy tốt đẹp biết bao. Điều ấy tốt đẹp hơn biết bao so với sự chữa lành, vô danh, hối hả và lén lút. Đức Giêsu làm cho bà cảm thấy như bà là người duy nhất trên thế gian này.
 
Trong việc trị liệu và chữa bệnh, vấn đề luôn luôn là con người toàn diện, chứ không bao giờ chỉ là triệu chứng. Người ta phải đặt ra những câu hỏi thách thức nhân cách toàn diện không phải chỉ có cái chân, hoặc cái tay được điều trị mà là một con người. Đức Giêsu không bao giờ chỉ chữa lành một bệnh, Người chữa lành một người bệnh. Lời Người chữa lành tinh thần: sự đặt tay của Người chữa lành thân xác.
 

19. Chữa lành
Để thực hiện thành công một điều gì, chúng ta phải đặt vào đó một phần của chúng ta hoặc là đời sống hoặc là tâm hồn đến nỗi sau đó, chúng ta cảm thấy kiệt quệ. Điều này đặc biệt đúng đối với việc chữa trị.
 
Chữa trị có thể làm cho người chữa bệnh kiệt sức và đau đớn. Hành động chữa trị tự nó thường là một dịp để đau khổ. Chúng ta không thể cất đi sự đau đớn của một người mà không đi vào nỗi đau ấy một cách nào đó và ở một mức độ nào đó, dù chỉ là nỗ lực để hiểu người bệnh và làm cho người bệnh cởi mở với mình. Một cách nào đó, người chữa bệnh phải chịu đau khổ.
 
Một đôi khi, điều khiến người ta trở thành người chữa bệnh là một kinh nghiệm chính mình đã bị đau và đã được chữa lành. Người chữa bệnh cần ý thức về sự dễ bị tổn thương của mình. Chính họ dễ bị tổn thương và đó là một phần lý do khiến họ chữa bệnh. Đức Giêsu hoàn toàn dễ cảm thương cho người khác. Người nhận đau khổ của người khác cho mình: Người chịu đau khổ với mỗi người.
 
Dù khi ở giữa đám đông, nếu có người nào chạm vào Người và được chữa lành, Người biết ngay. Tại sao lại như thế? Bởi vì mỗi sự chữa lành đều lấy đi của Người một điều gì đó. Trong ngôn ngữ của Tin Mừng: “năng lực từ Người thoát ra. Và Người cảm thấy năng lực ấy thoát ra”. Chính năng lực ấy và đức tin của người bệnh tạo ra sự chữa lành.
 
Thỉnh thoảng Đức Giêsu chữa lành một người và để người ấy lấy đi bớt năng lực của Người. Sự cao cả của Người là Người sẵn sàng trả giá cho việc chữa lành những người khác. Chúng ta theo bước chân của Người khi chúng ta hiến dâng chính mình để giúp đỡ những người khác.
 
Mỗi người chúng ta có thể làm công việc chữa lành nào đó nếu chúng ta cho phép mình trở nên công cụ của Người. Chúng ta có thể không có khả năng chữa trị, nhưng có khả năng chăm sóc. Và chăm sóc cũng thuộc phần việc chữa trị. Chúng ta băng bó vết thương, nhưng chính Thiên Chúa làm vết thương lành.
 
Tuy nhiên, mỗi hành động chăm sóc cũng đòi chúng ta phải trả giá. Năng lực thoát ra khỏi chúng ta. Nhưng chúng ta chớ để mình kiệt sức. Nếu chúng ta luôn tiếp xúc với Chúa năng lực trong chúng ta được phục hồi liên tục.
 
Có những người luôn giữ được niềm tự tin và tính lạc quan. Tính cách này trở thành một thứ thuốc bổ cho người bệnh. Năng lực thoát ra từ họ và đi vào những người khác. Họ sung sướng khi giúp đỡ những người khác, và giúp đỡ những người khác là chữa lành.
 
Ở một mức độ nào đó, chúng ta đều bệnh tật. Nhưng chúng ta có xu hướng che giấu bệnh tật và thương tích của chúng ta. Người phụ nữ đến với Đức Giêsu mang bệnh nặng và trong trường hợp của bà, bệnh tật quá rõ ràng. Nhưng người ta có thể bị bệnh tật mà không xuất hiện ra bên ngoài. Họ mang những thương tật vô hình – cảm giác mình bị bỏ rơi, thất bại, không có phẩm giá, cô đơn, cay đắng, hờn giận… Vì thế, tất cả chúng ta cần được chữa lành.
 
Và tất cả chúng ta có thể là những người chữa trị. Đời sống chúng ta luôn luôn xúc phạm đến đời sống của những người khác. Với một chút thiện cảm, chúng ta có thể chữa lành những tâm hồn mang thương tích. Với một chút chăm sóc, chúng ta có thể làm cho một tâm trí, bối rối được nhẹ nhõm. Với một chút thời gian, chúng ta có thể làm vơi nhẹ nỗi đau của một người cô độc. Thỉnh thoảng mỗi người chúng ta nên dừng lại và tự hỏi: “Điều gì thoát ra từ tôi qua công việc, hành vi, và những mối quan hệ – điều gây tổn thương hay điều giúp chữa lành?”.
 
Chữa lành không chỉ là nhiệm vụ dành cho cá nhân. Nếu chúng ta có thể tạo ra những cộng đoàn ở đó mọi người có thể qui tụ, cùng làm việc và nâng đỡ nhau, lúc đó sự chữa lành trở thành một phần của đời sống hàng ngày.
 

20. Quyền năng
Ông Giaia, ông trưởng hội đường đến gặp Đức Giêsu để xin Người chữa lành cho đứa con gái mười hai tuổi của ông. Mặc dù cô bé còn sống, nhưng giống như người đàn bà bị băng huyết rõ ràng không một quyền lực trần gian nào còn giúp được cô bé. Lời cầu xin của cha cô bé chứng tỏ rằng ông tin Đức Giêsu có một quyền lực siêu nhiên, đó là quyền lực chữa lành.
 
Đức Giêsu lập tức khởi hành đi đến nhà ông Giaia. Nhưng khi Người còn đi trên đường các người nhà ông trưởng hội đường đến báo tin con gái ông đã chết, và họ gợi ý không nên làm phiền Đức Giêsu nữa. Thực ra họ muốn nói rằng ngay cả quyền lực của Đức Giêsu không thể thắng nổi sự chết. Chúng ta thấy cùng một thái độ tuyệt vọng ấy được diễn tả trong sự than khóc của những người đưa đám.
 
Nhưng Đức Giêsu không biết đến những lời của các người nhà đưa tin. Người quở trách và sau cùng đuổi họ ra ngoài. Niềm hy vọng trong sáng của Người tương phản rõ rệt với sự tuyệt vọng của những người ở xung quanh Người. Người thuyết phục ông trưởng hội đường Giaia phải có đức tin để tin rằng cả cái chết của con gái nhỏ của ông không nằm ngoài quyền lực của Người. “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”.
 
Đức Giêsu vào phòng của cô bé cùng với cha mẹ và ba người môn đệ. Rồi Người cầm lấy tay em bé và nói: “Này bé, Thầy truyền cho con hãy đứng dậy”. Lập tức cô bé đứng dậy và đi lại được. Đức Giêsu bảo họ cho cô bé ăn. Có một sự dịu dàng và cảm động trong cảnh tượng ấy. Đức Giêsu bày tỏ tình yêu thương của Người đối với cô gái nhỏ và cha mẹ của cô bé. Chúng ta phải làm gì từ câu chuyện này? Chúng ta phải hỏi các Kitô hữu tiên khởi đã làm gì. Họ cũng chịu đau khổ vì bệnh tật và các thành viên trong cộng đoàn của họ đã qua đời.
 
Đối với Maccô và các độc giả của ông, câu chuyện là một biểu lộ quyền năng của Chúa Phục sinh chiến thắng chính sự chết. Đức Giêsu làm cho cô bé đã chết đứng dậy bởi vì Người là “Sự sống lại và là sự sống”. Tin vào Đức Giêsu có thể biến đổi đời sống và là chiến thắng trên cái chết. Đó là ý nghĩa câu chuyện này đối với các Kitô hữu tiên khởi.
 
Đối với những người tin Đức Giêsu, cái chết chỉ là một giấc ngủ mà Người có thể và sẽ đánh thức họ dậy. Trong trường hợp của hầu hết các Kitô hữu, sự đánh thức này sẽ không xảy ra trong đời này, nhưng trong thế giới sẽ đến. Vì thế các Kitô hữu tiên khởi đã mô tả người chết “đang ngủ” bởi vì họ tin rằng một ngày kia họ sẽ được đánh thức dậy, cũng như người đang ngủ được đánh thức. Các Kitô hữu đầu tiên đã dùng từ koimeterion để chỉ nơi an táng và có nghĩa là “nơi nằm ngủ”. Từ chữ koimeterion về sau xuất hiện chữ “cemetery” trong tiếng Anh. Cả hai câu chuyện Tin Mừng cho thấy khi không còn hy vọng, xét về mặt nhân tính thì quyền năng của Thiên Chúa có thể chiến thắng bệnh tật và cả sự chết, Maccô nói với chúng ta rằng quyền năng ấy hiện diện trong Đức Giêsu.
 

21. Đức tin
Giả sử như chúng ta đã đi hết nửa đoạn đường, sắp bước chân qua cầu để sang bờ bên kia đi tiếp đoạn đường còn lại, thì bỗng chiếc cầu sụp đổ rơi tòm xuống sông. Khi đó chúng ta làm thế nào? Chắc là muốn quay trở về đoạn đường cũ.
 
Người đàn bà mắc bệnh loạn huyết và ông Giairô cũng lâm vào một tình cảnh khó xử như vậy:
 
Loạn huyết là một chứng bệnh dơ dáy. Người Do thái không chỉ thấy nó dơ dáy về mặt thể lý mà còn coi nó là một thứ ô uế luân lý. Cho nên có luật cấm những kẻ mắc bệnh đó không được đụng chạm tới người khác, chạm tới ai thì người ấy kể như bị lây ô uế đó. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết này cũng không dám cất tiếng kêu xin Đức Giêsu vì sợ người ta biết mình bệnh và xua đuổi mình. Bà định im lặng rờ vào mình Đức Giêsu. Nhưng vậy là phạm luật thánh, là có tội: thật là khó xử.
- Còn ông Giairô thì xin Chúa đến chữa trị cho con gái mình đang bệnh nặng. Đức Giêsu đã chấp thuận, nhưng khi hai người đang trên đường về nhà ông thì ông được tin con gái đã chết. Vậy là hết, vô phương cứu chữa nữa!
 
Cả bà loạn huyết và ông Giairô đều như sắp bước qua cầu thì chiếc cầu sụp gãy. Thế nhưng họ không quay trở lại bỏ dở đoạn đường. Họ vẫn cố gắng tiến bước:
- Bà loạn huyết không dám rờ vào mình Đức Giêsu thì rờ vào cái tua áo của Ngài vậy.
- Còn ông Giairô thì trong lúc chới với đó đã nghe Đức Giêsu an ủi “Đừng sợ, cứ tin”. Và kết quả là bà kia dứt bệnh, con gái ông Giairô sống lại. Đức tin của họ đã nối lại nhịp cầu gãy.
 
Trên đây là hai trường hợp giúp chúng ta hiểu bản chất của đức tin và sức mạnh của đức tin.
* Tin vào những chuyện dễ dàng, tin khi cuộc sống bình an xuôi thuận thì chưa hẳn là đức tin, đó chỉ là một chuyện đương nhiên thôi.
* Đức tin, một nhân đức căn bản của đạo, phải là vẫn cứ tin vào những chuyện khó khăn vượt quá sức loài người, vẫn cứ tin khi cuộc đời gặp lúc cheo leo. Đức tin vững vàng như vậy có thể làm nên những phép lạ, bởi vì trước một hoàn cảnh quá khó khăn, trong lúc đời sống quá gian nan, nếu ta vẫn tin thì không phải là ta tin vào sức riêng của ta nữa, mà là tin vào sức Chúa, và Chúa thì có thể là được hết mọi sự.
- Như Abraham đã 90 tuổi mới có được một đứa con trai, nhưng vâng lệnh Chúa ông đưa con lên núi sát tế và lòng đau như cắt mà vẫn tin rằng Chúa sẽ thực hiện lời hứa làm cho ông thành tổ phụ một dân đông đảo. Ông vẫn tin và quả thực Chúa đã làm ông thành tổ phụ những người tin.
- Như Phêrô dám bước đi trên mặt nước biển, và ông đã đi được bao lâu ông còn tin vào Chúa. Nhưng khi ông bắt đầu hoài nghi thì cũng là lúc ông bắt đầu chìm xuống.
Chúng ta là những tín hữu, nghĩa là những kẻ tin Chúa. Bấy lâu nay chúng ta vẫn tin Chúa. Nhưng có lẽ bấy lâu nay tin Chúa là điều dễ dàng đối với ta, tin Chúa ta được bình an, tin Chúa đời ta thoải mái, gia đình ta yên vui, việc làm của ta xuôi chảy.
- Có một người mẹ kia có một đứa con nhỏ rất dễ thương, vừa biết nói chuyện đã học đọc kinh, hát thánh ca. Rồi nó lâm bệnh, người mẹ cầu nguyện hết sức, nhưng nó vẫn chết. Từ đó người mẹ không còn cầu nguyện nữa, hình như chị đã hết tin.
 
Chúng ta cũng đã từng dự những đám táng: khi chiếc quan tài được hạ huyệt, người ta khởi sự lấp đất lại và trong lúc đó cũng khởi sự đọc kinh Tin Kính “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Biết bao người đã vừa đọc câu đó mà nước mắt ròng ròng.
- Cũng có một ông kia từ ngày gia đình làm ăn sa sút đã đem tượng Chúa quăng ra ngoài sân và từ đó không còn giữ đạo.
- Và biết bao người đã thành thật thú nhận cùng cha giải tội: “Con đã ngã lòng rồi!” Cũng như có biết bao người những khi buồn khổ đời không cầu nguyện.
 
Chúng ta hãy cầu xin Chúa thật nhiều cho những người đáng thương kể trên. Và cầu xin cho chính chúng ta được một đức tin vững chắc để không phải chỉ tin Chúa ngày hôm nay khi đời ta còn bình an, vui vẻ. Nhưng vẫn còn đủ sức để tin nếu mai ngày chúng ta rơi vào một hoàn cảnh khó khăn thử thách. Xin Chúa giúp chúng con vẫn cứ tin luôn, tin rằng Chúa luôn thương yêu chúng con. Xin Chúa giúp chúng con vẫn cứ tin luôn cho dù gặp bao gian nguy.
 

22. Lề luật
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại hai việc làm của Đức Giêsu. Những việc này không chỉ nhằm chứng tỏ quyền năng của Chúa trên bệnh hoạn và sự chết, mà còn cho chúng ta thấy thái độ và lập trường của Chúa đối với những luật khắt khe và khô cứng của đạo Do thái thời đó.
 
Trước hết là việc Chúa chữa cho một người đàn bà mắc bệnh loạn huyết.
Theo luật Do thái, người nào mắc chứng bệnh này thì đương nhiên bị liệt vào hàng dơ dáy, ô uế, cho nên không được vào đền thờ, không được tham dự các lễ nghi phượng tự, và cũng không được đụng tới ai vì hễ ai mà bị người ô uế đụng phải thì cũng trở thành người ô uế luôn. Khỏi cần nói nhiều, chúng ta cũng hiểu bà này đau khổ như thế nào. Trong cơn đau khổ, bà đã nảy ra một ý tưởng táo bạo là tìm cách đụng vào gấu áo Đức Giêsu. Ýù định này táo bạo ở chỗ là việc đó trái lề luật, và cũng chẳng ai chịu cho bà ta đụng vào mình đâu vì sợ bị lây nhiễm sự ô uế. Vì thế mà bà này phải làm một cách lén lút. Dù vậy Đức Giêsu vẫn biết. Khi Đức Giêsu hỏi “Ai đã đụng đến Ta?” thì bà ta sợ hãi vì thấy việc làm của mình đã bị bại lộ. Nhưng bà ta ngạc nhiên hết sức vì Đức Giêsu chẳng hề quở trách bà một lời nào, trái lại còn làm cho bà khỏi bệnh, và còn an ủi bà “Con hãy đi bình an”.
 
Sang câu chuyện của ông Giairô.
Ông là trưởng hội đường, nghĩa là một viên chức tôn giáo, một người có trách nhiệm bảo vệ luật đạo. Trước đó ông đã đến xin Đức Giêsu đến nhà ông chữa trị cho con gái ông sắp chết. Đang khi Đức Giêsu cùng đi với ông về nhà thì xảy ra câu chuyện của người đàn bà mắc bệnh loạn huyết mà ta vừa nói ở trên. Bà này đã đụng vào Đức Giêsu nên theo luật thì Đức Giêsu đã trở thành người ô uế. Nếu Đức Giêsu mà vào nhà ông thì cũng theo luật đó, tới phiên nhà ông cũng bị lây nhiễm ô uế luôn. Và việc đó sẽ gây hậu quả to lớn bởi vì như ta đã biết, ông là trưởng hội đường, nếu ông không giữ luật mà còn để nhà ông bị Đức Giêsu làm thành ô uế thì có thể ông mất chức luôn. Đang lúc đó thì lại xảy thêm một diễn tiến nữa: Người nhà ông chạy đến cho hay là con gái ông đã chết rồi, đừng làm phiền Đức Giêsu nữa. Trước những sự kiện dồn dập như thế, ông Giairô không còn ý định mời Đức Giêsu về nhà mình nữa. Nhưng Đức Giêsu bảo ông: “Đừng sợ gì cả (nghĩa là: ông đừng sợ làm phiền tôi, cũng đừng sợ bị lây ô uế), điều cần nhất là lòng tin”. Giairô đã tin Chúa, không còn ngại sợ gì nữa, mời Chúa về nhà, Đức Giêsu cầm lấy tay đưa đứa bé đã chết và truyền cho nó sống lại. Thêm một chi tiết đáng lưu ý: Theo luật thì xác chết cũng là một thứ ô uế, ai đụng tới xác chết thì sẽ bị nhiễm ô uế. Nhưng ta đã thấy, một lần nữa Đức Giêsu đã tỏ ra bất chấp.
 
Sau khi nghe giải thích hai việc làm táo bạo của Đức Giêsu, chúng ta nghĩ sao về Chúa?
Có phải Ngài chủ trương phá bỏ tất cả mọi lề luật không? Chắc chắn là không, bởi vì Ngài đã từng tuyên bố rõ: “Các ngươi tưởng là Ta đến để hủy bỏ lề luật ư? Không, Ta không phá bỏ mà Ta làm cho trọn lề luật. Ta nói thật: cho dù trời đất có qua đi, nhưng không một chấm một phết nào của lề luật sẽ qua đi, cho đến khi tất cả được nên trọn”. Nghĩa là những việc là của Đức Giêsu, thoạt xem thì có vẻ như chống đối lề luật, thực chất là nhằm làm cho lề luật được kiện toàn. Thời đó, người ta chỉ giữ luật theo cái hình thức, Đức Giêsu muốn cho cái hình thức ấy có thêm cái tinh thần, chính đó mới là cái cốt tủy của lề luật, đó mới là điều quan trọng. Có lần Đức Giêsu đã nói thẳng với bọn luật sĩ và biệt phái chỉ biết chăm lo giữ cái hình thức khô cứng của lề luật mà không để ý gì đến tinh thần lề luật. Chúa nói rằng: “Các ngươi chỉ là những cái mồ mả. Bên ngoài thì sơn phết đẹp đẽû, nhưng bên trong thì chứa toàn những sự thối tha”. Khi bàn về sự tinh sạch và ô uế, Đức Giêsu đã khẳng định rằng tinh sạch hay ô uế thật là do lòng người chứ không do hình thức bên ngoài. Ngài nói: “Cái gì làm cho người ta ra ô uế? Không phải những cái từ bên ngoài vào (như đồ ăn, thức uống), mà là cái từ bên trong bài tiết ra”.
 
Như vậy, lập trường của Chúa Giêsu rất rõ ràng: điều quan trọng cốt lõi của lề luật chính là cái tinh thần của nó. Kẻ nào chỉ bo bo giữ cái hình thức bề ngoài mà quên cái tinh thần cốt lõi của lề luật thì cũng như mồ mả tô vôi, bề ngoài thì đẹp, nhưng bề trong thì xấu xa hôi thối.
 

23. Sống đạo
Đối với Chúa Giêsu, điều quan trọng cốt lõi của mọi khoản luật chính là cái tinh thần của nó. Kẻ nào chỉ bo bo giữ cái hình thức bề ngoài mà quên cái tinh thần cốt lõi của lề luật thì cũng như những mồ mả tô vôi bề ngoài thì đẹp đẻ, nhưng bề trong thì xấu xa hôi thối. Vật chúng ta sẽ phải sống làm sao?
 
* Thứ nhất là việc dự lễ:
Bên các nước tiến bộ, ngày nay có một vấn đề được đặt ra, khá ngộ nghĩnh: người ta hỏi có được phép ngồi ở nhà dự thánh lễ được truyền qua màn ảnh vô tuyến truyền hình, khỏi cần đi đến nhà thờ được không? Giáo Hội đã trả lời dứt khoát là không được. Bởi vì dự lễ kiểu đó chỉ là một hình thức cho có cho rồi, chẳng có một chút tâm tình tôn thờ, yêu mến, kết hợp với Thánh Thể. Chuyện bên Tây thì vậy, nhưng bên ta cũng có chuyện tương tự như vậy: nhiều người đi dự lễ nhưng không muốn vào nhà thờ cho dù trong nhà thờ vẫn còn chỗ. Họ đứng ở ngoài, miễn sao là có hướng vào nhà thờ, mắt nhìn về phía bàn thờ. Vậy thì có khác gì xem lễ qua Tivi đâu? Chỉ là hình thức, chẳng có tâm tình.
 
* Thứ hai là luật thánh hóa ngày Chúa nhật:
Điều răn thứ ba dạy ta phải thánh hóa ngày Chúa nhật. Nhiều người nghĩ rằng thánh hóa ngày Chúa nhật chỉ là đi xem lễ. Từ quan niệm đó, ai mà có dự lễ thì gọi kể là xong hết bổn phận. Còn ai lỡ kẹt chuyện gì đó không đi xem lễ được thì cũng kể như mình đã lỡ, thôi đành vậy. Chúng ta hiểu điều răn thứ ba như vậy là hời hợt quá, chỉ phớt qua một hình thức bề ngoài là dự lễ thôi. Thực ra điều răn này dạy ta phải thánh hóa ngày Chúa nhật. Thánh hóa là làm cho ngày đó nên thánh thiện. Mà muốn làm cho ngày đó nên thánh thiện thì dự lễ chỉ là một việc, ngoài ra còn dành nhiều thời giờ của ngày đó để làm những việc Chúa muốn, như đọc kinh cầu nguyện nhiều hơn, làm thêm những việc lành, lưu ý đến kẻ khác hơn bằng cách dùng ngày nghỉ đó để tới lui thăm viếng, truyện trò, an ủi nhau, giúp đỡ nhau…
 
* Thứ ba là việc sống đạo giữa đời:
Mọi lề luật được đặt ra không phải chỉ là để cho có “hình thức, mà để giúp cho con người có thể sống đạo tốt hơn. Nhưng sống đạo là gì? Không phải chỉ là chu toàn một số hình thức đạo đức như đọc kinh, dự lễ, chịu các bí tích. Sống còn là làm việc, là làm ăn buôn bán, giao tế, biết xử sự tốt, trước những va chạm, khó khăn xảy ra hàng ngày. Giáo Hội thường nói “Sống đạo giữa đời”. Hội đồng Giám mục Việt Nam còn nói rõ hơn: sống đạo là “Sống Tin mừng giữa lòng dân tộc”. Cho nên chỉ mới có đọc kinh xưng tội, dự lễ thì chưa phải là sống đạo, mà chỉ là giữ một số hình thức của luật đạo thôi. Khi nào chúng ta biết để ý làm ăn theo lương tâm của người Kitô hữu, cư xử với mọi hạng người theo tinh thần bác ái của Tin mừng thì mới đúng là chúng ta sống đạo thật sự.
Mười điều luật Chúa và sáu điều luật Hội thánh ai trong chúng ta cũng thuộc lòng từ nhỏ. Hình thức bề ngoài của những luật đó là đọc kinh, dự lễ, xưng tội, ăn chay v.v… Nhưng tinh thần của chúng là “mười điều răn ấy tóm về hai điều này thôi: mến Chúa và yêu người”. Chúng ta hãy cố gắng đem tinh thần yêu thương ấy vào tất cả mọi sinh hoạt của chúng ta, không những chỉ có các sinh hoạt ở nhà thờ mà còn các sinh hoạt làm ăn, buôn bán, giao tế, buồn vui sướng khổ hằng ngày nữa. Đó mới thực sự là sống đạo giữa đời.

24. Ơn Chúa
Chuyện kể rằng một bà già bị đau răng, bà đã làm tuần chín ngày để kính thánh Antôn, vì người ta nói: Thánh Antôn “chuyên trách” về bệnh này.
 
Hết tuần chín ngày bà vẫn còn đau. Lúc đó một vị linh mục đến thăm. Bà liền hỏi:
- Xin cha nói cho con biết: có phải thánh Antôn chuyên trách bệnh đau răng không?
Vị linh mục nói:
- Bà hãy nghe tôi: Đây là địa chỉ của nha sĩ. Hãy đến đó và nói là tôi giới thiệu, họ sẽ làm không công cho bà.
Bà già la lên:
- Trời đất ơi, một ông linh mục vô thần.
Thánh Antôn tự nhủ:
- Kể ra cũng đau lòng, để nhận lời cầu nguyện của bà, chính ta đã gởi cho bà vị linh mục này. Thế mà!
 
Nếu bà già trong câu chuyện suy niệm bài Tin mừng hôm nay, chắc bà sẽ không làm cho thánh Antôn phải thất vọng. Người phụ nữ xuất huyết trong bài Tin mừng và bà già đau răng trong câu chuyện trên, cả hai đều tin tưởng vào Chúa. Nhưng niềm tin của họ có sự khác biệt rất lớn. Người phụ nữ xuất huyết nghĩ mình phải làm điều gì đó chứ không chỉ tin suông. Bà đến với Chúa chứ không chờ Chúa đến với mình. Bà già đau răng thì cầu nguyện rồi chờ phép lạ. Bà không chịu làm gì nữa.
 
Ông Giairô cũng tin rằng Chúa có thể cứu sống con gái ông. Ông đã làm hết sức mình. Con gái ông hấp hối không thể đến với Chúa được, nên ông đã xin Chúa đến chữa cho con gái ông.
 
Cộng tác với ơn Chúa là điều kiện để Chúa ban ơn. Chúng ta không thể chỉ thụ động chờ Chúa làm phép lạ, nhưng hãy sử dụng hết những phương tiện bình thường Chúa ban. Phần còn lại tùy Chúa định liệu cho ta. Thánh Ignatio de Loyola đã cho chúng ta lời khuyên bất hủ này: “Hãy làm như thể mọi việc tùy thuộc chúng ta và hãy cầu nguyện như thể mọi việc tùy thuộc Thiên Chúa”. Mc.Kenzie nói: “Khi ta cố gắng làm những gì có thể, Thiên Chúa sẽ làm những điều ta không thể”.
 
Thiên Chúa ban cho chúng ta quyền tự do, Người không thúc ép, nhưng để chúng ta toàn quyền sử dụng tự do của mình. Thiên Chúa không đối xử với chúng ta như những con bù nhìn, nhưng luôn coi trọng chúng ta như những cộng tác viên của Người. Trong các phép lạ Chúa làm, Người đều cần sự cộng tác của con người.
- Trong tiệc cưới Cana, Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta đã “múc nước đổ đầy các chum”.
- Trong phép lạ về bánh, Người chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi “có 5 chiếc bánh và 2 con cá”.
- Khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào mắt anh, còn phần anh phải đi rửa ở hồ Silôê mới được sáng mắt.
 
Thiên Chúa muốn chúng ta sử dụng hết các khả năng của mình, và Người sẵn sàng can thiệp khi cần. Ngạn ngữ Tây phương có câu: “Hãy tự giúp mình trước rồi trời sẽ giúp sau”.

25. “Chỉ cần tin thôi”
CN 13 B
Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay được cả ba tác giả trong Tin Mừng Nhất Lãm kể lại. Tuy nhiên, Máccô kể dài hơn, gồm 23 câu, do vậy nhiều tình tiết hơn, cảm động hơn khiến chúng ta bị cuốn hút một cách tự nhiên từ đầu đến cuối câu chuyện. Máccô đã lồng hai câu chuyện vào với nhau một cách khéo léo, tài tình, nhưng ý nghĩa vẫn là một: Đức Giêsu ban tặng sự sống cho những ai vững tin và biết cộng tác với Ơn Thánh.
  1. Chúa ban sự sống, con người có lòng tin.
 
Phép lạ thứ nhất, Máccô kể rằng, giữa đám đông chen lấn chung quanh Ðức Giêsu, có những người đụng vào áo Người. Nhưng chỉ có một cái đụng cố ý, đụng lén như sợ bị bắt quả tang. Ðó là cái đụng của một người phụ nữ, bất chấp lệnh cấm theo lề luật Do thái. Mười hai năm mắc bệnh băng huyết. Mười hai năm tìm thầy chạy thuốc mà không khỏi. Mười hai năm bị coi là ô nhơ, không được đụng đến người khác, không được tham dự nghi lễ ở Ðền thờ. Người phụ nữ thận trọng và đầy can đảm đã đụng vào áo Ðức Giêsu bằng tay và bằng lòng tin, một lòng tin đơn sơ mà mạnh mẽ "Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi.". Tức khắc, bà cảm thấy lành bệnh vì máu trong người đã cầm lại. Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.
 
Phép lạ thứ hai, Máccô kể, ông Giairô đến xin Đức Giêsu chữa lành cho con gái ông đã mười hai tuổi. Ông là viên chức trưởng hội đường. Tình yêu của người cha đối với đứa con gái đã làm cho ông can đảm. Ông sẵn sàng tin cậy vào một người xa lạ. Ông tín nhiệm vào một người từ nơi khác đến. Ông chỉ mới nghe danh tiếng về người ấy. Ông đến gặp Chúa và "phủ phục dưới chân Đức Giêsu và năn nỉ". Đức Giêsu đã chấp thuận, nhưng khi hai người đang trên đường về nhà ông thì được tin con gái đã chết. Vậy là hết, vô phương cứu chữa nữa! Đức Giêsu động viên ông "Đừng sợ, cứ tin". Khi đến nhà, thấy đông đảo bà con xóm làng đến, Người nói: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy ? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” Cô bé đã chết rồi, nhưng đối với Đức Giêsu, cái chết chẳng có tính chung cuộc mà chỉ là một giấc ngủ thôi. Người có quyền năng đưa kẻ chết ra khỏi giấc ngủ ấy. Với cử chỉ đơn sơ cầm tay đứa bé và nói “Talithakum”, nghĩa là “Này bé, Thầy truyền cho con: chỗi dậy đi !” Đức Giêsu đã khiến cho đứa bé đứng dậy và đi lại được. Người còn bảo họ cho đứa bé ăn để chứng thực là nó đã sống lại thật.
 
Hai phép lạ đều liên quan đến sự sống. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết đang mất dần sự sống: máu là nguyên lý sự sống, mà bà này đã bị mất máu liên tục mười hai năm, nghĩa là sức sống đang dần dần rời xa bà. Vì thế khi Đức Giêsu làm cho bà hết bệnh, là Người trả lại sức sống cho bà. Đứa con gái ông Giairô thì đã chết, sự sống đã hoàn toàn rời khỏi nó. Nhưng Đức Giêsu đã làm cho nó sống lại.
 
Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin. Ðức Giêsu xác nhận lòng tin vững vàng của người phụ nữ: "Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con". Ngài nâng đỡ lòng tin đang chao đao của Giarô: "Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi".
 
Tin vào những chuyện dễ dàng, tin khi cuộc sống bình an xuôi thuận thì chưa hẳn là đức tin. Đó chỉ là một chuyện đương nhiên thôi. Đức tin là một nhân đức căn bản của Đạo. Phải là vẫn cứ tin vào những chuyện khó khăn vượt quá sức loài người. Vẫn cứ tin khi cuộc đời gặp lúc cheo leo. Đức tin vững vàng như vậy có thể làm nên những phép lạ. Bởi lẽ, trước một hoàn cảnh quá khó khăn, trong lúc đời sống quá gian nan, nếu ta vẫn tin thì không phải là ta tin vào sức riêng của ta nữa, mà là tin vào sức Chúa, và Chúa quyền năng làm được mọi sự.
- Như Abraham đã 90 tuổi mới có được một đứa con trai. Vâng lệnh Chúa, ông đưa con yêu quý lên núi sát tế mà lòng đau như cắt. Ông tin rằng, Chúa sẽ thực hiện lời hứa ban cho ông thành tổ phụ một dân đông đảo. Ông vẫn tin và Chúa đã làm ông thành tổ phụ những người tin.
- Như Phêrô dám bước đi trên mặt nước. Ông đã đi khi vững tin vào Chúa. Nhưng khi bắt đầu hoài nghi thì cũng là lúc ông bắt đầu chìm xuống.
Đức Giêsu bày tỏ quyền năng trên thiên nhiên, trên ma quỷ, trên bệnh tật và trên sự chết, vì Người là Đấng ban sự sống. Tin vào Người, chúng ta luôn có được sự sống dồi dào.
 
2. Cộng tác với ơn Chúa
Chuyện kể rằng một bà già bị đau răng, bà đã làm Tuần chín ngày để kính thánh Antôn, vì người ta nói: Thánh Antôn "chuyên trách" về bệnh này.
Hết tuần chín ngày bà vẫn còn đau. Lúc đó một vị linh mục đến thăm. Bà liền hỏi:
  • Xin Cha nói cho con biết: có phải thánh Antôn chuyên trách bệnh đau răng không?
Vị linh mục nói:
  • Bà hãy nghe tôi: Đây là địa chỉ của nha sĩ. Hãy đến đó và nói là tôi giới thiệu, họ sẽ làm không công cho bà.
Bà già la lên:
  • Trời đất ơi, một ông linh mục vô thần.
Thánh Antôn tự nhủ:
  • Kể ra cũng đau lòng, để nhận lời cầu nguyện của bà, chính ta đã gởi cho bà vị linh mục này. Thế mà!
 
Người phụ nữ xuất huyết và bà già đau răng đều tin tưởng vào Chúa. Nhưng niềm tin của họ có sự khác biệt rất lớn. Người phụ nữ xuất huyết nghĩ mình phải làm điều gì đó chứ không chỉ tin suông. Bà đến với Chúa chứ không chờ Chúa đến với mình. Bà già đau răng thì cầu nguyện rồi chờ phép lạ. Bà không chịu làm gì nữa.
 
Ông Giairô cũng tin rằng Chúa có thể cứu sống con gái ông. Ông đã làm hết sức mình. Con gái ông hấp hối không thể đến với Chúa được, nên ông đã xin Chúa đến chữa cho con gái ông.
 
Cộng tác với ơn Chúa là điều kiện để Chúa ban ơn. Chúng ta không thể chỉ thụ động chờ Chúa làm phép lạ, nhưng hãy sử dụng hết những phương tiện bình thường Chúa ban. Phần còn lại tùy Chúa định liệu cho ta. Thánh Ignatio de Loyola đã cho chúng ta lời khuyên bất hủ này: "Hãy làm như thể mọi việc tùy thuộc chúng ta và hãy cầu nguyện như thể mọi việc tùy thuộc Thiên Chúa". Mc.Kenzie nói: "Khi ta cố gắng làm những gì có thể, Thiên Chúa sẽ làm những điều ta không thể".
 
Thiên Chúa ban cho chúng ta quyền tự do, Người không thúc ép, nhưng để chúng ta toàn quyền sử dụng tự do của mình. Thiên Chúa không đối xử với chúng ta như những con bù nhìn, nhưng luôn coi trọng chúng ta như những cộng tác viên của Người.
 
Trong các phép lạ Chúa làm, Người đều cần sự cộng tác của con người. Trong tiệc cưới Cana, Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta đã "múc nước đổ đầy các chum" (Ga 2,7)
Trong phép lạ về bánh, Người chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi "có 5 chiếc bánh và 2 con cá" (Mc 6,35-43).
Khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào mắt anh, còn phần anh phải đi rửa ở hồ Silôê mới được sáng mắt (Ga 9,1-40).
 
Thiên Chúa muốn chúng ta sử dụng hết các khả năng của mình, và Người sẵn sàng can thiệp khi cần. Cộng tác với Ơn Chúa bằng lòng tin là con đường của hy vọng.
 
  1. Niềm tin thắp sáng hy vọng
 
Các phép lạ Đức Giêsu đã làm thường là điểm giao tiếp giữa quyền năng đầy tình yêu của Thiên Chúa và niềm tin của con người. Thiên Chúa giàu lòng xót thương nên ở đâu có niềm tin, ở đó có phép lạ. Chúa nói với người phụ nữ: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con”; và nói với ông trưởng hội đường : “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”.
Đức tin là vị thuốc thần đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Đức tin là bí quyết đem lại hy vọng cho nơi nào không còn gì để hy vọng! Sau khi mọi hy vọng, mọi biện pháp chữa trị của con người đã trở nên vô hiệu quả, thì chỉ còn niềm tin mới có khả năng “cứu độ”. Đức Giêsu đã đem lại niềm vui và bình an cho những ai tuyệt vọng mà vẫn một lòng cậy trông. Có lần Đức Giêsu đã nói: “Nếu bạn có đức tin bằng hạt cải, thì bạn có thể nói với ngọn núi này ‘hãy di chuyển từ đây đến kia’, nó sẽ di chuyển” (Mt 17,20). Đây không phải là một lời phóng đại, nhưng là một sự thực được chứng minh qua cuộc đời các vị Thánh. Các vị Thánh là những người đã tin và các ngài đã làm được nhiều điều kỳ diệu.
Một lần kia, trong cuộc phỏng vấn trên truyền hình, Mẹ Têrêxa phải đối diện với một phóng viên không mấy thiện cảm đối với Giáo Hội.
Mẹ Têrêxa nói với ông : Tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin.
Người phóng viên hỏi : Tôi phải làm gì để có đức tin?.
Mẹ Têrêxa đáp : Ông hãy cầu nguyện.
Ông chống chế : Tôi không biết và không thể cầu nguyện.
Mẹ Têrêxa dịu dàng nói : Tôi sẽ cầu nguyện cho ông. Nhưng về phần ông, ông hãy cố gắng mỉm cười với những người chung quanh ông. Một nụ cười có thể đánh động được tâm hồn người khác. Một nụ cười có thể cho chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa hiện diện trong cuộc sống chúng ta.
Đức tin thắp sáng niềm hy vọng và trổ sinh hoa trái bằng việc làm.
 
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
 
  26. Chúa là Sự Sống
Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật XIII – B
 (Mc 5, 21 - 43)
Sống vui, sống mãi và sống hạnh phúc, nhất là chiến thắng cái chết, không chỉ trong tư tưởng, nhưng là một khát vọng của con người ở mọi nơi mọi thời. Sự sống lại của Chúa Giêsu khẳng định, khát vọng ấy thực sự có thể, vì cái chết không phải là một phần cấu trúc sáng tạo, về nguyên lý là không thể đảo ngược, Chúa là Sự Sống : "Thiên Chúa không tạo dựng sự chết, chẳng vui mừng khi người sống phải chết…" (Kn 1,13).
Bởi ác quỉ ghen tương, nên tử thần đột nhập vào thế gian (x. Kn 1, 13-15), nhưng Thiên Chúa "sẽ không thí bỏ mạng tôi cho âm phủ" (Tv 16,10). Lời Thánh Vịnh trên được Chúa Giêsu là đầu và là trưởng tử hoàn tất khi sống lại từ trong cõi chết. Sự chết dẫn Người xuống mồ, nhưng không tiêu tan. Người đã chiến thắng sự chết. Chỉ có Lời quyền năng Thiên Chúa Tình Yêu mới đủ mạnh để phá đổ những rào cản của sự chết.
« Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại » là lời tuyên xưng vào sự hiện hữu thực sự của Thiên Chúa, cho phép chúng ta hát vang lời Alleluia ở giữa một thế giới, bóng tối tử thần đang đe dọa chúng ta.
Đoạn Tin Mừng thánh Marcô hôm nay như một dạng "phóng sự" được thánh Phêrô trực tiếp chứng kiến những sự kiện, chúng ta cần đọc với cái nhìn đơn giản mới thấy được sự phong phú của nó.
Chúa Giêsu đến và đặt tay lên đứa bé
Điều mà Giairô mong đợi nơi Chúa Giêsu là "đến đặt tay lên em bé để nó được khỏi và được sống" (Mc 5, 23). Thái độ của Giairô thật là ấn tượng. Đường đường là trưởng hội đường Do Thái, vậy mà ông "sụp lạy và van xin" Chúa Giêsu (Mc 5, 22), ông quên đi nhân cách, địa vị của mình trước đám đông nhiều người biết ông, ông tiên phong tin cậy vào Chúa Giêsu. Tất nhiên, vì cô gái diệu, ông làm tất cả.
Chúng ta cũng thế, trong lúc ốm đau bệnh tật, vô phương cứu chữa, hy vọng tiêu tan, thì lời kêu cầu vang lên tới Chúa thật tha thiết. Lời van xin của người cha : "Xin Ngài đến…để nó được khỏi và được sống !" Chúa Giêsu không nói một lời nào, lời trấn an Giairô cũng không. Đôi lúc Chúa vẫn im lặng đối với lời van xin của chúng ta, khi nhận lời chúng ta cầu nguyện. Chúa đồng hành và ở với chúng ta, ngay cả khi chưa nhận lời chúng ta.
Ai chạm đến Ta ?
Một câu hỏi cất lên giữa đám đông khiến các môn đệ sửng sốt : "Thầy coi đám đông chen lấn Thầy tứ phía, vầy mà Thầy con hỏi : Ai chạm đến Ta ?" (Mc 5, 31) Thì ra "có một người đàn bà bị bệnh" (Mc 5, 25) đã đi lẫn vào trong đám đông đến sau Người. Có thể bà sợ đến với Chúa trước nhiều người. Sợ họ biết việc mình làm. "Mười hai năm trời sống với bệnh xuất huyết" (Mc 5, 25), nghe nói về Chúa Giêsu, Đấng đã chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền trong dân, cơ hội tuyệt vời đã đến, bà quyết định chạm tới áo Chúa.
Phản ứng của Chúa Giêsu không làm bà ngạc nhiên và xấu hổ. Không ai đụng đến áo Chúa mà Chúa không biết. Trước mặt Chúa, chúng ta không phải là người vô danh, mất hút giữa đám đông. Chúa thấy chúng ta kêu cầu, cả lúc chúng ta không thể hiện công khai. Chúa biết tất cả vì Người là Đấng toàn tri, là sức mạnh của Thiên Chúa, là Sự Sống. Người đàn bà đã nhận lại được sự sống qua việc chữa lành nhờ đụng chạm tới áo Chúa Giêsu (x. Mc 5, 33). Bởi trong chính cuộc đối thoại với người đàn bà nhút nhát đang tuyệt vọng này, từ việc chữa lành thể xác Chúa ban cho bà ơn cứu độ, bình an và sức khỏe xác hồn.
Dù đến với Chúa thế nào đi chăng nữa, lời thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta : "Bạn có biết sự hào phóng, ân hạn, nhưng không của các món quà của Chúa Giêsu Kitô" (2Cr 8, 9).
Họ liền chế diễu Người
Những "người nhà" Giairô là những người tốt. Với sự thận trọng, họ sẽ gặp người cha và báo cho ông biết về cái chết của con gái ông : "Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa ?" (Mc 5, 35). Nói thế, không phải họ thiếu lòng tin, nhưng là họ không thể tưởng tượng được một tình huống đã chết rồi có thể sống lại được. 
Thoáng nghe lời họ nói, Chúa Giêsu bảo :  "Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó" (Mc 5, 39). Họ thấy nực cười, vì chính lúc Giairô vắng nhà thì con gái ông trút hơn thở lần cuối. Chúa mời gọi ông Giairô : "Ông đừng sợ, hãy cứ tin" (Mc 5, 36)  Giairô đã tin vào quyền năng chữa bệnh của Chúa. Ông được mời đi xa hơn sự tin tưởng là sống niềm tin vào Chúa.
Chúa Giêsu muốn chúng ta có một niềm tin sắt đá, một đức tin chuyển núi rời non, vượt trên sự chết. Kẻ có tội không bao giờ chết trước mặt Thiên Chúa. Người ấy có thể sống lại nhờ ân sủng Thiên Chúa trao ban, vì Chúa là Sự Sống. "Thiên Chúa không vui mừng khi người sống phải chết" (Kn 1,13).
Hãy cho em bé ăn
Giairô và vợ ông, cùng với ba tông đồ được Chúa mang theo. Chúa Giêsu không cầu xin Chúa Cha, không ban một lời chúc lành nào, vì Chúa là Sự Sống. Người có thể trả lại sự sống cho em bé một cách dễ dàng khi cầm tay nó. Người vẫn cầm tay chúng ta mà chúng ta không biết.
Những người chứng kiến không được chuẩn bị để đánh giá một cử chỉ như vậy có nghĩa gì. Còn quá sớm để giải thích cho họ ý nghĩa đầy đủ về sự sống lại của em bé. Nếu Đức Giêsu giữ bí mật, khác hẳn với việc Chúa chữa người đàn bà chạm vào Chúa, Người đã mang theo ba nhân chứng là những chứng nhân từ núi Chúa biến hình cho đến khi Chúa chịu Khổ Nạn và Phục Sinh. Im lặng là cần thiết, vì sự sống lại như thế được coi là dấu chỉ rõ ràng thời thiên sai.
Chúa Giêsu bảo họ : "Hãy cho em bé ăn" (Mc 5, 43). Vì em mà Chúa Giêsu đến. "Ăn" là cử chỉ Chúa Giêsu báo trước sự phục sinh của Chúa, vào buổi chiều tối Chúa Phục sinh, Chúa hỏi các môn đệ : " các con có gì để ăn ?" không phải là để ăn cho thể xác, nhưng là để họ có niềm tin vào sự phục sinh của Chúa Kitô.
Giờ đây, Tiệc Thánh chúng ta cử hành là dấu chỉ của niềm vui được chia sẻ trong đức tin trước Thiên Chúa hằng sống, với sự sống viên mãn tràn đầy chứng thực rằng sự sống mạnh hơn cái chết. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
 
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
 
Tác giả bài viết: Nhiều tác giả
Từ khóa:

CN XIII TNB

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

 

   

LƯỢT XEM TRANG

  • Đang truy cập: 27
  • Khách viếng thăm: 19
  • Máy chủ tìm kiếm: 8
  • Hôm nay: 4339
  • Tháng hiện tại: 135994
  • Tổng lượt truy cập: 12280254