Lược sử giáo họ biệt lập Nghĩa Điền

Thứ bảy - 02/07/2022 09:14

GIÁO HỌ BIỆT LẬP NGHĨA ĐIỀN
Bổn mạng : Thánh Giuse Bạn Trăm Năm Đức Maria

1
 
1

 

I. VỊ TRÍ, ĐỊA LÝ VÀ NHÂN VĂN
Giáo họ biệt lập Nghĩa Điền bao gồm địa bàn xã Ân Nghĩa và xã Bok Tới của huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. Trung tâm sinh hoạt tôn giáo của giáo họ : Nhà thờ Nghĩa Điền, thôn Nghĩa Điền, xã Ân Nghĩa, huyện Hoài Ân.

Từ Bắc vào Nam, tại điểm giao DT 630 với QL IA (AH I) thuộc thôn Lại Khánh, xã Hoài Đức, huyện Hoài Nhơn, theo DT 630  đến nhà thờ Nghĩa Điền khoảng 33 km.

Từ Nam ra Bắc, tại điểm giao DT 631 với QL IA (AH I), thuộc ngã ba Diêm Tiêu, thị trấn Phù Mỹ, theo DT 631 (khoảng 20 km) đến giao với DT 630 tại ngã ba Gò Loi, Ân Tường Tây, theo DT 630 về hướng Tây khoảng 17 km, đến nhà thờ Nghĩa Điền.

Vùng đất giáo họ biệt lập Nghĩa Điền là vùng núi phía Tây huyện Hoài Ân. Dãy núi này có tên gọi là Kim Sơn. Tục truyền rằng dưới triều Hậu Lê (1533-…) triều đình đã cho khai thác vàng ở Kim Sơn. Thời gian chiến tranh Trịnh – Nguyễn (1627-1672) vàng đã cạn, chỉ còn cho người địa phương vất vả đãi cát lấy vàng, đủ tiền công nhật.[1] Thời Nguyễn, Ô Kim (còn gọi là Ô Liêm hay Kim Sơn) là một trong những nguồn thu thuế của phủ Qui Nhơn, đặc biệt là nguồn thu từ các kim hộ (những hộ đãi vàng).[2]

Trong thung lũng dãy núi Kim Sơn này có rất nhiều suối nước tạo nên hệ thống sông Kim Sơn gồm những nhánh sông như sông Nước Mang, sông Nước Lương, sông Nước Roong, sông Nước Làng, sông Lớn, sông Trắng. Hệ thống sông Kim Sơn như những mạch máu cung cấp sức sống cho cơ thể "Hoài Ân" nói chung, cách riêng cho Ân Nghĩa, vùng đầu nguồn.

Với một địa hình thiên nhiên như thế, vùng Kim Sơn là một vùng nông nghiệp trù phú với các sản vật đa dạng. Từ hương vị của đất đai, khí hậu và nguồn nước đã tạo nên chất lượng của hồ tiêu, cau và trầu nguồn Kim Sơn vang bóng một thời. Cho đến đầu thế kỷ 20, một thừa sai trở lại Kim Sơn,[3] vùng đất đã từng gởi gắm cho ngài món quà hàng hiệu vụng về làm kỷ niệm: những vệt mồ hôi muối trên vai áo, đã viết: "Tôi đã từng được bổ nhiệm làm việc tại Kim Sơn, một thung lũng hùng vĩ nằm ở miền Tây Bắc tỉnh Bình Định… Kim Sơn không chỉ đáng chú ý đặc biệt về khoa sơn học,  nó cũng thu hút sự chú ý và hấp dẫn qua sự đa dạng về thổ sản. Dù dân cư đông đúc song chắc chắn nó không tiêu thụ hết một nửa số lúa thu hoạch được. Nông dân thu hoạch mỗi năm hai vụ lúa… Ngoài loại ngũ cốc quý giá này, Kim Sơn còn cung cấp những nông sản quý giá khác… Dâu tằm là loại cây trồng ở thung lũng gấp hai lần cây lúa. Những đồn điền dâu tằm ngày càng được mở rộng, chiếm diện tích đến hơn 4.000 hécta. Nhiều gia đình chuyên nuôi tằm để làm tơ, mặt hàng được giá khi bán cho lái buôn người Hoa. Nghề này rất thịnh trong thung lũng. Ngoài ra ở Kim Sơn còn có các loại nông sản:  Hạt mè, dầu thầu dầu, đậu phộng, củ mì, bắp và khoai lang. Những vườn tược phì nhiêu như tiêu, chè, thơm, chen chúc nơi những ngọn đồi đất xen đá phiến ở vùng cao trong thung lũng. Trên những ngọn núi còn cung cấp sáp ong, dầu rái và một lượng lớn lá trầu mà người Việt rất yêu thích. Các khu rừng còn nhiều sản vật thiên nhiên phong phú nhưng ít được khai thác ”.[4]

Thời quân chủ, trên các nhánh sông, một số gia đình đánh bắt cá hợp thành "làng trên nước". Trong làng cũng có đặt Lý trưởng như các "làng trên đất". Khi có việc làng nước, một cây sào có buộc tấm vải trắng trên đầu được cắm tại bãi sông Kim Sơn. Người "làng trên nước" báo cho Lý trưởng biết để đến huyện nhận chỉ thị.[5] Dân "làng trên nước" cũng phải nộp thuế đinh, thuế "điền". Thuế "điền" là thuế đánh cá hằng năm, mức thuế do chính quyền địa phương ấn định.[6]

Với những điều kiện tự nhiên ở vùng Kim Sơn và những tư liệu lịch sử vừa nêu trên, có thể cho thấy việc cư dân bắt đầu tụ cư ở vùng đất nầy từ trước thế kỷ 16.

II. ĐÔI DÒNG LỊCH SỬ
1. Nguồn gốc
Nghĩa Điền là vùng đất nằm trên con đường thượng đạo thời Nguyễn đi lên nguồn Cầu Bông (Chợ Đồn, An Khê).[7] Trên bản đ L'Indochine Oriental của Mr. J.L. Dutreuil De Rhins vẽ năm 1881, có đường truyền giáo lên Kon Tum, ngoài con đường từ Gò Thị theo sông Kôn đến Bến (Bến Thuộc), Trạm Gò (Cửu An), làng Baham, làng Ba lou, làng Conphar, còn có đường từ Nghĩa Điền đến Conphar.[8] Con đường này cho thấy Nghĩa Điền đã góp phần vào việc đem Tin mừng lên Tây Nguyên.[9]

Có thể con đường bộ Nghĩa Điền – Conphar không được thuận lợi cho bằng con đường từ Gò Thị đi theo sông Kôn để vận chuyển hàng hóa cho miền truyền giáo. Do đó, năm 1907, Đức cha Đamianô Grangeon Mẫn đã lập một trạm quản lý tại Bến Thuộc (Đồng Phó)[10] để trung chuyển hàng cho miền truyền giáo. Thứ Hai, ngày 23.9.1907, Đức cha làm phép trạm quản lý và một con voi.[11] 

Theo thống kê năm 1850 của Đức cha Cuénot Thể, địa bàn giáo họ biệt lập Nghĩa Điền ngày nay thuộc địa sở Bồng Sơn Miền Núi, và họ đạo Nghĩa Điền đã có 139 giáo dân. Địa sở Bồng Sơn Miền Núi đang trên đà phát triển thì đành chung số phận với địa sở Bồng Sơn Miền Biển, gánh chịu những cuộc bách hại của phong trào Văn Thân.

Tại Đồng Quả Thượng, khi quân Văn Thân đến, cha Trang, các Dì phước và hầu hết tín hữu đều ẩn trốn trong nhà thờ và đọc kinh. Văn Thân nổi lửa đốt nhà thờ, kẻ thì bị chết cháy trong nhà thờ, người nào chạy ra thì bị đâm chết. Hơn 20 người chạy thoát được vào rặng núi gần đó, nhưng bị lùa trở về và cũng bị giết.
Tại Nghĩa Điền Thượng, một phần ba tín hữu đã bị sát hại trong nhà nguyện của một nông trại thuộc tu viện Đồng Quả. Những người khác chạy thoát được rồi cũng bị bắt lại từng người, bị đưa về nhà thờ và cũng bị giết sau khi được phép đọc kinh.

Tại Nghĩa Điền Hạ, 15 tín hữu chạy trốn nhưng bị bắt lại và dẫn về nhà thờ đã bị đốt cháy. Người ta vẽ hình thánh giá trên đất và bảo họ dẫm lên để được tha, nhưng tất cả đã từ chối và bị đâm chết.
Tổng kết cuộc bách hại nầy, địa bàn giáo họ biệt lập Nghĩa Điền ngày nay có những của lễ hy sinh :
- Đồng Quả Thượng có 600 tín hữu thì 580 người bị sát hại, trong đó có 45 Dì phước và khoảng 100 trẻ mồ côi.
- Nghĩa Điền Thượng có 80 tín hữu, bị sát hại 66 người.
- Nghĩa Điền Hạ có 150 tín hữu, bị sát hại 138 người.

Ông Trùm Cường[12] ở Nghĩa Điền, một trong những người còn sống sót sau cuộc bách hại của Văn Thân đã cho biết lý do tại sao các tín hữu không vào núi để trốn:  “ Trốn trong núi thì dễ, nhưng một số đông mà ở lâu cho kín đáo trong làng Thượng tiếp giáp với Annam thì không thể được. Sớm muộn sẽ bị lộ, sẽ bị chết một cách nào đó, ít ra là bị làm nô lệ. Chúng tôi không muốn gì hơn là được chết với nhau trong nhà thờ, chúng tôi đã đồng lòng như thế và đã chuẩn bị sẵn sàng”.[13]

Quyết tâm sống chết với nhau, nhưng sự quan phòng khôn dò của Thiên Chúa không để tất cả phải chết. Một số ít ỏi tín hữu còn sống sót phải lang thang ẩn trú trong rừng. Ngày xưa, tiên tri Êlia vì trung thành với đức tin mà hoàng hậu Izabel đã tìm cách cướp mạng ông, ông phải chạy trốn, lang thang trong hoang địa. Thiên Chúa cho Thần sứ mang bánh và nước nuôi sống ông (1V 9,1-8).  Bấy giờ các tín hữu Chúa đang lang thang trong rừng vì đức tin, Thiên Chúa cũng nuôi sống họ bằng trái cây, rau củ hoang dại, và bằng lòng tốt của người Thượng. Họ đã nuôi cơm một ít tín hữu để trông coi nương rẫy cho họ.

Với sự bách hại tàn khốc của Văn Thân, tưởng chừng các giáo điểm trong vùng thung lũng Kim Sơn đã lụi tàn. Tuy nhiên, dòng máu đào của các tín hữu đã thấm vào lòng đất như hạt giống đã được gieo, chờ ngày nảy mầm.

Sau hơn một năm ẩn trú, đầu năm 1887, số ít tín hữu còn sống đã lần hồi trở về ổn định cuộc sống với bà con trong xóm làng. Thay vì trông coi nương rẫy cho người Thượng, giờ đây họ là những người chăm lo cho cánh đồng lúa mới của Thiên Chúa.

Từ năm 1889 cho đến sau năm 1900, hầu hết các họ đạo bị Văn Thân tàn phá đã được hồi sinh với hàng loạt người xin gia nhập đạo. Những họ đạo mới được thành lập, trong đó có họ đạo thuộc giáo họ biệt lập Nghĩa Điền hiện nay như Phú Ninh.[14]

2. Thời kỳ trực thuộc các giáo xứ Đồng Quả, Đại Bình, Gia Chiểu
Giáo họ biệt lập Nghĩa Điền ngày nay bao gồm một phần đất của giáo xứ Đồng Quả trước năm 1975. Hơn nữa, trụ sở của giáo xứ Đồng Quả đặt tại thôn Kim Sơn, xã Ân Nghĩa, nay thuộc địa bàn giáo họ biệt lập Nghĩa Điền.
Năm 1975, chiến tranh chấm dứt, một số ít giáo dân hồi cư. Bom đạn cùng với thời gian mưa nắng đã tàn phá toàn bộ cơ sở vật chất của các giáo họ. Tình hình xã hội sau năm 1975 không cho phép các linh mục hiện diện tại Đồng Quả. Số giáo dân đã hồi cư phải đến nhà thờ Đại Bình để cử hành và lãnh nhận các bí tích.

Ngày 22.09.2009, Đức cha Phêrô Nguyễn Soạn, Giám mục giáo phận, đã quyết định tái lập giáo xứ Gia Chiểu và bổ nhiệm cha Giuse Nguyễn Đình Bút làm cha sở. Từ thời điểm này, các giáo họ của giáo xứ Đồng Quả ngày xưa, thuộc về giáo xứ Gia Chiểu : Nghĩa Điền, Phú Trị (Phú Ninh), Đồng Quả, Phú Hữu, Hội Tĩnh, Đồng Gí.
Ngày 20.4.2017, Đức cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi, Giám mục Giáo phận, đặt viên đá đầu tiên xây dựng nhà thờ Nghĩa Điền.

1


3. Thành lập giáo họ biệt lập Nghĩa Điền
Sau thời gian chạy vạy ngược xuôi, cha Giuse Nguyễn Đình Bút, cha sở Gia Chiểu, đã hoàn thành nhà thờ, nhà xứ, đài Đức Mẹ và các công trình phụ trợ khác.

 

1

 

1

 

1


Ngày 29.6.2022, Đức cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi ký văn thư thành lập giáo họ biệt lập Nghĩa Điền và văn thư bổ nhiệm cha Phêrô Trần Quốc Cường làm cha quản nhiệm. Ngày 30.6.2022, Đức cha Matthêô chủ sự thánh lễ cung hiến nhà thờ Nghĩa Điền, đồng thời cho công bố hai văn thư trên.
 

1


Địa bàn giáo họ biệt lập Nghĩa Điền gồm các giáo họ: Nghĩa Điền Trong, Nghĩa Điền Ngoài, Phú Trị, Đồng Quả Thượng.

- Giáo họ Nghĩa Điền được thành lập trước 1850. Theo dòng thời gian, Nghĩa Điền được chia thành Nghĩa Điền Thượng (Trong) và Nghĩa Điền Hạ (Ngoài). Nghĩa Điền Thượng bên hữu ngạn sông Lớn, còn gọi là Vũng Sằm; Nghĩa Điền Hạ bên tả ngạn sông Lớn. Nhà thờ tọa lạc tại Nghĩa Điền Thượng. Nghĩa Điền Thượng có ruộng đất phì nhiêu, có nhiều gia đình khá giả. Dân cư Nghĩa Điền Hạ thuở đầu là những người nghèo từ các nơi đến làm thuê, khai hoang chút rẻo rẫy ruộng. Trong chiến tranh, cư dân Nghĩa Điền di cư nơi khác. Một số đến tạm cư tại An Túc (An Khê). Sau khi hòa bình vãn hồi, số cư dân tạm cư tại An Túc hầu hết hồi hương về Nghĩa Điền. Trong số cư dân này có đa số giáo dân gốc tại Nghĩa Điền Hạ. Sau năm 1975, vùng đất Nghĩa Điền Thượng thuộc vùng qui hoạch trại giam nên không có dân ở. Vùng đất nầy nay thuộc doanh trại quân đội.

- Giáo họ Phú Trị nguyên là giáo họ Phú Ninh. Giáo họ Phú Ninh được thành lập trong thời gian phong trào tòng giáo sau Văn Thân (1889-1900). Trong chiến tranh, giáo dân di cư. Sau khi hòa bình vãn hồi, số giáo dân ở Phú Ninh thưa thớt. Bù lại, một số giáo dân ở các xã thuộc huyện Hoài Nhơn như Hoài Thanh, Hoài Xuân…đi xây dựng kinh tế mới tại thôn Phú Trị. Từ đây tên gọi giáo họ Phú Trị được thay cho tên gọi Phú Ninh.[15]

- Giáo họ Đồng Quả Thượng là một giáo họ kỳ cựu, từng là trung tâm sinh hoạt của giáo xứ Đồng Quả. Hiện nay còn nền nhà thờ tại thôn Kim Sơn, xã Ân Nghĩa.

4. Hiện tình giáo họ biệt lập
Hiện nay giáo họ biệt lập Nghĩa Điền bao gồm 4 giáo họ, 218 gia đình, 1002 giáo dân (cuối năm 2021).
1. Giáo họ Nghĩa Điền Trong
- Nhà thờ giáo họ biệt lập: xây mới năm 2022, tại thôn Nghĩa Điền, xã Ân Nghĩa, huyện Hoài Ân.
- Số gia đình và giáo dân: 78 gia đình, 378 giáo dân.
- Bổn mạng: Thánh Giuse, Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ Maria.

2. Giáo họ Nghĩa Điền Ngoài
- Nhà thờ: không còn.
- Số gia đình và giáo dân: 45 gia đình, 176 giáo dân.
- Bổn mạng: Đức Mẹ Lộ Đức.

3. Giáo họ Phú Trị
- Nhà thờ: không còn.
- Số gia đình và giáo dân: 48 gia đình, 259 giáo dân.
- Bổn mạng: Thánh Giuse Thợ.

4. Giáo họ Đồng Quả Thượng
- Nhà thờ: còn nền, tại thôn Kim Sơn, xã Ân Nghĩa, huyện Hoài Ân.
- Số gia đình và giáo dân: 47 gia đình, 181 giáo dân.
- Bổn mạng: Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời.


[1] QUÁCH TẤN, Nước Non Bình Định, Nxb. Thanh Niên, 1999, trang 25.

[2] LÊ QUÝ ĐÔN, Phủ Biên Tạp Lục, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội 1977, trang 225-226.

[3] Bài báo không đề tên tác giả. Theo chúng tôi phỏng đoán, cha Eugène Durand là tác giả của bài này. Cha đã làm việc tại Đồng Quả (1895-1899).  Cha là tác giả rất nhiều bài báo theo thể loại này. Năm 1902 cha là thông tín viên của l'Ecole Française d'Extrême-Orient.

[4] Xem Annales de la Société des Missions Étrangères et de L'oeuvre  des Partants , Huitième Année, Paris 1905, tr. 359-365.

[5] Từ 1471-1889, vùng này là vùng thượng du phía Tây của huyện Bồng Sơn, phủ Hoài Nhơn. Năm 1890, vùng đất này được đặt thành châu Hoài Ân, huyện Bồng Sơn. Năm 1899, vua Thành Thái ra chỉ dụ lập huyện Hoài Ân.

[6] Xem QUÁCH TẤN, Sđd, trang 150.

[7] - LÊ QUÝ ĐÔN, Sđd, trang 117.
  - Đại Nam Nhất Thống Chí, tỉnh Bình Định, Nha Văn Hóa Bộ Quốc Gia Giáo Dục, Sài Gòn 1964, trang 58.
  - Xem thêm chú thích số 12 trong bài này.

[8] Làng Kon phar (Conphar), nơi Bok Kiêm, thủ lĩnh người dân tộc thiểu số, kết nghĩa với Thầy Sáu Do, tạo sự thuận lợi bước đầu của công cuộc truyền giáo. Xem thêm P. DOURISBOURE, Dân Làng Hồ, Nxb. Đà Nẵng 2008, trang 28-36.

[9] - Hiện nay từ dốc Ông Thọ (phía bên Nghĩa Điền) lên núi qua đèo Đồng Lau, xuống dốc Đót (xã Vĩnh Hiệp, huyện Vĩnh Thạnh) theo DT 637 về phía Nam, đến Định Quang. Từ trụ sở thôn Định Quang, theo con đường bê tông đối diện đi đến gò Vú Sữa, đến dốc Ván (trước khi lên dốc Ván phải qua dốc Nhỏ, dưới chân dốc Ván) đến mả ông Bắp (nằm bên phải đường- nay là một đống đá dài- tục truyền ông chỉ ăn bắp, vô gia cư, ông nằm chết ở đó - dân qua lại không biết ông tên gì, không biết họ hàng, người đi đường lấy đá đắp mộ cho ông và gọi đó là mộ ông Bắp, sau nầy ai đi qua đó cũng tìm cục đá để trên mộ ông như một nghĩa cử mến thương), tiếp tục đi bộ đến Quán Chẩn (tục danh Rộc Quán Chẩn- hiện còn hai cây xoài- theo lời truyền tụng, tại Quán Chẩn có một người chuyên bán thuốc lá, thuốc được cuốn sẵn, người mua tự xắt, xắt một hơi, được bao nhiêu lấy bấy nhiêu), từ Quán Chẩn đi đến Eo Gió, từ đây nhìn thấy Trạm Gò (Cửu An), vượt qua Eo Gió đến Trạm Gò. Đi bộ từ Định Quang đến Trạm Gò hơn 03 tiếng đồng hồ (Thu tập, thực địa ngày 18.8.2015  dưới sự hướng dẫn của anh Bảy Nhanh, cư dân Định Quang).
    - Xem thêm: DIỆP ĐÌNH HOA, Làng Cây Dừa, Nxb. Khoa học Xã hội, Tp. HCM 2004, Tập I, trang 224, 607.
    - Ngoài con đường bộ từ dốc Ông Thọ qua dốc Đót, còn con đường khác từ Nghĩa Điền đi ngã Nghĩa Nhơn hoặc ngã Nhơn Sơn, hai ngã đều giáp nhau tại thôn 2 xã Bok Tới. Từ thôn 2, vượt dốc Bà Bơi đến Vực Bà thuộc sông Kôn, xã Vĩnh Kim, huyện Vĩnh Thạnh, gặp DT 637, về hướng Tây Bắc đến xã Sơn Lang huyện K'Bang, Gia Lai. Đi Kon Tum theo DT 669 về hướng Bắc.

[10] Bến Thuộc nay là giáo họ Tân Thuộc, giáo xứ Kiên Ngãi. Nền nhà thờ Tân Thuộc tại thôn Hòa Thuận, xã Tây Thuận (bên bờ hữu ngạn sông Kôn), huyện Tây Sơn. Từ Tân Thuộc có đường làng theo bờ sông đi đến thôn Tiên Thuận, giáp DT 637, theo DT 637 về hướng Bắc khoảng 03 km đến Định Quang. (Xem thêm vị trí Bến Thuộc trên bản đồ L'Indochine Oriental của Mr. J.L. Dutreuil De Rhins vẽ năm 1881).

[11] Mission de Quinhon, Mémorial , 30 Sept. 1907, trang 76.

[12] Ông cố ngoại của Cha Simon Huỳnh Tấn Công.

[13] Compte – Rendu 1941, trang 25-26. Hài cốt của những người bị sát hại đã được đưa về an táng trong một lăng mộ được xây theo kiểu nhà nguyện bên cạnh nhà thờ Đồng Quả.

[14] Phú Ninh nay là giáo họ Phú Trị, chưa có nhà thờ.

[15] Phú Ninh và Phú Trị là 02 thôn liền nhau bên sông Nước Làng thuộc xã Ân Nghĩa.

Tác giả bài viết: BBT lịch sử giáo phận

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

lich cong giao 2022 - 2023
tapsanmucdong
THỐNG KÊ
  • Đang truy cập34
  • Máy chủ tìm kiếm18
  • Khách viếng thăm16
  • Hôm nay9,533
  • Tháng hiện tại118,708
  • Tổng lượt truy cập29,098,246

Chúng tôi trên mạng xã hội

CÁC GIÁO HẠT
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây